Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Các triều đại Phong kiến Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.9 KB, 6 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chế độ phong kiến Việt Nam là giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ công xã
nguyên thuỷ không qua chế độ chiếm hữu nô lệ. Lịch sử các triều đại phong
kiến Việt Nam đã trải qua rất nhiều các đời vua, chúa. Và trong suốt thời kỳ
lịch sử đó, với đặc trưng cơ bản của chế độ phong kiến nói chung cùng với
những đặc trưng riêng của chế độ phong kiến Việt Nam đã xác lập nên địa
vị thống trị và quyền lực tối cao của nhà vua thời phong kiến nước ta. Tuy
nhiên, những biểu hiện của địa vị và quyền lực ấy như thế nào? Chúng có
những đặc điểm khác biệt gì so với địa vị và quyền lực của các vị vua
phong kiến khác hay không?
Để tìm hiểu và trả lời cho những câu hỏi này, nhóm chúng em đã quyết định
chọn đề bài số 23: “Địa vị, quyền lực của nhà vua trong nhà nước phong
kiến Việt Nam ”. Tuy nhiên, do kiến thức của chúng em còn hạn chế, nên
trong bài tập không thể tránh khỏi những thiếu sót, mong thầy cô và các bạn
thông cảm, góp ý, để bài tập cũng như kiến thức của chúng em được hoàn
thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn./.

NỘI DUNG
I. Các triều đại Phong kiến Việt Nam :
Trong gần chín thế kỷ (939-1858), đất nước ta đã trải qua các triều đại như:
Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn… với rất
nhiều các vị vua nổi tiếng như: Tiền Ngô Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại
Hành, Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông, Gia
Long, Minh Mạng… Bên cạnh đó, cũng đã xuất hiện không ít các vị vua hoang
tàn, bạo ngược như Lê Uy Mục, Lê Tương Dực…
Vậy trong suốt thời gian lịch sử đó, địa vị và quyền lực của các vị vua Việt
Nam được biểu hiện như thế nào?
II. Địa vị của nhà vua trong nhà nước Phong kiến Việt Nam :
Trong chế độ Phong kiến, đặc biệt là quan điểm của Nho giáo, vua được coi là
“Thiên Tử” (con Trời). Về địa vị của nhà vua, thuyết "Mệnh Trời" (Thiên


Mệnh) đã chỉ rõ:
- Vua là người đại diện cho Thượng đế (Trời) để cai trị dân, là người “thay
Trời hành đạo”, đồng thời cũng là người đại diện cho dân trước Thượng đế:
Mọi ý chỉ, mệnh lệnh của vua đều được cho là theo “Mệnh Trời” nên trong các
chiếu chỉ thường có “Phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết…” hay như
trong Bình Ngô Đại Cáo, câu đầu tiên cũng khẳng định: “Thay Trời hành hoá,
Hoàng thượng truyền rằng…”. Cũng chính vì thể theo “Mệnh Trời” nên mệnh
lệnh của vua phải tuyệt đối được phục tùng và thực hiện như một điều tất yếu.
Bên cạnh đó, các vị vua Phong kiến Việt Nam cũng thường đại diện cho dân
trước Thượng đế, thể hiện ở việc lập đàn tế Trời, cầu xin mùa màng tươi tốt,
mưa thuận gió hoà để người dân có cuộc sống ấm no, hưng thịnh, thái bình…
- Địa vị và chức năng làm vua là do Trời định sẵn cho người đó (Thiên
Mệnh): Đây được coi như một “sự uỷ nhiệm” của Trời. Nếu vị vua đó trở nên
hoang tàn, bạo ngược, không thể chăm sóc được cho người dân, thì Trời sẽ bãi
bỏ sự uỷ nhiệm của mình và trao địa vị này cho người khác phù hợp hơn thông
qua con đường lật đổ vị vua cũ, nếu việc lật đổ thành công thì sự uỷ nhiệm đó
đã được trao cho người mới và ngược lại.
- Vua với địa vị của mình chỉ đứng dưới một người là Trời, còn trên muôn
người: Trong cả nước, quan lại là bầy tôi của vua, nhân dân là thần dân của
nhà vua. Vua là người đứng đầu bách thần trong cả nước. Nước - quốc gia
Phong kiến (Sơn hà xã tắc) không phải là của nhân dân mà là của nhà vua.
Như vậy, địa vị của nhà vua đã bao trùm lên toàn bộ đất nước. Và vị vua theo
“Thiên Mệnh” sẽ phải chăm sóc, đảm bảo sự thịnh vượng của mọi người dân
trong xã hội.
III. Quyền lực của nhà vua:
1. Nhà vua nắm vương quyền:
Có thể thấy, với một địa vị là “Thiên Tử”, đứng dưới một người mà trên vạn
người, thì nhà vua cũng chính là người nắm trong tay toàn bộ vương quyền
của đất nước. Những điều đó được thể hiện ở các điểm sau:
- Về mặt lập pháp: nhà vua chính là người duy nhất có quyền đặt ra pháp

luật. Ý chí của nhà vua dưới mọi hình thức đều trở thành pháp luật: Nếu là lời
nói thì mệnh lệnh đó sẽ được sứ giả truyền đi khắp nơi và thực thi (“Vua truyền
rằng” hay “Vua ban rằng”), nếu là bằng văn bản thì trở thành thánh chỉ, thánh
ý…
- Về mặt hành pháp: Nhà vua có toàn quyền bổ nhiệm, thăng giáng, thưởng
phạt, thuyên chuyển, quy định quyền hạn, trách nhiệm, lương bổng đối với
quan lại trong cả nước (Năm 971, Đinh Tiên Hoàng phong cho Lê Hoàn làm
Thập đạo tướng quân; Lê Thánh Tông bãi bỏ chức Đại hành khiển). Như vậy,
nhà vua chính là người đứng đầu nền hành chính quốc gia, có quyền lực rất
lớn.
- Về mặt tư pháp: Nhà vua chính là người giữ tài phán quyết cao nhất. Thế
hiện ở việc vua là người có quyền quyết định cuối cùng đối với bất cứ một vụ
án nào. Các bản án vua đã xét xử (dù là sơ thẩm hay phúc thẩm) đều không ai
có quyền xét xử lại, không được thụ lý các vụ án mà triều vua trước đã xử…
Bên cạnh đó, vua là người duy nhất có quyền đại xá hay đặc xá cho các can
phạm.
- Về mặt quân sự: Vua chính là người đứng đầu quân đội, là Tổng tư lệnh
quân đội, có quyền bổ nhiệm, bãi miễn các chức trong bộ máy quân sự; ban
hành các chính sách quân sự (nhà Lý - chính sách Ngụ binh ư nông)
- Về mặt ngoại giao: Nhà vua là người đại diện hợp pháp duy nhất trong các
quan hệ bang giao. Việc đón tiếp hay cử các sứ thần đi bang giao, ký tên các
hiệp ước… đều phải do nhà vua trực tiếp hay cử người đi thực hiện, không một
cá nhân hay cơ quan nào có quyền hành thay thế được.
- Về mặt kinh tế: Nhà vua là người chủ sở hữu tối cao đối với ruộng đất công
của các làng xã trong cả nước, là người duy nhất được phép ban hành các
chính sách kinh tế trong nước (nhà Lê Sơ – chính sách Lộc điền, Quân điền)
2. Nhà vua nắm thần quyền:
Ngoài vương quyền, với tư cách là con của Trời, nhà vua còn nắm trong tay cả
thần quyền, biểu hiện như:
- Trong các lễ nghi tôn giáo, nhà vua luôn là chủ tế. Chỉ duy nhất nhà vua

mới có quyền tế Trời, còn thần dân chỉ được thờ cúng tổ tiên mình và thần
thánh, quỷ thần. Vì quyền tế trời là đặc quyền của nhà vua nên trong lễ tế trời
hàng năm người ta thường gọi là tế Nam Giao, ngôi chủ tế lễ bao giờ cũng
thuộc về vua.
- Nhà vua chính là người đứng đầu bách thần trong cả nước, có quyền
phong chức tước cho thần thánh (bằng các sắc phong thần), điều động thần
thánh (quy định nơi thờ cúng thần thánh), khiển trách bằng cách thủ tiêu bằng
sắc hoặc phá hủy đền thờ…
3. Nhà vua có những đặc quyền riêng:
Với những địa vị và quyền lực lớn về vương quyền và thần quyền như trên, thì
nhà vua còn có thêm những đặc quyền, ưu quyền riêng cho mình như:
- Mọi người không được phạm đến tên huý của vua và người thân thích của
vua (
- Những gì thuộc về nhà vua đều là cao quý, nên phải dùng những ngôn từ
đặc biệt, các mỹ tự như: Thánh ý, Long thể, Ngọc tỷ, Hoàng bào, Long sàn,
Châu phê, Ngự bút…
- Màu vàng là màu y phục của vua. Quan lại và thần dân cấm không được
mặc quần áo màu vàng, trừ những người được vua ban mặc sắc vàng, làm trái
là bị tội khi quân. Từ thời Lý Cao Tông trở đi, chỉ nhà vua mới được mặc áo
sắc vàng thêu rồng và trâm cài búi tóc bằng vàng.
- Nhà vua có quyền được thần thánh hoá qua các sử quan, chịu trách nhiệm
ghi chép. Như tương truyền khi mới sinh ra, Lý Thái Tổ toả ra một ánh hào
quang rực rỡ, ở hai lòng bàn chân có hiện hai chữ “Vương”. Và sự ra đời của
triều Lý đã được dự báo từ trước bởi một bài thơ kỳ lạ xuất hiện dưới gốc cây
bị sét đánh cũng như rất nhiều các truyền thuyết dân gian khác về các vị vua
như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Thánh Tông…
4. Những yếu tố kiềm chế và hạn chế quyền lực của nhà vua:
a. Yếu tố kiềm chế quyền lực của nhà vua:
- Bổn phận thân dân của nhà vua: xuất phát từ quan điểm Thiên nhân tương
dữ, ý Trời được thể hiện qua lòng dân. Nên muốn thực hiện được Thiên Mệnh

thì nhà vua phải thân dân, phải quan tâm đến đời sống của nhân dân, Mạnh Tử
có nói rằng: “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (ý muốn nói dân là quí
hơn hết, sau mới tới giang sơn xã tắc sau cùng mới tới Vua). Như Lê Lợi đã
nói: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, hay rất nhiều các vị vua thời Lê, Nguyễn
đã ban hành các chính sách miễn lao dịch, binh dịch cho nhân dân.
b. Yếu tố hạn chế quyền lực của nhà vua:
- Các tập quán chính trị: Các tập quán chính trị từ xa xưa có sức sống rất
mãnh liệt, bởi nó dựa vào quan điểm “pháp tiên vương” của đạo Nho. Tuy có
sự thay đổi trong cách thức tiến hành, nhưng về cơ bản, các vị vua sau vẫn
luôn phải tôn trọng những tập quán chính trị - những quy tắc xử sự truyền
thống, đã được hình thành, định vị từ các đời vua trước, các triều vua trước
(tập quán truyền ngôi trọng con trai, con trưởng hay như trong “Minh Mệnh
chính yếu” của Quốc sử quán triều Nguyễn có một chương nói riêng về việc
phải noi theo chế độ của tiên vương)
- Phương thức nghị đình: Đây là một tập quán chính trị trong các triều đại
Phong kiến Việt Nam, yêu cầu các vị vua trước khi đưa ra những quyết định
quan trọng cần tham khảo ý kiến của Hội đồng đình thần trong các phiên triều
hay các vị Bô lão như trong Hội nghị Bình Than, Hội nghị Diên Hồng…
- Chế độ khoa cử: Nhà vua luôn phải tôn trọng và tuân theo chế độ khoa cử,
không thể tuỳ tiện muốn cho bất kỳ ai làm quan cũng được, mà còn phải căn cứ
vào sự đỗ đạt của nho sỹ để tuyển bổ làm quan (Năm 1075, Lý Nhân Tông mở
khoa thi đầu tiên tuyển nhân tài, năm 1086 thi lấy người có văn học trong nước
sung làm quan Hàn lâm viện)
- Chế độ tự quản làng xã: Do tồn tại nhiều tàn dư thời công xã nông thôn và
ảnh hưởng của hơn mười thế kỷ chống đồng hoá thời Bắc thuộc, làng xã Việt
Nam trong lịch sử luôn mang tính tự quản, tự trị cao, khiến nhà vua cũng phải
tôn trọng.
IV. Những điểm khác nhau trong địa vị và quyền lực của nhà vua trong
nhà nước Phong kiến Việt Nam với nhà nước Phong kiến khác:
Về cơ bản, so với phương Tây, mức độ tập trung quyền lực vào tay nhà vua ở

nước ta thời Phong kiến là cao hơn phương Tây cùng thời. Không những thế,
nhà vua phương Tây không hề nắm trong tay thần quyền, thậm chí còn bị lệ
thuộc khá nhiều vào thần quyền do tầng lớp các tăng lữ, giáo sĩ nắm giữ và
không được thần thánh hoá. Hay như ở Ấn Độ, nhà vua Ấn Độ cũng không thể
nắm giữ được thần quyền vì đây là một quốc gia đa tôn giáo.
Đặc biệt, so với Trung Quốc là quốc gia ngay gần kề với nước ta cũng có
những điểm khác biệt trong địa vị và quyền lực của nhà vua. Tiêu biểu nhất đó
chính là sự tập trung quyền lực của nhà vua ở Việt Nam ta không đạt đến trình
độ cao, đạt đến mức cực đoan, chuyên chế, chính vì các yếu tố kìm chế, hạn
chế đã nói ở trên. Đặc biệt, chỉ duy nhất ở nước ta thời kỳ này mới có yếu tố
kìm chế là chế độ tự trị, tự quản làng xã.

×