1
Giám sát tài chính doanh nghiệp bảo hiểm
trong ñiều kiện hội nhập
Ths. ðỗ Quang Cương
Bo Vit Vit nam
Ths.Võ Thị Pha
Hc vin Tài chính
“…Toàn cầu hóa tạo ra cơ hội kinh doanh, mở ra những thị trường mới, mang lại hiệu
quả, giảm chi phí vốn và có thể cho phép các công ty quản lý tốt mở rộng dịch vụ, tạo ra
giá trị lớn hơn cho các cổ ñông. Tuy nhiên, những ñộng lực này cũng thúc ñẩy các công
ty tài chính phát triển ra các nơi xa xôi, hẻo lánh, khiến cho việc quản lý tập ñoàn và
quản lý rủi ro thêm thách thức.
Cùng lúc ñó, những ñộng lực này xóa mờ ranh giới giữa các khu vực kinh doanh khác
nhau và các rủi ro có phần liên quan với nhau. Chính những thách thức này khiến việc
quản lý trong phạm vi quốc gia và toàn cầu thêm khó khăn phức tạp…
…Tôi cũng muốn cám ơn Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế (IAIS)* về thành tựu
ñã ñạt ñược trong những năm qua ñã thúc ñẩy các chuẩn mực bảo hiểm quốc tế và trao
ñổi thông tin…Các nhà quản lý cần phải tiếp tục hợp tác theo hướng này vì hoạt ñộng
bảo hiểm ngày càng mở rộng ra quốc tế và tập ñoàn quốc tế ñược thành lập. Vì sự hình
thành và hoạt ñộng của các tập ñoàn lớn, các nhà quản lý cần phải có một cái nhìn toàn
cảnh về những rủi ro mà công ty bảo hiểm hay tái bảo hiểm gặp phải. Nhà quản lý cần
phải trao ñổi và so sánh hệ thống luật pháp giữa các quốc gia như ñể nhận biết nguyên
tắc thực hành tốt nhất và tránh những quy ñịnh chồng chéo. ðiều quan trọng là giúp cho
nhà quản lý hiểu và ñánh giá những thay ñổi chính trong luật và quy ñịnh của các quốc
gia khác và ảnh hưởng quốc tế của sự thay ñổi ấy..”
Trích dẫn một vài ý trong bài phát biểu của vị Phó chủ tịch Hội ñồng dự trữ liên
bang, Roger W.Ferguson, tại hội nghị chuyên ñề của NAIC (Nationnal Asociation
of Insurance Commissioners), tháng 2/2006 trên ñây ñề cập ñến một khía cạnh
trong xu hướng toàn cầu hóa hệ thống pháp luật quản lý các doanh nghiệp bảo
hiểm trên thế giới hiện nay. ðó là sự hình thành các nguyên tắc, chuẩn mực chung
cho xu hướng xích lại gần nhau của hệ thống pháp luật của các quốc gia.
ðối với vấn ñề quản lý, giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm, IAIS (ñược thành lập
năm 1994, bao gồm 190 thể chế quản lý bảo hiểm của gần 140 quốc - gia chiếm tới
97% doanh thu phí bảo hiểm toàn cầu) ñã ñưa ra các nguyên tắc, chuẩn mực và
2
hng dn ca IAIS, gúp phn ủm bo tớnh hiu qu v thng nht trong qun lý
v giỏm sỏt th trng bo him trờn phm vi th gii.
Trong s cỏc nguyờn tc, chun mc v hng dn m IAIS ủa ra, cú nhiu ni
dung xoay quanh vn ủ qun lý, giỏm sỏt ti chớnh ủi vi doanh nghip bo him
nh: ICP 20: Cụng n; ICP 21: u t; ICP 22: Cỏc cụng c phỏi sinh v nhng
cam kt tng t; ICP 23:Vn ủy ủ v kh nng thanh toỏn ú l cỏc yờu cu
cn trng ht sc cn thit trong qun lý v giỏm sỏt ti chớnh doanh nghip bo
him vỡ kinh doanh bo him vn hm cha nhiu ri ro trc tip v giỏn tip nh
hng ủn tỡnh hỡnh ti chớnh, kh nng thanh toỏn ca doanh nghip bo him.
Cỏc loi ri ro nh: rủi ro v tài sản (asset- related risk: liên quan đến sự giảm
giá trị và độ thanh khoản của tài sản đầu t, đợc định lợng theo sự xếp hạng
tín nhiệm của tng loi tài sản đầu t nh là trái phiếu, cổ phiếu, bất động
sản,...); rủi ro tín dụng (credit risk: khả năng đổ bể trong việc thực hiện các
cam kết của các bên, thờng liên quan đến các khoản phải thu bo him gc,
phi thu t quan hệ tái bảo hiểm); rủi ro trong chấp nhận bảo hiểm
(underwiting risk: liờn quan ủn cỏc trng hp chp nhn ri ro xu dn ủn chi
phớ bi thng cao,...); rủi ro về dự phòng (resserve risk: liờn quan ủn vic ỏp
dng phng phỏp trớch lp d phũng khụng hp lý, d phũng thp dn ủn kh
nng khụng thc hin cỏc trỏch nhim phỏt sinh t cỏc hp ủng bo him) và các
rủi ro trong hoạt động kinh doanh khác luụn tim n kh nng chi phi tỡnh
hỡnh ti chớnh ca bt k mt doanh nghip bo him no, cho dự cỏc nc ủó
phỏt trin hoc ủang phỏt trin. ng trờn mt gúc ủ nht ủnh, tỏc ủng ca cỏc
ri ro ủú ủi vi s lnh mnh v ti chớnh ca cỏc doanh nghip bo him cú
chiu hng gia tng trong ủiu kin hi nhp quc t.
i vi th trng bo him Vit nam, vn ủ qun lý giỏm sỏt ti chớnh cỏc doanh
nghip bo him l mt thỏch thc rt ln khụng ch bi ủc thự ri ro trong hot
3
ñộng kinh doanh của mọi doanh nghiệp bảo hiểm nói trên mà còn vì sự non trẻ của
phần lớn các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như cả hệ thống bảo hiểm trên mặt bằng
sân chơi quốc tế, vì việc phát triển các dịch vụ tài chính mới rất phức tạp như: bảo
hiểm nhân thọ liên kết ñầu tư, các giao dịch tài chính phái sinh…; vì sự hình thành
các dạng tập ñoàn tài chính - bảo hiểm với cấu trúc tài chính phức tạp hơn và hàng
loạt những yếu tố khác.
Thực tế, trong thời gian vừa qua, quản lý, giám sát tài chính ñối với doanh nghiệp
bảo hiểm cũng ñang từng bước hoàn thiện khung pháp lý cho việc quản lý, giám
sát thông qua việc ban hành, sửa ñổi các quy phạm pháp luật như:
Hệ thống chỉ
tiêu giám sát tài chính ñối với doanh nghiệp bảo hiểm (ban hành kèm theo Quyết
ñịnh số 153/Qð-BTC ngày 22/09/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính); Chuẩn mực
kế toán số 19: Hợp ñồng bảo hiểm (ban hành theo Quyết ñịnh số 100/Qð-BTC
ngày 28/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính); Nghị ñịnh số 46/2007/N ð – CP
quy ñịnh chế ñộ tài chính ñối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới
bảo hiểm và thông tư hướng dẫn số 156/2007/ TT- BTC …Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều vấn ñề ñang ñặt ra cho mục tiêu ñảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả giám sát.
Trước hết, hãy nhìn nhận lại hệ thống chỉ tiêu giám sát tài chính doanh nghiệp qua
các chỉ tiêu cụ thể và khả năng áp dụng. Cần khẳng ñịnh: hiệu quả giám sát phụ
thuộc vào tính hợp lý của các chỉ tiêu sử dụng, tiêu chuẩn so sánh, ñối chiếu và
chất lượng thông tin (dữ liệu ñầu vào của việc tính toán, phân tích các chỉ tiêu ñánh
giá tài chính doanh nghiệp). Vấn ñề này liên quan tới ñộ chuẩn mực và thống nhất
trong lập, trình bày hệ thống báo cáo tài chính và tài liệu kế toán/ tài chính khác
của các doanh nghiệp bảo hiểm
.
Hiệu quả giám sát tài chính sẽ là không như mong
muốn nếu chỉ tiêu không phù hợp hoặc sự không tương thích giữa cách tính chuẩn
so sánh và chỉ tiêu sử dụng do sự không tương thích về chế ñộ kế toán, cấu trúc hệ
thống báo cáo tài chính… và cả các yếu tố chủ quan như trình ñộ, kinh nghiệm của
4
nhân viên tài chính/ kế toán của doanh nghiệp bảo hiểm, kiểm toán viên khiến chất
lượng thông tin không ñủ ñộ tin cậy.
Chế ñộ kế toán áp dụng ñối với các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay
còn khá sơ khai và thiếu sự nhất quán. Các nội dung chính của Chế ñộ kế toán
doanh nghiệp bảo hiểm ñược quy ñịnh tại Quyết ñịnh số 1296/1996/Qð-BTC và
Quyết ñịnh 150/2001/Qð-BTC sửa ñổi Quyết ñịnh 1296. Từ năm 2002 ñến nay,
chế ñộ kế toán Việt Nam ñã có nhiều thay ñổi, ñặc biệt là việc áp dụng các chuẩn
mực kế toán dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế. ðối với Chế ñộ kế toán cho
doanh nghiệp bảo hiểm, chuẩn mực kế toán số 19- Hợp ñồng bảo hiểm dựa trên
Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế số 4 ñã ñược ban hành và có hiệu lực nhưng
chưa có hướng dẫn và hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm không áp dụng.
Có một số ñiểm trong thông lệ kế toán Việt Nam chưa phù hợp với chuẩn mực kế
toán quốc tế, rất ñáng chú ý như:
♦
Vấn ñề trích lập và trình bày
Dự phòng dao ñộng lớn. Chuẩn mực kế toán số 19
không cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm trích lập dự phòng dao ñộng lớn
nhưng quy ñịnh quản lý tài chính ñối với doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt nam lại
yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập dự phòng dao ñộng lớn.
♦
Không trình bày phần thuộc trách nhiệm doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm về dự
phòng phí và dự phòng bồi thường. Vấn ñề này còn liên quan ñến quy ñịnh trong
Nghị ñịnh số 46:
“Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ phải trích lập
dự phòng nghiệp vụ theo từng nghiệp vụ bảo hiểm ñối với phần trách nhiệm giữ lại
của doanh nghiệp”.
Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp bảo hiểm là người chịu
trách nhiệm toàn bộ cam kết của hợp ñồng bảo hiểm gốc trước khách hàng. Như
vậy, rủi ro phá sản của doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm hoặc không thu hồi ñược từ
doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm quá phụ
5
thuộc vào tái bảo hiểm sẽ khiến cho doanh nghiệp bảo hiểm có thể rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán.
♦
Ghi nhận các khoản ñầu tư tài chính theo giá gốc trong khi các chuẩn mực kế
toán cũng như quy ñịnh quản lý của quốc tế ñều yêu cầu các tài sản từ dự phòng
nghiệp vụ ñược ghi nhận, trình bày theo giá trị hợp lý.
Hơn nữa, theo Báo cáo cho Hợp phần 4 - ETV2, Chương trình Hỗ trợ Kỹ thuật
Châu Âu cho Việt Nam còn nhiều tồn tại trong lập, kiểm toán báo cáo tài chính
của các doanh nghiệp bảo hiểm như:
♦
Thiếu tính thống nhất: mỗi doanh nghiệp bảo hiểm trình bày báo cáo tài chính
theo cách khác nhau. Các doanh nghiệp bảo hiểm trình bày Báo cáo kết quả hoạt
ñộng kinh doanh theo quy ñịnh tại Quyết ñịnh số 150/2001/Qð-BTC về Chế ñộ kế
toán doanh nghiệp bảo hiểm nhưng các chỉ tiêu trình bày vẫn khác nhau. ðối với
Bảng cân ñối kế toán và Báo cáo lưu chuyển tiền, một số trình bày theo Chế ñộ kế
toán doanh nghiệp mới theo Quyết ñịnh số 15/2006/Qð-BTC, lại có doanh nghiệp
bảo hiểm trình bày theo Quyết ñịnh 150. Việc trình bày các khoản mục khác nhau
khiến cho việc tính toán, so sánh các chỉ tiêu trên Báo cáo rất khó khăn, thậm chí
không thực hiện ñược.
♦
Ý kiến kiểm toán viên: kiểm toán viên thiếu kinh nghiệm và năng lực hoặc thiếu
kiến thức chuyên môn về bảo hiểm có thể không phát hiện ra những sai sót hoặc
không ñưa ra ý kiến ñầy ñủ về việc tuân thủ chế ñộ tài chính, kế toán. Trình ñộ của
kiểm toán viên khác nhau dẫn ñến ý kiến của kiểm toán viên về cùng một vấn ñề
của báo cáo tài chính là khác nhau. Chẳng hạn, cùng là việc ghi nhận các giao dịch
liên quan ñến tái bảo hiểm cố ñịnh dựa trên các bản xác nhận thanh toán nhưng ñối
với doanh nghiệp bảo hiểm này thì kiểm toán viên ñưa ra ý kiến ngoại trừ nhưng
doanh nghiệp bảo hiểm khác thì không bị ñưa ra ý kiến ngoại trừ.