Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Hoạt động nhập khẩu hàng hóa của công ty FPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.35 KB, 78 trang )

Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, khi mà xu thế quốc tế hoá đang diễn ra mạnh mẽ
trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế thì việc nền kinh tế của
mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới là một tất yếu xảy
ra. Đối với Việt Nam nói riêng, những quan hệ mua bán với các nước không còn
là vấn đề xa lạ nữa mà nó ngày càng trở nên sôi động hơn, nhất là sau sự kiện
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại quốc tế
(WTO) ngày 7-11-2006. Và một trong những hoạt động thương mại quốc tế
không thể không kể đến là hoạt động nhập khẩu hàng hoá.
Sở dĩ như vậy là vì hoạt động này mang lại nhiều lợi ích, không chỉ với nền
kinh tế quốc dân mà còn với cả các tổ chức, các cá nhân trong nền kinh tế. Chính
vì vậy, nhập khẩu không chỉ dừng lại ở một hoạt động mà nó đã trở thành một
lĩnh vực mũi nhọn, không thể thiếu của một quốc gia.
Đối với Công ty FPT nói riêng, nhập khẩu hàng hoá đóng vai trò to lớn trong
sự tồn tại và lớn mạnh của Công ty:
Thứ nhất: Nhập khẩu giúp cho công ty có thêm nguồn cung cấp đầu vào cho
sản xuất kinh doanh, đặc biệt là những vật tư, hàng hóa mà trong nước chưa sản
xuất được như: máy tính, các phụ kiện, điện thoại, các thiết bị khác,…
Thứ hai: Thông qua nhập khẩu, các doanh nghiệp có thể nhập về được những
hàng hóa có chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh. Từ đó không những tạo ra lợi ích
cho bản than Công ty mà còn cả lợi ích cho người tiêu dung.
Thứ ba: Nhập khẩu cũng tạo điều kiện tốt cho việc giao lưu, học hỏi kinh
nghiệm và thắt chặt mối quan hệ với các nhà cung cấp, bởi thông qua hoạt động
này FPT sẽ tiếp cận gần hơn với các nhà cung cấp.Qua đó, học hỏi được nhiều
kinh nghiệm quý báu, cũng như quan hệ với họ ngày càng được củng cố.
Ngoài những vai trò trên, đối với FPT, nhập khẩu hàng hoá còn có vai trò
cung cấp trang thiết bị cho cán bộ công nhân viên làm việc và đảm bảo nguồn
đầu vào quan trọng cho Công ty cung ứng hàng hóa đến tay khách hàng một
cách đầy đủ, liên tục.
Một khía cạnh nữa là về đặc điểm kinh doanh của Công ty, đó là:


Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
1
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Công ty FPT đóng vai trò như một nhà phân phối và kinh doanh các sản
phẩm công nghệ cao tới người tiêu dung, trong khi đó các loại hàng hóa này là
các hàng hóa trong nước chưa sản xuất được.
Vì vậy, qua Chuyên đề này em xin đi sâu nghiên cứu hoạt động nhập khẩu
của Công ty cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT với đối tượng, nội dung
và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề như sau:
Đối tượng nghiên cứu là: Hoa
̣
t đô
̣
ng nhâ
̣
p khâ
̉
u ha
̀
ng ho
́
a cu
̉
a công ty FPT.
Nội dung chuyên đề: Nghiên cứu các vâ
́
n đê
̀
liên quan đê

́
n hoạt động nhập
khẩu ha
̀
ng ho
́
a của FPT.
Phạm vi nghiên cứu:Nhập khẩu ca
́
c sa
̉
n phâ
̉
m công nghệ thông tin phâ
̀
n

́
ng của Công ty FPT tại miền Bắc.
Về kê
́
t câ
́
u cu
̉
a chuyên đê
̀
.
Chuyên đề gô
̀

m 3 chương:
Chương I : Cơ sơ
̉
ly
́
luâ
̣
n.
Chương II : Thư
̣
c tra
̣
ng hoa
̣
t đô
̣
ng nhâ
̣
p khâ
̉
u ha
̀
ng ho
́
a cu
̉
a Công ty FPT
Chương III: Phương hươ
́
ng va

̀
gia
̉
i pha
́
p hoa
̀
n thiê
̣
n hoa
̀
n thiê
̣
n nhâ
̣
p khâ
̉
u
ha
̀
ng ho
́
a cu
̉
a Công ty FPT.
Sau đây em xin đi vào một số nội dung chính:
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
2
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA NHẬP KHẨU HÀNG HÓA.
1.1.1. Khái niệm nhập khẩu hàng hóa:
Có thể nói, từ khi nước ta mở cửa thị trường cho đến nay thì việc nhập khẩu
không phải là vấn đề gì mới mẻ và lạ lẫm nữa, nhưng để hiểu rõ hơn , trước hết
ta sẽ xem xét thế nào là nhập khẩu hàng hoá.
Theo Luật Thương mại(6/2005) “Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được
đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh
thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.”
Vậy nhập khẩu có những đặc trưng gì hay nhập khẩu khác với những loại
hình kinh doanh khác như thế nào?
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của nhập khẩu hàng hóa:
Nhập khẩu hàng hoá cũng có nhiều điểm giống như những hoạt động kinh
doanh khác, nhưng bên cạnh đó cũng có những điểm đặc thù:
Thứ nhất: Về chủ thể tham gia.
Chủ thể tham gia hoạt động này có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau,
thường thường có quốc tịch khác nhau. Vì vậy, khi tiến hành hoạt động này cần
quan tâm nhiều đến vấn đề ngôn ngữ, văn hoá, khí hậu,…vì những điểm khác
nhau này tạo ra nhiều khó khăn trong quá trình giao dịch và kí kết cũng như thực
hiện hợp đồng nhập khẩu giữa các bên.
Do vậy, người tiến hành hoạt động này cần phải là người có trình độ nghiệp
vụ cao, hiểu biết về văn hóa, kinh tế, xã hội của các nước trên thế giới, giỏi
ngoại ngữ và có những đức tính cần thiết khác.
Thứ hai: Về đối tượng nhập khẩu.
Theo khái niệm trên về nhập khẩu hàng hoá thì đối tượng nhập khẩu là các
loại hàng hóa. Trong đó, các hàng hoá này có sự dịch chuyển qua biên giới quốc
gia hoặc qua biên giới hải quan (như qua biên giới khu chế xuất) và các hàng hoá
này phải đáp ứng được yêu cầu của các rào cản thương mại trên thị trường. Mặt
khác, do được vận chuyển qua một khoảng cách xa nên hàng hoá có thể gặp

nhiều rủi ro dẫn đến tổn thất không nhỏ cho các chủ thể tham gia kinh doanh. Vì
vậy, hoạt động nhập khẩu gắn liền với một loạt các hoạt động quan trọng khác
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
3
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
như: vận tải, bảo hiểm, đóng gói hàng hoá. Do đó, người làm nhập khẩu không
chỉ phải hiểu về hàng hoá mình nhập khẩu mà phải hiểu được các nghiệp vụ liên
quan khác để tiến hành nhập khẩu một cách an toàn và hiệu quả.
Thứ ba: Về thanh toán.
Vấn đề thanh toán trong nhập khẩu hàng hóa nói riêng và xuất nhập khẩu nói
chung rất đa dạng và phức tạp. Điều đó được thể hiện qua những mặt sau:
Một là: Các chủ thể tham gia thuộc các quốc gia khác nhau, mà mỗi vùng
lãnh thổ, mỗi quốc gia đều có hệ thống tiền tệ riêng. Do vậy, đồng tiền thanh
toán sẽ là ngoại tệ đối với ít nhất một bên.
Mặt khác, mỗi đồng tiền có khả năng thanh khoản, mạnh yếu khác nhau, độ
ổn định về giá trị trên thị trường quốc tế khác nhau, do đó việc chọn đồng tiền
nào là đồng tiền thanh toán là việc cần cân nhắc kĩ lưỡng vì nó chịu ảnh hưởng
của tỉ giá hối đoái trên thị trường. Mỗi một sự thay đổi tỷ giá hối đoái liên quan
đến đồng tiền được chọn làm đồng tiền thanh toán đều có thể làm thay đổi tỷ suất
ngoại tệ nhập khẩu ảnh hưởng đến kết quả nhập khẩu hàng hoá.
Hai là :Việc lựa chọn phương thức thanh toán
Trong buôn bán quốc tế, hiện nay có 9 phương thức thanh toán. Trong đó có
phương thức thì chỉ đảm bảo cho người bán như phương thức CAD-Cash
Against Document, hoặc chỉ đảm bảo cho người mua như phương thức Nhờ thu
phiếu trơn, hoặc có thể đảm bảo cho cả hai bên như phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ. Vì vậy, cần đảm bảo lựa chọn phương thức thanh toán an toàn,
có lợi cho công ty và giữ được mối quan hệ lâu dài với các đối tác.
Ba là: Việc thanh toán giữa các chủ thể tham gia hoạt động này diễn ra thông
qua sử dụng các phương tiện thanh toán quốc tế, như: séc, hối phiếu, thẻ tín

dụng,… Chính vì vậy các bên cần phải hiểu các phương tiện thanh toán trên để
áp dụng vào từng trường hợp một cách chính xác và an toàn.
Như vậy có thể thấy nhà nhập khẩu muốn đảm bảo hiệu quả của nhập khẩu
thì trong thanh toán cần phải hiểu và lựa chọn đúng ba điểm cơ bản là: đồng tiền
thanh toán, phương thức thanh toán và công cụ thanh toán.
Thứ tư: Về luật điều chỉnh hoạt động nhập khẩu.
Vì hoạt động nhập khẩu được diễn ra giữa các chủ thể thông thường có quốc
tịch khác nhau. Do vậy nếu như hoạt động kinh doanh trong nước chỉ chịu sự
điều chỉnh của pháp luật quốc gia thì hoạt động nhập khẩu hàng hoá chịu sự điều
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
4
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
chỉnh của Luật các quốc gia (bao gồm Luật của nước xuất khẩu, nước nhập khẩu
hoặc nước thứ ba), Luật thương mại quốc tế và các tập quán thương mại quốc tế.
Thứ năm: Những tác động của môi trường quốc tế đến doanh nghiệp tham
gia trong hoạt động nhập khẩu.
Vì bản thân hoạt động nhập khẩu đã diễn ra trong môi trường quốc tế trong
đó giữa các chủ thể và môi trường có mối quan hệ tương tác qua lại. Do đó, tất
cả những biến động của môi trường quốc tế đều tác động sâu sắc đến hoạt động
nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp . Trong đó, sự thay đổi đó có thể là sự
thay đổi tỷ giá hối đoái, sự sụt giảm hay tăng lên của nguồn cung hàng hoá, sự
thay đổi của các chính sách thương mại quốc tế, hạn nghạch,…Những biến động
trên đều ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá trong giao dịch, đến việc thực hiện hợp
đồng, đến lợi nhuận của doanh nghiệp khi tham gia nhập khẩu.
1.1.3.Vai trò của hoạt đông nhập khẩu hàng hoá.
1.1.3.1. Vai trò của nhập khẩu hàng hoá nói chung.
Có thể nói nhập khẩu hàng hoá là một trong những hoạt động cơ bản của
thương mại quốc tế. Nhìn lại lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới, chúng ta
không thể phủ nhận vai trò của thương mại quốc tế nói chung và hoạt động nhập

khẩu nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, hoạt động này có ý nghĩa sống còn với
các nước tham gia và có những vai trò to lớn, cụ thể là:
Thứ nhất: Thương mại quốc tế là lĩnh vực trao đổi, phân phối và lưu thông
hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài, nối sản xuất và tiêu dùng của nước ta với sản
xuất và tiêu dùng của các nước khác trên thế giới. Mà trong đó, phân phối và lưu
thông hàng hoá là một khâu quan trọng, có vai trò quyết định đến quá trình tái
sản xuất mở rộng. Do đó, sản xuất có phát triển được hay không, phát triển như
thế nào phụ thuộc rất nhiều vào khâu này. Vì vậy, có thể nói thương mại quốc tế
nói chung và nhập khẩu nói riêng tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước
phát triển.
Thứ hai: Từ thực tế sản xuất trong nước và quốc tế, chúng ta có thể nhận thấy
được thế mạnh cũng như điểm yếu của mình qua đó sẽ phát triển sản xuất những
mặt hàng mà quốc gia mình có lợi thế và nhập khẩu những mặt hàng mà nước đó
sản xuất hiệu quả hơn. Từ đó,chuyển đổi cơ cấu các nghành kinh tế và phân công
lại lao động xã hội cho phù hợp.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
5
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Thứ ba: Thông qua nhập khẩu, nước ta có thể tranh thủ khai thác các tiềm
năng, thế mạnh của các nước khác để thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội phát
triển trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ về khoa học công nghệ và sử dụng những
hàng hoá tốt, rẻ mà mình chưa sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả.
Thứ tư: Từ những hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá, các chủ thể kinh
doanh, các quốc gia thấy được lợi ích của việc hợp tác trong thương mại quốc tế.
Vì vậy, thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu hàng hoá nói riêng góp phần
thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế thế giới.
Thứ năm: Thông qua nhập khẩu hàng hoá cho phép quốc gia tiêu dùng các
mặt hàng với số lượng nhiều hơn, giá rẻ hơn và chủng loại phong phú hơn, góp
phần nâng cao khả năng tiêu dùng và mức sống của dân cư.

1.1.3.2. Vai trò của việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học.
Ngoài những vai trò chung kể trên, đối với riêng việc nhập khẩu mặt hàng
thiết bị tin học còn có những vai trò đáng kể sau:
Đối với quốc gia, việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học góp phần nâng cao
trình độ tin học cho toàn dân. Nhờ được tiếp xúc với những thiết bị tin học
những kiến thức về công nghệ thông tin được cập nhật, tránh sự lạc hậu so với
thế giới. Hơn nữa, sự có mặt của công nghệ thông tin đã tác động không nhỏ đến
tất cả các nghành, các lĩnh vực trong toàn nền kinh tế. Nhờ nó mà các công việc
được thực hiện nhanh hơn, chính xác hơn, từ đó tạo ra hiệu quả trong sản xuất và
trong các hoạt động khác.
Đối với doanh nghiệp nói chung, việc đưa công nghệ thông tin vào trong hoạt
động của mình góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng của quản lý,
của sản xuất trong mỗi doanh nghiệp.
Đối với riêng các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh mặt hàng thiết bị tin học
thì việc nhập khẩu mặt hàng này là nguồn đầu vào quan trọng trong bối cảnh thị
trường nội địa chưa sản xuất được. Mặt khác, trong quá trình nhập khẩu hàng
hóa doanh nghiệp có thể giao lưu, học hỏi được những kiến thức về quản lý, về
công nghệ, … làm tăng hiệu quả trong làm việc.
Xuất phát từ những vai trò quan trọng nêu trên, việc nhập khẩu mặt hàng
công nghệ thông tin là cần thiết và cần chú trọng phát triển.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
6
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
1.2. NỘI DUNG VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
THIẾT BỊ THÔNG TIN.
1.2.1. Nội dung của nhập khẩu hàng hóa thiết bị thông tin.
1.2.1.1. Nghiên cứu thị trường hàng hóa xuất khẩu.
Như các hoạt động kinh doanh khác, vai trò của nghiên cứu thị trường trong
xuất nhập khẩu rất quan trọng, giúp doanh nghiệp đánh giá chính xác về thị

trường xuất nhập khẩu, có nguồn thông tin toàn diện, chuẩn xác làm nền tảng
cho chiến lược marketing xuất nhập khẩu. Nếu không thực hiện nghiên cứu thị
trường xuất nhập khẩu hoặc thực hiện sơ sài, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với
những rủi ro rất lớn. Nghiên cứu thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp lựa chọn
thị trường xuất nhập khẩu thích hợp, lập phương án kinh doanh và tìm được
phương thức buôn bán phù hợp nhất với mặt hàng kinh doanh, với khả năng thực
tế của doanh nghiệp.
Để phục vụ cho mục đích của doanh nghiệp, khi nghiên cứu thị trường cần
quan tâm đến những vấn đề cơ bản sau:
Một là: Nghiên cứu dung lượng của thị trường:
Trươc hết, dung lượng của thị trường là khối lượng hoặc giá trị của một mặt
hàng trong một khu vực thị trường nhất định, trong một khoảng thời gian nhất
định.
Như vậy, dung lượng của thị trường thể hiện quy mô của thị trường, quy mô
xuất nhập khẩu của các nước. Khi nghiên cứu dung lượng của thị trường xuất
nhập khẩu cần làm rõ những vấn đề như:
Thứ nhất: Khối lượng sản xuất được và nhu cầu để biết được khối lượng hàng
hoá cần nhập khẩu. Thông tin này phục vụ đắc lực cho khâu đặt mua hàng, tránh
được tình trạng nhập về mà không dùng đến gây ứ đọng, lãng phí.
Thứ hai: Tìm hiểu nguồn cung cấp hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp
kinh doanh, nhu cầu hàng hoá của từng khu vực để chọn được nguồn cung cấp
đảm bảo, tìm được thị trường mục tiêu.
Thứ ba: Tìm hiểu được những nhân tố tác động đến hoạt động xuất nhập
khẩu, các nhân tố chủ quan cũng như khách quan để doanh nghiệp có thể dự
đoán được những biến động của thị trường. Từ đó vạch ra được chiến lược kinh
doanh cho mình.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
7
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp

Hai là: Về hàng hóa.
Doanh nghiệp muốn kinh doanh tốt thì phải hiểu được đối tượng mà mình
kinh doanh.Đó là các thông tin về thương phẩm, về nhu cầu thị trường đối với
hàng hóa, về điều kiện sản xuất và tiêu dùng có tính thời vụ hay liên tục, hàng
hóa đang ở thời kì nào của chu kì sống và tỷ suất ngoại tệ của việc nhập khẩu
hàng hoá (doanh nghiệp chỉ nên nhập khẩu nếu tỷ suất nhập khẩu lớn hơn hoặc
bằng tỷ giá hối đoái).
Ba là: Về giá cả.
Giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Trong buôn bán
quốc tế các nhà kinh doanh hàng hoá nhập khẩu phải nắm được chính xác giá
của hàng hoá định nhập và xu hướng biến động của nó. Giá cả của hàng hoá
được cấu thành bởi: giá vốn, giá bao bì, chi phí bảo hiểm, chi phí vận chuyển và
các chi phí khác tuỳ theo thoả thuận của các bên tham gia.
Thông thường giá cả hàng hóa nhập khẩu chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân
tố, như: giá cả trên thị trường quốc tế, độc quyền, lạm phát, cung- cầu,… Vì vậy,
người kinh doanh nhập khẩu phải phân tích được ảnh hưởng của từng nhân tố để
có thể lựa chọn được từng mức giá phù hợp.
Bốn là: Nghiên cứu môi trường chính trị, luật pháp, tập quán buôn bán , hệ
thống tài chính tiền tệ của quốc gia mà mình định nhập khẩu hàng hoá và quốc
gia mình, nghiên cứu những thông lệ quốc tế, những quy định về thương mại của
các tổ chức mà Việt Nam tham gia để đảm bảo cho việc kinh doanh hàng hoá
thực sự an toàn và ổn định.
1.2.1.2. Lập phương án nhập khẩu hàng hoá.
Thực chất là những kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu mà doanh nghiệp
xây dựng để đạt được những mục tiêu đặt ra trong chu kì kinh doanh, trong đó
phương án kinh doanh phải đưa ra được cái nhìn tổng quát về thị trường từ
những thông tin có được trong quá trình nghiên cứu thị trường xuất nhập
khẩu.Từ đó, chỉ ra những thuận lợi cũng như những khó khăn mà thị trường đem
lại khi doanh nghiệp tham gia vào quá trình kinh doanh.
Nội dung của phương án kinh doanh gồm ba phần chủ yếu, đó là:

Một là: Các mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt được trong thời gian tới.
Có thể nói, mục tiêu này như một ”kim chỉ nam” cho doanh nghiệp hướng
tới, đó là cái đích mà doanh nghiệp cần đạt được, là căn cứ để doanh nghiệp tiến
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
8
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
hành thực hiện các hoạt động để nhằm tới đạt được nó. Tuy nhiên, việc đặt ra
những mục tiêu này không phải là tùy tiện mà các mục tiêu này cần đảm bảo
được các yêu cầu về tính cụ thể, tính khả thi, tính thống nhất, tính hợp lý, tính
linh hoạt và tính lượng hóa được.
Trong đó, để đảm bảo được tính lượng hóa được thì doanh nghiệp cần đưa ra
các chỉ tiêu để đo lường kết quả kinh doanh, như: Tỷ suất ngoại tệ xuất nhập
khẩu, chỉ tiêu giá nhập khẩu hòa vốn, chỉ tiêu về lãi lỗ trong kinh doanh….
Hai là: Đưa ra phương thức kinh doanh, lựa chọn mặt hàng kinh doanh trên
cơ sở đánh giá những ưu và nhược điểm của mỗi trường hợp.
Ba là: Hệ thống các giải pháp để đạt được chỉ tiêu.
Đây là phần việc tất yếu phải vạch ra nhằm biến những mục tiêu trên thành
hiện thực. Những mục tiêu này kết hợp với những khả năng của doanh nghiệp là
cơ sở để xây dựng nên những giải pháp thực hiện. Các giải pháp này có thể chia
ra thành nhóm giải pháp ở thị trường trong nước và nhóm giải pháp ở thị trường
quốc tế, nhưng dù là nhóm giải pháp nào thì cũng cần chỉ ra cụ thể những việc
cần phải làm, làm bởi ai, làm như thế nào, thời gian để thực hiện trong bao lâu,
ngân sách để thực hiện ra sao,…
Như vậy, lập phương án kinh doanh trong hoạt động xuất nhập khẩu nói
chung và nhập khẩu nói riêng là một công việc cần phải được thực hiện bởi
những người có chuyên môn, có trình độ hiểu biết về ngoại thương vì các bộ
phận trong phương án kinh doanh có mối quan hệ mật thiết với nhau, lập phương
án kinh doanh có tốt thì hoạt động kinh doanh mới đạt hiệu quả mong muốn.
1.2.1.3.Tìm kiếm đối tác nhập khẩu.

Sau khi lập được phương án kinh doanh phù hợp thì bước tiếp theo là tìm
kiếm đối tác, giao dịch và đàm phán kí kết hợp đồng.
Để tìm kiếm đối tác cung cấp hàng hoá thì nhiều công ty có những tiêu chí
lựa chọn khác nhau như giá cả, độ tin cậy, uy tín, quy mô của nhà cung cấp, chất
lượng,... Từ việc đặt các trọng số cho các tiêu chí trên và tính điểm cho mỗi đối
tác mà công ty tiến hành so sánh và lựa chọn đối tác phù hợp nhất.
1.2.1.4. Đàm phán, kí kết hợp đồng nhập khẩu.
Trong hoạt động nhập khẩu việc kí kết hợp đồng giữa các bên là cực kì cần
thiết vì hợp đồng thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia một cách rõ
ràng và được đảm bảo thực hiện trước pháp luật.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
9
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Đàm phán trong nhập khẩu hàng hoá.
Trong thương mại nói chung và trong buôn bán hàng hoá quốc tế nói riêng thì
hiện nay có một số hình thức đàm phán phổ biến như: Đàm phán qua gặp mặt
trực tiếp, qua giao dịch thư tín, qua điện thoại.
Đối với đàm phán giao dịch qua thư tín khi sử dụng thư tín để đàm phán, giao
dịch cần phải nhớ rằng thư từ là “ sứ giả của mình” đến với đối tác, người ta sẽ
đánh giá, phê phán mình qua những thư từ mình đã gửi đến. Do vây, cần phải lưu
ý hết sức trong việc viết thư và gửi thư. Phải đảm bảo những yêu cầu lịch sự,
chính xác, khẩn trương và kiên nhẫn trong việc sử dụng hình thức đàm phán
này.
Đối với giao dịch đàm phán qua điện thoại.
Chỉ sử dụng trong trường hợp cần thiết, thật khẩn trương, sợ lỡ thời cơ hoặc
trong những trường hợp mà mọi điều kiện đã thoả thuận xong, chỉ còn chờ xác
nhận một vài chi tiết.
Khi sử dụng hình thức này cần chuẩn bị thật chu đáo để có thể trả lời ngay
mọi vấn đề được nêu lên một cách chính xác để từ đó tạo nên sự tin tưởng về

tính trung thực của mình cũng như thể hiện tính quyết đoán trong đàm phán. Sau
khi trao đổi bằng điện thoại cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán thoả
thuận vì trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng
chứng cho những thoả thuận, quyết định đã đưa ra trong trao đổi.
Đối với giao dịch đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp.
Trước đây, khi các phương tiện thông tin liên lạc chưa phát triển thì hình thức
giao dịch này được sử dụng phổ biến. Đối với hình thức giao dịch này có ưu
điểm như: Hai bên có thể trực tiếp gặp gỡ để hiểu về nhau nhiều hơn, tin tưởng
nhau hơn; có thể đàm phán được những điều khoản phức tạp mà nếu chỉ giao
dịch qua điện thoại hay thư tín thì không thể chuyển tải hết được thông tin và
không thể thống nhất được quan điểm của hai bên trong một vấn đề nào đó. Vì
vậy, hiện nay hình thức này được áp dụng nhiều cho những hợp đồng lớn hoặc
khi đối tác và doanh nghiệp lần đầu tiên hợp tác với nhau.
Ngoài ra, người ta còn kết hợp các hình thức trên trong giao dịch tùy vào từng
giai đoạn, từng yêu cầu cụ thể của công việc cũng như trong từng hợp đồng cụ
thể.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
10
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Kí kết hợp đồng ngoại thương.
Trước hết để tránh những rủi ro không đáng có trong việc kí kết hợp đồng các
doanh nghiệp cần hiểu rõ về hợp đồng ngoại thương với một số nét cơ bản sau:
Về khái niệm: hợp đồng ngoại thương hay còn gọi là hợp đồng xuất nhập
khẩu, là sự thỏa thuận của bên mua và bên bán giữa hai nước khác nhau, trong
đó quy định bên bán phải cung cấp hàng hóa và chuyển giao các chứng từ có liên
quan đến hàng hóa và quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và bên mua phải
thanh toán tiền hàng.
Về yêu cầu đối với hợp đồng ngoại thương:
Hợp đồng ngoại thương muốn có giá trị pháp lý thực hiện trong thực tế và trở

thành cơ sở để giải quyết tranh chấp (nếu có) xảy ra giữa các bên trong quá trình
thực hiện hợp đồng, thì hợp đồng ngoại thương phải đồng thời thỏa mãn được
các yêu cầu
Yêu cầu 1: Hợp đồng phải được xây dựng trên cơ sở pháp lý vững chắc. Điều
này có nghĩa là hợp đồng ngoại thương phải được xây dựng dựa trên cơ sở Luật
của nước người bán, các luật và các tập quán có liên quan đến hoạt động mua
bán hàng hóa quốc tế như: Inconterms, Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, UCP-DC và Luật Thương mại của Việt Nam ban
hành ngày 16/04/2005 và các văn phạm pháp luật hướng dẫn thi hành luật
Thương mại 2005 khác.
Yêu cầu 2: Chủ thể của hợp đồng ngoại thương phải hợp pháp. Yêu cầu này
được thể hiện trong 2 khía cạnh: Thứ nhất, chủ thể phải là thương nhân hợp pháp
có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu theo luật định; và thứ hai, những người
tham gia ký kết hợp đồng phải là những người đại diện hợp pháp cho mỗi bên,
trường hợp người khác ký phải có giấy ủy quyền hợp lệ bằng văn bản của người
đại diện hợp pháp.
Yêu cầu 3: Hình thức của hợp đồng ngoại thương phải hợp pháp.
Theo tập quán thương mại quốc tế, có hai dạng hình thức của hợp đồng là:
Hình thức thỏa thuận miệng và hình thức ký kết bằng văn bản
Ở Việt Nam, theo điều 24 của luật Thương mại 2005, thì hợp đồng ngoại
thương phải được kí kết bằng văn bản (có thể là văn bản viết, đánh máy hoặc
chuyển bằng dữ liệu).
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp
TM46B
11
Hoạt động nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học của công ty FPT - Thực trạng và giải pháp
Yêu cầu 4: Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp.
Tính hợp pháp của nội dung được thể hiện trên hai vấn đề: Nội dung chủ yếu
của hợp đồng phải đầy đủ và trong hợp đồng không chứa đựng bất cứ nội dung
nào trái với pháp luật hiện hành của nước người bán, nước người mua và trái với

tập quán buôn bán quốc tế.
Yêu cầu 5: Hợp đồng phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện của các bên tham
gia mới có hiệu lực.
Về bố cục hợp đồng ngoại thương:
Thông thường một văn bản hợp đồng ngoại thương sẽ bao bốn phần chủ yếu
là: phần mở đầu, phần thông tin về các bên, phần nội dung các điều khoản và
phần cuối của hợp đồng.
• Đối với phần mở đầu của một hợp đồng ngoại thương thường bao gồm:
Tiêu đề hợp đồng, số và ký hiệu hợp đồng và thời gian ký kết hợp đồng.
• Đối với phần thông tin về chủ thể kí kết hợp đồng, phần này sẽ nêu những
thông tin cần thiết về mỗi chủ thể tham gia. Đó là các thông tin về:Tên đơn vị,
địa chỉ đơn vị, các số máy Fax, điện thoại và địa chỉ Email, Website nếu có, số
tài khoản và tên ngân hàng mà đơn vị có tài khoản giao dịch thường xuyên.
• Đối với phần nội dung của hợp đồng ngoại thương thường bao gồm các điều
khoản trong đó gồm 6 điều khoản bắt buộc bao gồm:
Điều khoản về hàng hoá (Commodity): Điều khoản này sẽ mô tả về đối tượng
trao đổi, đó là các loại hàng hoá với những đặc trưng cơ bản.
Điều khoản về chất lượng hàng hoá (Quality) mà bên bán phải giao cho bên
mua hàng.
Điều khoản về giá cả (Price): Ghi rõ đơn giá theo điều kiện thương mại lựa
chọn và tổng số tiền thanh toán của hợp đồng.
Điều khoản về giao hàng (Shipment): Trong điều khoản này hai bên cần thoả
thuận rõ vè thời hạn và địa điểm giao hàng, việc giao hàng một lần hay nhiều lần
và việc chuyển tải hàng hóa sẽ do bên nào phụ trách.
Điều khoản về thanh toán (Payment): Trong điều khoản này hai bên thoả
thuận với nhau về thời hạn trả, đông tiền thanh toán, thanh toán bằng phương
thức nào.
Trên đây là các điều khoản chủ yếu, không thể thiếu đối với một hợp đồng
ngoại thương hợp pháp.
Sinh viên : Dương Thị Bích Lệ Lớp

TM46B
12

×