Tải bản đầy đủ (.doc) (245 trang)

nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở thành phố HCM trong hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 245 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT • • •
ĐỖ PHÚ TRẦN TÌNH
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Kỉnh tế chính trị
Mã số: 60.31.01.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS Nguyễn Chí Hải
2. TS Nguyễn Văn Bảng
TP. Hồ Chí Mình-Năm 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Đỗ Phú Tràn Tình. Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ luận án nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
ĐỖ PHÚ TRẦN TÌN
Hiii
MỤC LỤC
Trang
1.4.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc nâng cao chất lượng tăng trưởng
1.4.2
1.2.1.1. Tăng trưởng kinh tế với vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường —115
1.2.2.
1.2.29.
1.2.30. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Danh mục các bảng
1.2.31
V
1.2.1. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


1.2.32. MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao là mục tiêu của hầu hết các quốc gia, nhất là đối
với các nước đang phát triển. Đây là điều kiện tiên quyết để khắc phục tình trạng đói
nghèo của quốc gia, khắc phục sự lạc hậu, làm cho đời sống vật chất tinh thần của người
dân ngày càng cải thiện. Tuy nhiên, thế giới ngày càng chứng kiến những mặt trái của tăng
trưởng kinh tế nhanh, đó là tình trạng tàn phá tài nguyên môi trường ngày càng nghiêm
trọng, phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng, văn hoá
- xã hội không theo kịp phát triển kinh tế .Trước thực tế đó, ngày nay trong hoạch định
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia hay các địa phương, vấn đề chất
lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng được quan tâm và nhấn mạnh.
Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) chiếm 0,6% diện tích và hơn 7,8 % dân số cả
nước, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là trung tâm kinh tế của cả nước. Có
thể nói thành phố là hạt nhân vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, với mức đóng góp hơn
65% GDP trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và đóng góp hơn 20% GDP của cả
nước. TP.HCM là nơi hoạt động kinh tế năng động, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Nếu như năm 1991 tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố là 9,1 % thì đến năm 2007 tăng
lên 12,6% và năm 2008 là 10,7%. Tính bình quân giai đoạn 1991 - 1995 GDP thành phố
tăng trưởng là 12,6%/năm, giai đoạn 1996 - 2000 GDP tăng trưởng là 10,3 %/năm, giai
đoạn 2001 - 2005 GDP thảnh phố đạt mức tăng trưởng 11%/năm và giai đoạn 2006 - 2008
đạt tốc độ tăng trưởng binh quân 11,63 %/năm. Những thảnh tựu về kinh tế, chính trị và
4
xã hội thời gian qua đã góp phần đưa thành phố trở thành trung tâm kinh tế đứng đầu cả
nước.
Tuy nhiên, khi đề cập đến kinh tế TP.HCM nhiều chuyên gia cũng như nhà quản lý
thường nói: “Kỉnh tế TP.HCM thời gian qua đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng chất lượng
tăng trưởng chưa cao\”. Nhưng khi đề cập đến cơ sở nào khẳng định: “Chất lượng tăng
trưởng kinh tế thành phố chưa cao” ? thì cho đến nay chưa có trả lời nào mang tính hệ
thống, mà chỉ nhìn nhận, đánh giá ở một khía cạnh hẹp như hiệu quả đầu tư còn thấp hay
kết cấu hạ tầng kỹ thuật không theo kịp tăng trưởng kinh tế hay ô nhiễm môi trường ngày

càng tăng
Xuất phát từ những trăn trở trên đã đặt ra các câu hỏi: Chất lượng tăng trưởng kinh
tế là gì? Chất lượng tăng trưởng kinh tế được đo lường thông qua những tiêu chí nào?
Chất lượng tăng trưởng kinh tế của TP.HCM hiện nay như thế nào? Làm thế nào để nâng
cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của thành phố?
Trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc nâng cao chất lượng tăng
trưởng kinh tế là hết sức cần thiết để thành phố xứng đáng là trung tâm kinh tế của cả
nước và góp phần nâng cao đời sống của người dân thành phố. Đó là lý do tôi chọn đề tài:
“ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH TRONG HỘI NHẬP KINH TÉ QUỐC TẾ ” làm luận án tiến sĩ kinh tế,
chuyên ngành kinh tế chính trị, để nghiên cứu đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế của
thành phố thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất các định hướng và giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở TP.HCM trong thời gian tới.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài
5
Thời gian qua, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng là
vấn đề được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, phần lớn các công trình
nghiên cứu chỉ tập trung đề cập đến mặt tốc độ tăng trưởng, về chất lượng của tăng trưởng
kinh tế mới được các tác giả tập trung nghiên cứu trong những năm gần đây, song các
nghiên cứu đề cập nhiều khía canh khác nhau. Tiêu biểu là các công trình:
Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam của GS.TS Nguyễn Văn Nam
và PGS.TS Trần Thọ Đạt. Công trình này bày khái quát thực trạng tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam về tốc độ và chất lượng giai đoạn 1991 - 2005, trên cơ sở đó, các tác giả đã
phân tích các nhân tố có tác động tích cực cũng như các nhân tố cản trở đối với việc nâng
cao tốc độ và chất lượng kinh tế ở Việt Nam.
Quan niệm và thực tiễn phát ừiển kỉnh tể, xã hội tốc độ nhanh, bền vững chất lượng
cao ở Việt Nam của TS Đinh Văn Ân. Công trình này trình bày quan niệm về phát triển
nhanh, bền vững và chất lượng cao trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tác giả cũng đưa
ra các giải pháp trong những năm tới để phát triển nhanh, bền vững và chất lượng cao ở
Việt Nam.

Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam nhưng rào cản cần phải vượt qua của GS. TS
Nguyễn Văn Thường. Công trình đã đi sâu vào việc phân tích các rào cản đối với tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam, trong đó có đề cập đến những rào cản đối với việc nâng cao
chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng ở vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam thời kỳ 2001 - 2010 của TS Trương Thị Minh Sâm. Công trình này tập trung vào
việc phân tích những thành tựu và hạn chế của việc tăng trưởng kinh tế của vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra một số giải pháp để nâng cao chất
lượng tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2001 - 2010.
6
về chất lượng tăng trưởng kinh tế ở TP.HCM, hầu hết các công trình, nghiên cứu chỉ
đề cập đến một khía cạnh của vấn đề chất lượng tăng trưởng kinh tế, tiêu biểu có các công
trình sau:
Mức sống dân cư và diễn biến phân hoá giàu nghèo tại TP.HCM, đề tài của Viện
Kinh tế TP.HCM do PGS.TS Nguyễn Thị Cành làm chủ nhiệm đã tiến hành thực hiện
trong giai đoạn 1995 - 2000. Với 1500 mẫu điều tra các hộ trên địa bàn thành phố, đề tài
đã nghiên cứu, khái quát được mức phân hoá giàu nghèo ở địa bàn thành phố qua các mặt
về thu nhập, ngành nghề, tài sản. Đồng thời tác giả đã đề ra một số giải pháp liên quan đến
quản lý nhà nước để giải quyết vấn đề này.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cẩu kinh tế trên địa bàn TP.HCM nhằm tăng trưởng
nhanh và bền vững, đề tài của Viện kinh tế TP.HCM thực hiện. Đề tài đã phân tích động
thái chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế trên địa bàn thành phố giai đoạn 1996-2003.
Qua đó, đánh giá những mặt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố trong giai đoạn này. Đề tài đã đưa ra các chính
sách, giải pháp, cơ chế thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn TP.HCM.
Tăng trưởng và hiệu quả kinh tế TP.HCM 1995-2003, công trình do Cục thống kê
TP.HCM chủ biên đã đánh giá các yếu tố trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiệu quả đầu tư của thành phố trong giai đoạn 1995-2003.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước TP.HCM hiện trạng và giải
pháp, đề tài của Viện kinh tế TP.HCM do TS Lê Vinh Danh là chủ nhiệm, đề tài đã đánh

giá tình hình và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ở TP.HCM giai đoan
7
1993-2002. Qua đó, đề xuất một số chính sách và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư từ ngân sách nhà nước TP.HCM thời gian tới.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa bàn thành phố trong điều kiện hội
nhập: Nhận diện thách thức và cơ hội, đề tài của Viện kinh tế TP.HCM do Ths Nguyễn
Thiềng Đức làm chủ nhiệm đã nghiên cứu khảo sát năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước tại TP.HCM. Qua đó, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh và đề xuất những công việc phải làm đối với nhả nước và doanh nghiệp nhằm
nâng cao khả năng canh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập.
Kỉnh tể TP.HCM 30 năm xây dựng và phát triển (1975-2005), công trình do viện
kinh tế phối họp với sở văn hóa thông tin TP.HCM chủ trì. Công trình này đã giới thiệu
bức tranh tổng thể những thành tựu kinh tế của thành phố trong 30 năm và một số vấn đề
kinh tế đang đặt ra trong thời gian tới.
Những công trình trên đã trình bày các khía cạnh khác nhau của tăng trưởng kinh tế ở
thành phố. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đánh giá một cách toàn diện chất lượng
tăng trưởng kinh tế ở TP.HCM. Do đó, bản thân tác giả đặt ra mục tiêu nghiên cứu của
mình là phân tích và đánh giá một cách tổng quát chất lượng tăng trưởng kinh tế ở
TP.HCM thông qua các mặt hiệu quả sử dụng các nguồn lực, phúc lợi xã hội, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, khả năng đảm bảo cơ sở hạ tầng, môi trường sinh thái và năng lực cạnh
tranh tăng trưởng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng tăng trưởng
kinh tế của TP.HCM trong những năm qua. Từ đó, đề xuất các định hướng và giải pháp
8
nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của thành phố trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế. Hướng tới mục đích trên, luận án đề ra các nhiệm vụ sau:
- Luận án phân tích một cách có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng
tăng trưởng kinh tế.
- Luận án phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế ở

TP.HCM thời gian qua. Qua đó chỉ ra những thành tựu đạt được và những mâu thuẫn đặt
ra về chất lượng tăng trưởng kinh tế.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận án sẽ đưa ra hệ thống các định hướng và giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế TP.HCM trong hội nhập kinh
tế quốc tế.
4. Đổi tượng và phạm vỉ nghiên cứu của luận án
a.Đổi tượng nghiên cứu: luận án là vấn đề chất lượng tăng trưởng kinh tế. Trong quá
trình nghiên cứu, luận án không đi vào nghiên cứu tất cả các nhân tố ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế mà chỉ tập trung vào những yếu tố cơ bản nhất tác động đến chất lượng tăng
trưởng kinh tế ở thành phố, bao gồm các vấn đề về hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong
quá trình tăng trưởng, về phúc lợi xã hội, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, về đảm bảo cơ sở
hạ tầng, môi trường sinh thái và về năng lực cạnh tranh tăng trưởng.
b.Phạm vi nghiên cứu
9
- về thời gian, giới hạn nghiên cứu của luận án là từ năm 1991 đến năm 2008. Trong
đó tập trung chủ yếu vào phân tích giai đoạn 1994 - 2008.
- về không gian, luận án nghiên cứu trên địa bàn TP.HCM.
5. Phưong pháp nghiên cứu và nguồn số liệu của luận án
a. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu của luận án là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận án nghiên cứu chất lượng tăng trưởng kinh tế
trong mối quan hệ tác động qua lại với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu mối quan
hệ của các nhân tố cơ bản quan trọng tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế ở TP.
HCM thời gian qua.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học có một vai trò quan trọng trong quá trình
nghiên cứu luận án. Trong quá trình nghiên cứu, luận án không đi vào nghiên cứu tất cả
các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế mà chỉ tập trung vào những yếu tố cơ bản
nhất tác động trực tiếp đến chất lượng tăng trưởng kinh tế ở thành phố, thông qua các chỉ
tiêu về hiệu quả sử dụng các nguồn lực, về phúc lợi xã hội, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
về khả năng đảm bảo cơ sở hạ tầng, môi trường sinh thái và về năng lực cạnh tranh.

Phương pháp nghiên cứu phân tích - tổng hợp, khảo sát, mô hình hóa có vai trò hết
sức quan trọng trong quá trình nghiên cứu. Trong quá trình phân tích, luận án chú trọng
phân tích, đánh giá với dẫn chứng để chứng minh bằng số liệu cụ thể; kết họp giữa lý luận
và thực tiễn.
b. Nguồn sổ liệu nghiên cứu của đề tài
1
Thứ nhất, đề tài sử dụng nguồn số liệu thứ cấp từ các cuộc điều tra khảo sát mức
sống dân cư trên địa bàn thành phố năm 1994, 2002, 2004, 2006, 2008 của Cục thống kê
TP.HCM. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các số liệu trong niên giám thống kê TP.HCM qua
các năm 1993, 1996, 1999, 2000, 2004, 2006, 2007, 2008 và các báo cáo tổng hợp của Sở
Lao động Thương binh Xã hội TP.HCM, Ban chỉ đạo Xoá đói giảm nghèo thành phố, Sở
kế hoạch đầu tư TP.HCM.
Thứ hai, đề tài sử dụng nguồn số liệu sơ cấp thông qua việc tiến hành điều tra, khảo
sát 539 mẫu đánh giá các nhóm dân cư trên địa bàn thành phố về các vấn đề liên quan đến
phúc lợi xã hội, chất lượng cuộc sống, cơ sở hạ tầng trên địa bàn thành phố. Qua đó, có
được đánh giá thực tế hom về một số vấn đề mà đề tài nghiên cứu.
6. Những điểm mói của luận án
Một là, luận án phân tích một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về chất lượng tăng
trưởng kinh tế. Làm rõ khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế theo quan điểm của luận
án và xây dựng các thước đo chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Hai là, luận án phân tích, rút ra các bài học kinh nghiệm của các nước trong việc
nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế giúp TP.HCM tham khảo những kinh nghiệm
thảnh công cũng như tránh được những sai lầm mà các nước khác đã trải qua.
Ba là, luận án phân tích, đánh giá bức tranh tổng quát chất lượng tăng trưởng kinh tế
TP.HCM thông qua các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng các nguồn lực, về phúc lợi xã hội, về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, về khả năng đảm bảo cơ sở hạ tầng, môi trường sinh thái và về
1
năng lực cạnh tranh tăng trưởng. Qua đó, chỉ ra những thành tựu đạt được và mâu thuẫn
đang đặt ra về chất lượng tăng trưởng kinh tế của thành phố.
Bốn ỉà, trên cơ sở khái quát lý luận và thực tiễn chất lượng tăng trưởng kinh tế ở

TP.HCM thời gian qua, kết hợp các bài học kinh nghiệm các nước, luận án đưa ra hệ
thống các định hướng và giải pháp cơ bản góp phàn nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh
tế ở TP. HCM trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
ba chương:
Chương 1 : Cơ sở lý luận về chất lượng tăng trưởng kinh tế Chương 2 : Thực trạng chất
lượng tăng trưởng kinh tế ở TP.HCM thời gian qua Chương 3: Định hướng và giải pháp
nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở TP.HCM trong hội nhập kinh tế quốc tế.
CHƯƠNG 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Một số lý luận cơ bản làm cơ sở cho việc phân tích
1.1.1. Một số khái nỉệm cơ bản
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu tại mồi quốc
gia trong quá trình phát triển, nhất là ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển và cùng với
thời gian, quan niệm về vấn đề này ngày càng hoàn thiện hơn.
1
Nếu tiếp cận trong ngắn hạn, thì tăng trưởng kinh tế có các khái niệm sau:
- Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời
gian nhất định.
- Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng quốc gia hoặc sản lượng quốc gia tính
bĩnh quân trên đầu người trong một thời gian nhất định.
Nếu tiếp cận trong dài hạn, thì tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng quy mô sản lượng
hay sự mở rộng sản lượng của một nền kinh tế qua các năm.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
Ngày nay, để đo lường sản lượng hay thu nhập của nền kinh tế người ta thường dùng
các chỉ tiêu sau:
- Tổng giá trị sản xuất (GO - Gross Output) là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch
vụ được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường
là một năm).

1
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product) là tổng giá trị của những
hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia
trong một thời kỳ nhất định.
- Tổng thu nhập quốc dân (GNI - Gross National Income) là tổng giá trị của những
hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi yếu tố sản xuất của một
nước trong một khoảng thời gian nhất định.
Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. “Phát
triển kinh tế được xem là quá trình biến đổi cả về lượng lẫn về chất của nền kinh tế, nó là
sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở
mỗi quốc gia”[55, tr.22].
Nội dung phát triển kinh tế được khái quát ở ba tiêu thức:
- Sự gia tăng tổng thu nhập của nền kinh tế và thu nhập bình quân trên đầu người.
Đây là chỉ tiêu thể hiện quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để
nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện các mục tiêu khác của phát
triển;
- Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Đây là chỉ tiêu phản ánh sự
1
biến đổi về chất của nền kinh tế một quốc gia. Để phân biệt các giai đoạn phát triển kinh tế
hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau, người ta thường dựa vào
dấu hiện cơ cấu ngành mà quốc gia đó đạt được;
- Sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối cùng của sự
phát triển kinh tế của các quốc gia không phải là tăng trưởng kinh tế hay chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, mà là xoá bỏ đói nghèo, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân,
trình độ dân trí, khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nước sạnh Hoàn thiện các chỉ tiêu
trên chính là sự thay đổi về chất của xã hội trong quá trình phát triển kinh tế.
Ngày nay, người ta không chỉ đề cập đến tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế mà
ngày càng nhấn mạnh và quan tâm đến phát triển bền vững.
Thuật ngữ phát triển bền vững xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm
Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên

Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú
trọng tói phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự
tác động đến môi trường sinh thái học" [6, tr. 1].
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn
gọi là Báo cáo Our Common Future) của ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới -
WCED. Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được
những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai "[6, tr.l].
1
Sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về Môi trường
và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này, và đã gửi đi một thông
điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp bách trong việc đẩy mạnh sự
hòa họp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững tổ chức tại Nam Phi năm 2002
đã xác định: “Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết họp chặt chẽ, hài hòa,
họp lý giữa ba mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và
bảo vệ tài nguyên môi trường ”[34, tr.3]. Hội nghị này nhận định rằng các vấn đề về môi
trường trên thế giới là hậu quả của việc bùng nổ dân số toàn cầu, của việc tiêu thụ ngày
càng nhiều tài nguyên, của các mục tiêu kinh tế ngắn hạn, của việc quá chú trọng lợi
nhuận dẫn đến phí phạm nghiêm trọng các nguồn lực thiên nhiên và đặc biệt là của tình
trạng bất công bằng xã hội gây ra và khoét sâu khoảng cách giàu nghèo.
1.1.2. Một số quan điểm về tăng trưởng kỉnh tế
1.1.2.1. Quan điểm cỗ điển về tăng trưởng kinh tế
Quan điểm cổ điển về tăng trưởng kinh tế được xây dựng bởi các đại biểu là
William Petty (1623-1687), Adam Smith ( 1723 - 1790) và David Ricardo ( 1772 - 1823).
Quan điểm này có những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, họ cho rằng nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, từ đó yếu tố
căn bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Trong từng ngành và phù họp
với một trình độ kỹ thuật nhất định các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ cố định.
Trong ba yếu tố trên thì đất đai là quan trọng nhất. Đất đai chính là giới hạn của sự tăng

trưởng.
1
Thứ hai, họ chia xã hội ra thành ba nhỏm người: địa chủ, tư bản và công nhân. Sự
phân phối thu nhập của ba nhóm này phụ thuộc vào quyền sở hữu của họ đối với các yếu
tố sản xuất. Địa chủ có đất thi nhận địa tô, tư bản có vốn thì nhận lợi nhuận, công nhân có
lao động thì nhận tiền công và họ cho rằng cách phân phối này là hợp lý. Trong ba nhóm
người này, thì nhà tư bản giữ vai trò quan trọng cả trong sản xuất, tích luỹ và phân phối.
Họ đứng ra tổ chức sản xuất, giành lại một phần lợi nhuận để tích luỹ và họ chủ động
trong quá trình phân phối.
Thứ ba, hoạt động của các chủ thể kinh tế bị chi phối bởi một “Bàn tay vô hình”
dẫn dắt để gắn lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Việc bãi bỏ sự điều tiết của chính phủ đối
với các hoạt động sản xuất và thị trường không chỉ góp phần làm tăng thu nhập của tầng
lớp chủ tư bản, qua đó, làm tăng tỷ lệ tích luỹ của xã hội mà còn góp phần mở rộng thị
trường. Mặc dù ủng hộ mạnh mẽ cho tự do cạnh tranh, nhưng Adam Smith vẫn nhận thức
được tầm quan trọng của việc cung ứng hàng hoá công cộng nhằm phục vụ cho cơ chế thị
trường, bao gồm quốc phòng, cảnh sát, hệ thống luật pháp, toà án, xây dựng cơ sở hạ tầng
và giáo dục. Tuy nhiên, ông cho rằng việc cung ứng hàng hoá công cộng cần được tư nhân
hoá càng nhiều càng tốt.
1.1.2.2. Quan điểm của Karl Marx về tăng trưởng kinh tế
Karl Marx (Các Mác) (1818 - 1883) không những là nhà chính trị học, nhà triết học
mà còn được xem là nhà kinh tế xuất sắc. Sự xuất hiện lý thuyết phê phán tăng trưởng
kinh tế tư bản chủ nghĩa của Mác vào giữa thế kỷ XIX thực sự là một sự kiện lớn. Quan
điểm cơ bản nhất của Mác về tăng trưởng kinh tế bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, về con đường phát Men. Mác đã chỉ ra quy luật chung của mọi thời đại,
1
mọi phương thức sản xuất, đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ
của lực lượng sản xuất. Mác viết: “ Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con
người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù họp với một trình độ phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ

cấu kinh tế của xã hội ”[13, tr.14]. Như vậy, theo Mác lực lượng sản xuất phát triển đến
đâu thi quan hệ sản xuất phát triển tương ứng tới đó. Sự phát triển vượt trước hay tụt hậu
của quan hệ sản xuất so với sự phát triển của lực lượng sản xuất đều làm cản trở sự phát
triển của sức sản xuất xã hội. Do đó, không thể xoá bỏ một hình thức quan hệ sản xuất nào
đó khi mà lực lượng sản xuất tương ứng với nó đang còn sức sống, đang còn là một tất
yếu kinh tế đối với sự phát triển của xã hội. Các Mác đã viết: “ Không một hình thái xã
hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa
bàn đầy đủ cho sự phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao
hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những
quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ” [13, ừ. 15 -16].
Thứ hai, về các yếu tổ của tăng trưởng kinh tể. Nếu như các nhà kinh tế học cổ điển
xem đất đai, lao động và vốn là ba yếu tố cơ bản của tăng trưởng, trong đó đất đai là yếu tố
quan trọng nhất, thì Mác cho rằng các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế không chỉ là
đất đai, lao động, vốn mà còn có yếu khoa học kỹ thuật, về vai trò khoa học kỹ thuật trong
tăng trưởng kinh tế, Mác viết: “Khoa học kỹ thuật là lực lượng sản xuất trực tiếp”[12,
tr.234]. Mác đã đề cao vai trò của khoa học kỹ thuật trong sản xuất khi cho rằng mục đích
của nhà tư bản là tìm mọi cách để tăng giá trị thặng dư, cho nên họ tim cách tăng thời gian
làm việc, tăng cường độ làm việc của công nhân, giảm tiền công của công nhân, hoặc nâng
cao năng suất bằng cách cải tiến kỹ thuật. Việc cải tiến kỹ thuật sẽ làm tăng số máy móc,
thiết bị và dụng cụ lao động giành cho công nhân, nghĩa là cấu tạo hữu cơ của tư bản c/v
có xu hướng ngày càng tăng. Do đó, các nhà tư bản càn nhiều vốn hơn để đầu tư máy móc
thiết bị kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Vì vậy, trong tổng số giá trị thặng dư thu được
1
nhà tư bản chỉ dùng một phần để tiêu dùng cá nhân, phần còn lại để tích luỹ phát triển sản
xuất. Đây chính là nguyên lý tích luỹ của chủ nghĩa tư bản.
Trong các yếu tố sản xuất, Mác đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động ừong việc
sản xuất ra giá trị thặng dư. Theo Mác sức lao động là một hàng hoá đặc biệt, cũng như
hàng hoá khác, nó được nhà tư bản mua bán trên thị trường và tiêu dùng trong quá tình sản
xuất. Nhưng trong quá trình tiêu dùng, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động không
giống với giá trị sử dụng của các hàng hoá khác. Trong quá trình sản xuất (tiêu dùng sức

lao động) bằng lao động trừu tượng của mình người công nhân tạo ra một giá trị mới lớn
hơn giá trị của sức lao động, phần dư ra đó chính là giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Thứ ba, về tái sản xuất mở rộng. Mác cho rằng muốn tái sản xuất mở rộng thì phải
tích lũy tư bản (tư bản hóa giá trị thặng dư), tức phải biến một phần giá trị thặng dư thành
tư bản bất biến phụ thêm (Cl) và tư bản khả biến phụ thêm (vi). Nhưng, các bộ phận giá trị
phụ thêm đó phải tim được những tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt phụ thêm dưới
những hình thái vật chất tưng ứng với nhu cầu của nó. Điều này đòi hỏi cơ cấu sản xuất xã
hội phải có những thay đổi so với tái sản xuất giản đơn.
Nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội khi chưa xét tới ảnh hưởng của tiến bộ kỹ
thuật, chưa tính đến thay đổi cấu tạo hữu cơ của tư bản, Mác đã thấy vai trò ưu tiên của
việc sản xuất tư liệu sản xuất. Tổng cung về tư liệu sản xuất phải đủ không những để bù
đắp tư liệu sản xuất đã tiêu dùng mà còn để mở rộng sản xuất; quy mô tái sản xuất mở
rộng của khu vực I quyết định quy mô tái sản xuất mở rộng của khu vực II. Khi tính tới
ảnh hưởng của tiến bộ kỹ thuật làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản không ngừng tăng lên
trong quá trình tái sản xuất mở rộng, V.I. Lênin đã phát hiện ra quy luật: sản xuất ra tư
1
liệu sản xuất để chế tạo tư liệu sản xuất tăng nhanh nhất, sau đến là sản xuất ra tư liệu sản
xuất để chế tạo tư liệu tiêu dùng và chậm nhất là sự phát triển của tư liệu tiêu dùng. Đó là
quy luật ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu sản xuất, một quy luật kinh tế quan trọng của
nền kinh tế hiện đại.
Cho đến nay, lý thuyết của Mác về tăng trưởng kinh tế vẫn có ý nghĩa thực tiễn rất
lớn, nhất là trong việc giải thích vấn đề mà các nước đang phát triển gặp phải ngày nay.
1.1.23. Mô hình tân cỗ điển về tăng trưởng kinh tế
Cuối thế kỷ XIX là thời kỳ đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học và các nguồn tài nguyên được khai thác phục vụ
cho quá trình sản xuất. Sự phát triển này hĩnh thành một trường phái kinh tế mới - trường
phái tân cổ điển.
Trong mô hình tân cổ điển, các nhà kinh tế học bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng
sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và vốn,
họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công, và trong quá trình sản xuất có thể có

nhiều cách khác nhau trong việc kết họp các yếu tố đầu vào. Các nhà kinh tế học tân cổ
điển còn cho rằng tiến bộ kỹ thuật là yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Đồng thời xu
hướng thay đổi trong kỹ thuật là đa số các sáng chế đều có khuynh hướng dùng vốn để tiết
kiệm nhân công.
Các nhà kinh tế học tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng
kinh tế thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nói lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của đầu
ra với sự tăng lên của yếu tố đầu vào là vốn, lao động, tài nguyên và khoa học kỹ thuật.
2
Y= f(K,L,R,T )
Trong đỏ :
Y : đầu ra (GDP, GNI)
K : vốn sản xuất L : Số
lượng lao động.
R : Nguồn tài nguyên thiên nhiên T :
Khoa học kỹ thuật
Theo trường phái tân cổ điển, có thể có nhiều nhân tố khác tham gia vào quá trình
sản xuất nên hàm sản xuất có dấu chấm lững .
Lý thuyết tăng trưởng của trường phái này đề cao vai trò của các yếu tố sản xuất.
Mỗi sự gia tăng của yếu tố sản xuất sẽ làm gia tăng thêm sản lượng đầu ra. Họ cho rằng,
mỗi nhân tố đều có vai trò nhất định đối với tăng trưởng sản xuất và giữa chúng có quan
hệ lẫn nhau. Trong đó, tư bản được quan tâm nhất bởi vì nó đi liền với tiến bộ khoa học và
công nghệ. Lao động được coi là nguồn vốn ban đầu thiết yếu nhất của tăng trưởng.
1.1.2.4. Mô hình của Keynes về tăng trưởng kinh tế
2
Học thuyết kinh tế của John Maynar Keynes ra đời trong hoàn cảnh cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới ( 1929 -1933) đã làm phá sản học thuyết “bàn tay vô hình, thăng
bằng tổng quát” của trường phái cổ điển và tân cổ điển. Ngoài ra, những năm 30 của thế
kỷ XX, lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển mạnh mẽ, xã hội hóa ngày càng cao hơn so
với thời kỳ trước đòi hỏi phải có sự điều chỉnh tác động của nhà nước vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội trong xã hội tư bản.

Theo Keynes, một nền kinh tế chịu tác động của hai nhân tố cơ bản: tổng cung - tức
toàn bộ số hàng hóa bán trên thị trường và tổng cầu - tức toàn thể số hàng hóa mà người ta
muốn mua. Nhân tố trực tiếp quyết định mức sản lượng và việc làm trong nền kinh tế
không phải là tổng cung mà chính là tổng cầu. Tổng cung giữ vai trò thụ động, nó chịu sự
tác động của tổng cầu. Đến lượt mình, tổng cầu phụ thuộc vào các yếu tố: mức chi tiêu cá
nhân của mỗi gia đĩnh, mức chi tiêu đầu tư, mức chi tiêu của chính phủ và chi tiêu của
nước ngoài đối với hàng hóa sản xuất trong nước (xuất khẩu ròng). Trong quá trình vận
động của nền kinh tế, tổng cầu thường không theo kịp tổng cung. Điều đó ảnh hưởng đến
tình hình sản xuất, thu hẹp đầu tư và gây ra nạn thất nghiệp. Để giải quyết tình trạng này
phải tăng tổng cầu, tổng cầu lớn han tổng cung sẽ làm gia tăng đầu tư do đó sẽ gia tăng
việc làm và gia tăng thu nhập. Cuối cùng sản lượng quốc gia sẽ tăng.
Trong logic phân tích của minh, Keynes cho rằng để thoát khỏi khủng hoàng và thất
nghiệp cần có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để tăng tổng cầu, gia tăng việc
làm và thu nhập. Trước hết, Ông đề nghị sử dụng ngân sách nhà nước để kích thích đầu tư
thông qua các đơn đặt hàng của Nhà nước và trợ cấp vốn cho doanh nghiệp. Để kích thích
đầu tư phải có các biện pháp tăng lợi nhuận và giảm lãi suất, muốn vậy phải tăng khối
lượng tiền tệ trong lưu thông. Keynes đề nghị thực hiện lạm phát có mức độ. Ông đánh giá
cao vai trò của hệ thống thuế khóa, công trái nhà nước, qua đó để bổ sung ngân sách nhà
nước. Ông đề nghị giảm lãi suất ngân hàng để khuyến khích đầu tư và đánh thuế thu nhập
2
cá nhân lũy tiến làm cho phân phối thu nhập trở nên công bằng hơn, do đó sẽ tăng tổng thu
nhập mà nhân dân dùng cho tiêu dùng. Ông tán thành đầu tư của Chính phủ vào các công
trình công cộng.
I.I.2.S. Mô hình của Harrod - Domar về tăng trưởng kinh tế
Mô hình này do hai nhà kinh tế học Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đưa
ra vào thập niên 40 của thế kỷ XX và được các nước đang phát triển ban đầu ứng dụng.
Mô hình này cho rằng, đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một
ngành, hay toàn bộ nền kinh tế đều phụ thuộc vaò tổng vốn đầu tư cho đơn vị đó:
Nếu gọi Y là đầu ra ( GDP, GNI) g là tốc độ tăng trưởng
của đầu ra, thì: g -

(1)
Nếu gọi s là mức tích luỹ của nền kinh tế. s là tỷ lệ
tích luỹ, thì: s = — => s = s . Y
(2)
Vì tiết kiệm (tích luỹ ) là nguồn đầu tư, nên s = I
(3)
Vì vậy, ta có thể viết: s = —
2
Mà mục đích của đầu tư là để tạo ra vốn sản xuất ( K ) nên: I = Á K
(4)
Neu gọi k là tỷ số giữa gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng. Hay còn goi hệ số
ICOR - hệ số gia tăng vốn đầu ra.
k = — = > AK = AY. k Hay AK = AY. ICOR
(5)
AY
Kết hợp từ (1) - (5) ta có: s = s . Y
= I = AK = AY. ICOR o s . Y =
AY. ICOR
<=> ——— = ỀL
ICOR Y
s
=> g =
ICOR
Như vậy, theo mô hình này, để tăng trưởng kinh tế thì phải tăng tỷ lệ tích luỹ
(tiết kiệm) và giảm hệ số ICOR (tăng hiệu quả sử dụng vốn).
Tuy vậy, trong thực tế thì tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra không phải vì lý do
tăng đầu tư, hoặc ngược lại nếu đầu tư không có hiệu quả vẫn có thế dẫn đến không có
sự tăng trưởng. Kể cả trong trường hợp đầu tư có hiệu quả thì sự tăng tỷ lệ tiết kiệm
2
cũng chỉ có thể tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn chứ không thể đạt

trong dài hạn. Từ những lập luận này, năm 1956, dựa trên tư tưởng của lý thuyết trường
phái tân cổ điển, Robert Solow xây dựng mô hình tăng trưởng mới, còn gọi là mô hình
tăng trưởng Solow.
Nếu như mô hình của Harrod - Domar chỉ xét đến vai trò của vốn sản xuất thông
qua tiết kiệm và đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, thì mô hình Solow đã đưa nhân tố
lao động và tiến bộ kỹ thuật vào phương trình tăng trưởng và theo Solow tiến bộ kỹ
thuật là yếu tố quyết đinh đến tăng trưởng kinh tế kể cả trong ngắn hạn và trong dài
hạn.
1.1.2.6. Quan điểm của kinh tế học hiện đại về tăng trưởng kinh tế
Kinh tế học hiện đại ngày này quan niệm về sự cân bằng kinh tế dựa theo mô
hình của J.M. Keynes, nghĩa là sự cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết tại mức
sản lượng tiềm năng, mà thường là dưới mức sản lượng tiềm năng, trong
điều kiện hoạt động bình thường, nền kinh tế vẫn có thất nghiệp và lạm phát. Nhà nước
cần xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và mức lạm phát có thể chấp nhận được. Sự cân
bằng này của nền kinh tế được xác định tại giao điểm của tổng cung và tổng cầu.
Hiện nay, các mô hình tăng trưởng hiện đại thường không nói đến nhân tố tài
nguyên, đất đai với tư cách là biến số của hàm tăng trưởng kinh tế, họ cho rằng đất đai là
yếu tố cố định còn vai trò của tài nguyên có xu hướng giảm sút. Những yếu tố tài nguyên,
đất đai đang sử dụng có thể gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất: K.
2

×