BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TRẦN THỊ THÙY DƯƠNG
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN VIỆC BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TẠI MỘT SỐ DỰ ÁN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIẾN THỤY,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI, NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TRẦN THỊ THÙY DƯƠNG
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN VIỆC BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TẠI MỘT SỐ DỰ ÁN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIẾN THỤY,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ : 60.85.01.03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. CAO VIỆT HÀ
HÀ NỘI, NĂM 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ luận văn nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Trần Thị Thùy Dương
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Cao Việt Hà,
người đã chỉ bảo và hướng dẫn tôi tận tình trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài
và hoàn thành luận văn này.
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã
nhận được sự tạo điều kiện, giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo của Khoa
Quản lý đất đai – Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Ủy ban nhân dân thành phố
Hải Phòng, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hải Phòng, Uỷ ban nhân dân
huyện Kiến Thuỵ, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Kiến Thụy, phòng
Thống kê huyện Kiến Thụy, các đơn vị và cá nhân có liên quan trên địa bàn
thành phố Hải Phòng. Tôi xin trân trọng cảm ơn các giúp đỡ quý báu và chân
tình của các cơ quan đơn vị và các cá nhân đã giúp đỡ tôi hoàn thành công trình
nghiên cứu này.
Tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp và phản hồi đối với nội dung
nghiên cứu của công trình này.
Ngày 29 tháng10 năm 2014
Tác giả luận văn
Trần Thị Thùy Dương
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng vi
Danh mục hình vii
Danh mục viết tắt viii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Yêu cầu của đề tài 2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Cơ sở lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư 3
1.1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư 3
1.1.2 Một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến công tác bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất 4
1.1.3. Nguyên tắc chung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất 6
1.1.4. Những nội dung cơ bản của chính sách bồi thường hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. 9
1.1.5. Trình tự, thủ tục các bước thực hiện công tác bồi thường hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. 10
1.2. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, của một số nước
ở Châu Á và vùng lãnh thổ 11
1.2.1. Tại Trung Quốc 11
1.2.2. Tại Thái Lan 12
1.2.3. Tại Hàn Quốc 13
1.2.4. Chính sách về tái định cư bắt buộc của Ngân hàng Thế giới 15
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv
1.3. Khái quát công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Việt Nam 16
1.3.1. Cơ sở pháp lý về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất 16
1.3.2. Công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên toàn quốc 18
1.3.3. Khái quát công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa
bàn thành phố Hải Phòng 23
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
2.1. Đối tượng nghiên cứu 28
2.2. Phạm vi nghiên cứu 28
2.3. Nội dung nghiên cứu 28
2.4. Phương pháp nghiên cứu. 29
2.4.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 29
2.4.2 Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp 29
2.4.3 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: 29
2.4.4. Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, xử lý số liệu điều tra 30
2.4.5. Phương pháp so sánh 30
2.4.6. Phương pháp minh họa 30
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 31
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Kiến Thụy,
thành phố Hải Phòng. 31
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 31
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội. 33
3.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và
môi trường. 37
3.1.4. Tình hình quản lý sử dụng đất trên địa bàn huyện. 40
3.2. Thực trạng công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa
bàn huyện Kiến Thụy 44
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v
3.3. Đánh giá công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của hai dự
án điểm tại huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng 49
3.3.1. Giới thiệu khái quát về hai dự án điểm 49
3.3.2 Tình hình thực hiện hai dự án 53
3.4. Giải pháp 79
3.4.1. Các tồn tại khi thực hiện hai dự án 79
3.4.2. Giải pháp giải quyết từng tồn tại 87
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 94
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi
DANH MỤC BẢNG
STT Nội dung Trang
Bảng 1.1. Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ở một số địa phươngtrên cả nước 20
Bảng 3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (theo GDP) 35
Bảng 3.2. Hiện trạng sử dụng đất huyện Kiến Thụy năm 2013 43
Bảng 3.3. Các dự án thu hồi đất tại huyện Kiến Thụy trong giai đoạn 2008 - 2013 47
Bảng 3.4. Tổng quan dự án chợ dân sinh xã Đại Hà 51
Bảng 3.5. Tổng quan dự án trường dân lập Hải Phòng 52
Bảng 3.6. Tổng hợp kết quả bồi thường hai dự án 54
Bảng 3.7. Giá bồi thường đất ở năm 2009 58
Bảng 3.8. Ý kiến của người bị thu hồi đất về chính sách bồi thường tại 2 dự án 59
Bảng 3.9. Tổng hợp chính sách hỗ trợ của 2 dự án 63
Bảng 3.10. Ý kiến của người bị thu hồi đất về chính sách hỗ trợ 67
Bảng 3.11. Ý kiến của các hộ dân về việc nhận tiền bồi thường 74
Bảng 3.12. Ý kiến của các hộ dân về tính công bằng, dân chủ và công khai
trong quá trình thực hiện dự án. 76
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii
DANH MỤC HÌNH
STT Nội dung Trang
Hình 3.1. Sơ đồ hành chính huyện Kiến Thuỵ 31
Hình 3.2: Cơ cấu kinh tế huyện Kiến Thụy 35
Hình 3.3. Quy hoạch chợ dân sinh xã Đại Hà 50
Hình 3.4 Hiện trạng mặt bằng dự án trường đại học dân lập Hải Phòng 52
Hình 3.5. Ý kiến của hộ dân về chính sách tái định cư 72
Hình 3.6. Ý kiến của các hộ dân về tiến độ thực hiện dự án 74
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii
DANH MỤC VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Ý nghĩa
1 CP Chính phủ
2 GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
3 GPMB Giải phóng mặt bằng
4 NĐ Nghị định
5 QĐ-UB Quyết định ủy ban
6 QSDĐ Quyền sử dụng đất
7 TĐC Tái định cư
8 UBND Ủy ban nhân dân
9 BTNMT Bộ Tài nguyên và Môi trường
10 CT Chỉ thị
11 TU Thành ủy
12 TT Thông tư
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, phát
triển các dự án kinh tế, dự án công cộng là một khâu quan trọng, then chốt của
quá trình phát triển. Tuy nhiên, việc bồi thường hỗ trợ và tái định cư vẫn đang là
một vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp. Có thể thấy trên cả nước, việc bồi
thường, giải phóng mặt bằng và công tác tái định cư đều gặp nhiều vướng mắc.
Nó tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội và cộng đồng dân cư, ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư, đặc biệt với hộ gia
đình, cá nhân có đất bị thu hồi trên phạm vi cả nước, đến từng địa phương, cơ sở.
.
Huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng là một huyện ven đô, nông
nghiệp, nằm giữa khu vực kinh tế năng động là nội thành Hải Phòng và khu du
lịch Đồ Sơn. Hiện tại Kiến Thụy có tổng diện tích tự nhiên 10.751,89 ha, dân số
135.982 người địa bàn hành chính gồm 17 xã và 1 thị trấn. Kiến Thụy có nhiều
tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là thế mạnh trong phát
triển ngành thuỷ sản, dịch vụ và du lịch.
Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của thành phố; huyện
Kiến Thụy được xác định là trọng điểm phát triển kinh tế phía Đông Nam của
thành phố và thị trấn Núi Đối được xác định là đô thị vệ tinh, nơi nghỉ dưỡng
cuối tuần của cán bộ và nhân dân thành phố Hải Phòng. Từ những năm 2008 đến
nay, trên địa bàn huyện đã thực hiện 20 dự án lớn như: Dự án xây dựng đường ô tô
Cao tốc Hà Nội – Hải Phòng; Dự án xây dựng đường 403 giai đoạn I (xã Tân Trào);
Dự án Lai – Sàng – Họng; Dự án neo đậu tàu thuyền tránh trú bão bến Quán Chánh;
Dự án xây dựng nhà máy lót giầy Minh Điền (Minh Tân); Dự án đê biển II tại xã Đại
Hợp - Đoàn Xá Tuy nhiên công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, giao đất ở
huyện đang gặp phải những khó khăn: Có những dự án thực hiện không đúng
tiến độ, kéo dài nhiều năm gây chậm phát triển kinh tế, thất thoát tài chính
Nguyên nhân chủ yếu là do mỗi dự án có vấn đề và vướng mắc riêng, phải làm việc
với nhiều hộ dân, khó áp dụng các kinh nghiệm từ dự án này vào dự án khác. Các cơ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2
chế chính sách còn thiếu thực tế, do đó người thực hiện còn phải vận dụng, giá cả bồi
thường chênh lệch so với giá thị trường nên không nhận được nhiều ủng hộ của hộ
dân gây phát sinh nhiều khiếu kiện. Nhà nước thu hồi đất không chỉ thực hiện các dự
án lớn nhằm phục vụ lợi ích quốc gia mà còn thực hiện những dự án nhỏ lẻ, phục vụ
thuần túy cho lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, do đó người bị thu hồi đất có ấn tượng
Nhà nước lấy quyền lợi của người này trao cho người khác, gây khó khăn cho quá
trình giải phóng mặt bằng. Nghiên cứu để tìm ra các biện pháp xử lý cho phù hợp,
giải quyết từng vướng mắc, đồng thời là kinh nghiệm để thực hiện những dự án
về sau. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, tôi chọn đề tài: “Đánh giá tình hình
thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất tại
một số dự án trên địa bàn huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá tình hình thực hiện việc bồi thường hỗ trợ tái định cư, tiến độ
thực hiện dự án khi Nhà nước thu hồi đất ở một số dự án trên địa bàn huyện Kiến
Thụy – Thành phố Hải Phòng;
- Đề xuất giải pháp góp phần đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng ở
những dự án tương tự, giúp cho công tác quản lý hành chính Nhà nước về đất đai
ngày càng hiệu quả và đảm bảo quyền lợi của người dân địa phương.
3. Yêu cầu của đề tài
- Nghiên cứu tổng thể các chính sách, quy định về bồi thường hỗ trợ tái
định cư cũng như các văn bản pháp lý có liên quan;
- Điều tra, đánh giá việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của
một số dự án sử dụng đất vào mục đích phục vụ lợi ích công cộng và phát triển
kinh tế.
- Các số liệu điều tra, thu thập phải phản ánh đúng, khách quan quá trình
thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;
- Các đề nghị, kiến nghị phải có cơ sở và có tính khả thi.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
1.1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Bồi thường: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại
giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất
(Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, 2003). Luật quy định cụ thể những thiệt
hại về nhà ở, công trình xây dựng, cây trồng, vật nuôi trên đất do việc thu hồi đất
gây ra cũng được xem xét bồi thường.
Từ khi thực hiện Luật Đất đai năm 1987 đến Luật Đất đai năm 1993, nhà
nước đã có khái niệm “đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất”. Tuy nhiên
khái niệm bồi thường đã được sử dụng luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật
đất đai năm 2001, thay thế cho cụm từ đền bù thiệt hại thể hiện tư tưởng chỉ đạo
đổi mới của công tác giải phóng mặt bằng, không chỉ bồi thường những thiệt hại
hữu hình mà còn tính toán bù đắp nhưng giá trị không kiểm đếm được như môi
trường, nơi sống, dịch vụ
Hỗ trợ: Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người
bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di
dời đến địa điểm mới (Chính phủ, 2009).
Có 4 loại hỗ trợ, cụ thể:
Hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở;
Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo
việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp;
Hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp trong khu dân cư; đất vườn, ao không
được công nhận là đất ở;
Hỗ trợ khác.
Như vậy, khác với bồi thường là việc chi trả lại một cách tương xứng những
giá trị bị thiệt hại, thì hỗ trợ mang tính chính sách, trợ giúp thêm của Nhà nước, thể
hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với những mất mát mà người dân phải chịu khi bị
thu hồi đất thực hiện những lợi ích chung của đất nước, cộng đồng.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4
Tái định cư: (TĐC) là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước
đây để sinh sống và làm ăn. TĐC bắt buộc đó là sự di chuyển không thể tránh
khỏi khi Nhà nước thu hồi đất đai để thực hiện các dự án phát triển.
TĐC được hiểu là một quá trình từ bồi thường thiệt hại về đất, tài sản; di
chuyển đến nơi ở mới và các hoạt động hỗ trợ để xây dựng lại cuộc sống, thu
nhập, cơ sở vật chất, tinh thần tại đó. Như vậy, TĐC là hoạt động nhằm giảm nhẹ
các tác động xấu về kinh tế - xã hội đối với một bộ phận dân cư đã gánh chịu vì
sự phát triển chung.
1.1.2 Một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến công tác bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.1.2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
- Điều kiện tự nhiên: Với mỗi khu vực có điều kiện tự nhiên khác nhau thì
công tác bồi thường là khác nhau. Chính sách bồi thường áp dụng tại thành thị
khác nông thôn, áp dụng chính sách tại khu vực lúa nước khác với đất nuôi trồng
thủy sản hay vùng núi, khu vực có nhiều khu công nghiệp, dân cư tập trung cao,
ngành nghề phức tạp, làng nghề có chính sách khác nhau. Chính vì vậy, khi thực
hiện dự án, điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến tiến trình, chính sách của dự án.
- Điều kiện kinh tế - xã hội:
Với điều kiện kinh tế phát triển, nhu cầu về đất đai tăng cao thì thường
khó khăn trong công tác thu hồi đất. Còn khi nền kinh tế khủng hoảng, thị trường
đất đai đóng băng, việc bồi thường cho hộ dân dễ dàng hơn. Ở Việt Nam, giai
đoạn từ năm 1995 đến năm 2010, nền kinh tế phát triển mạnh, số lượng dự án
tăng kỷ lục, tuy nhiên công tác giải phóng mặt bằng gặp rất nhiều vướng mắc
(Phạm Đức Phong, 2002).
Phong tục tập quán cũng ảnh hưởng lớn đến quá trình thu hồi đất, thu hồi
đất khiến cho người dân phải di chuyển chỗ ở, đồng nghĩa với việc thay đổi cả
môi trường sống, cách thức canh tác, tâm linh, tôn giáo. Nếu thuận lợi sẽ nhận
được sự ủng hộ của người dân và ngược lại (Đặng Thái Sơn, 2000).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5
1.1.2.2 Việc ban hành thực thi các văn bản pháp luật của nhà nước
Ở nước ta từ năm 1993 đến 2003, Nhà nước đã ban hành hơn 200 văn bản
quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất. Việc liên tục hoàn thiện chính
sách pháp luật cũng đã tạo điều kiện cho công tác giải phóng mặt bằng. Với
những đổi mới về pháp luật đất đai, thời gian qua, công tác giải phóng mặt bằng
đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu về
mặt bằng cho sự phát triển các dự án đầu tư (Nguyễn Thanh Trà, Phạm Phương
Nam, 2012). Tuy nhiên bên cạnh đó, do tính chưa ổn định, chưa thống nhất của
pháp luật qua các thời kỳ gây cản trở cho công tác GPMB. Hệ thống văn bản còn
nhiều nhược điểm như số lượng nhiều, mức độ phức tạp cao, thiếu đồng bộ,
thống nhất, khó khăn khi áp dụng (Tôn Gia Huyên, 2006).
Khi thực hiện các chính sách về đất đai cũng ảnh hưởng lớn đến công tác
bồi thường, hỗ trợ và tái đinh cư.
- Tác động của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có tác động mang tính định hướng từ
lúc hình thành dự án đến khi GPMB và lập khu TĐC (Phạm Bình Trị, 2013).
- Giao đất, cho thuê đất
Giao đất, cho thuê đất phải căn cứ vào quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất,
tuy nhiên nhiều địa phương chưa thực hiện tốt nguyên tắc, hạn mức giao đất và
đóng thuế không rõ ràng, tình trạng quản lý đất thiếu chặt chẽ dẫn đến khó khăn
cho công tác bồi thường (Đào Trung Chính, 2013).
- Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính
Hiện nay, công tác đăng ký đất đai ở nước ta vẫn còn yếu kém, đặc biệt là
công tác đăng ký biến động về sử dụng đất, việc cấp GCNQSDĐ là chưa hoàn
tất. Chính vì vậy công tác GPMB gặp nhiều khó khăn. Lập và quản lý hệ thống
hồ sơ địa chính có vai trò quan trọng hàng đầu để quản lý chặt chẽ đất đai trong
thị trường bất động sản, là cơ sở xác định tính pháp lý của đất đai, phục vụ cho
công tác quản lý cũng như bồi thường (Đào Trung Chính, 2013).
- Giá đất và định giá đất
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, nguyên tắc định giá đất là phải sát
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6
với giá thị trường trong điều kiện bình thường. Tuy nhiên, tình hình phổ biến hiện
nay là giá đất do các địa phương quy định và công bố đều không theo đúng nguyên
tắc đó, dẫn tới nhiều trường hợp ách tắc về bồi thường đất đai và phát sinh khiếu
kiện. Thực tế cho thấy, bảng giá đất các địa phương công bố hàng năm chưa phù
hợp với nguyên tắc nêu trên dẫn tới các khiếu kiện của người bị thu hồi đất và gây
ách tắc trong thực hiện bồi thường, GPMB.
1.1.3. Nguyên tắc chung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng có đủ điều kiện quy định tại
các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9, 10 và 11 Điều 8 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03
tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất (sau đây gọi là Nghị định số 197/2004/NĐ-CP) và các Điều 44, 45 và 46
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy định
bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện
quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai (sau đây gọi là Nghị định số 84/2007/NĐ-
CP) thì được bồi thường; trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường thì Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh xem xét để hỗ trợ (Chính phủ, 2009).
Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được
bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất
để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá
đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất; trường hợp bồi thường bằng việc giao
đất mới hoặc giao đất ở tái định cư hoặc nhà ở tái định cư, nếu có chênh lệch về
giá trị thì phần chênh lệch đó được thanh toán bằng tiền theo quy định sau:
a) Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ lớn hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền
mua nhà ở tại khu tái định cư thì người tái định cư được nhận phần chênh lệch.
b) Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền
mua nhà ở tái định cư thì người tái định cư phải nộp phần chênh lệch, trừ trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 19 Nghị định này.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7
Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định
của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số
tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách nhà nước.
Nhà nước điều tiết một phần lợi ích từ việc thu hồi, chuyển mục đích sử
dụng đất để thực hiện các khoản hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi quy định tại
Điều 17 Nghị định này (Chính phủ, 2009).
* Cơ bản, việc bồi thường hỗ trợ GPMB được thực hiện nhằm:
- Đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, lợi ích của người sử dụng đất và
lợi ích nhà đầu tư:
Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đất đai, là người quản lý đất nước, phải
quyết định chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, quyết định giá đất, giá tài
sản để tính bồi thường đất và tài sản. Đây vừa là quyền định đoạt của nhà nước
vừa là biện pháp xử lý hài hoà lợi ích của người đang sử dụng đất với lợi ích của
Nhà đầu tư. Tất cả các quyền này của nhà nước đã được quy định cụ thể tại các
Điều 42, 43, 45, 47 và 49 Nghị định 197/2004/NĐ – CP.
Người sử dụng đất ổn định được chuyển quyền sử dụng đất là một trong
các quyền của người sử dụng đất đã được xác định tại Hiến pháp 1992 và Luật
đất đai. Thực hiện quyền này, người sử dụng đất có nguồn thu nhập từ quyền sử
dụng đất của mình. Do vậy, khi nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng đất
để giao cho người khác sử dụng vì lợi ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng, phát triển kinh tế, nhà nước phải đảm bảo lợi ích cho người bị
thu hồi đất một cách thoả đáng cụ thể:
Người bị thu hồi đất đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường
bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi
thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất do
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh công bố tại thời điểm thu hồi đất (Khoản 2, Điều 6
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP) (Chính phủ, 2009).
Ngoài bồi thường hỗ trợ về đất, tài sản người bị thu hồi đất còn được hỗ trợ
di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất, đào tạo nghề, …. ổn định đời sống cho
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8
người bị thu hồi đất (các Điều 27, 28, 29 và 32 Nghị định 197/2004/NĐ – CP).
Người bị thu hồi đất ở được chuyển vào khu TĐC với hệ thống cơ sở hạ
tầng đồng bộ đủ điều kiện cho họ sống tốt hơn hoặc ít nhất cũng bằng nơi ở cũ
(Điều 35 Nghị định 197/2004/NĐ – CP).
Nhà đầu tư có nhu cầu về đất làm mặt bằng để đầu tư xây dựng các công
trình cơ sở hạ tầng, cơ sở sản xuất kinh doanh với chi phí sử dụng đất hợp lý
nhất. Để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào đầu tư phát triển, nhà nước
không chỉ ưu đãi tài chính như miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế,
mà còn hoàn lại chi phí bồi thường, hỗ trợ về đất mà họ đã chi trả cho người bị
thu hồi đất với mức cao nhất, bằng số tiền sử dụng đất, hoặc tiền thuê đất mà họ
phải nộp cho nhà nước như đã quy định tại Điều 3 Nghị định 197/2004/NĐ-CP
và khoản 4 Điều 5, khoản 3 Điều 6 Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng
12 năm 2004 về thu tiền sử dụng đất. Nhà nước đã phải dành nguồn thu từ đất
của mình để đảm bảo lợi ích cho người bị thu hồi đất, đồng thời giảm nhẹ chi phí
sử dụng đất cho nhà đầu tư để thực hiện quyền thu hồi đất, phân bổ sử dụng đất
phục vụ cho đầu tư phát triển của đất nước đưa đến dân giàu, nước mạnh.
- Đảm bảo công khai dân chủ trong thực hiện:
Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi đất là quan hệ giao
dịch về quyền sử dụng đất giữa người đang sử dụng đất với nhà đầu tư có sự can
thiệp của nhà nước, không phải giao dịch quyền sử dụng đất thông thường trên
thị trường. Tuy nhiên, người bị thu hồi đất chỉ chấp nhận chuyển quyền sử dụng
đất của mình khi chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phù hợp với Luật đất
đai và công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được thực hiện công khai và bàn
bạc dân chủ.
Thứ nhất, trước khi thu hồi đất chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông
nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế
hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (Khoản
1 Điều 67 Luật đất đai 2013).
Thứ hai, người bị thu hồi đất được cử người đại diện của mình tham gia
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9
Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp quận, huyện, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh để phản ánh nguyện vọng của người bị thu hồi đất, đồng thời
người bị thu hồi đất thực hiện các quyết định của nhà nước, trực tiếp tham gia
ý kiến đối với dự kiến phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được niêm
yết công khai tại trụ sở làm việc của tổ chức được giao nhiệm vụ thực hiện bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư và trụ sở UBND cấp xã, phường, thị trấn nơi có
đất bị thu hồi.
Thứ ba, người bị thu hồi đất có quyền khiếu nại nếu chưa đồng ý với quyết
định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và được cấp có thẩm quyền ra quyết định
giải quyết lâu dài. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu, người khiếu
nại có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch
UBND cấp tỉnh là cấp quyết định giải quyết cuối cùng đối với khiếu nại của người
bị thu hồi đất. Tuy nhiên để đảm bảo thực hiện nghiêm túc các quyết định thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trong khi chờ giải
quyết khiếu nại, người bị thu hồi đất vẫn phải chấp hành quyết định thu hồi đất, giao
đất đúng kế hoạch và thời gian được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
(Điều 49, Nghị định 197/2004/NĐ – CP) (Chính phủ, 2004).
1.1.4. Những nội dung cơ bản của chính sách bồi thường hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất.
Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư gồm những nội
dung sau:
- Bồi thường: Bồi thường đất nông nghiệp, đất ở, đất phi nông nghiệp; bồi
thường nhà, công trình xây dựng trên đất, cây cối hoa màu.
- Hỗ trợ: Hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất
ở; hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc
làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp; hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp
trong khu dân cư; đất vườn, ao không được công nhận là đất ở; hỗ trợ khác.
- Tái định cư:
Hiện nay ở nước ta, khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì
người sử dụng đất được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức: Bồi thường
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10
bằng nhà ở; bồi thường bằng giao đất ở mới; bồi thường bằng tiền để người dân
tự lo chỗ ở.
TĐC là một bộ phận không thể tách rời và giữ vị trí rất quan trọng trong
chính sách GPMB. Các dự án TĐC cũng được coi là các dự án phát triển và phải
được thực hiện như các dự án phát triển khác. Ngân hàng và các Nhà nước đang
phát triển cần nhìn nhận vấn đề này như cơ hội chứ không phải là trở ngại. Cần
thực hiện một chính sách TĐC bắt buộc sẽ tạo nên một môi trường pháp chế lành
mạnh khi Nhà nước cần thu hồi đất phục vụ cho các mục đích công cộng của
quốc gia. Mặt khác, cần cải tiến cách hiểu và lập kế hoạch thực hiện sao cho các
dự án luôn hướng tới sự phát triển, không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế mà còn
về môi trường, xã hội. Phương thức này phù hợp với hai mục tiêu là xoá đói
giảm nghèo và phát triển bền vững.
1.1.5. Trình tự, thủ tục các bước thực hiện công tác bồi thường hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Được quy định chi tiết tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009
của Chính phủ, gồm các bước sau (Chính phủ, 2009):
Bước 1: Giới thiệu địa điểm và thông báo chủ trương thu hồi đất
Bước 2: Cho phép khảo sát lập dự án đầu tư
Bước 3: Lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
* Nội dung phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư gồm:
- Tên, địa chỉ của người bị thu hồi đất;
- Diện tích, loại đất, vị trí, nguồn gốc của đất bị thu hồi; số lượng, khối
lượng, tỷ lệ phần trăm chất lượng còn lại của tài sản bị thiệt hại;
- Các căn cứ tính toán số tiền bồi thường, hỗ trợ như giá đất tính bồi
thường, giá nhà, công trình tính bồi thường, số nhân khẩu, số lao động trong độ
tuổi, số lượng người được hưởng trợ cấp xã hội;
- Số tiền bồi thường, hỗ trợ.
- Việc bố trí tái định cư.
- Việc di dời các công trình của Nhà nước, của tổ chức, của cơ sở tôn giáo,
của cộng đồng dân cư.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11
- Việc di dời mồ mả.
* Các bước duyệt phương án bồi thường (Chính phủ, 2009):
- Lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
- Hoàn chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Bước 4: Cơ quan tài nguyên và môi trường chủ trì, phối hợp với cơ quan
có liên quan thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và chuẩn bị
hồ sơ thu hồi đất.
Bước 5: Cơ quan có thẩm quyền ban hành Quyết định thu hồi đất, phê
duyệt và thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, giao đất, cho
thuê đất
Bước 6: Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoặc Tổ chức phát
triển quỹ đất thực hiện chi trả bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư.
Bước 7: Cưỡng chế thu hồi đất đối với những trường hợp không thực hiện
theo quy định (Chính phủ, 2009).
1.2. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, của một số nước ở Châu Á
và vùng lãnh thổ
1.2.1. Tại Trung Quốc
Pháp luật đất đai của Trung Quốc có nhiều nét tương đồng với pháp luật
đất đai của Việt Nam. Tuy nhiên nhìn về tổng thể việc chấp hành pháp luật của
người Trung Quốc rất cao. Việc sử dụng đất đai tại Trung Quốc thực sự tiết
kiệm, Nhà nước Trung Quốc hoàn toàn cấm việc mua bán chuyển nhượng đất
đai. Do vậy thị trường đất đai gần như không tồn tại mà chỉ có thị trường nhà cửa
(Phạm Văn Tiến, 2011).
Về bồi thường thiệt hại về đất đai, do đất đai thuộc sở hữu nhà nước nên
không có chính sách bồi thường thiệt hại. Khi nhà nước thu hồi đất, kể cả đất
nông nghiệp, tuỳ trường hợp cụ thể, nhà nước sẽ cấp đất mới cho các chủ sử
dụng bị thu hồi đất.
Về phương thức bồi thường thiệt hại, Nhà nước thông báo cho người sử
dụng đất biết trước việc sẽ bị thu hồi đất trong thời hạn một năm. Người dân có
quyền lựa chọn các hình thức bồi thường bằng tiền hoặc bằng nhà tại khu ở mới.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12
Tại thủ đô Bắc Kinh và thành phố Thượng Hải, người dân thường lựa chọn bồi
thường thiệt hại bằng tiền và tự tìm chỗ ở mới phù hợp với công việc, nơi làm
việc của mình (Tạp chí Cộng sản, 2007).
Về giá bồi thường thiệt hại, tiêu chuẩn là giá thị trường, mức giá này cũng
được Nhà nước quy định cho từng khu vực và chất lượng nhà, đồng thời được
điều chỉnh rất linh hoạt cho phù hợp với thực tế, vừa được coi là Nhà nước tác
động điều chỉnh tại thị trường đó. Đối với đất nông nghiệp việc bồi thường thiệt
hại theo tính chất của đất và loại đất (tốt, xấu).
Về tái định cư, các khu tái định cư và các khu nhà ở được xây dựng đồng bộ
và kịp thời, thường xuyên đáp ứng yêu cầu nhiều loại căn hộ với các nhu cầu sử
dụng khác nhau. Các chủ sử dụng phải di chuyển đều được chính quyền quan tâm
đến điều kiện về việc làm, đối với các đối tượng chính sách xã hội được nhà nước
chú ý và có chính sách xã hội riêng.
Khi di dời thực hiện nguyên tắc chỗ ở mới tốt hơn chỗ ở cũ. Khu TĐC được
quy hoạch tổng thể (nhà ở, trường học, chợ), cân đối được giao thông động và tĩnh.
Trong quá trình bồi thường, GPMB phải lập các biện pháp xử lý đối với việc sắp
xếp bồi thường khi không đạt được sự thống nhất, lúc này sẽ xử lý theo phương thức
trước tiên là dựa vào trọng tài, sau đó theo khiếu tố.
1.2.2. Tại Thái Lan
Pháp luật đất đai Thái Lan cho phép tồn tại hình thức sở hữu tư nhân về
đất đai. Do vậy nguyên tắc khi nhà nước hoặc các tổ chức lấy đất để làm bất kỳ
một dự án nào, công trình nào đều phải có sự thoả thuận về sử dụng đất giữa chủ
dự án và chủ sở hữu khu đất trên cơ sở một hợp đồng (Tạp chí Cộng sản, 2007).
Năm 1987 Thái Lan ban hành luật về trưng dụng bất động sản áp dụng cho
việc trưng dụng đất phục vụ vào các mục đích xây dựng công cộng, an ninh quốc
phòng. Luật BE 2530 quy định những nguyên tắc thu hồi đất, nguyên tắc tính giá
trị bồi thường các loại tài sản được bồi thường, trình tự lập dự án, duyệt dự án,
lên kế hoạch bồi thường trình các cấp phê duyệt. Luật còn quy định thủ tục thành
lập các cơ quan, uỷ ban tính toán bồi thường tái định cư, trình tự đàm phán, nhận
tiền bồi thương, trình tự khiếu nại, giải quyết khiếu nại, trình tự đưa ra tòa án.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13
Ở Thái Lan việc tuyên truyền vận động đối với các đối tượng bị di dời
được thực hiện rất tốt, gần như ngay từ đầu, xấp xỉ 100% các hộ dân đã hiểu và
chấp hành các chính sách bồi thường, GPMB của nhà nước.
Bên cạnh đó việc bố trí cán bộ có phẩm chất, năng lực chuyên môn được
quan tâm nhiều. Và việc thống nhất chỉ đạo, tổ chức rất rõ ràng, nhất quán đã góp
phần quan trọng để đẩy nhanh tiến độ.
Về giá đất làm căn cứ bồi thường thiệt hại: căn cứ vào giá do một Uỷ ban
của Chính phủ xác định trên cơ sở thực tế giá trên thị trường chuyển nhượng bất
động sản. Việc bồi thường chủ yếu bằng tiền mặt. Nếu phải di chuyển nhà đến
nơi mới, Uỷ ban này sẽ chỉ đạo cho người dân biết mình đến đâu, phải trả tiền
một lần, được cho thuê hay mua trả góp Tuy nhiên cũng có trường hợp bên bị
thu hồi không chấp nhận, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ kiểm tra, xem xét
một lần nữa xem đã hợp lý chưa và dù đúng hay không nếu người bị thu hồi
không chuyển đi sẽ bị cưỡng chế thực hiện. Việc khiếu nại sẽ tiếp tục do toà án
giải quyết.
Việc chuẩn bị khu tái định cư được chính quyền, nhà nước quan tâm đúng
mức, luôn đáp ứng đầy đủ nhu cầu, luôn ở thế chủ động.
Sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành giải quyết, sự phân công nhiệm
vụ rõ ràng, phân cấp rõ về trách nhiệm, sự phối hợp cao trong quá trình giải
quyết vấn đề, cũng góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác bồi
thường, GPMB.
1.2.3. Tại Hàn Quốc
- Luật bồi thường thiệt hại của Hàn Quốc được chia làm hai thể chế:
+ Một là: Luật “Đặc lệ” liên quan đến bồi thường thiệt hại cho đất công
cộng đã được quy định theo thủ tục thương lượng của pháp luật.
+ Hai là: Luật “Sung công đất” theo thủ tục quy định cưỡng chế của
công pháp.
Để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế thì cần rất nhiều đất công cộng
trong một thời gian ngắn với mục đích cưỡng chế đất cho nên luật “Sung công
đất” đã được xây dựng vào năm 1962. Sau đó theo pháp luật ngoài mục đích
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14
thương lượng thu hồi đất công cộng thì còn muốn thống nhất việc này trên
toàn quốc và đảm bảo quyền tài sản của công nên luật này đã được lập vào
năm 1975 và dựa vào hai luật trên, Hàn Quốc đã triển khai bồi thường thiệt
hại cho đến nay. Tuy nhiên dưới hai thể chế luật và trong quá trình thực hiện
luật “Đặc lệ” thương lượng không đạt được thoả thuận thì luật “Sung công
đất” được thực hiện bằng cách cưỡng chế nhưng nếu như thế thì phải lặp đi
lặp lại quá trình này và đôi khi bị trùng hợp cho nên thời gian có thể bị kéo
dài hoặc chi phí bồi thường sẽ tăng lên. Do đó luật bồi thường thiệt hại của
Hàn Quốc mới ra đời và thực hiện theo 3 giai đoạn:
+ Thứ nhất tiền bồi thường đất đai sẽ được giám định viên công cộng đánh
giá trên tiêu chuẩn giá quy định để thu hồi đất phục vụ cho công trình công cộng.
Giá quy định không dựa vào những lợi nhuận khai thác do đó có thể đảm bảo sự
khách quan trong việc bồi thường.
+ Thứ hai pháp luật có quy định không gây thiệt hại nhiều cho người có
quyền sử hữu đất trong quá trình thương lượng chấp nhận thu hồi đất. Quy trình
chấp nhận theo thứ tự là công nhận mục đích, lập biên bản tài sản và đất đai,
thương lượng chấp nhận thu hồi.
+ Thứ ba biện pháp di dời là một đặc điểm quan trọng. Chế độ này được
Nhà nước hỗ trợ tích cực về mọi mặt chính sách bảo đảm sự sinh hoạt của con
người, cung cấp đất đai cho những người bị mất nơi cư trú do thực hiện công
trình công cộng cần thiết của Nhà nước. Đây là công việc có hiệu quả lôi cuốn
người dân tự nguyện di dời và liên quan rất nhiều tới việc giải phóng mặt
bằng. Theo luật bồi thường, nếu như toà nhà nơi dự án sẽ được thực hiện có
trên 10 người sở hữu thì phải xây dựng cho các đối tượng, xây cư trú hoặc hỗ
trợ 30% giá trị của toà nhà đó. Còn nếu như là dự án xây nhà chung cư thì
cung cấp cho các đối tượng này nhà chung cư hoặc nhà ở với giá thấp hơn giá
thành. Đối với các đối tác kinh doanh để kiếm sống nhưng có pháp nhân, các
đối tác kinh doanh nông nghiệp, gia cầm thì có chính sách mang tính chất ân
huệ thì ngoài biện pháp di dời còn ưu tiên cung cấp cho họ các cửa hàng hoặc
khu vực kinh doanh (Ánh Tuyết, 2002).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15
1.2.4. Chính sách về tái định cư bắt buộc của Ngân hàng Thế giới
Có hai chính sách an toàn xã hội: Chính sách hoạt động (OP) 4.12: Tái định
cư bắt buộc và OP 4.10. Những chính sách này mô tả mục tiêu và các hướng dẫn
cần phải tuân thủ trong những tình huống có thu hồi đất bắt buộc và hạn chế bắt
buộc trong việc tiếp cận tới các vườn quốc gia và các khu vực được bảo vệ nghiêm
ngặt, và khi có liên quan tới người bản địa hay người dân tộc thiểu số. Mục đích của
Chính sách hoạt động OP 4.12 là nhằm tránh tái định cư bắt buộc tới mức có thể,
hoặc nhằm giảm thiểu những tác động bất lợi về xã hội và kinh tế do tái định cư bắt
buộc gây nên. OP 4.12 khuyến khích sự tham gia của những người phải di dời trong
quá trình lập kế hoạch và thực hiện tái định cư, và mục tiêu kinh tế chính của chính
sách này là hỗ trợ những người phải di dời trong các nỗ lực cải thiện hoặc ít nhất
khôi phục thu nhập và mức sống sau khi di dời. Chính sách quy định việc đền bù và
những biện pháp tái định cư khác để đạt được các mục tiêu mà chính sách đề ra
cũng như yêu cầu bên vay chuẩn bị các công cụ tái định cư phù hợp trước khi Ngân
hàng Thế giới thẩm định dự án đề xuất. Để chuẩn bị và thực hiện các hoạt động có
thu hồi đất, bồi thường, di dời, và hạn chế việc sử dụng các nguồn lực, những chính
sách áp dụng yêu cầu thực hiện tham vấn chặt chẽ với người bị ảnh hưởng và về
việc giảm thiểu những tác động tiêu cực tiềm tàng, trong đó có chú ý tới các vấn đề
về DTTS, giới, và những nhóm dễ bị tổn thương khác. Đồng thời, các chính sách
cũng quy định nhu cầu phổ biến thông tin, giám sát và đánh giá, và đảm bảo MARD
– CPO, PMU10 và các PPMU có đủ kinh phí và năng lực (Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, 2012).
* Nhận xét, đánh giá
Nhìn chung, việc xây dựng và phát triển các công trình đều liên quan đến
việc thu hồi đất. Ở mỗi nước, quyền lực thu hồi, trưng thu đất được ghi trong
Hiến pháp hoặc tại Bộ Luật đất đai hoặc một bộ luật khác. Nếu việc thu hồi,
trưng thu đã phù hợp với quy định của pháp luật mà người sở hữu hoặc sử dụng
đất không thực hiện thì nhà nước có quyền chiếm hữu đất đai. Việc thu hồi đất,
trưng thu đất và bồi thường thiệt hại về đất tại mỗi quốc gia đều được thực hiện
theo chính sách riêng do nhà nước đó quy định. Từ việc nghiên cứu chính sách