Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG nước hồ THÁC bà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.54 KB, 6 trang )


Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI

 -  349

HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC HỒ THÁC BÀ
Trần Sơn, Nguyễn Thị Kim Anh, Tống Thị Ngân,
Nghiêm Thùy Linh, Lục Tiến Dũng, Phạm Châu Long

Trung tâm NC Môi trường, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường

Báo cáo trình bày kết quả thu được trong quá trình thu thập, điều tra, khảo sát và
phân tích chất lượng nước hồ Thác Bà từ tháng 8 năm 2011 đến tháng 1 năm 2013, từ đó đưa
ra kết luận về hiện trạng chất lượng nước hồ Thác Bà.

1. Đặt vấn đề
Hồ Thác Bà là một trong những hồ nhân tạo lớn nhất Việt Nam và là nguồn
cung cấp nước cho Nhà máy thủy điện Thác Bà (nhà máy thủy điện đầu tiên của Việt
Nam) thuộc tỉnh Yên Bái. Hồ Thác Bà hình thành năm 1970 khi đập ngăn sông Chảy
hoàn thành. Giống như các hồ nhân tạo khác, hồ Thác Bà được đánh giá là loại hồ có
mức dinh dưỡng nghèo đến mức dinh dưỡng bình thường.
Hiện nay, hồ Thác Bà là nguồn cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Thác Bà,
thành phố Yên Bái và cũng là nguồn cung cấp nước cho người dân sinh sống xung
quanh khu vực hồ, tưới tiêu thủy lợi và thực hiện các mục đích cấp nước khác. Từ
trước đến nay chưa có nghiên cứu tổng thể đánh giá chất lượng nước của nước hồ
Thác Bà, vì vậy trong báo cáo này chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu đánh giá chất
lượng nước hồ trong thời gian gần đây để có được sự khái quát chung về chất lượng
nước hồ tại đây.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Báo cáo tập trung vào đánh giá chất lượng nước hồ Thác Bà tại một số vị trí


nhất định. Từ tháng 8 năm 2011, khi bắt đầu nghiên cứu về chất lượng nước hồ Thác
Bà, công việc lấy mẫu được thực hiện ở các khu vực sau: khu tập kết quặng, bãi đá
Mông Sơn, mặt cắt cửa ra và mặt cắt cửa vào của đập thủy điện. Cho đến năm 2012 và
đầu năm 2013, mẫu nước của hồ Thác Bà được lấy định kỳ hàng tháng ở vị trí mặt cắt
cửa ra và mặt cắt cửa vào của đập. Riêng vị trí khu tập kết quặng và bãi đá Mông Sơn
được tiến hành lấy mẫu và đánh giá vào tháng 11 năm 2011.

2.2.1. Phương pháp lấy mẫu, khảo sát hiện trường
Trong quá trình nghiên cứu, nước tại hồ Thác Bà đã được quan sát, ghi chép lại
về màu sắc, mùi, thực vật thủy sinh và các yếu tố môi trường khác trong khi lấy mẫu.
Việc quan trắc, theo dõi diễn biến về môi trường nước được thực hiện tại Trạm thực
Nghiệm Môi trường hồ chứa Thác Bà. Tại đây mẫu nước được lấy thường xuyên và
liên tục hàng tháng, mẫu nước được đựng vào chai nhựa, có dán nhãn đầy đủ và được
bảo quản đúng quy trình trước khi mang về phòng thí nghiệm phân tích. Các chỉ tiêu
không bền như pH, Ô xy hòa tan (DO), Độ dẫn điện (EC), độ đục được đo tại hiện
trường bằng các máy đo nhanh.

Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI

350 - 



Ảnh 1: Một số hình ảnh khảo sát
2.2.2. Phương pháp phân tích trong phòng thí nghiệm
Các mẫu nước được phân tích tại Phòng Thí nghiệm Môi trường, Trung tâm
Nghiên cứu Môi trường, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường. Phòng
Thí nghiệm đạt tiêu chuẩn ISO/IEC 17025:2005, mã số Vilas 255. Các phép thử để
phân tích các mẫu nước đều được thực hiện theo các Tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế.
Sau khi thực hiện phân tích, các kết quả được so sánh với Quy chuẩn kỹ thuật Quốc

gia về chất lượng nước mặt (QCVN 08:2008/BTNMT) theo cột A2 dành cho nước
dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt nhưng phải áp dụng công nghệ xử lý phù hợp;
bảo tồn động thực vật thủy sinh.
3. Kết quả phân tích chất lượng nước
Các kết quả nghiên cứu được so sánh với tiêu chuẩn và từ đó đưa ra những đánh
giá xác thực về chất lượng nước hồ Thác Bà. Dưới đây là kết quả đánh giá của một số chỉ
tiêu, từ đó ta có thể nắm được sơ lược về chất lượng nước hồ trong 3 năm trở lại đây.


Hình 1: Hàm lượng chất rắn lơ lửng trong hồ

Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI

 -  351

Từ biểu đồ trên ta thấy hàm lượng chất rắn lơ lửng có sự khác nhau giữa hai vị
trí cửa ra và cửa vào của đập. Tại vị trí cửa ra, hàm lượng chất rắn lơ lửng cao hơn so
với vị trí cửa vào và có chênh lệch lớn nhất vào tháng 8/2012. Trong quá trình khảo
sát, có một tháng mà hàm lượng chất rắn lơ lửng ở cả hai vị trí khảo sát đạt giá trị cao
nhất đó là vào tháng 5/2012. Theo QCVN 08:2008/BTNMT, giới hạn giá trị tổng chất
rắn lơ lửng là 30 mg/l. Trong khi đó, chất rắn lơ lửng đo được trong các mẫu nước tại
khu vực hồ Thác Bà được thể hiện ở biểu đồ trên luôn dao động ở mức dưới 16 mg/l,
đạt tiêu chuẩn cho phép của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt.
3.2. pH
Trong lĩnh vực cấp nước, pH liên quan đến tính ăn mòn, hòa tan và ảnh hưởng
đến các quá trình xử lý nước như keo tụ, diệt khuẩn, làm mềm, khử sắt.
Theo như kết quả theo dõi chỉ tiêu pH tại hồ Thác Bà được phân tích tại phòng
thí nghiệm môi trường, giá trị pH của hồ luôn lớn hơn 7,2 và nhỏ hơn 8,4 và không có
sự chênh lệch nhiều giữa hai vị trí cửa vào và cửa ra của đập thủy điện. So với giới hạn
giá trị được quy định trong quy chuẩn là từ 6 đến 8,5 thì ta thấy rằng nước hồ Thác Bà

đạt yêu cầu của quy chuẩn về giá trị pH.
3.3. DO, COD, BOD5



Hình 2: So sánh giữa DO, COD và BOD5
Nhóm chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ ô nhiễm nước và khả năng tự làm
sạch của thủy vực là nhóm chỉ tiêu DO, COD và BOD5.
DO là thông số biểu thị cho độ oxy hòa tan trong nước cần thiết cho sự hô hấp
của các sinh vật nước. Nếu DO trong nước thấp, các loài sinh vật nước giảm hoạt động
hoặc bị chết. Do vậy, DO là một chỉ số quan trọng để đánh giá sự ô nhiễm nước của
các thủy vực.
Dựa vào kết quả phân tích DO theo thời gian, ta có thể thấy trong ba năm khảo
sát thì độ oxy hòa tan trong nước thay đổi không đáng kể, luôn dao động trong khoảng
7mg/l. Từ đó thấy được rằng độ oxy hòa tan trong nước khu vực hồ Thác Bà luôn ổn
định. Khi so sánh với QCVN 08:2008/BTNMT về chất lượng nước mặt, DO tại khu
vực hồ Thác Bà luôn đạt yêu cầu (≥4mg/l).
COD là chỉ tiêu thể hiện nhu cầu oxy hóa học, là lượng oxy cần thiết để oxy
hóa các hợp chất hóa học trong nước bao gồm cả vô cơ và hữu cơ. Còn BOD biểu thị

Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI

352 - 

lượng ôxy các vi sinh vật cần dùng để ô xy hóa các chất hữu cơ có trong nước. Nếu
nhu cầu oxy hóa học và nhu cầu oxy sinh học cao sẽ làm giảm nồng độ DO trong
nước, có hại cho sinh vật nước và hệ sinh thái nói chung.
Kết quả phân tích cho thấy COD có sự thay đổi ít và dao động trong khoảng giá
trị từ 3 đến 6 mg/l, luôn nhỏ hơn giới hạn cho phép được quy định trong quy chuẩn
Việt Nam, và khi so sánh giữa hai vị trí khảo sát thì COD tại cửa ra cao hơn vị trí cửa

vào. Bên cạnh đó, giá trị BOD
5
ở hồ Thác Bà luôn ở mức thấp, nằm trong khoảng 1 –
2,5 mg/l, trong khi giới hạn cho phép của BOD
5
là 6 mg/l. Từ đó ta có thể kết luận chỉ
tiêu COD và BOD
5
của nước hồ Thác Bà đều đạt yêu cầu quy chuẩn kỹ thuật QCVN
08:2008/BTNMT trong ba năm phân tích và đánh giá.

Hàm lượng Fe vẫn nằm trong giới hạn cho phép và đều nhỏ hơn 0,12 mg/l. So
sánh hàm lượng Zn trong các mẫu nước thu được với giới hạn cho phép trong quy chuẩn
thì hàm lượng Zn trong hồ Thác Bà thấp hơn rất nhiều lần so với quy định trong QCVN.
Việc xác định được hàm lượng kim loại nặng trong nước hồ là rất quan trọng bởi nếu
trong nước hồ Thác Bà có hàm lượng kim loại nặng cao thì sẽ không đáp ứng được yêu
cầu để cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư trong khu vực. Ngoài hai vị trí khảo sát
thường xuyên là mặt cắt cửa vào và cửa ra của đập thì vào những tháng cuối năm 2011
nước hồ còn được lấy tại các địa điểm khác như các khu tập kết quặng, khu tập kết gỗ hay
bãi đá Mông Sơn. Hàm lượng sắt tại các điểm kháo sát đó được thể hiện ở biểu đồ sau:

Hình 3: Hàm lượng sắt tại một số điểm khảo sát năm 2011
Tại khu tập kết quặng, hàm lượng sắt cao hơn so với tất cả các vị trí lấy mẫu
còn lại. Nước hồ Thác Bà ngoài mục đích cung cấp nước cho công trình thủy điện còn
được dùng cho các mục đích cấp nước sinh hoạt, tưới tiêu cho người dân nên cần chú
ý tránh gây ô nhiễm kim loại nặng trên khu vực hồ, đặc biệt là tại điểm tập kết quặng,
để không ảnh hưởng tới sức khỏe người dân xung quanh.

Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI


 -  353


Qua quá trình phân tích và khảo sát, nhìn chung các thông số đánh giá chất
lượng nước mặt khác tại khu vực hồ Thác Bà đều nằm trong giới hạn Quy chuẩn cho
phép. Đối với các nhóm chỉ tiêu vật lý, hàm lượng các ion NH
4
+
, NO
2
-
, NO
3
-
và PO
4
3-

là một trong những thông số quyết định để đánh giá chất lượng nước, trong điều kiện
bình thường thì hàm lượng các ion này là một trong các loại chất dinh dưỡng cần thiết
cho sự sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật cũng như thực vật nói chung (tảo nói
riêng) của hồ. Khi hàm lượng các ion này quá lớn thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
nước và tăng khả năng sinh trưởng của các loài thực vật. Các hợp chất chứa Nitơ
(NH
4
+
, NO
2
-
, NO

3
) và PO
4
3-
chỉ thị trạng thái nhiễm bẩn của nguồn nước do sự phân
hủy của rác thải, các chất hữu cơ có trong nước thải sinh hoạt tạo thành. Trong số các
mẫu đã phân tích không có chỉ tiêu nào vượt quá tiêu chuẩn cho phép và đều có giá trị
thấp. Hàm lượng NH
4
+
trong các mẫu phân tích có giá trị trung bình ở mức 0,053 mg/l
và không có điểm khảo sát nào có giá trị NH
4
+
lớn hơn so với quy định. Các ion NO
2
-

và NO
3
-
cũng chỉ có hàm lượng rất nhỏ. Hàm lượng NO
2
-
có giá trị trung bình là 0,002
mg/l và không có điểm khảo sát nào có hàm lượng NO
2
-
lớn hơn 0,006mg/l, giá trị
trung bình này nhỏ hơn quy chuẩn cho phép 10 lần. Bên cạnh đó, NO

3
-
trong nước hồ
Thác Bà có giá trị nằm trong khoảng 0,04 – 0,46mg/l, từ đó thấy rằng trong tất cả các
điểm khảo sát, không có điểm nào có giá trị NO
3
-
vượt ngưỡng quy định. Đối với PO
4
3-
, kết quả phân tích các mẫu thu được (tính theo P) tại các điểm khảo sát đều rất nhỏ,
không có mẫu nước tại vị trí khảo sát nào có giá trị lớn hơn 0,02mg/l và đều nhỏ hơn
so với QCVN (0,2 mg/l) rất nhiều lần.
Độ kiềm và độ cứng trong nước đều nhỏ hơn giới hạn cho phép được quy định
trong quy chuẩn. Giới hạn độ cứng toàn phần của nước là 600 mg/l, giá trị độ cứng
toàn phần có được sau khi phân tích mẫu tại các điểm lấy mẫu có giá trị trung bình là
41,77mg/l và không có giá trị nào lớn hơn 49,2mg/l. Vì vậy, xét về độ cứng và độ
kiềm của nước thì nước hồ Thác Bà đáp ứng được yêu cầu đối với nước sử dụng cho
mục đích cấp nước sinh hoạt, các hoạt động khác như thủy lợi, tưới tiêu. Ngoài ra,
chúng tôi còn tiến hành phân tích hàm lượng Canxi và Magiê trong nước hồ Thác Bà.
Ca có giá trị dao động từ 8,55 đến 13,8mg/l và Mg có giá trị từ 3,19 đến 4,39mg/l. Cả
hai chất này đều có giá trị đảm bảo đáp ứng yêu cầu đối với mục đích sử dụng của
nước.
Thông số biểu thị cho nguồn nước bị nhiễm phèn có gây hại đến sức khỏe là
SO
4
2-
có hàm lượng nhỏ. Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng SO
4
2-

nhỏ nhất là
5,56mg/l và lớn nhất là 10,06mg/l. Giới hạn hàm lượng SO
4
2-
trong quy chuẩn Việt Nam
là ≤ 400mg/l, như vậy hàm lượng SO
4
2-
trong nước hồ Thác Bà nằm trong giới hạn cho
phép.
Hàm lượng của các anion khác như F
-
, Cl
-
đều nhỏ hơn rất nhiều lần so với quy
chuẩn. Cl
-
trong nước hồ qua thời gian khảo sát và phân tích có giá trị trung bình ở
mức 1,21 mg/l, trong khi đó giới hạn hàm lượng Cl
-
trong nước được quy định là
400mg/l. Hàm lượng Cl
-
trong nước hồ phân tích được nhỏ hơn hơn 300 lần so với
giới hạn cho phép. Hàm lượng F
-
trong nước phân tích được có giá trị nằm trong
khoảng 0,112 đến 0,215 mg/l. Giá trị này nhỏ hơn rất nhiều so với giới hạn cho phép.

Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thủy văn, Môi trường và Biến đổi khí hậu lần thứ XVI


354 - 

Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước khác như chỉ tiêu TDS (hàm lượng
các chất hòa tan trong nước) có giá trị dao động từ 109,3 đến 125,1 mg/l. Các cation
như Na
+
và K
+
có hàm lượng nhỏ. Na
+
có hàm lượng trung bình là 2,18 mg/l và K
+

hàm lượng nằm trong khoảng giá trị từ 0,45 đến 2,12 mg/l. Chỉ tiêu HCO
3
-
trung bình
tại các điểm khảo sát là 121,4 mg/l và độ dẫn điện của nước hồ Thác Bà dao động từ
170,8 đến 195,5 mS/cm. Từ các kết quả phân tích cho thấy chất lượng nước hồ chứa
Thác Bà tương đối tốt, chưa có chỉ tiêu nào vượt quá giới hạn cho phép.
4. Kết luận
Qua việc giám sát một số chỉ tiêu về chất lượng nước, báo cáo đã phác họa một
bức tranh khá tổng quát về chất lượng nước hồ Thác Bà. Và khi so sánh các chỉ tiêu
này với giới hạn cho phép trong quy chuẩn về chất lượng nước thì chất lượng nước hồ
Thác Bà khá sạch và đáp ứng được yêu cầu của nước dùng với mục đích sinh hoạt cho
người dân và mục đích thủy lợi, tưới tiêu.
Với mục đích cấp nước sinh hoạt cho người dân, chất lượng nước hồ như hiện
nay cần được duy trì và có biện pháp xử lý thích hợp. Bên cạnh đó việc sử dụng nước
hồ cho các mục đích khác nhau cũng cần có quy hoạch hợp lý, đặc biệt là việc nuôi

trồng thủy sản để không ảnh hưởng tới chất lượng nước và đáp ứng được các mục đích
sử dụng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các Quy chuẩn và tiêu chuẩn Việt Nam;
2. Hoàng Minh Châu, Từ Văn Mạc, Từ Vọng Nghi, Cơ sở hóa học phân tích – NXB
Khoa học kỹ thuật;
3.
4. Nguyễn Xuân Nguyên, Trần Đức Hạ (2004), Chất lượng nước sông hồ và bảo vệ
môi trường nước – NXB Khoa học kỹ thuật;

WATER QUALITY OF THAC BA LAKE
Tran Son, Nguyen Thi Kim Anh, Tong Thi Ngan, Nghiem Thuy Linh,
Luc Tien Dung, Pham Chau Long
Center for Environmental Research, National Institute of Meteorology and Hydrology
and Environment

Thac Ba Lake is one of the three largest manmade lakes in Viet Nam and it is a water
supply sources for Thac Ba hydroelectric plant (the first hydroelectric plant in Viet Nam).
Along with the function of supplying water for Thac Ba hydroelectric plant, it also supplies
water for the inhabitant around that area. But since it was created, the lake water quality has
not been assessed generally and systematically. Therefore, this report presents the results
obtained during investigation, survey and analysis of indices for assessment of water quality
in this lake from which to conclude the status of water quality in Thac Ba Lake.

×