Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

NHẬT BẢN HAI LẦN KHÁNG CHIẾN CHỐNG MÔNG - NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 77 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đại học Quốc gia Hà Nội
Đại học quốc gia hà nội
Trờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân Văn
Khoa Đông Phơng Học
Khoá luận tốt nghiệp
Nhật Bản hai lần kháng chiến
chống quân xâm lợc Mông - Nguyên

Lời mở đầu
Nớc Nhật Bản thế kỷ XX đợc mọi ngời biết đến nh một quốc gia phát
triển mạnh mẽ, có nền kinh tế khổng lồ đứng hàng thứ hai trên thế giới. Ngời
ta cũng luôn nói rằng một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên điều
thần kỳ ấy chính là con ngời Nhật Bản - những con ngời cần cù; yêu lao động
và đặc biệt luôn mang trong mình tình yêu quê hơng, đất nớc nồng nàn. Nếu
nh trong Cách mạng Minh Trị (1868), bằng lòng tự hào dân tộc mãnh liệt;
ngời Nhật Bản đã quyết tâm canh tân đất nớc mình từ một nớc nông nghiệp
lạc hậu trở thành một quốc gia hùng mạnh sánh vai cùng các cờng quốc Tây
phơng, thì trong những năm tháng khổ cực sau Đại chiến Thế giới thứ hai,
cũng chính bằng tình yêu nớc thiết tha ấy, những con ngời xứ sở Phù Tang lại
làm việc quên mình với niềm tin sẽ khôi phục lại nớc Nhật đã kiệt quệ vì
chiến tranh. Chính những con ngời đó, với truyền thống và nghị lực phi thờng
đã tạo nên một nớc Nhật Bản thần kỳ khiến cả thế giới ngày nay phải ngỡng
mộ.
Tìm hiểu về truyền thống và con ngời Nhật Bản từ lâu đã là một trong
những hớng u tiên của các nhà xã hội học cũng nh các nhà sử học Việt Nam
và thế giới. Cá nhân tôi, với t cách là một sinh viên chuyên ngành Đông Ph-
ơng học, tôi không có tham vọng trình bày tất cả truyền thống lâu đời của
dân tộc Nhật Bản, mà trong bản khoá luận tốt nghiệp này tôi chỉ cố gắng nêu
ra một vài suy nghĩ của mình về hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc
Mông - Nguyên của họ. Đây là một thời kỳ hào hùng và đầy biến động trong


lịch sử Nhật Bản; là quãng thời gian tuy ngắn ngủi song thể hiện đậm nét tính
cách con ngời và các giá trị truyền thống cho đến ngày nay vẫn đợc dân tộc
Nhật trân trọng. Qua đó tôi cũng muốn phần nào giới thiệu với quý vị độc
giả, nhất là với các bạn sinh viên cùng trang lứa rằng ngời Nhật Bản họ đã
2
yêu nớc nh thế nào và tình yêu ấy đã giúp gì cho họ trớc những thử thách
ngặt nghèo của lịch sử.
Trớc khi bắt tay vào thực hiện bản khoá luận tốt nghiệp này, quả thực
tôi đã không lờng trớc hết đợc những khó khăn sẽ gặp phải. Trớc hết là khó
khăn chồng chất trong việc su tầm tài liệu do khả năng ngoại ngữ còn hạn
chế và nguồn tài liệu tiếng Việt không nhiều. Thứ đến là do cha có điều kiện
nghiên cứu khoa học thờng xuyên, tôi gặp nhiều bỡ ngỡ và rất thiếu kinh
nghiệm khi tiến hành viết khoá luận. Cuối cùng đó là sự khó khăn trong việc
phân tích tài liệu do có quá nhiều cách nhìn nhận khác nhau từ các phía
(Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Phơng Tây...) về cuộc chiến tranh thế
giới thứ hai này. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tôi cũng gặp đợc nhiều thuận lợi
nh: do đã đợc học tiếng chuyên ngành Nhật Bản nên tôi có cơ hội tiếp xúc
với các tài liệu bằng tiếng bản ngữ, hoặc thông qua các bạn bè tôi có thêm đ-
ợc một số thông tin mới... Đặc biệt là tôi nhận đợc sự hớng dẫn tận tình của
các thầy cô giáo trong cũng nh ngoài khoa. Trong số những tài liệu mà mình
su tầm đợc, tôi nhận thấy nguồn sử liệu tiếng Anh là phong phú hơn cả. Các
học giả phơng Tây, đặc biệt là hai nớc Anh, Mỹ đã viết rất nhiều sách giá trị
về lịch sử Nhật Bản. Ngay các công trình nghiên cứu lớn của Nhật Bản, phần
nhiều cũng đợc dịch và xuất bản bằng tiếng Anh. Thêm vào đó, các độc giả
Việt Nam trong đó có cả tôi, xa nay vẫn chỉ quen tiếp xúc với các tài liệu
tiếng Việt và tiếng Anh. Vì lẽ ấy, trong báo cáo này tôi quyết định ghi chép
các tên ngời, địa danh... bằng phiên âm tiếng Anh; và một số, trong chừng
mực có thể tôi cũng cố gắng sử dụng tên phiên âm Hán - Việt để quen thuộc
với ngời Việt Nam chúng ta.
Với trình độ nhận thức của một sinh viên, chắc chắn bài viết không

tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận đợc sự góp ý quý báu của thầy
cô và các bạn.
3
Mục lục
Lời mở đầu
Chơng I _ Tình hình lục địa á-âu thế kỷ XIII và âm mu bành tr-
ớng của đế quốc Mông Cổ.
I. Đế quốc Mông Cổ - con đờng hình thành và phát triển.............................
06
II. Lục địa á-Âu dới vó ngựa xâm lăng của đế chế Mông Cổ........................
11
Chơng II _ Nhật Bản hai lần kháng chiến chống quân xâm lợc
Mông-Nguyên.
I. Bối cảnh lịch sử Nhật Bản những năm trớc chiến tranh.. 27
II. Hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc Mông-Nguyên 33
Chơng III _ Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của hai cuộc
kháng chiến.
I. Các lợi thế của quân Mông Cổ và chiến thật quân sự của họ .56
II. Nguyên nhân thắng lợi và nghĩa lịch sử của hai cuộc kháng chiến 62
Kết luận
Tài liệu tham khảo.
4
Chơng I
Tình hình lục địa á-âu thế kỷ XIII và âm mu
bành trớng của đế quốc Mông Cổ
I . Đế quốc Mông Cổ - con đờng hình thành và phát triển.
1. Dân tộc Mông Cổ - nguồn gốc và những truyền thống cổ xa.
Vùng thảo nguyên rộng lớn phía Bắc Trung Hoa, từ xa xa đã là địa bàn
c trú của những bộ lạc du mục thuộc các tộc ngời Duy Ngô Nhĩ, Khiết Đan,
Nữ Chân hay Mông Cổ... Tới trớc thế kỷ XIII hầu hết các bộ tộc này đều đã

từ bỏ lối sống du mục, học theo các c dân phơng Nam sống định c làm nông
nghiệp. Theo đó họ thành lập nên hàng loạt những nhà nớc mới của dân tộc
mình, nh nớc Liêu của ngời Khiết Đan, nớc Kim của ngời Nữ Chân... Tuy
nhiên trong số ấy vẫn còn một dân tộc đang chìm trong bóng đêm mông
muội của xã hội thị tộc, đó chính là ngời Mông Cổ. Dân tộc ấy đợc ngời ta
đem so sánh với hình ảnh một con mãnh hổ đang ngủ quên, và khi nó thức
dậy thì cả thế giới bị một phen kinh hoàng.
Nh chúng ta đã biết, ở phơng Đông, vùng Đông Bắc nớc Trung Quốc
ngày nay là một trong những cái nôi đầu tiên xuất hiện loài ngời hiện đại
Homosaphien. Xơng cốt hoá thạch của giống ngời vợn Bắc Kinh đợc tìm
thấy ở đây có niên đại tới gần 1,5 triệu năm, và chắc hẳn các dân tộc Bắc á
trong đó có ngời Mông Cổ chính là hậu duệ của giống ngời này. Dân tộc
Mông Cổ xuất hiện từ bao giờ không có tài liệu nào ghi chép chính xác, nhng
ngay từ thời Xuân Thu Chiến Quốc ngời Trung Hoa đã phải xây Vạn Lý Tr-
ờng Thành vô cùng tốn kém để phòng ngừa những đội kỵ binh của họ tới cớp
phá. Lúc đó ngời Mông Cổ đã rất nổi tiếng với sức mạnh và tài cỡi ngựa, bắn
5
cung... Cho tới tận thời kỳ trung đại, trong khi những dân tộc láng giềng đã
bớc sang chế độ phong kiến với tổ chức xã hội tiến bộ thì ngời Mông Cổ vẫn
đang sống du mục dới hình thức bộ lạc hay liên minh các bộ lạc. Đến lúc
này, họ chỉ là một dân tộc nhỏ bé cha từng đợc lịch sử thế giới nhắc đến. Các
bộ lạc du mục Mông Cổ sinh sống trên vùng thảo nguyên Bắc á rộng mênh
mông và hoang vắng. Dân số của họ cho tới giữa thế kỷ XIII chỉ vào khoảng
2,5 triệu ngời, nhng lãnh thổ lại rất rộng lớn bao gồm phía Bắc tới tận hồ
Baikal, thợng lu sông Yenisey và sông Irtysh, phía Nam qua sa mạc Đại Qua
Bích ( Gobi ) tới gần trờng thành. Mông Cổ có nhiều bộ tộc nh Naimans ở
phía Tây, Merkits ở phía Bắc... đông nhất là tộc Tartar ( ngời Trung Quốc
dịch âm là Thát Đát ) sinh sống bên bờ sông Onon ở phía Đông. Tài
sản chủ yếu của họ là các loài đại gia súc nh bò, dê, cừu, ngựa... thức ăn
chính là thịt và sữa ngựa. Ngựa đóng một vai trò thiết yếu trong đời sống của

ngời Mông Cổ, họ có tới hàng triệu con. Cứ mùa Đông đồng cỏ khô héo, họ
rời xuống phía Nam, tới mùa Hạ thời tiết ấm áp lại lùa gia súc về phơng Bắc,
không ngoa mà có thể nói rằng ngời Mông Cổ sinh ra và lớn lên trên lng
ngựa. Ngày này qua ngày khác, họ chăn thả gia súc, săn bắt và chiến đấu trên
lng ngựa, đó vừa là sinh kế cũng vừa nh là bản năng của họ. Chính vì xã hội
sống du mục nh vậy ngời Mông Cổ rất trọng sức mạnh, họ coi việc cỡi ngựa
bắn cung là bản năng tự nhiên giống nh việc đứa trẻ tập đi, nếu không biết
những thứ đó thì không thể sinh tồn đợc.
Ngời Mông Cổ du mục theo hình thức Kuryel, có nghĩa là lều trại.
Theo nhà sử học Ba T Rasid ud-din ( 1247-1318 ), mỗi Kuryel có chừng
1000 lều, đó có thể đó là một bộ lạc hay một gia tộc. Khi bộ lạc di chuyển
tới đâu, Kuryel đợc đóng tại đó, lều của thủ lĩnh ở chính giữa, xung quanh
là lều của các thành viên trong thị tộc
1
. Cùng với sự tan rã của chế độ công
1
Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm - Cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc Nguyên-Mông thế kỷ XIII , NXB
Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1972.
6
xã thị tộc và tù binh từ các cuộc chiến tranh vì tranh giành đồng cỏ, các gia
đình Mông Cổ giàu có mở rộng phạm vi thế lực, tầng lớp nô lệ bắt đầu xuất
hiện. Nô lệ gia đình đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi từ ph-
ơng thức Kuryel-du mục của công xã sang phơng thức Ayil-du mục của gia
đình các thể. Song, các bộ lạc Mông Cổ không trở thành một xã hội chiếm
hữu nô lệ mà tiến thẳng tới hình thái phong kiến. Điều đó hiển nhiên là do
ảnh hởng từ các dân tộc định c phong kiến láng giềng, đặc biệt là ngời Trung
Hoa. Dới chế độ công xã, bãi chăn nuôi và gia súc đều là tài sản chung của
bộc tộc. Khi chế độ thị tộc tan rã, gia súc biến thành tài sản riêng của gia
đình cá thể, nhng đồng cỏ vẫn là tài sản chung. Dần dần các bãi chăn thả gia
súc bị tầng lớp quý tộc Mông Cổ ( Noyan ) chiếm dụng làm của riêng, những

ngời tự do ( Arat ) bị biến thành tầng lớp lệ thuộc, phải cung cấp củi đốt, vắt
sữa, chăn gia súc cho Noyan... nh vậy từ cuối thế kỷ XII mầm mống sở hữu
phong kiến đã dần hình thành trong xã hội Mông Cổ.
2. Đế quốc Mông Cổ và dã tâm nô dịch các dân tộc khác.
Thế kỷ XII, ngời Mông Cổ vẫn là bộ tộc lệ thuộc vào nớc Kim ( )
của ngời Nữ Chân, họ học đợc từ ngời Kim nhiều chiến thuật lợi hại. Trong
khi đó, bản thân ngời Kim lại bị Hán hoá trầm trọng, họ chuyển sang sống
định c, làm nghề nông và bắt đầu thích đọc sách, làm văn thơ giống nh ngời
Hán. Chẳng những cái hung bạo, thiện chiến truyền thống đã mất đi mà họ
còn bị nhiễm nhiều thói xấu của chế độ tập quyền chuyên chế phơng Nam.
Nội bộ mất đoàn kết, các tập đoàn phong kiến khuynh loát lẫn nhau làm vơng
triều của họ suy yếu nghiêm trọng. Suốt 120 năm làm chủ miền Bắc Trung
Hoa, ngời Kim liên tục phải chiến tranh, kình địch với Nam Tống, tuy giành
đợc thắng lợi nhng Kim cũng kiệt quệ lắm rồi. Có một sự trùng hợp ngẫu
nhiên của lịch sử, ngời Kim trớc kia lệ thuộc vào ngời Khiết Đan, vì vua Liêu
tàn ác, vô đạo khiến ngời Nữ Chân không chịu nổi ức hiếp mà vùng lên khởi
7
nghĩa cuối cùng diệt đợc nớc Liêu. Nay thì ngời Mông Cổ cũng bị nớc Kim
đàn áp quá đáng mà qua thế kỷ XIII đã nổi loạn chống lại Kim. Vua Kim bị
thua nhiều trận, phải nộp vàng bạc, bò, dê, đậu, gạo... để xin nghị hoà, còn
phải cắt đất phong vơng cho Mông Cổ, nhng họ không thèm nhận, tự xng là
Đại Mông Cổ Quốc.
Qua thời Temujin ( Thiết Mộc Chân ), Mông Cổ lại càng mạnh, đánh
đâu thắng đó. Temujin là tộc trởng bộ lạc Kereyid sinh sống ở lu vực sông
Onon, cha là Yesugey Baartur. Năm 1200, sau một thời gian tập hợp lực l-
ợng, Temujin quyết định mở cuộc chiến tranh thống nhất các bộ lạc Mông
Cổ. Năm 1206, ông ta đã hàng phục đợc hầu
hết các bộ lạc chủ yếu ở Mông Cổ, sau đó tại
đại hội quý tộc Khuriltai tổ chức bên bờ sông
Onon, giai cấp quý tộc Noyan đã tôn Thiết

Mộc Chân lên làm Thành Cát T Hãn (
Genghis Khan ) nghĩa là Hãn (
vua Mông Cổ ) mạnh nhất. Một nhà nớc
phong kiến tập quyền quân sự của ngời Mông
Cổ chính thức đợc ra đời. Quan hệ phong
kiến nảy sinh trong xã hội Mông Cổ từ cuối
thế kỷ XII, nay phát triển mạnh mẽ, hình thành nên một Hình 1:
Thành Cát T Hãn dân tộc Mông Cổ thống nhất. Kinh tế, văn hoá có điều
kiện rất thuận lợi để phát triển. Nhng ngay sau đó, Thành Cát T Hãn và tập
đoàn quý tộc phong kiến Noyan lại đem tất cả tinh lực của bộ tộc Mông
Cổ vừa hình thành lao vào cuộc chiến tranh xâm lợc và nô dịch các dân
tộc khác
2
. Từng đoàn kỵ binh Mông Cổ ồ ạt băng qua những miền thảo
nguyên hoang vắng tiến về phơng Tây và phơng Đông, gieo rắc nỗi kinh
hoàng cùng sự chết chóc. Lý do nào dẫn tới tham vọng điên cuồng muốn trở
2
Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm - Cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc Nguyên-Mông thế kỷ XIII
8
thành bá chủ thế giới của ngời Mông Cổ cho tới nay vẫn còn nhiều tranh cãi,
nhng chắc chắn trong đó có vài nguyên nhân sau. Thứ nhất, ngời Mông Cổ là
dân tộc du mục, họ rất coi trọng các đồng cỏ chăn thả gia súc, khi xã hội của
mình phát triển mạnh mẽ nhu cầu về đất chăn nuôi tăng cao làm họ nghĩ tới
việc phải thôn tính những miền đất mới. Thứ hai, ngời Mông Cổ bị ảnh hởng
t tởng đại Hán từ ngời Trung Hoa họ sớm cho mình là một dân tộc thợng
đẳng và nuôi dã tâm nô dịch các dân tộc xung quanh, đặc biệt là ngời Hán
hay ngời Kim-những dân tộc trớc kia từng thống trị các bộ lạc Mông Cổ. Thứ
ba, rõ ràng ngời Mông Cổ bị hấp dẫn bởi thứ văn hoá và lối sống mới lạ từ
những quốc gia lân cận. Lấy ví dụ nh nớc Trung Hoa chẳng hạn, họ vừa
muốn học theo lại vừa muốn khuất phục quốc gia ấy để chứng tỏ sức mạnh v-

ợt trội của dân tộc mình. Cuối cùng, không thể không nhắc đến đó là tham
vọng bá chủ thiên hạ của cá nhân Thành Cát T Hãn và những ngời kế tục ông
ta. Họ muốn để lại những chiến công hiển hách, muốn chiến thắng mọi sự
kháng cự dù là nhỏ nhất chỉ để thoả mãn danh vọng cá nhân. Ngay bản thân
các chiến binh Mông Cổ cũng say sa trong mỗi chiến thắng, ảo tởng về một
sức mạnh bất khả chiến bại. Những t tởng ấy ngày càng thôi thúc tớng sỹ
Mông Cổ lao vào cuộc chiến tranh xâm lợc phi nghĩa, tàn bạo. Ngời Mông
Cổ thì ít, đế quốc của họ thì đã rộng lớn lắm rồi mà các đoàn kỵ binh vẫn tiếp
tục hành quân mãi không thôi. Kết quả là Mông Cổ trở thành một đế chế
rộng lớn và hùng mạnh nhất trong lịch sử cổ kim, với cơng thổ trải dài từ bờ
biển Thái Bình Dơng tới tận miền Địa Trung Hải.
II. Lục địa á - Âu dới vó ngựa xâm lăng của đế chế Mông Cổ
1. Những cuộc tiến công dới thời Thành Cát T Hãn
9
Hình2: Những con đờng Tây tiến của quân Mông Cổ ( nửa đầu thế kỷ XIII )
Năm 1211, Thành Cát T Hãn tiến quân vào miền Bắc Trung Hoa và
chiếm đợc Đại Đô ( ngày nay là thủ đô Bắc Kinh-Trung Quốc ) tức
Tây Kinh của nhà Kim, cớp nhiều của cải và tù binh. Vua Kim sợ hãi xin
hoà, nộp vàng, lụa, phụ nữ... còn phải dâng một công chúa cho Thành Cát T
Hãn làm thiếp. Mông Cổ chuyển hớng tấn công sang phía Tây, chiếm vùng
Tây Vực của ngời Duy Ngô Nhĩ ( Uygur ) và thẳng tiến đến miền đất Trung
á xa lạ. Năm 1218, quân Mông Cổ chiếm đợc phần phía Đông lãnh thổ của
ngời Tuốc ( ngời Turk hay đầy đủ là Turkestan ). Năm 1219, họ tiến quân
tới vơng quốc Khwarizm ( ngày nay thuộc lãnh thổ các nớc Turkmenistan,
Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan và một phần nớc Kazakhstan ), tới tháng
2 năm 1220 thì chiếm đợc thành cổ Bukhara, dân chúng ở đây bị tàn sát rất
dã man, còn toà thành bị họ thiêu trụi. Quân Mông Cổ tiếp tục tiến quân về
hớng kinh đô Urgenc của vơng quốc Khwarizm, trên đờng đi họ tàn phá
10
không thơng tiếc Samarkhand-một thành phố lớn ở miền trung Uzbekistan.

Toà thành lộng lẫy với những ngôi đền Hồi giáo bị biến thành một đống tro
tàn hoang phế. Nhân dân thành Urgenc chiến đấu rất ngoan cờng chống lại
đội quân Mông Cổ thiện chiến dới sự chỉ huy của các con trai Thành Cát T
Hãn đều là những dũng tớng, nh Ogodey ( Oa Khoát Đài ),
Tragatai ( Sát Hợp Đài ), Jotri ( Thuật Xích ). Tuy nhiên họ
cũng chỉ cầm cự đợc 5 tháng, thành Urgenc thất thủ tháng 4 năm 1221. Sau
khi tàn sát c dân và trng tập thợ thủ công, bọn chiến thắng cuồng bạo đã phá
đê sông Amu-daria ( dòng sông lớn nhất Trung á chảy từ Đông sang Tây đổ
vào biển Aral ) cho nớc tràn vào nhấn chìm cả toà thành, không một ai sống
sót sau thảm hoạ đó. Cùng năm đó ngày 25 tháng 2, Tolui ( Đà Lôi )
con trai út của Thành Cát T Hãn hạ thành Mecv của ngời Tuốc-một thành cổ
giàu có nằm trên con đờng tơ lụa nổi tiếng trong lịch sử. Nhân dân thành
Mecv đã chống trả quyết liệt nên toàn thành bị tàn sát trừ 400 thợ thủ công,
sự kiện này đợc lịch sử Turkmenistan ghi lại nh một trong những trang đen
tối nhất của toàn dân tộc. Ngời ta đã đếm đợc hơn 70 vạn xác chết quanh
ngôi thành. Vơng triều Samanids của nớc Khwarizm- một nền văn minh cổ x-
a, rực rỡ ở Trung á giờ chỉ còn lại một miền đất hoang vắng. Vua Khwarizm-
Mohammed buộc phải chạy trốn, rồi chết trong tủi nhục tại một hòn đảo nhỏ
trên biển Caspien ( Lý Hải ). Nghệ thuật, những th viện phong phú, nền
nông nghiệp u việt, cung điện và giáo đờng... tất cả sạch không , Mác (
K.Mark ) đã viết nh vậy để nói về cuộc xâm lợc tàn bạo của ngời Mông Cổ ở
Trung á
3
.
Một đạo quân Mông Cổ khác do các tớng Subutai, Jebe chỉ huy tiến
công về hớng Azerbaijan và Georgia. Sau khi chiếm Semakha thuộc
3
Trích theo: Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm - Cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc Nguyên -Mông thế
kỷ XIII
11

Armenia, đội quân viễn chinh vợt dãy Caucasus ( Cáp-ca-dơ ) kéo lên phơng
Bắc, và tràn vào Kharza ( ngày nay thuộc Nga ). Vùng đất này và cả miền
Đông Hắc Hải đang ở trong tình trạng chiến loạn liên miên. Đế quốc Đông
La Mã ( Byzantium ) lâm vào hồi lụi tàn không đủ sức khống chế khu vực và
các cuộc thập tự chinh ( Crusade ) chống lại ngời Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ (
Turkish ) hay Ai Cập ( Egypt ) của ngời Tây Âu làm chiến tranh xảy ra liên
tục. Các nớc trong khu vực suy yếu trầm trọng, mỗi vùng đất đợc cai quản
bởi các lãnh chúa chứ không có một đế chế hùng mạnh thật sự, chỉ có thế lực
của ngời Mameluk ở Ai Cập là khả dĩ có thể ngăn chặn bớc tiến công của
quân xâm lợc Mông Cổ. Năm 1223, lần đầu tiên ở chiến trờng phơng Tây,
quân đội Mông Cổ đụng độ với một lực lợng lớn do các công tớc Kiev và
Nga ( Vladimir, Smolen... ) chỉ huy tập hợp lại bởi lời kêu gọi của thân vơng
công quốc Kiev là Mstislav đệ tam ( Mstislav III of Kiev ). Liên quân Nga-
Kiev gồm 80.000 ngời lập phòng tuyến chặn địch tại bờ sông Kalka ( nằm
trên lãnh thổ nớc Ucraina ngày nay ), nhng ngay trong lúc nguy cấp đó, các
công quốc vẫn bất hoà với nhau và kết quả họ đã phải chịu thất bại thảm hại.
Dòng sông Kalka hung dữ không ngăn nổi vó ngựa của đội quân xâm lăng
thiện chiến, chiến thuyền Nga bị thiêu trụi, binh sỹ chạy thoát không quá một
phần mời, tất cả 6 công tớc đều bị bắt trong đó có cả Mstislav. Quân Mông
Cổ không chỉ dừng lại ở miền Nam nớc Nga mà tiếp tục tiến quân vào lu vực
sông Volga, đây là vùng lãnh thổ các công quốc khá mạnh của ngời Nga nh
Muscovy, Pskov. Tại đây, họ gặp sức chiến đấu mãnh liệt của những ngời
Slav ( Xlavơ ) nh ngời Russian ( Nga ), Volga-Bulgarian, Lituanian ( ngày
nay thuộc lãnh thổ các nớc Belarus, Latvia, Litva ). Bị phục kích và do số l-
ợng quá ít, quân Mông Cổ thất bại không thể tiếp tục tấn công, họ buộc phải
quay về.
12
Mùa thu năm 1225, Thành Cát T Hãn trở về Mông Cổ, sang năm sau
ông ta kéo quân đánh nớc Tây Hạ ( Xi Xia ). Tây Hạ thất thủ nhanh
chóng, kinh đô Ning Xia bị cớp phá và thiêu huỷ. Nhng đó cũng chính là

chiến thắng cuối cùng trong đời Thành Cát T Hãn, tháng 8 năm 1227, ông ta
chết trên đờng viễn chinh ở huyện Thanh Thuỷ ( tỉnh Cam Túc-Trung Quốc
). Cho tới lúc này, lãnh thổ của ngời Mông Cổ đã vô cùng rộng lớn, phía
Đông giáp với bán đảo Triều Tiên, phía Tây trải dài tới tận dãy Caucasus.
Khi Thành Cát T Hãn chết, lãnh thổ của ông ta đợc chia cho các con trai,
những vùng đất ấy tiếng Mông Cổ gọi là Ulus nghĩa là đất phong. Theo
th tịch Trung Quốc: Nguyên triều bí sử, Thành Cát T Hãn đã chỉ định con tr-
ởng Oa Khoát Đài thừa kế ngôi vị Đại Hãn nhng sau khi ông ta qua đời,
quyền lực thực tế rơi vào tay ngời con út là Đà Lôi
4
. Năm 1235, thủ đô của
đế quốc Đại Mông Cổ đợc xây dựng bên bờ sông Orkhon lấy tên là
Karakorum, kỷ nguyên mới của dân tộc Mông Cổ bắt đầu nh thế, thấm đầy
máu, nớc mắt và gió bụi chiến tranh.
2. Các Hãn quốc của ngời Mông Cổ đợc thành lập.
Sau khi Thành Cát T Hãn chết, các cuộc viễn chinh vẫn không ngừng
diễn ra. Nạn nhân đầu tiên là nớc Kim ở Bắc Trung Hoa, lần này ngời Nữ
Chân không thể dùng vàng bạc để đổi lấy hoà bình đợc nữa. Năm 1232, Oa
Khoát Đài và Đà Lôi tấn công vào Hà Nam, liên minh với Nam Tống đánh
Kim. Năm 1234, Thái Châu-thành trì cuối cùng của ngời Kim thất thủ, vua
Kim Ai Tông tự sát ở U Lan Hiên, Kim vong. Đã có nhiều bài học lịch sử
cho ngời Trung Hoa về sự tráo trở của kẻ thù, trớc kia Tống giúp Kim diệt
Liêu sau đó bị Kim bội ớc, nhng họ vẫn không chịu tỉnh ngộ. Lần này cũng
thế, Tống giúp 20.000 quân và 300.000 thạch lơng cho Mông Cổ vây thành
4
Trích theo: Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm - Cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc Nguyên-Mông thế
kỷ XIII
13
Thái Châu mong đợc trả lại các vùng đất của mình nhng khi diệt Kim xong
rồi, quân Thát Đát trở giáo quay sang diệt Tống. Năm 1236, Oa Khoát Đài

xua quân tấn công Giang Nam, cuộc chiến tranh 40 năm xâm lợc Nam Tống
chính thức mở màn. Năm 1260, Hốt Tất Liệt-cháu nội Thành Cát T Hãn lên
ngôi đại Hãn tức vua Nguyên Thế Tổ trong lịch sử Trung Hoa. Năm 1264,
ông ta cho rời đô từ Karakorum về Tây Kinh ( sau đổi tên là Đại Đô ,
ngày nay là thành phố Bắc Kinh ). Năm 1268, quân Mông Cổ vây thành T-
ơng Dơng, quân dân Tơng Dơng kiên cờng cố thủ đợc 5 năm thì bị hạ ( 1273
), thế Tống lúc này rất nguy. Hai năm sau, Mông Cổ dẫn quân theo đờng
Giang Đông tiến xuống miền Nam, thừa tớng Giả Tự Đạo đốc suất 130.000
binh mã và 2500 chiến thuyền cự địch, nhng nhà Tống đã suy yếu lắm rồi ch-
a xáp chiến mà quân đội đã tan vỡ. Quân Mông Thát trái lại, khí thế nh
cuồng phong chiếm hết thành này sang thành khác, cuối cùng kinh đô Lâm
An ( Hàng Châu ) bị uy hiếp. Hai dũng tớng Văn Thiên Tờng và Trơng Thế
Kiệt chiêu mộ nghĩa binh chống giặc, nhng vận Tống đã đến lúc diệt vong
không gì có thể cứu vãn đợc. Năm 1276, Lâm An thất thủ, vua Tống là Cung
Đế bị bắt. Tể tớng Lục Tú Phu tôn Đoan Tông rồi Quảng Vơng lên làm vua,
chạy ra đảo Nhai Sơn ( nay thuộc tỉnh Quảng Đông-Trung Quốc ). Năm
1279, Văn Thiên Tờng bị bắt, quân Mông Cổ tiến đánh Nhai Sơn, Lục Tú
Phu biết không thể chống cự đợc nữa bèn cõng vua Tống nhảy xuống biển
tự sát. Sử sách chép lại rằng, năm ấy có tới 100.000 ngời Hán noi gơng đó
cũng tự trầm chứ không chịu hàng giặc
5
. Đó có lẽ là cuộc tự sát tập thể lớn
nhất trong lịch sử nhân loại. Tuy vua quan nhà Tống nhu nhợc, yếu hèn lúc
nào cũng chỉ muốn cầu hoà, nhng nhân dân lại luôn anh dũng chiến đấu tới
cùng. Suốt từ Đông sang Tây, không có dân tộc nào chống quân Mông Cổ
kiên cờng và quả cảm nh ngời Trung Hoa, vậy nên Tống mất vào tay quân
Thát Đát không phải là một điều đáng hổ thẹn. Will Durant-một sử gia ngời
5
Nguyễn Hiến Lê - Sử trung Quốc - NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội 1997
14

Pháp kể rằng: ở thành Juningfu, ngời Hán đã cố gắng cầm cự với quân
Mông Cổ tới khi tất cả ngời già cả, tàn tật... bị ngời trong thành ăn thịt hết,
còn ngời khoẻ mạnh thì chết sạch vì chiến tranh, họ mới tự nổi lửa đốt
thành, thà chết thiêu trong biển lửa chứ nhất định không chịu rơi vào tay
giặc
6
. Những Lục Tú Phu, Văn Thiên Tờng cùng hàng trăm vạn ngời Hán
quả cảm khác đã viết nên trang sử cuối cùng thật bi thảm mà cũng thật vẻ
vang của nhà Tống. Có những vị nh thế Tống cũng bớt tủi. Vị anh hùng của
nhân dân Trung Hoa, Văn Thiên Tờng khi bị bắt vẫn hiên ngang khẳng khái
đón nhận cái chết, tinh thần xả thân cho tổ quốc của ông đợc cô đúc trong bài
thơ Chính khí ca, tráng liệt nh cầu vồng vắt ngang bầu trời:
Thiên địa hữu chính khí
Tạp nhiên phú lu hình
Hạ tắc vi hà nhạc
Thợng tắc vi nhật tinh
Tạm dịch: Trời đất có chính khí
Lẫn lộn trong các hình
Dới đất là sông núi
Trên trời là nhật tinh
7
Về phía Tây, quân Mông Cổ cũng thu đợc những thắng lợi vang dội
trên khắp các chiến trờng. Một trong những trọng điểm tấn công của họ là
vùng thảo nguyên sông Volga rộng lớn, mà trong đợt viễn chinh năm 1223
Thành Cát T Hãn còn cha chiếm đợc. Mùa xuân năm 1236, một đạo kỵ binh
150.000 ngời ồ ạt kéo về phía Tây.
Chỉ huy đạo quân là thống soái Batu (
Bạt Đô ) con trởng của Jotri,
cháu nội Thành Cát T Hãn, viên lão t-
6

Sđd
7
Trích theo: Nguyễn Hiến Lê - Sử trung Quốc - NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội 1997
15
ớng Subutai làm tiên phong. Tháng 12 năm 1237, Batu tấn công công quốc
Ryazan ( Nga ), đại công tớc Yury Igorevic bị giết. Năm sau, quân Mông Cổ
chiếm đợc hai công quốc Vladimir và Muscoy, đại công tớc Yury II bị hạ sát,
các thành phố Moscow ( Mát-xơ-cơ-va ) Suzdal, Kolomna bị thiêu trụi. Tiếp
sau đó một loạt 14 thị trấn Nga nh Rostov, Yaroslav, Dmiterov... bị quân
Tartar ( Tartar là tên gọi một bộ lạc Mông Cổ nhng sử sách phơng Tây
dùng từ này để chỉ tất cả những ngời Mông Cổ nói chung ) giày xéo. Tháng
3 năm 1238, Batu định tiến quân về hớng Nogvorod - công quốc mạnh nhất
của ngời Nga dới sự trị vì của Đại Thân Vơng
Hình 3: Tợng Alexander Nevsky tại thành phố St.Peterburg ( LB Nga ) ngày nay.
Alexander Nevsky ( 1219-1263 ), nhng họ đã gặp phải sự chiến đấu ngoan
cờng của ngời Nga nên buộc phải rút lui. Năm 1239, Batu đổi hớng tấn công
xuống phía Tây Nam vào Crimea và Mordovia. Các thành phố Pereyaslav rồi
Chernigov lần lợt bị tàn phá. Năm 1240, quân Mông Cổ tấn công thành Kiev,
cha bao giờ ngời châu Âu phải đơng đầu với một đội quân khổng lồ nh thế,
thân vơng Mikhain sợ hãi bỏ trốn sang Hungary, bá tớc Dmitri đứng ra tổ
chức giữ thành. Sử sách nớc Nga chép lại rằng: quân Mông Cổ bao vây
dày đặc xung quanh thành Kiev, tiếng các cỗ xe, tiếng bò rống, ngựa kêu,
tiếng những ngời dã man gào thét... lớn tới mức trong thành ngời ta không
nghe đợc gì lời nói chuyện của nhau ngoài những tiếng ầm ầm khủng khiếp

8
. Ngày 6-12-1240, thành phố Kiev bị chiếm, vô số binh sỹ và thờng dân bị
tàn sát, hàng nghìn ngời bị bắt làm nô lệ. Một cánh quân Mông Cổ khác do
Baidar chỉ huy tiến vào Balan, ngày 9-4-1241 họ đánh tan 30.000 liên quân
Đức ( Holy Roman Emperor ) - Balan do Đại công tớc Henrich II chỉ huy tại

Wahlsalt-Balan. Sau đó, cánh quân này hợp với đại quân của Batu tiến đánh
Hungary. Tháng 7 năm đó thủ đô Budapest của Hungary thất thủ, bọn xâm l-
8
Trích theo: Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm - Cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc Nguyên-Mông thế
kỷ XIII
16
ợc tàn bạo chặt đầu phụ nữ và nớng ngời trên lửa để tra khảo tìm chỗ giấu của
cải. Biên niên sử châu Âu ghi lại rằng, sau 1 năm quân Tartar ở Hungary dân
số nớc này chỉ còn lại hơn một nửa, các thành thị gần nh bị xoá sổ, đây đó
chỉ lác đác những làng mạc nghèo khổ, đói rách. Quân Mông Cổ tiếp tục truy
kích ông vua mới 6 tuổi của Hungary là Bela Đệ Tứ ( Béla IVof Hungary
1235-1270 ) tới tận bờ biển Serbia. Cả châu Âu chấn động, Giáo Hoàng
Gregoa IX hoảng hốt kêu gọi thành lập các đoàn quân Thập Tự Chinh chống
lại ngời Mông Cổ, ở nhiều nơi các bài cầu kinh xin chúa cứu vớt khỏi cơn
thịnh nộ Tartar cũng xuất hiện. Tuy nhiên sức chiến đấu của nhân dân các n-
ớc Nga, Balan, Hungary, Bulgary... đã làm quân Mông Cổ suy yếu đi nhiều
không thể tiếp tục tấn công đợc nữa. Thậm chí mùa xuân năm 1242, Batu đã
phải rút khỏi lãnh thổ Balan và Hungary. Tuy nhiên với công quốc Kiev,
vùng thảo nguyên sông Volga và đất Kharza ( miền cực Nam của nớc Nga
ngày nay, nằm ở bờ Đông Bắc biển Đen ) mới chiếm đợc, đất phong Ulus
của gia tộc Jotri đã trở nên vô cùng rộng lớn lập thành một Hãn quốc mới gọi
là Hãn Kim Trớng ( phơng Tây gọi là Golden Horde ) hoặc còn có tên gọi
khác là Khâm Sát Hãn Quốc ( Kipchak Khan Ulus ). Hãn quốc
mới đóng đô ở thành Surai bên bờ sông Volga, gần địa điểm thành phố
Volgograd ngày nay. Trong suốt lịch sử của mình Khâm Sát Hãn Quốc đã
tồn tại hoàn toàn độc lập so với Đại Hãn ở Mông Cổ.
Năm 1241, Oa Khoát Đài và Sát Hợp Đài cùng qua đời, tình hình
Mông Cổ trở nên vô cùng phức tạp, ngôi vị Đại Hãn bỏ trống trong 5 năm, vợ
của Oa Khoát Đài là Toregene phải đứng ra nhiếp chính. Đại hội Kuriltai
năm 1246 cử Guyuk ( Quý Do ) con trởng của Oa Khoát Đài lên ngôi

Đại Hãn, nhng Bạt Đô ra mặt chống đối không chịu tuyên thệ trung thành.
Năm 1248, trong khi cha kịp đem quân hỏi tội Bạt Đô, Quý Do đột nhiên lâm
trọng bệnh qua đời. Gia tộc Jotri và gia tộc Tolui liên kết cử Mongke ( Mông
17
Kha ) con trởng của Tolui lên làm Đại Hãn. Mông Kha đem quân đánh
dẹp lãnh địa của gia tộc Oa Khoát Đài và Sát Hợp Đài-những kẻ đã chống đối
mình khiến cho hai vơng thất này suy yếu, lãnh địa Ulus ở Trung á không
còn rộng lớn nh trớc nữa. Trên vùng lãnh thổ cũ của vơng quốc Khwarizm và
miền cao nguyên Tây Tạng họ thành lập thêm một Hãn quốc nhỏ gọi là Sát
Hợp Đài Hãn Quốc ( ).
Mông Kha đã giành ngôi đại Hãn và cai quản những miền đất rộng
mênh mông nhng ông ta vẫn cha thoả mãn. Các kế hoạch xâm lợc mới lại
tiếp tục đợc vạch ra. Mục tiêu tiếp theo là vùng cao nguyên Iran. Năm 1253,
Mông Kha cử em là Hulegu ( Húc Liệt Ngột ) tấn công Ba T. Đất n-
ớc này trớc đây cũng từng bị các tớng Mông Cổ Baiju và Eljigidai xâm lợc
nhiều lần từ đợt viễn chinh năm 1231. Ngày 2-1-1256, Hulegu vợt sông
Amu-daria, tấn công Ixmail-miền đất cuối cùng của ngời Ba T còn độc lập.
Sau khi tiêu diệt Ixmail, Hulegu dẫn đại quân tiến về vùng Lỡng Hà lúc đó
thuộc lãnh thổ của Khaliph ( vua Hồi giáo ) al-Mustasim. Nhng bản thân
ông ta và cận thần đều là những kẻ bất tài, hèn nhát khiến Hulegu dễ dàng
chiếm đợc kinh đô Baghdad. Ngày 15-2-1258, quân Mông Cổ tiến vào thành
Baghdad nổi tiếng, cớp bóc của cải, đốt phá cung điện, đền thờ và tàn sát c
dân. Hulegu ra lệnh bỏ al-Mustasim vào một cái túi rồi cho ngựa xéo chết.
Thế tấn công vũ bão của Hulegu cuối cùng bị chặn lại ở Syria, thủ lĩnh ngời
Mameluk ở Ai Cập là Saif ad-din Khutuz đã đánh bại quân Mông Cổ dới sự
chỉ huy của tớng Kitbukha trong trận Ain-jalut lịch sử ( ngày 3-10-1260 ).
18
Hình4: Lợc đồ lãnh thổ Y Lợi Hãn Quốc ( Il Khan Empire ) năm 1294
Nếu nh vì không thể thôn tính Đại Việt, Hốt Tất Liệt đành từ bỏ dã tâm xâm
lợc vùng Đông Nam á, thì chiến thắng này của ngời Ai Cập cũng đã làm

Hulegu không thể tiếp tục xâm chiếm các quốc gia Hồi giáo ở Bắc Phi.
Hulegu sau đó quay về Iran, sát nhập thêm các nớc ở miền Caucasus nh
Azerbaijan, Goregia, Armenia vào bản đồ quốc gia của mình, cùng với miền
Lỡng Hà trù phú hợp thành một Hãn quốc mới có tên là Y Lợi Hãn Quốc ( Il
19
Khan Ulus ). Hãn quốc này thực tế cũng đã thoát ly khỏi chính
quy ền trung ơng của Đại Hãn Mông Cổ.
Hình 5: Bốn Hãn quốc và những con đờng tiến công của ngời Mông Cổ
Cho tới giữa thế kỷ XIII, hầu hết lục địa châu á rộng lớn và một phần
Đông Âu đã trở thành thuộc địa của ngời Mông Cổ, bờ cõi của đế quốc trải
dài từ miền viễn Đông xa xôi tới tận bờ Địa Trung Hải. Lịch sử loài ngời cha
từng chứng kiến một đế quốc hùng mạnh và hung bạo đến thế. Sử sách còn
nói rằng, ngời Mông Cổ là một dân tộc dã man sống bên cạnh những dân tộc
văn minh. Ngời dã man trọng võ bị nên thôn tính đợc những quốc gia văn
minh bằng bạo lực, nhng trong thời bình họ lại bị thứ văn hoá đặc sắc, sống
động của những dân tộc ấy chinh phục lại. Ngời Mông Cổ xây dựng đế quốc
của mình khi trong tay chẳng có gì ngoài những chiến thuật quân sự. Họ càng
không biết gì về tổ chức nhà nớc, nhà Nguyên cái gì cũng phải học của ngời
Trung Hoa. Từ chế độ chính trị, tổ chức chính quyền... tới thuế khoá, từ lễ
nghi triều đình, tên hiệu của vua... tới việc cúng tế trời đất, thờ cúng tổ tiên,
nhất nhất họ đều học theo Nho giáo của ngời Trung Hoa. ấy thế nhng Hốt
Tất Liệt lại luôn miệt thị Nho học, xếp nhà nho vào hạng cùng đinh chỉ đứng
trên ăn mày. Xem ra Hốt Tất Liệt quả thực chẳng có chủ trơng gì cả, sự thật
trong mắt ông ta dân Trung Hoa chỉ là một bầy nô lệ để bóc lột chứ thâm tâm
ông ta không hề coi họ là những thần dân của mình. ở các Hãn quốc khác,
tình trạng có đỡ bi đát hơn vì quân Mông Cổ chỉ kỳ thị mỗi ngời Trung Hoa
mà thôi, nhng cũng không tốt hơn là mấy. Mông Cổ buộc phải sử dụng ngời
nớc ngoài để làm việc trong bộ máy chính quyền, tạo nên tình trạng cai trị
siêu quốc giới, tới mức Marco Polo một thơng nhân Italia cũng làm quan cho
nhà Nguyên đợc. Làm nh thế có lợi cho sự thống trị của quân Mông Cổ nhng

lại có hại cho dân bị trị tức là cho đế quốc của họ. Sự lúng túng trong quản lý
20
nhà nớc, bất công, tàn ác trong cai trị làm nhân dân thuộc địa nổi dậy khắp
nơi, các Hãn quốc lúc nào cũng ở trong tình trạng hỗn loạn. Ngời Mông Cổ
cũng không có văn tự, chiếm đợc Tây Tạng, họ mợn chữ của ngời Duy Ngô
Nhĩ, chiếm đợc Trung Hoa, họ học chữ Hán, qua Tây á lại dùng chữ ả rập,
nhà s Lạt Ma Tây Tạng là Bát Tu Ba cố sáng tạo cho họ một loại chữ riêng
nhng thất bại. Tóm lại ngời Mông Cổ vẫn chẳng có văn tự thống nhất, mỗi
nơi, mỗi lúc một loại. Sắc lệnh nhà nớc ban ra, điều luật, thuế khoá... không
biết phải làm thế nào, tất cả đều truyền khẩu, mỗi ngời hiểu một kiểu. Hiển
nhiên nh vậy thì việc cai trị trở nên thật khó khăn, quốc gia vô cùng rối loạn.
Lại nữa, ngời Mông Cổ, cũng chẳng có tín ngỡng, họ chẳng biết lấy cái gì để
đoàn kết các dân tộc bị mình thống trị. Họ học theo tất cả tôn giáo của các
dân tộc xung quanh, nhiều nhất là theo Phật giáo Lạt Ma, thứ đến là Hồi
giáo, cũng có ngời theo Kitô giáo nhng tuyệt nhiên họ chừa lại Phật giáo Đại
Thừa Trung Hoa, có lẽ thứ đó cao siêu quá đối với họ. Chính vì thế, cho dù
ngời Mông Cổ ở đâu họ cũng bị đồng hoá với c dân nơi ấy. Điển hình nh ng-
ời Mông Cổ ở Trung á tất cả đều bị Tuốc hoá và cải theo đạo Hồi, đến nỗi
ngời ta chẳng thể phân biệt nổi đâu là ngời Tuốc đâu là ngời Tartar. Hốt Tất
Liệt cũng nhìn trớc đợc điều này, ông cấm ngời Mông Cổ không đợc Hán
hóa, nhng cấm sao đợc. Thứ văn hoá của những kẻ bị nô dịch rực rỡ và hấp
dẫn quá, dân Mông Cổ làm sao mà không thích cho đợc. Thế hệ đầu họ còn
giữ đợc bản chất vũ dũng, chứ sang những đời sau sinh trởng ở Trung Hoa,
thích ở lâu đài hơn lều trại, thích ăn nem, ăn chả hơn ăn thịt ngựa, uống sữa
dê... thành ra họ trở nên yếu đuối nhu nhợc, sợ khó, sợ khổ. Vậy nên nhà
Nguyên làm chủ Trung Hoa cha đầy 90 năm đã bị đuổi về đồng cỏ. Các Hãn
quốc kia cũng chẳng hơn gì, chỉ giữ đợc thuộc địa chừng trăm năm. Riêng
Khâm Sát hãn Quốc ở miền thảo nguyên hoang vu mới tồn tại đợc trong hơn
hai thế kỷ rồi mới bị Nga diệt.
21

Để hiểu thêm về sự tàn bạo và bất lực trong chính sách cai trị ở các
Hãn quốc, theo dõi bảng số liệu sự thay đổi dân số các quốc gia thế kỷ
XIII ( đơn vị triệu ngời ). Các quốc gia dới sự thống trị của quân Mông Cổ
( in chữ xanh ) dân số đều giảm mạnh trừ lãnh thổ của ngời Tuốc và vùng
Bắc Trung Hoa-những nơi đợc họ u đãi.
Quốc gia Năm 1200 Năm 1300 Thayđổi
Trung Hoa ( Tống )
115 86 -25,2%
Triều Tiên 4 3 -25%
Bắc Trung Hoa ( Mãn Châu )
4,78 4,8 +1,1%
Đông Turkestan 2 2,3 +10,5%
Iran 5 3,5 -30%
Khwarizm 2,5 1,75 -30%
Iraq 1,5 1 -33%
Châu âu
58 79 +36,2%
Nói thế không phải là đế quốc Mông-Nguyên chẳng đóng góp đợc gì
cho lịch sử nhân loại. Dù là vô tình nhng chính nhờ ngời Mông Cổ mở rộng
cơng thổ của mình mà văn hoá Đông-Tây đợc dịp giao lu dễ dàng. Cha bao
giờ việc đi lại từ Trung Quốc tới châu Âu lại yên ổn nh vậy, con đờng tơ lụa
cũng không còn bị ngời ả Rập chặn cớp nữa, vì thế thơng nhân hai bên thông
thơng buôn bán qua lại rất tấp nập. Ai cũng thừa nhận rằng trong thời kỳ này
ngời châu Âu đã học đợc nhiều cái lợi từ phơng Đông. Đó là cách chế tạo hoả
dợc, la bàn, nghề in, cách dùng giấy bạc, những phát minh y học... trớ trêu
thay chính những thứ đó lại giúp đỡ đắc lực cho ngời phơng Tây trong công
cuộc chinh phục phơng Đông thời kỳ thực dân sau này. Nhng nói đi cũng
phải nói lại, ngời Trung Hoa không chỉ truyền bá văn hoá của mình mà họ
cũng thu về đợc nhiều cái lợi nhờ giao lu với các quốc gia bên ngoài. Họ đã
học đợc cách làm đồ sứ Thất Bảo, cách nấu rợu, cách dệt thảm... từ ngời ả

22
Rập, các môn vẽ bản đồ, thiên văn học... từ ngời phơng Tây. Thế nên sử gia
Pháp Lombard gọi Trung Hoa thời Nguyên là cái lò văn hóa ( crenset
culturel ), còn ngời đồng nghiệp của ông-Simon Leys thì cho rằng nếu hai
triều đại Minh, Thanh tiếp theo biết noi gơng khai quan, mở cửa nh thời
nhà Nguyên thì Trung Quốc hẳn đã tiến bộ chẳng thua gì phơng Tây
9
. Ngời
Mông Cổ vốn rất ít, hầu hết họ lại sinh sống ở miền đồng cỏ quê hơng. Ngay
ở lãnh thổ nhà Nguyên, ngời Mông Cổ tính luôn cả các tộc du mục phơng
Bắc nh Khiết Đan, Nữ Chân, Duy Ngô Nhĩ... những ngời anh em của họ,
cũng cha tới 1 triệu, thực tế họ không cần xâm chiếm đất khác vì nhu cầu mu
sinh. Vậy mà Hốt Tất Liệt vẫn cha thoả mãn, ông ta lại tiếp tục vạch ra các
kế hoạch viễn chinh mới ở những miền rừng núi và hải đảo xa xôi. Thật trớ
trêu cho những tham vọng đó, khi các đế chế hùng mạnh từ Đông sang Tây,
đều lần lợt khuất phục dới vó ngựa xâm lăng của những đoàn kỵ binh Mông
Cổ, thì vài dân tộc nhỏ bé miền viễn Đông nh Đại Việt, Champa hay đảo
quốc Nhật Bản lại hiên ngang chống chọi tới cùng và chiến thắng lũ cớp nớc
hung bạo.
9
Trích theo: Nguyễn Hiến Lê - Sử trung Quốc - NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội 1997
23
H×nh 6: B¶n ®å ®Þa lý NhËt B¶n
Ch¬ng II
24
Nhật Bản hai lần kháng chiến
chống quân xâm lợc Mông-Nguyên
I. Bối cảnh lịch sử Nhật Bản những năm trớc chiến tranh.
1. Mạc phủ Kamakura.
Những năm cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII đợc nhắc đến trong lịch

sử Nhật Bản nh một thời kỳ đầy dãy biến động với những cuộc chiến tranh
khốc liệt, những cải cách mạnh mẽ và sự ra đời của một thể chế quân sự tập
quyền vững mạnh. Năm 1189, sau nhiều năm dài nội chiến, Minamoto
Yoritomo ( 1147 - 1199 ) bằng chiến thắng trớc phái quân sự đối
nghịch của dòng họ Taira ( ) đã lập nên chính quyền Mạc Phủ
Kamakura. Đây là một chính quyền phong kiến thống nhất trên toàn quốc,
đặt dới quyền lực chỉ huy của các thủ lĩnh quân sự mà cơ quan đại diện là
Mạc Phủ ( Bakufu ) đóng tại thành phố Kamakura( ). Lần đầu
tiên trong lịch sử nhiều thế kỷ, Nhật Bản có một nhà nớc pháp quyền mạnh
và ổn định nh thế. Điều này là một khác biệt hoàn toàn so với các thời kỳ trớc
nh thời đại Nara ( ) hay Heiyan ( ), nơi hoàng gia và các dòng
họ đại quý tộc có vai trò chính yếu đối với nền chính trị quốc gia. Thời kỳ
Kamakura, ngời đại diện cho tầng lớp thống trị không còn là giới quý tộc dân
sự mà thay vào đó là các dòng họ quân phiệt với thủ lĩnh tối cao là Yoritomo
của họ Minamoto ( ). Phái quân sự lên nắm chính quyền, theo đó họ
thiết lập một hệ thống quản lý nhà nớc từ trung ơng tới các địa phơng với hai
25

×