Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Phân tích nhu cầu vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn minh trường sinh những khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn vay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.02 KB, 33 trang )

1







Tiểu luận

PHÂN TÍCH NHU CẦU VỐN CỦA CÔNG TY TRÁCH
NHIỆM HỮU HẠN MINH TRƯỜNG SINH & NHỮNG
KHÓ KHĂN KHI TIẾP CẬN NGUỒN VỐN VAY

2


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 4
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY VÀ NGÀNH KINH DOANH 6
1.1. Giới thiệu về Công ty TNHH Minh Trường Sinh 6
1.2. Tổng quan về ngành và môi trường kinh doanh 6
1.2.1. Tổng quan về ngành ô tô Việt Nam 6
1.2.2. Môi trường kinh doanh 8
Chương 2 : PHÂN TÍCH NHU CẦU TÀI TRỢ CỦA DOANH NGHIỆP 10
2.1. Hoạt động sản xuất kinh doanh và kế hoạch kinh doanh 10
2.1.1. Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 10
2.1.2. Hoạt động bán hàng, tiêu thụ sản phẩm 12
2.1.3. Kết quả kinh doanh 13
2.1.4. Kế hoạch kinh doanh 14


2.2. Tình hình tài chính 14
2.2.1. Chỉ số về khả năng sinh lời: 14
2.2.2. Chỉ số về hoạt động: 15
2.2.3. Chỉ số về khả năng thanh toán: 15
2.2.4. Chỉ số đòn bẩy: 16
2.3. Nhu cầu tài trợ 16
2.3.1. Nhu cầu về dịch vụ bảo lãnh 16
2.3.2. Nhu cầu vốn ngắn hạn 17
Chương 3: PHÂN TÍCH THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA TỪNG LOẠI HÌNH
TÀI TRỢ VỐN ĐỐI VỚI CÔNG TY NÓI RIÊNG VÀ DNVVN NÓI CHUNG 20
3.1. Huy động vốn từ vay ngân hàng 20
3.1.1. Về phía ngân hàng 20
3.1.2. Về phía doanh nghiệp 21
3.2. Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu 24
3.2.1. Đối với doanh nghiệp 24
3.2.2. Về phía nhà đầu tư 25
3

3.3. Phát hành trái phiếu 27
Chương 4: ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP 28
4.1. Đề xuất hình thức huy động vốn cho Công ty Minh Trường Sinh 28
4.2. Một số giải pháp và đề xuất về huy động vốn cho DNVVN 29
4.2.1. Đối với bản thân doanh nghiệp 29
4.2.2. Đối với các Ngân hàng thương mại 29
4.2.3. Đối với cơ quan quản lý 30
KẾT LUẬN 32





















4

LỜI MỞ ĐẦU
Theo thống kê, số lượng DNVVN chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp, sử dụng
trên 50% lực lượng lao động của nền kinh tế quốc gia và đóng góp khoảng 50% GDP
hàng năm. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, trong bối cảnh kinh tế khó khăn từ năm
2011 đến nay, trong số doanh nghiệp ngừng sản xuất và phá sản thì đa phần là các
DNVVN vì đây là đối tượng mà nội lực về vốn và quản trị yếu hơn so với các khối
doanh nghiệp khác.
Khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam mới đây cho thấy, có
22,5% doanh nghiệp cho biết không thể tiếp cận được vốn vay ngân hàng vì lãi suất
quá cao, 20,2% doanh nghiệp cho rằng không đáp ứng được các điều kiện ngân hàng
đưa ra, 2,5% doanh nghiệp nói có nợ xấu, 41,6% doanh nghiệp không có nhu cầu vay
và 13,1% thuộc về các trạng thái khác. Có nhiều cơ sở để tin rằng, hơn 40% doanh

nghiệp có nhu cầu về vốn nhưng không thể tiếp cận được vốn vay đa phần là nhóm
DNVVN.
Nguyên nhân khiến khả năng tiếp cận vốn vay của DNVVN rất hạn chế bởi đặc
điểm của nhóm doanh nghiệp này là kinh doanh quy mô nhỏ, ít có chiến lược bài bản
nên không đáp ứng được điều kiện tài sản thế chấp. Nhiều dự án đầu tư, phương án
sản xuất kinh doanh của DNVVN không chứng minh được tính khả thi trong khi tình
hình tài chính thiếu minh bạch và số liệu không đáng tin cậy. Hệ quả là việc phân tích,
đánh giá tình hình tài chính của DNVVN không đủ độ tin cậy, ảnh hưởng đến quyết
định xem xét cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp. Do
đó, tỷ lệ DNVVN t iếp cận được với vốn vay ngân hàng thấp so với nhu cầu vốn thật
sự.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang hết sức khó khăn, giá cả nguyên liệu đầu vào
dùng cho sản xuất tăng, nguồn tín dụng cho sản xuất chưa được khơi thông, hàng tồn
kho nhiều, tổng cầu giảm… càng làm hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp kém hiệu quả. Nhìn chung, DNVVN thiếu điều kiện về tài sản thế chấp nên
khó tiếp cận với các nguồn tín dụng dài hạn. Không tiếp cận được với nguồn vốn tín
dụng trong bối cảnh các doanh nghiệp Việt kinh doanh dựa chủ yếu vào vốn ngân
hàng đã làm cho nhiều DNVVN rơi vào tình trạng sản xuất với thiết bị cũ, năng suất
thấp, chất lượng sản phẩm không cao và cuối cùng dẫn đến năng lực cạnh tranh bị hạn
chế.
Trước thực trạng nhiều DNVVN rơi vào tình trạng đình đốn sản xuất với lượng
hàng hóa bị tồn kho lớn, Tổng thư ký Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam Tô
Hoài Nam nhận định, mặc dù DNVVN đang rất khát vốn, nhưng việc lãi suất cho vay
hạ về mức 9 - 10% vào lúc này cũng không ích gì với các doanh nghiệp nếu như các
ngân hàng thương mại không thực thi cho các doanh nghiệp giãn nợ, đảo nợ, có cơ
hội phục hồi sản xuất. Nếu tình trạng này kéo dài, thì các DNVVN sẽ không vay vốn
5

và không còn đủ sức để đi vay, cho dù ngân hàng thương mại nới lỏng các gói tín
dụng ưu đãi hay tiếp tục hạ lãi suất. Tăng trưởng tín dụng, tính đến ngày 7/9, chỉ đạt

1,82%, trong khi ở hầu hết các ngân hàng, tín dụng DNVVN lại giảm mạnh. Những
con số thống kê cho thấy "bi kịch" khát vốn mà không tiếp cận được nguồn vốn, có
nhu cầu về vốn mà lại không dám vay vốn của số đông các DNVVN.
Vì vậy bài nghiên cứu của chúng tôi muốn phân tích các nhu cầu tài trợ vốn của
DNVVN, những khó khăn mà họ gặp phải trong quá trình tiếp cận với các nguồn vốn
để từ đó đề xuất một số giải pháp tài chính phù hợp. Giúp các DNVVN có thể tiếp cận
nguồn vốn dễ dàng hơn. Đồng thời chúng tôi xin kiến nghị một số chính sách cho vay
của các Ngân hàng sao cho phù hợp với đặc điểm và nhu cầu tài trợ vốn của DNVVN.
Về phương pháp nghiên cứu: Nhóm nghiên cứu chúng tôi xin được lấy Công ty
TNHH Minh Trường Sinh làm cơ sở nghiên cứu thực nghiệm và có liên hệ với các bài
nghiên cứu khác để từ đó rút ra giải pháp tài chính phù hợp với doanh nghiệp nghiên
cứu nói riêng và với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung.
Nội dung bài nghiên cứu gồm 4 phần như sau:
Chương 1: Tổng quan về Công ty TNHH Minh Trường Sinh và ngành kinh doanh
Chương 2: Phân tích nhu cầu tài trợ của Công ty TNHH Minh Trường Sinh
Chương 3: Phân tích thuận lợi và khó khăn của từng loại hình tài trợ vốn đối với
Công ty nói riêng và DNNVV nói chung
Chương 4: Đề xuất và giải pháp

6

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY VÀ NGÀNH KINH DOANH
1.1. Giới thiệu về Công ty TNHH Minh Trường Sinh
Công ty TNHH Minh Trường Sinh được thành lập từ năm 2000 theo giấy Đăng Ký
Kinh doanh số 0102000617 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp, với vốn điều lệ là 8
tỷ đồng. Tính đến nay, số vốn góp của các thành viên công ty đã lên tới 18,6 tỷ đồng do
ông Nguyễn Như Bội và Nguyễn Như Hưng góp vốn. Ngành nghề kinh doanh của công ty
là Đại lý bán ô tô; Buôn bán ô tô; Lắp đặt, bảo hành, bảo dưỡng, sửa chữa các mặt hàng
công ty kinh doanh (chủ yếu là ô tô, máy móc, thiết bị điện, điện lạnh); ….
Hiện tại, Công ty Minh Trường Sinh đang góp vốn vào Công ty cổ phần ô tô Nam

Hà Nội có địa chỉ tại Km12, Quốc lộ 1A, Xã Vĩnh Quỳnh, Huyện Thanh Trì, TP Hà Nội.
Tổng số tiền góp vốn vào Công ty Nam Hà Nội là: 1.800.000.000 VND tương đương với
tỷ lệ: 3,33%. Thực chất, Công ty cổ phần ô tô Nam Hà Nội cũng là vốn ông Nguyễn Như
Bội – Giám đốc công ty bỏ ra thành lập.
Trước đây, khi chưa thành lập Công ty ô tô Nam Hà Nội thì Công ty Minh Trường
Sinh ký Hợp đồng đại lý với khá nhiều đơn vị như: Vidamco (các dòng xe ô tô con, xe du
lịch); Nhà máy sản xuất ô tô 1-5; Nhà máy ô tô Ngô Gia Tự, … (các dòng xe ô tô tải, ô tô
khách ghế ngồi, giường nằm). Tuy nhiên, năm 2008 sau khi Vidamco có ý kiến về việc
Công ty ký Hợp đồng Đại lý song song với các đối tác khác ngoài Vidamco thì Giám đốc
công ty đã quyết định thành lập Công ty cổ phần ô tô Nam Hà Nội để kinh doanh dòng xe
ô tô tải, ô tô khách ghế ngồi, giường nằm.
1.2. Tổng quan về ngành và môi trường kinh doanh
1.2.1. Tổng quan về ngành ô tô Việt Nam
Trong số các ngành công nghiệp sản xuất dân dụng, ngành ô tô có liên kết đầu vào
và đầu ra rộng nhất và sự phối hợp công nghệ cao nhất. Do vậy ngành này có ảnh hưởng
lớn đến quá trình công nghiệp hóa của nền kinh tế quốc dân nhưng cũng chính bởi lý do
đó việc thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô thành công là rất khó khăn. Ngành công nghiệp
ô tô ở Việt Nam là một ngành công nghiệp non trẻ, Chính phủ Việt Nam đã tạo điều kiện
rất lớn cho việc phát triển ngành công nghiệp ô tô với mong muốn đưa ngành công
nghiệp ô tô trở thành ngành mũi nhọn vào năm 2020. Trong những năm qua Nhà nước đã
bảo hộ cho sản xuất ô tô trong nước thông qua việc ưu đãi thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế
nhập khẩu và thậm chí cả thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian tương đối dài và đã
phải trả một giá khá đắt để có được 11 liên doanh ô tô (VAMA). Tuy nhiên tính cho đến
thời điểm hiện tại,công nghiệp ô tô Việt Nam chỉ mới dừng lại ở mức lắp ráp đơn thuần.
Việt Nam vẫn chưa sản xuất được linh kiện,phụ tùng nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất lắp
ráp các loại ô tô trong nước. Bên cạnh đó giá xe ô tô ở Việt Nam thuộc vào dạng đắt nhất
trên thế giới mà tỷ lệ nội địa hóa lại không cao_đây chính là một thiệt thòi lớn cho người
tiêu dùng Việt Nam.
7


Đặc điểm nổi trội của ngành ô tô trước tiên chính là sự phức tạp của sản phẩm: nói
một cách tương đối ô tô yêu cầu nhiều linh kiện,phụ kiện hơn so với những ngành công
nghiệp khác như công nghiệp xe máy.Tính hợp nhất trong thiết kế, tính an toàn và tiêu
chuẩn cao đồng thời có kích cỡ lớn ,nhiều chức năng hơn và tốc độ cao hơn so với xe
máy.Chính vì lẽ đó ngành công nghiệp ô tô yêu cầu phụ trợ công nghiệp lớn và phức tạp
trong khi đó các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam vẫn còn nhỏ bé. Cũng vì lý do
ngành Công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam còn yếu kém mà các hãng ô tô thế giới không
còn đánh giá Việt Nam là điểm đến đầy tiềm năng trong khu vực Đông Nam Á nữa, thay
vào đó Indonesia. Theo hãng tin AFP, Bộ trưởng Công nghiệp Indonesia M.S Hidayat
vừa cho hay kinh phí nâng cấp Nhà máy Renault-Nissan ở Cikampek (Tây Java) của
Nissan sẽ cao hơn dự tính ban đầu 100 triệu đô la Mỹ. “Nhà máy sẽ tăng năng lực sản
xuất từ 100.000 xe lên 250.000 xe mỗi năm vào năm 2014”. Thông báo này được đưa ra
ngay sau khi Honda cũng vừa công bố việc xem xét xây dựng một nhà máy xe hơi mới tại
Jakarta với vốn đầu tư khoảng 337 triệu đô la Mỹ, gấp ba công suất nhà máy hiện tại của
Honda tại Indonesia, lên 180.000 xe. Nhà máy này nhắm sản xuất dòng xe nhỏ như Brio
phục vụ cho thị trường Asean. Trong khi đó, ở thị trường Việt Nam, Honda cho rằng họ
chưa khai thác hết dây chuyền nhà máy ô tô 60 triệu đô la Mỹ của mình tại Vĩnh Phúc
nên chưa có kế hoạch gì cho việc đầu tư thêm. Và hiện tại Nissan cũng chưa có được một
nhà máy chính thức tại Việt Nam mà chỉ lắp ráp xe của mình tại Công ty liên doanh Sản
xuất ô tô Hòa Bình (VMC) hoặc nhập một số xe nguyên chiếc về phân phối.
Đặc điểm thứ hai là về mẫu thiết kế cho thị trường: thiết kế ô tô thường giống nhau
giữa các nước( chẳng hạn như Toyota Camry phổ biến trên toàn thế giới).Yêu cầu của
ngành ô tô là cần được sản xuất quy mô lớn ở một địa điểm trung tâm.Đó cũng chính là
lý do mà đối với các nước đi sau việc bắt đầu sản xuất ô tô gặp khó khăn lớn so với các
ngành công nghệ khác. Thị trường của các nhà sản xuất ô tô Việt Nam là thị trường nội
địa nhưng phần lớn các liên doanh đều khẳng định thị trường Việt Nam còn hết sức nhỏ
bé ( 0.043 triệu xe vào năm 2003) .Kích cỡ thị trường là yếu tố quan trọng để phát triển
công nghiệp ô tô. Thị trường ô tô Việt Nam trong những năm qua tăng trưởng mạnh mẽ
song vẫn quá nhỏ bé để đạt được hiệu quả sản xuất
Các Công ty, Nhà máy sản xuất tập trung chủ yếu tại Hà Nội và các tỉnh thành lân

cận. Cụ thể được phân bổ như sau: Tại Hà Nội (GM Daewoo, Nhà máy sản xuất ô tô 1-
5); Tại Hải Dương (Ford); Tại Vĩnh Phúc (Toyota, Honda, Vinaxuki); Tại Bắc Giang (Xe
29 Hyundai Đồng Vàng); Tại Hưng Yên (Nhà máy sản xuất ô tô Ngô Gia Tự); Đây
cũng là một trong các khu vực tập trung đông dân cư, các nhà máy, xí nghiệp, cơ quan
nhà nước và nhu cầu cuộc sống của người dân cao hơn các nơi khác. Việc mở các Công
ty, nhà máy sản xuất lắp ráp ôtô và các đại lý kinh doanh ô tô tại Hà Nội và các tỉnh đã
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân mua sắm phương tiện đi lại đồng thời cũng giúp
các doanh nghiệp trong ngành kinh doanh hiệu quả hơn.
8

Đặc điểm thứ ba là ngành là bị ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố mang tính chu kỳ
như: tâm lý của phần đông người tiêu dùng thường đầu tư mua sắm xe vào cuối năm để
chạy vào dịp năm mới, tâm lý chạy theo xu hướng công nghệ do đó khi một mẫu xe mới
được tung ra thì thị trường oto sôi động hơn rất nhiều.
1.2.2. Môi trường kinh doanh
Theo số liệu vừa được Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) công bố
sáng nay, 9/1, doanh số bán hàng của toàn thị trường tháng 12/2012 đạt 9.983 chiếc, tăng
4% so với tháng trước. Trong số này có 7.701 chiếc lắp ráp trong nước, giảm 1%; trong
khi xe nhập đạt 2.282 chiếc, tăng 28% so với tháng trước. Toàn thị trường ô tô Việt Nam
có doanh số 92.584 chiếc, giảm 33% so với năm 2011, trong đó lượng xe du lịch (sedan,
SUV, crossover ) chiếm hơn 35.500 chiếc, phần còn lại hơn 57.000 chiếc thuộc xe
thương mại (xe tải, xe buýt…). Với số liệu trên có thể thấy năm 2012 là một trong những
năm khó khăn nhất của thị trường ô tôViệt Nam trong một thập kỷ qua. Nguyên nhân là
do khủng hoảng kinh tế thế giới và việt nam nói chung. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là
do việc tăng phí, thuế cùng với việc các loại thuế, phí mới được ban hành.
Đầu năm nay, quy định mới về khung lệ phí trước bạ ô tô tăng từ 10-15% lên 10-
20%, với mức thu cụ thể do các tỉnh, thành tự quyết. Theo đó, từ ngày 1/1/2012, mức thu
lệ phí trước bạ tại Hà Nội đối với ô tô dưới 10 chỗ tăng từ 12% lên 20%; còn tại
TP.HCM, tăng từ 10% lên 15%. Vì đây là hai thị trường ô tô lớn nhất cả nước nên việc
tăng mức thu phí trước bạ đã lập tức tác động tới tình hình tiêu thụ xe. Do đó, doanh số

của thành viên Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) trong tháng 1/2012 rơi
xuống mức thấp kỷ lục trong vòng 3 năm. Những tháng tiếp sau, doanh số có khá hơn,
nhưng vẫn ở mức thấp hơn nhiều so với năm ngoái. Tính gộp 11 tháng đầu năm 2012
(chưa có số liệu thống kê của tháng 12), VAMA bán được 71.860 xe, chỉ bằng khoảng
70% so với cùng kì năm 2011.
Cuối năm 2012, Bộ Giao Thông Vân tại có sửa đổi, bổ sung một số diều Nghị định
71 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Trong đó,
nội dung được quan tâm nhất là quy định tăng mạnh mức xử phạt đối với chủ phương
tiện ô tô, xe máy mua bán trao đổi nhưng không tiến hành thủ tục sang tên đổi chủ. Tuy
nhiên, trước phản ứng mạnh mẽ và bức xúc của người dân, Chính phủ đã yêu cầu tạm
thời không phạt xe không chính chủ, để chờ soạn thảo lại thông tư hướng dẫn thực hiện.
Trung tuần tháng 11, Bộ Tài Chính đã ban hành quy định về mức phí sử dụng
đường bộ. Theo đó, , từ ngày 1/1/2013, xe mô-tô sẽ phải nộp từ 50.000 - 150.000
đồng/năm, còn với ô tô là từ 1,56 - 12,48 triệu đồng/năm.
Nhận thấy sự không đồng nhất giữa các chính sách của các bộ ngành, mới đây chính
phủ đã có Công văn số 7895/VPCP – KTTH thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Hoàng
Trung Hải yếu cầu các bộ Tài chính, Công thương căn cứ các chức năng nhiệm vụ theo
quy định rà soát các vấn đề liên quan đến ngành công nghiệp ôtô của VN hiện nay (như
9

chính sách thuế, phí, hải quan, quản lý nhập khẩu ôtô, xuất xứ linh kiện ôtô nhập khẩu…)
và đề xuất cách giải quyết, báo cáo Thủ tướng chính phủ. Đây là tín hiệu cho thấy ngành
oto sẽ sớm ổn định được chính sách và định hướng phát triển.

10

Chương 2 : PHÂN TÍCH NHU CẦU TÀI TRỢ CỦA DOANH NGHIỆP
2.1. Hoạt động sản xuất kinh doanh và kế hoạch kinh doanh
2.1.1. Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
Tính đến thời điểm hiện nay, Công ty Minh Trường Sinh đã hoạt động được 12 năm

trong lĩnh vực kinh doanh các loại xe ô tô, đã trải qua rất nhiều các biến động của thị
trường từ thuận lợi đến khó khăn, trong đó giai đoạn khó khăn nhất có thể kể đến cuối
năm 2011 - 2012. Tuy nhiên, với bề dày kinh nghiệm của Ban giám đốc Công ty trong
hoạt động kinh doanh & tiềm lực tài chính ổn định tích lũy được trong các năm qua đã
giúp Công ty vững vàng vượt qua khó khăn & tiếp tục khẳng định tên tuổi trong làng
kinh doanh xe ô tô khu vực Miền Bắc.
Mục tiêu, chiến lược phát triển trong thời gian tới của Công ty là tiếp tục đẩy mạnh
hoạt động kinh doanh các mặt hàng truyền thống thông qua các Hợp đồng đại lý ký với
các Công ty, Nhà máy sản xuất truyền thống đặc biệt là Vidamco để trở thành đầu mối
cung cấp xe hàng đầu tại Miền Bắc.
Việc quyết định đầu tư dự án Showroom & trạm bảo dưỡng, sửa chữa xe ô tô tại
Hải Dương cuối năm 2012 - trong giai đoạn nền kinh tế vẫn tiếp tục khó khăn đã nói lên
quyết tâm của Ban lãnh đạo cũng như toàn thể đội ngũ CBNV trong việc thực hiện chiến
lược phát triển kinh doanh trong thời gian tới của Công ty.
Để thực hiện thành công chiến lược phát triển của mình, Công ty Minh Trường Sinh
đang dựa trên các lợi thế hiện có như sau:
+ Nguồn hàng đa dạng (xe lắp ráp trong nước và nhập khẩu);
+ Mặt bằng & Showrooom đẹp. Sau khi hoàn thành việc đầu tư xây dựng
Showroom trên thì Công ty có hệ thống các Showroom & văn phòng làm việc
như sau:
 Showroom & văn phòng làm việc của Công ty có diện tích 446 m
2
(diện tích
phòng trưng bày là: 200 m
2
) tại Km2 đường Pháp Vân – Phường Yên Sở -
Quận Hoàng Mai – TP Hà Nội (thời hạn thuê đến 2020).
 Showroom & văn phòng làm việc có diện tích 965,86 m
2
(diện tích phòng

trưng bày là: 350,28 m
2
) tại mặt đường QL 5 – Khu 2 Phường Cẩm Thượng
– TP Hải Dương (thời hạn thuê đến 2020).
 Showroom & trạm bảo dưỡng, sửa chữa xe ô tô & văn phòng làm việc có
diện tích 4.418,8 m
2
(diện tích phòng trưng bày là: 800 m
2
& diện tích
xưởng, văn phòng làm việc tầng 2: 2.000 m
2
) tại mặt đường QL 5 – Thôn
Tiền – TT Lai Cách – Huyện Cẩm Giàng – TP Hải Dương (thời hạn thuê đến
2034).
11

 Ngoài ra, Công ty còn có 01 điểm trưng bày tại Km2+300 đường Pháp Vân
– Phường Yên Sở - Quận Hoàng Mai – TP Hà Nội (chờ cải tạo để đưa vào
sử dụng) & văn phòng làm việc có diện tích 90 m
2
tại số 91 Nguyễn Du –
Phường Trung Đô – TP Vinh – Nghệ An.
 Thực tế là 02 điểm giao dịch tại Pháp Vân đang chờ Cầu Thanh Trì & hệ
thống đường dẫn chạy qua trước cửa hoàn tất sau đó Công ty mới sửa sang
lại để tiếp tục khai thác. Hiện tại, các giao dịch tại khu vực Pháp Vân được
chuyển về văn phòng Công ty CP ô tô Nam Hà Nội nằm mặt đường QL 1
(gần đối diện với Vidamco).
+ Có đội ngũ nhân viên bán hàng chuyên nghiệp, có khả năng tư vấn, giới thiệu
sản phẩm cho khách hàng;

+ Cập nhật giá cả thị trường thường xuyên, nhanh nhạy;
+ Tổ chức nhiều chương trình khuyến mại, hỗ trợ khách hàng trong việc lái thử
xe, mua bán trả góp qua ngân hàng, hỗ trợ đăng ký, đăng kiểm, thay dầu, bảo
dưỡng xe theo định kỳ;
Đầu vào của Công ty: Sau một thời gian dài hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh ô
tô, Công ty Minh Trường Sinh đã thiết lập được một hệ thống các Nhà cung cấp hàng đầu
vào ổn định & rất có năng lực, uy tín như: Công ty liên doanh ô tô Việt Nam
(VIDAMCO), Nhà máy sản xuất ô tô 1-5, Nhà máy ô tô Ngô Gia Tự thông qua các Hợp
đồng đại lý được ký kết hàng năm. VIDAMCO là một trong những liên doanh sản xuất ô
tô lớn & lâu đời tại Việt Nam. Các đối tác còn lại là ô tô 1-5 & ô tô Ngô Gia Tự cũng là
các đơn vị có tiềm lực trong Vinamotor. Trong quan hệ với các đối tác trên, đặc biệt là
VIDAMCO Minh Trường Sinh luôn là đại lý số 1 với doanh số bán hàng rất lớn. Như
vậy, nguồn cung cấp hàng cho Công ty khá đa dạng từ xe du lịch đến xe khách ghế ngồi,
giường nằm (trong đó xe du lịch là chủ yếu). Thông thường, Công ty tiến hành đặt hàng
theo từng lô hàng tại Vida mco & phát hành bảo lãnh thanh toán từ Ngân hàng với thời
hạn tối đa là 30 ngày. Sau đó, Công ty tiến hành vay vốn thanh toán cho Vidamco. Chu
trình mua & bán hàng của Công ty Minh Trường Sinh được mô tả như sau:
Đặt hàng → Phát hành BLTT & nhập hàng → Vay vốn thanh toán & tiêu thụ →
Đặt hàng.
Sản lượng cung cấp: Trên cơ sở thỏa thuận trong Hợp đồng đại lý & đơn đặt hàng
từ Minh Trường Sinh. Hiện tại, Công ty đang tiêu thụ từ 400 – 500 xe các loại/năm (trong
đó chủ yếu là xe 4-5 chỗ của VIDAMCO). Với năng lực sản xuất hiện tại của Vidamco
đồng thời với vị trí Đại lý số 1 của Minh Trường Sinh thì khả năng cung cấp đủ sản
lượng là đảm bảo.
Kết luận: Như vậy, với hệ thống cơ sở Showroom, văn phòng làm việc & cơ sở bảo
trì, bảo dưỡng đầu tư rất bài bản cộng với kinh nghiệm lâu năm trong nghề của Ban lãnh
đạo Công ty & quan hệ truyền thống lâu năm với các đối tác cung cấp hàng đầu vào (đặc
12

biệt là Vidamco) thì Công ty Minh Trường Sinh sẽ có lợi thế rất lớn trong cạnh tranh với

các đối thủ. Điều này đồng nghĩa với việc rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Công ty
sẽ giảm đi rất nhiều.
2.1.2. Hoạt động bán hàng, tiêu thụ sản phẩm
Như trên đã trình bày, dòng xe du lịch luôn là dòng xe dẫn đầu trong tất cả các dòng
xe tiêu thụ tại thị trường Việt Nam cả về số lượng lẫn doanh số bán. Tính đến hết 11
tháng đầu năm 2012, số lượng tiêu thụ của dòng xe này gấp 2,4 lần dòng xe đa dụng
MPV (xếp vị trí thứ hai) cũng như dòng xe việt dã SUV (xếp vị trí thứ ba). Bên cạnh đó,
trong bảng tổng kết 5 dòng xe loại 5 chỗ bán chạy nhất trên thị trường hiện nay thì có tới
3 dòng xe thuộc về Vidamco là: GM Daewoo Lacetti, GM Daewoo Gentra & GM
Daewoo Spark. Có được kết quả này là do các dòng xe của Vida mco rất phù hợp với thị
hiếu của số đông người tiêu dùng cả về hình thức, tính năng lẫn giá cả. Cụ thể, kết quả
sản xuất kinh doanh của Vidamco năm 2011 & 2012 như sau:
+ Năm 2011, thực hiện mục tiêu “15 năm 15 nghìn xe”, Vidamco đã sản xuất
15.000 xe và số lượng bán ra là hơn 11.000 xe đạt tỷ lệ 73%.
+ Kế hoạch sản xuất xe năm 2012 của Vidamco là 11.000 xe, đến nay đã vượt kế
hoạch sản xuất và tiêu thụ là 14.000 xe, vượt tỷ lệ đạt 27%.
Mặt khác, thị trường xe ô tô tại Việt Nam hiện vẫn rất tiềm năng, tuy nhiên do cơ sở
hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành, do đó thời gian tới phân khúc
thị trường dành cho loại xe 5 chỗ vẫn rất lớn khi mà số lượng người tiêu dùng đủ khả
năng tài chính & có nhu cầu mua sắm phương tiện cá nhân ngày càng tăng. Như vậy, với
các tín hiệu khả quan trên thì khả năng tiêu thụ các sản phẩm Vidamco của Công ty là
hoàn toàn đảm bảo.
Với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động, đến nay Công ty Minh Trường
Sinh đã tạo lập được một mạng lưới phân phối rộng khắp các tỉnh thành Miền Bắc cho tới
các tỉnh bắc Miền Trung bao gồm:
+ Các Trường dạy nghề lái xe;
+ Các Công ty, Doanh nghiệp tư nhân, cá nhân, các Doanh nghiệp cho thuê xe tự
lái;
+ Các công ty kinh doanh vận tải, du lịch;
Đồng thời, với lợi thế là Đại lý số 1 của các Nhà cung cấp nên hoa hồng được

hưởng từ các Hợp đồng đại lý là cao nhất & đây chính là 1 trong những lợi thế cạnh tranh
của Minh Trường Sinh bên cạnh lợi thế đội ngũ CBNV hoạt động chuyên nghiệp, bài bản
& dịch vụ cung ứng tốt.
Về việc tổ chức hoạt động bán hàng: Hiện tại, Công ty đang duy trì phát triển mạng
lưới bán hàng rộng khắp trên địa bàn Hà Nội & các tỉnh Miền Bắc, Bắc Trung Bộ.
Phương thức bán hàng & thanh toán tiền hàng được Công ty áp dụng như sau:
13

+ Trả ngay: Chỉ chiếm khoảng 10% doanh thu.
+ Trả chậm: Chiếm khoảng 05% doanh thu. Việc trả chậm chỉ được Công ty áp
dụng đối với các DNNN quen thuộc, có quan hệ truyền thống, có uy tín thanh
toán cao & là các khách hàng tiềm năng mua theo từng lô. Tuy nhiên, Công ty
cũng chỉ áp dụng đối với các trường hợp đối tác thực sự thân thiết.
+ Trả góp: Chiếm 85% doanh thu. Đây là phương thức quen thuộc thường được
các Công ty kinh doanh xe ô tô áp dụng. Đó là khách hàng đặt cọc tối thiểu
30% trị giá xe & xuất trình bản gốc Cam kết cho vay/ Thông báo tín dụng từ
Ngân hàng cho vay vốn với trị giá tối đa 70%.trị giá xe. Sau đó, Công ty cử
người cầm giấy tờ xe & đưa xe đi đăng ký cùng khách hàng & giao Giấy hẹn
lấy đăng ký bản gốc cho Ngân hàng đồng thời chuyển xe về bãi quản lý. Ngay
sau khi Ngân hàng chuyển tiền thanh toán toàn bộ phần còn lại, Công ty sẽ giao
xe cho khách hàng.
Về chính sách giá: Công ty luôn áp dụng chính sách giá bán rất linh hoạt trong từng
thời kỳ, cụ thể là trong giai đoạn thị trường khó khăn Công ty ưu tiên giảm giá để đẩy
hàng ra, khi thị trường bình ổn, Công ty áp dụng việc bán đúng giá niêm yết & khi thị
trường sôi động nóng (cháy hàng) thì Công ty kết hợp với các Công ty thành viên để bán
giá theo giá thị trường.
2.1.3. Kết quả kinh doanh
Đơn vị: triệu VND
Mục/Năm
Năm

2010
Tăng
trưởng
so 2012
(%)
Năm 2011

Tăng
trưởng
so
2010
(%)
Năm 2012*
Tăng
trưở
ng so
2011 (%)

-

Doanh thu thuần 202.436

49% 240.307 19%
135.698
-43.53%

-

Giá vốn hàng bán 195.486


35% 233.252 19%
129.073
-44.66%

-

Lợi nhuận sau thuế

1.558

15% 1.952 25%
2.182
11.76%

Năm 2012 do ảnh hưởng rất lớn từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu & việc tách
doanh thu các mảng xe khác chuyển sang Nam Hà Nội & Minh Trường Sinh chỉ bán xe
Vidamco nên doanh thu đã sụt giảm nhiều. Tuy nhiên, do được hưởng lợi thế từ các
chính sách kích cầu của Chính phủ nên sang năm 2010 doanh thu bán xe tăng rất mạnh,
tuy nhiên, do sự gia tăng các loại chi phí sản xuất đã làm lợi nhuận của công ty chỉ tăng
được 15% so với năm 2012.
Năm 2011, hoạt động kinh doanh của công ty có nhiều khởi sắc, lợi nhuận tăng
25% so với năm 2010. Tuy nhiên sự tăng trưởng bị chững lại trong năm 2012, do bối
cảnh kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, người dân thắt chặt chi tiêu và bi quan về
những chính sách vĩ mô của nền kinh tế. Kết quả là doanh thu dự kiến của công ty bị sụt
14

giảm đến 43.53%. Tuy nhiên, với sự nỗ lực trong việc quản lý chặt chẽ các chi phí từ giá
vốn cho đến chi phí quản lý đã giúp cho mức lợi nhuận sau thuế năm 2012 dự kiến vẫn
tăng trưởng 11.78% so với năm 2011.
Trong tổng doanh thu của Công ty, doanh thu từ hoạt động bán các loại xe ô tô

chiếm đến 97%, phần còn lại 3% là doanh thu dịch vụ bảo dưỡng, sửa chữa & bán phụ
tùng.
2.1.4. Kế hoạch kinh doanh
Chỉ tiêu Năm 2012
Năm kế
hoạch
Mức độ
tăng
trưởng
Doanh thu 135.698

211.689

156%

Giá vốn hàng bán 129.073

197.482

153%

Lợi nhuận dự kiến 2.182

2.858

131%

Chu kỳ kinh doanh =360: (360/Vòng
quay hàng tồn kho + 360/Vòng quay
các khoản phải thu)

10

8


Nhu cầu vốn cho 1 vòng quay 13.000

25.000

192%

VCSH tham gia vào VLĐ 3.000

3.500

117%

Phải trả người bán 1.500

1.500

100%

2.2. Tình hình tài chính
2.2.1. Chỉ số về khả năng sinh lời:
Chỉ số Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012*

a. LN gộp/Doanh thu thuần (%) 3

3


5

b. LN trước lãi và thuế và khấu hao
(EBITDA)/Doanh thu thuần (%)
2,11

1,95

3,52

c. LN trước thuế/Doanh thu thuần
(%)
1,07

1,13

2,14

d. LN sau thuế/Tài sản dài hạn 23,04

28,66

7,58

Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời của Công ty được duy trì tốt & khá ổn định qua
các năm. Riêng đối với năm 2012, tuy mức tổng doanh thu đạt được không cao như các
năm trước nhưng các chỉ số sinh lời vẫn đạt được ở mức rất khả quan. Sở dĩ, Công ty đạt
được các chỉ số này là do giá vốn hàng bán đã giảm mạnh từ mức 97% xuống còn 95%
(do xe bán ra nhanh hơn, chi phí cho việc tiêu thụ xe giảm đồng thời chiết khấu từ

VIDAMCO & các nhà cung cấp xe khác cao hơn so với các năm trước) trong khi các chi
phí khác đều được quản lý tốt đã làm cho mức lợi nhuận cũng như các chỉ số sinh lời đạt
được khả quan hơn. Tuy nhiên, để đạt được các kết quả trên không thể không nhắc đến
tác dụng từ chính sách giảm 50% thuế VAT, 50% phí trước bạ, chính sách hỗ trợ lãi suất
của chính phủ đối với các dự án đầu tư trung, dài hạn & hiệu quả đem lại từ các dòng xe
15

mới rất phù hợp của VIDAMCO với nhu cầu người tiêu dùng trong nước như: Daewoo
Lacetti, Gentra, Matiz đời mới cải tiến.
2.2.2. Chỉ số về hoạt động:
Chỉ số
Năm
2010
Năm
2011
Năm
2012
a. Số ngày tồn kho bình quân 6

5

12

b. Số ngày phải thu 15

12

23

c. Số ngày phải trả người bán 5


1

4

d. Tổng CF QLDN/ Doanh thu thuần = (Khấu hao +
CF bán hàng + CF QLDN + chi phí khác) / Doanh
thu thuần
2

1

2

e. Hiệu quả sử dụng TS = Doanh thu thuần /Tổng
TS
10,34

10,48

3,15

Các chỉ số về hoạt động tương đối ổn định qua các năm. Cụ thể, tỷ lệ Tổng chi phí
quản lý doanh nghiệp/ Doanh thu thuần qua các năm dao động ở mức 1-2%. Đây cũng là
tỷ lệ phù hợp đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại cùng ngành nghề.
Công nợ phải thu khách hàng & hàng tồn kho của Công ty Minh Trường Sinh
không biến động nhiều. Nếu như công nợ phải thu khách hàng thường dao động từ 4–6 tỷ
đồng, thì hàng tồn kho thường dao động từ 3–5 tỷ đồng. Do đặc thù của hoạt động đại lý
bán xe ô tô là khách hàng thường đặt hàng từng lô sau đó nhận hàng về tiêu thụ hết lô lại
đặt tiếp, đồng thời việc tiêu thụ hàng của Công ty nhắm tới hệ thống các khách hàng quen

thuộc. Vì vậy, trị giá hàng tồn kho & công nợ phải thu khách hàng là khá ổn định.
Về giá cả hàng hóa: Do đây là mặt hàng xa xỉ, có thương hiệu, tiêu thụ mạnh trên
thị trường & thị trường tiêu thụ còn rất rộng lớn đồng thời đặc thù của loại hàng hóa này
là giá cả thường dao động tăng. Vì vậy, biến động lớn về giá trị hàng hóa là rất nhỏ.
Về hiệu quả sử dụng tài sản: Nếu như năm 2010 & 2011, 1 đồng vốn bỏ ra kinh
doanh sẽ lần lượt sinh ra 10,34 đồng & 10,48 đồng thì đến năm 2012 chỉ còn 3,15 đồng.
Sở dĩ năm 2012 hiệu quả sử dụng tài sản thấp hơn nhiều so với 02 năm trước là do Công
ty Minh Trường Sinh sử dụng vốn tự có & vay các tổ chức tín dụng để đầu tư lớn xây
dựng Showroom & trạm bảo trì, bảo dưỡng xe ô tô tại Hải Dương làm cho quy mô tổng
tài sản tăng trong khi mức tổng doanh thu đạt được thấp hơn nhiều so với các năm. Từ đó
đã làm cho hiệu quả sử dụng tài sản thấp. Hiệu quả sử dụng tài sản sẽ tăng dần khi dự án
đi vào khai thác.
2.2.3. Chỉ số về khả năng thanh toán:
Chỉ số Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012*
a. Khả năng thanh toán hiện
hành
1,43

1,29

1,33

16

b. Khả năng thanh toán nhanh 1,07

0,74

0,94


c. Dòng tiền ròng từ hoạt động
KD
-

1.595

3.549

d. Dòng tiền sau chi phí tài chính

-

503

2.530

e. Dòng tiền sau trả nợ -

503

2.530

g. Dòng tiền ròng từ hoạt động
kinh doanh/Lãi ngân hàng
-

1,46

3,48


h. EBITDA/Tổng nợ 0,56

0,36

0,32

i. EBIT/chi phí trả lãi vay (Khả
năng thanh toán lãi vay)
2,80

3,48

5,82

Khả năng thanh toán hiện hành của Minh Trường Sinh qua các năm đều ổn định ở
mức >1, bên cạnh đó chỉ tiêu thanh toán nhanh của Công ty cũng giữ ở mức khá tốt (gần
1), các chỉ tiêu này thể hiện khả năng có thể thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thanh toán của
Công ty trong ngắn hạn.
Nếu như dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh năm 2011 chỉ là 1.595 triệu đồng
thì sang năm 2012 dòng tiền này đã được cải thiện tốt hơn nhiều & đạt mức 3.549 triệu
đồng. Điều này có được là do trong năm 2012, bên cạnh việc chiếm dụng được nguồn
vốn từ đối tác (877 triệu đồng) thì Công ty Minh Trường Sinh còn giảm được phần trả
trước cho người bán (1.828 triệu đồng) cũng như tiết kiệm được khá nhiều chi phí bán
hàng & chi phí quản lý doanh nghiệp (554 triệu đồng).
Dòng tiền sau chi phí tài chính & dòng tiền sau trả nợ đều dương, thể hiện việc
Công ty hoàn toàn đủ khả năng thực hiện các nghĩa vụ trả nợ.
2.2.4. Chỉ số đòn bẩy:
Đơn vị: Lần
Chỉ số Năm 2010 Năm 2011 Năm
2012*

a. Nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu 1,05

1,30

1,07

b. Vay ngân hàng/Vốn chủ sở
hữu
0,61

1,10

0,93

Do người đứng đầu Công ty là ông Nguyễn Như Bội là người có kinh nghiệm rất
lâu năm trong lĩnh vực hoạt động & làm ăn rất chắc chắn nên chỉ số đòn bẩy về vốn
không được sử dụng triệt để.
Kết luận: Nhìn chung tình hình tài chính của khách hàng là khá tốt. So sánh với doanh
nghiệp khác trong ngành thì hoạt động của Minh Trường Sinh ổn định, hiệu quả, công ty
không bị mất cân đối nguồn vốn.
2.3. Nhu cầu tài trợ
2.3.1. Nhu cầu về dịch vụ bảo lãnh
17

 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng:
- Trị giá bảo lãnh: 8.000.000.000 VND (Tám tỷ đồng chẵn).
- Đơn vị thụ hưởng: Công ty ô tô Việt Nam – Daewoo (nhà cung cấp chính của Minh
Trường Sinh).
- Nội dung bảo lãnh: Bảo lãnh thực hiện Hợp đồng sẽ được ký kết giữa Minh Trường
Sinh và Vidamco.

- Trị giá ký quỹ: 1.200.000.000 VND (tương đương với 15% trị giá thư bảo lãnh).
- Thời hạn bảo lãnh: 12 tháng kể từ ngày phát hành bảo lãnh.
Năm 2013 là năm đầu tiên Công ty ô tô Việt Nam – Daewoo (VIDAMCO) bắt đầu
áp dụng chính sách yêu cầu các Đại lý của Công ty phải phát hành bảo lãnh thực hiện
Hợp đồng có thời hạn 12 tháng trước khi ký kết Hợp đồng đại lý. Mục đích của việc phát
hành bảo lãnh thực hiện hợp đồng chính là việc đảm bảo 100% các đơn đặt hàng của hệ
thống đại lý của Vidamco đều được thực hiện tại mọi thời điểm (khi thị trường thuận lợi
cũng như thị trường khó khăn).
Yêu cầu sản lượng tối thiểu hàng năm của Vidamco đối với các đại lý được xác
định trên cơ sở sản lượng đăng ký của các đại lý. Năm 2013, Minh Trường Sinh đăng ký
tiêu thụ tối thiểu 600 xe các loại. Với năng lực hiện tại việc đạt sản lượng đăng ký của
Công ty là hoàn toàn có cơ sở.
 Bảo lãnh thanh toán:
Do đặc thù của ngành ô tô nói chung cũng như các Công ty kinh doanh thương mại
xe ô tô nói riêng thì việc mua, bán xe thường gắn liền với nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán
từ Ngân hàng. Do đó, Công ty thường xuyên phát sinh & phải có thư bảo lãnh thanh toán
trước khi nhận từng lô hàng. Với đặc thù đó, Minh Trường Sinh cần thiết được một tổ
chức tín dụng cấp hạn mức bảo lãnh thanh toán ngắn hạn.
Thực tế trong năm 2011, 2012, Minh Trường Sinh thường sử dụng nghiệp vụ phát
hành bảo lãnh thanh toán qua Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam – CN Nam Hà
Nội với hạn mức bảo lãnh tối đa 8 tỷ đồng. Hạn mức bảo lãnh thanh toán Minh Trường
Sinh cần trong năm 2013 sẽ được xác định căn cứ vào kế hoạch kinh doanh nằm trong
tổng nhu cầu vốn ngắn hạn và được trình bày chi tiết dưới đây.
2.3.2. Nhu cầu vốn ngắn hạn
Đối với nhu cầu vốn ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất
kinh doanh, do có tính luân chuyển nhanh nên việc tài trợ vốn theo hình thức hạn mức tín
dụng ngắn hạn là phương án tài trợ hợp lý nhất đối với Minh Trường Sinh.


18


Đơn vị tính: Triệu đồng
Nhu cầu vốn ngắn hạn
Chỉ tiêu Năm 2012 Năm 2013
Mức độ tăng
trưởng
Doanh thu 135.698

211.832

156%

Giá vốn hàng bán 129.073

197.004

153%

Lợi nhuận dự kiến 2.182

2.852

131%

Chu kỳ kinh doanh =360: (360/Vòng
quay hàng tồn kho + 360/Vòng quay
các khoản phải thu)
10

8



Nhu cầu vốn cho 1 vòng quay 13.000

25.000

192%

Vốn chủ sở hữu tham gia vào vốn lưu
động
3.000

3.500

117%

Phải trả người bán 1.500

1.500

100%

Tài trợ từ các tổ chức tín dụng khác 8.500

20.000

118%

Vốn vay khác 0


0


Hạn mức bảo lãnh thanh toán 8.000

10.000

125%

Bảo lãnh thực hiện hợp đồng 0

8.000


Nhu cầu vốn của Công ty được xây dựng dựa trên kế hoạch kinh doanh, chu kỳ kinh
doanh và các giả định chủ yếu sau đây:
Diễn giải
Giá trị
(triệu
VND)
Căn cứ
Doanh thu 211.832
Trong năm 2010, Công ty đã đạt mức doanh thu là hơn 202
tỷ đồng, doanh thu năm 2011 tăng lên hơn 240 tỷ đồng.
Tuy nhiên sang năm 2012 do bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế trong nước bị
chững lại và có nhiều diễn biến bất lợi nên doanh thu cả
năm đã sụt giảm rất nhiều & chỉ đạt gần 136 tỷ đồng bằng
56,5% so với năm 2011. Sang năm 2013, Công ty dự tính
sẽ đạt mức doanh thu gần 212 tỷ đồng tăng 56% so với

năm 2012 nhưng chỉ bằng 88% doanh thu của cả năm
2011. Mức dự kiến này được tính toán rất thận trọng dựa
trên tình hình thị trường được dự báo là đã khởi sắc hơn
nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, trong khi cơ sở hạ tầng,
năng lực bán hàng cũng như cung cấp dịch vụ đã được đầu
tư tăng gấp đôi. Mặt khác với các dòng xe Vidamco thế
mạnh đã được thị trường chấp nhận & đánh giá trong thời
gian qua sẽ góp phần không nhỏ vào việc thực hiện tốt kế
19

hoạch năm 2013 của Minh Trường Sinh. Như vậy, kế
hoạch về doanh thu của Công ty là khả thi.
Giá vốn 197.004
Chiếm khoảng 93% doanh thu của Công ty. Tỷ lệ giá vốn
hàng bán/doanh thu dự kiến trong năm 2013 tuy có thấp
hơn một chút so với năm 2012. Tuy nhiên, tỷ lệ này là phù
hợp do sau khi Công ty đầu tư lớn vào Showroom & trạm
bảo dưỡng, sửa chữa tại Hải Dương thì Công ty đã thật sự
trở thành đại lý số 1 của Vidamco nên chính sách về chiết
khấu, ưu đãi bán hàng cao hơn trước.
Tổng chi phí 11.026
= Chi phí quản lý + Chi phí bán hàng + Chi phí tài chính.
Tổng các chi phí này chiếm khoảng 5% tổng doanh thu và
cao hơn so với năm 2012. Mức này là phù hợp do chi phí
tài chính đang tăng ở mức rất cao đồng thời chi phí bán
hàng dự kiến trong năm nay cũng sẽ tăng cao do ngành
không còn được hưởng các chính sách ưu đãi nữa.
Lợi nhuận
trước thuế
3.802 = Doanh thu - Giá vốn hàng bán – Tổng chi phí.

Chu kỳ KD dự
kiến
8
=360/ (360/Vòng quay hàng tồn kho + 360/Vòng quay các
khoản phải thu). Chu kỳ kinh doanh của năm 2012 là 10
vòng, tuy nhiên do năm 2013 kinh tế vẫn tiếp tục khó khăn
trong khi ngành không được hưởng ưu đãi như trong năm
2012 nữa. Vì vậy, thời gian dự trữ hàng tồn kho & thời
gian thu hồi công nợ khách hàng sẽ bị kéo dài hơn.
Nhu cầu vốn
cho 1 vòng
quay
25.000 = Giá vốn hàng bán/ Chu kỳ kinh doanh
Vốn tự có 3.500 = Nguồn vốn dài hạn – TSCĐ & ĐT dài hạn.
Phải trả nhà
cung cấp
1.500
Theo dự báo nền kinh tế sẽ sáng sủa hơn trong năm 2013
tuy nhiên vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, vì vậy việc trả
chậm tiền hàng cho các nhà cung cấp sẽ khó được chấp
nhận, do đó Công ty dự kiến mức tương đương với năm
2012 là phù hợp.
Vay vốn từ các
Ngân hàng
20.000
= Nhu cầu vốn cho 1 vòng quay – Phải trả nhà cung cấp –
Vốn tự có.
Kết luận: Nhìn chung, các chỉ tiêu trong kế hoạch kinh doanh của Công ty được
tính toán rất thận trọng & khá sát với thực tế. Phương án kinh doanh của Công ty khả thi,
hiệu quả, nhu cầu vay vốn Ngân hàng 20 tỷ đồng là hợp lý với quy mô hiện tại & hoạt

động trong thời gian tới của Công ty Minh Trường Sinh.

20

Chương 3: PHÂN TÍCH THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA TỪNG
LOẠI HÌNH TÀI TRỢ VỐN ĐỐI VỚI CÔNG TY NÓI RIÊNG VÀ
DNVVN NÓI CHUNG
3.1. Huy động vốn từ vay ngân hàng
3.1.1. Về phía ngân hàng
Đầu tiên, chúng ta nói đến chiến lược của ngân hàng, các ngân hàng dường như vẫn
chỉ “tin tưởng” và các doanh nghiệp lớn hoặc các dự án lớn của những doanh nghiệp lâu
năm, có uy tín. Điều này thể hiện ở việc, dòng vốn chủ yếu của các ngân hàng vẫn chảy
vào các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn hay công ty có thứ hạng trên thị trường, cho dù
97% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 50% GDP, trong đó
26,000 doanh nghiệp vừa và nhỏ làm về thương mại, 6000 doanh nghiệp trực tiếp sản
xuất. Thế nhưng, thị trường mở cửa cho doanh nghiệp mở ra ồ ạt với quy mô nhỏ không
thể tạo niềm tin cho nhà đầu tư, ngân hàng thương mại, nhiều doanh nghiệp chỉ có vốn
đăng ký hợp pháp dưới 5 triệu VNĐ đã được chính thức thành lập, nhiều khi chỉ là tự hộ
gia đình kinh doanh phát triển lên, nhiều doanh nghiệp chỉ lập ra như một “công ty ma”,
rất khó có tính thuyết phục. Ở góc độ nhìn nhận như thế này của ngân hàng đã gây ra khó
khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ khó có thể cạnh tranh, ngay cả từ việc vay vốn
nếu như bên cạnh đó, một doanh nghiệp lớn, hay một công ty có thứ hạng cũng muốn vay
vốn cùng thời điểm, kể cả là số vốn doanh nghiệp vừa và nhỏ vay có nhỏ hơn rất nhiều.
Thứ hai, hệ thống ngân hàng vẫn luôn nhìn doanh nghiệp với nhiều yếu kém còn tồn
tại trong thời gian qua. Trình độ quản lý luôn là cái nhìn đầu tiên của ngân hàng vào các
doanh nghiệp. Với trình độ quản lý thiếu chuyên nghiệp, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm
thì rất khó thuyết phục được ngân hàng. Tiếp theo đó, ngân hàng sẽ có cảm giác đồng
tiền của họ sẽ gặp rủi ro mang tính mất mát nhiều hơn vì quả thực những doanh nghiệp
này không có sự phân biệt giữa tài sản của doanh nghiệp và tài sản của ông chủ doanh
nghiệp. Việc này sẽ có tác động rất lớn nếu như dự án của họ phá sản sẽ kéo theo đồng

tiền của ngân hàng mà sau đó sẽ không biết đòi ai, lấy tiền của ai? Sự yếu kém về trình
độ quản lý còn thể hiện ở mặt quản lý tài chính và kế toán. Nhiều khi, doanh nghiệp vừa
và nhỏ chỉ “chạy theo thị trường” mà làm theo hướng “chộp giật”. Việc chạy theo xu
hướng của thị trường mà không phát triển một hoặc một vài loại sản phẩm cố định để tạo
thương hiệu sẽ rất khó khăn trong việc quản lý ngành nghề kinh doanh. Thị trường thì
thay đổi từng ngày, thị hiếu cũng thay đổi điều này khiến cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ liên tục thay đổi và chỉ làm theo thời điểm hoặc thời kỳ ngắn, kinh doanh không dài
hạn sẽ khiến ngân hàng khó có thể biết được đồng tiền của mình sẽ trôi nổi và đầu tư cho
ai, làm cái gì và sử dụng như thế nào. Ngoài ra, việc sử dụng lao động thiếu tay nghề
cũng là một trong số những rủi ro được các nhà đầu tư quan tâm. Việc tuyển nhân sự
nhiều khi chỉ dựa vào tình huống đặc biệt, mà không xét nhiều đến trình độ, dẫn đến nếu
có sự thay đổi sẽ không kịp thay đổi theo và làm chậm tiến độ, nhiều khi không thể bù
đắp được chi phí bỏ ra khiến cho lỗ xảy ra. Lúc này, với vốn tự chủ nhỏ, các doanh
21

nghiệp sẽ khó khăn cho việc trả nợ hơn rất nhiều và hầu như là nếu xảy ra biến cố sẽ
khiến cho doanh nghiệp mất tự chủ và phá sản. Vấn đề này thường gọi tên là phát triển
nhân sự, nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, như đã nói ở trên, vì trình độ của cả nhà
quản lý lẫn người tuyển dụng đều khá hạn chế, không quan tâm đặc biệt tới nhân sự sẽ rất
khó khăn trong việc đánh giá đúng thực lực của doanh nghiệp, liệu rằng có đủ sức để
thực hiện kế hoạch phác ra hay không? Nhiều người làm tín dụng còn cho rằng: “Những
người có trình độ cao làm việc ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có, nhưng chủ yếu
chỉ làm để tích lũy kinh nghiệm và rồi sẽ chuyển sang các doanh nghiệp lớn hơn để tiếp
tục sự nghiệp” – đây là một trong số những rào cản trong công cuộc phát triển nhân sự -
một trong những tiêu chí quan trọng mà ngân hàng muốn đánh giá doanh nghiệp. Một
trong số những điều quan trọng nhất, gây e ngại cho nhà đầu tư nói riêng và các ngân
hàng nói chung, đó là thông tin của doanh nghiệp. Những số liệu thường không sẵn có
cho từng doanh nghiệp, kể cả số liệu ngành và số liệu doanh nghiệp. Những doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, thường thời gian hoạt động nhỏ hơn 10 năm, tức là những
doanh nghiệp này vẫn là những doanh nghiệp mới, nhiều khi không biết đến tên, hay

ngành nghề sản xuất của họ. Những thông tin mà doanh nghiệp cung cấp rất khó tin cậy,
thường thì không chính xác. Như đã nói ở trên, vì còn hạn chế nhiều trong khâu quản lý
tài chính và kế toán, vì thế mà sự nhất quán về các bản khai báo cáo tài chính giữa các
năm, ngoài ra còn thiếu công khai ở những nghiệp vụ quan trọng trong công việc giao
dịch kinh doanh. Ở doanh nghiệp vừa và nhỏ, thường thì có 2 loại báo cáo tài chính khác
nhau, một dành cho cơ quan thuế, và một là dùng cho việc đi vay tín dụng, 2 bản khai này
không ai biết chính xác là cái nào đúng, cái nào chính xác, cái nào sai … công tác kiểm
toán vì thế cũng gặp khó khăn, và thường không thể thực hiện được chức năng kiểm toán
của mình.
Cũng xuất phát từ hạn chế của năng lực quản lý, nó còn gây ra những khó khăn nữa
trong việc thẩm định dự án của ngân hàng, đó là kế hoạch và đề án kinh doanh. Thường
thì những đề án gửi lên để vay vốn rất sơ sài, thiếu chi tiết và rất khó kiểm tra độ rủi ro và
mất mát khi thực hiện dự án ấy. Ngoài ra, tài sản thế chấp của doanh nghiệp cho ngân
hàng thường không đủ để bù đắp nếu rủi ro xuất hiện và điều này làm cho ngân hàng
không thể rót tiền vào dự án ấy được. Ngoài ra, phía ngân hàng cũng cảm thấy rằng, pháp
luật về doanh nghiệp loại vừa và nhỏ còn yếu kém, vì thế nếu không may, rủi ro xuất hiện
gây ra mất mát thì khả năng thu hồi vốn cho ngân hàng dường như là không thể.
Tất cả những điều trên là những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư và cả các ngân
hàng cũng e ngại, khiến cho khả năng huy động vốn của doanh nghiệp gặp nhiều bất lợi.
Thế nhưng, quả thực nhìn từ giác độ của chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ này, chúng
ta cũng có thể xem xét để đưa ra những nguyên nhân khiến chính họ không thể vay tiền
hay huy động vốn.
3.1.2. Về phía doanh nghiệp
22

Trước tiên phải nói đến đó là do chính đặc điểm của loại hình doanh nghiệp vừa và
nhỏ là: vốn ít, trình độ quản lý, năng lực công nghệ còn hạn chế, mức độ rủi ro của đầu tư
khá cao vì vậy mà thiếu vốn là một tất yếu.
- Về năng lực của lãnh đạo điều hành doanh nghiệp:
Do môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức

Thương mại Thế giới (WTO), cạnh tranh càng lớn thì khả năng thành công của doanh
nghiệp càng nhỏ. Vì vậy, việc lựa chọn kinh doanh trong lĩnh vực nào và cạnh tranh bằng
cách nào để doanh nghiệp thành công tùy thuộc hoàn toàn vào khả năng, năng lực của
lãnh đạo điều hành doanh nghiệp. Phần lớn các lãnh đạo điều hành doanh nghiệp đều
trưởng thành và đi lên từ thực tiễn, nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).
Các lãnh đạo điều hành này thường đi từ kinh nghiệm hoạt động kinh doanh thực tiễn của
mình chưa được đào tạo qua trường lớp, nên không nắm bắt được nguyên lý hoạt động
của ngành nghề kinh tế đặc thù mà doanh nghiệp đang hoạt động. Nhiều lãnh đạo doanh
nghiệp không có bằng cấp phù hợp với lĩnh vực mà doanh nghiệp mình đang hoạt động,
điều đó cũng tạo khó khăn cho việc đánh giá năng lực điều hành lãnh đạo doanh nghiệp
của các NHTM. Mặt khác, thực tế nữa là lãnh đạo doanh nghiệp không được đào tạo bài
bản nên phần lớn các lãnh đạo doanh nghiệp tại Việt Nam thường không biết cách quản
lý dòng tiền hoặc quản lý dòng tiền không hiệu quả, đầu tư dàn trải dẫn đến các NHTM
thường đánh giá năng lực lãnh đạo doanh nghiệp ở mức thấp.
- Báo cáo tài chính thiếu minh bạch
Số liệu trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp (nhiều nhất là DNNVV) thường
không trung thực và thiếu minh bạch. Số liệu thiếu thống nhất, chưa theo kịp các chuẩn
mực quốc tế đang là rào cản lớn đối với doanh nghiệp khi tiếp cận vốn từ NHTM.
Theo quy định của Việt Nam hiện nay, có 6 loại doanh nghiệp bắt buộc phải được
kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm. Riêng các doanh nghiệp, tổ chức thực hiện vay
vốn ngân hàng thì được kiểm toán theo quy định của pháp luật về tín dụng. Tuy nhiên,
phần lớn các DNNVV đều không kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm. Nếu các NHTM
yêu cầu doanh nghiệp kiểm toán báo cáo tài chính thì trở thành một rào cản và tăng chi
phí cho các doanh nghiệp.
Tiếp nữa, các chuẩn mực kế toán hiện hành của Việt Nam là khá rõ ràng và đầy đủ
nhưng chỉ so với điều kiện thị trường tại Việt Nam, chưa phù hợp chuẩn mực kế toán
theo thông lệ quốc tế. Trong khi đó, việc phân loại khách hàng doanh nghiệp để cho vay
của các NHTM hiện nay lại đang dựa theo chuẩn mực quốc tế, mà chủ yếu khai thác
thông tin trên báo cáo tài chính không theo chuẩn mực quốc tế của doanh nghiệp.
Vấn đề nữa là luật hiện hành không có chế tài đủ mạnh để bảo đảm các quy định về

thông tin báo cáo tài chính được thực thi một cách nghiêm túc. Bởi chế tài quá nhẹ,
không đủ sức răn đe nên nhiều nhà lãnh đạo điều hành doanh nghiệp đã không ngần ngại
23

bóp méo thông tin báo cáo tài chính. Do đó, nếu doanh nghiệp không cải thiện chất lượng
thông tin báo cáo tài chính, thì việc tiếp cận vốn các NHTM sẽ gặp khó khăn.
- Trốn thuế
Hiện tượng trốn thuế của các doanh nghiệp đang phổ biến tại Việt Nam, hầu như
các doanh nghiệp đều lách luật, cố ý hạch toán tăng chi phí không thực tế trong hoạt động
kinh doanh theo qui định để lợi nhuận trước thuế giảm tới mức tối thiểu hoặc thậm chí là
âm, làm cho kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trở nên tồi tệ có chủ ý của doanh
nghiệp.
Điều này vô hình chung, khi doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn các NHTM, các
NHTM xem xét các kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và tính toán các chỉ tiêu trên
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để phân loại, đánh giá, xếp loại khách hàng thì dĩ
nhiên đánh giá là hiệu quả thấp.
Do đó, nếu doanh nghiệp đã chủ ý trốn thuế thì khó tiếp cận vốn các NHTM, vì vậy
lãnh đạo doanh nghiệp phải thực hiện việc ghi nhận kết quả kinh doanh thực tế phát sinh
để NHTM có thể đánh giá đúng hiệu quả của việc kinh doanh.
- Thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt
Thông tư 09/2012/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có hiệu lực ngày
01/6/2012 đã quy định việc sử dụng các phương tiện thanh toán để giải ngân vốn vay của
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Theo đó, tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải sử dụng các phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt để giải ngân vốn cho vay và thực hiện thanh toán trực tiếp cho bên
thụ hưởng với số tiền từ 100.000.000 đồng trở lên cho một lần giải ngân.
Tuy nhiên thực tế, doanh nghiệp vẫn thích giải ngân bằng tiền mặt có rất nhiều lý do
để doanh nghiệp biện minh cho việc dùng tiền mặt như: bên thụ hưởng không có tài
khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Để trả lương cho người lao
động; Để bù đắp phần vốn tự có, nguồn tài chính mà khách hàng vay đã sử dụng để thực

hiện dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án
phục vụ đời sống;
Đứng trên góc độ NHTM cho vay, các lý do của doanh nghiệp đưa ra tỏ ra có lý.
Nhưng khi làm thủ tục giải ngân vốn tín dụng bằng tiền mặt thì doanh nghiệp không
chứng minh được việc sử dụng vốn vay đúng mục đích. Rõ ràng nhiều doanh nghiệp
đang lợi dụng sơ hở này sử dụng vốn vay sai mục đích, vì nhiều doanh nghiệp không đủ
hóa đơn, chứng từ chứng minh việc sử dụng vốn nên đây cũng là một rào cản trong việc
cho vay đối với NHTM.
- Tài sản bảo đảm (TSBĐ)
Các doanh nghiệp khi vay vốn các NHTM thường thiếu TSBĐ theo quy định,
nguyên nhân có nhiều lý do, nhưng nhìn chung như sau:
24

+ Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp thì cao và tài sản cố định của doanh nghiệp
thực tế trên báo cáo tài chính cũng cao, nhưng giấy phép về quyền sử dụng và
quyền sở hữu thì không có hoặc có không đầy đủ theo quy định hiện hành nên
không thế chấp để vay vốn được. Việc không có giấy phép về quyền sử dụng và
quyền sở hữu thì có nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do chi phí cho việc
có được giấy phép quyền sử dụng và quyền sở hữu lớn, thủ tục hành chính
rườm rà, cũng là một trở ngại cho doanh nghiệp.
+ Khi vay vốn NHTM các doanh nghiệp luôn bảo đảm với ngân hàng dự án,
phương án sản xuất kinh doanh khả thi, hiệu quả nhưng chỉ thiếu TSBĐ của
doanh nghiệp. Các NHTM đề nghị TSBĐ của bên thứ ba thì đại diện doanh
nghiệp hoặc người có liên quan đến doanh nghiệp không đồng ý đưa tài sản
thuộc quyền sử dụng và quyền sở hữu của mình dù rằng luôn khẳng định dự án,
phương án sản xuất kinh doanh khả thi, hiệu quả, đây cũng là vấn đề mà các
doanh nghiệp cũng phải xem lại. Trong điều kiện khó khăn của nền kinh tế hiện
nay, thiết nghĩ lĩnh vực kinh doanh nào cũng gặp rủi ro thị trường đầu ra thì để
đảm bảo hoàn vốn cho các NHTM thì việc các NHTM yêu cầu có TSBĐ là
hoàn toàn có cơ sở.

Trường hợp đặc thù đối với dự án bất động sản (BĐS), dự án BĐS được chủ đầu tư
thế chấp để vay vốn tại các NHTM, sau đó lại được chính NHTM đó hoặc NHTM khác
cho vay để khách hàng mua các căn hộ của chính dự án BĐS đó. Rủi ro từ việc cho vay
mà TSBĐ là dự án BĐS sẽ rất lớn, bởi NHTM đã hai lần giải ngân cho hai khoản vay
khác nhau mà chỉ có một TSBĐ. Đây cũng là một rủi ro về TSBĐ cho các NHTM khi
cho vay mà doanh nghiệp cần quan tâm tránh, mà nhất là các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản.
3.2. Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu
3.2.1. Đối với doanh nghiệp
Phát hành cổ phiếu là một kênh huy động vốn trung dài hạn của doanh nghiệp. Việc
phát hành thêm cổ phiếu mới nhằm huy động tăng vốn có thể thực hiện theo các hình
thức sau: Phát hành cổ phiếu mới với việc dành quyền ưu tiên mua cho các cổ đông hiện
hữu; Phát hành cổ phiếu mới bằng việc chào bán cổ phiếu cho người thứ 3, là những
người có quan hệ mật thiết với công ty như nhà cung cấp, khách hàng, nhà quản lý công
ty…; Phát hành rộng rãi cổ phiếu mới ra công chúng.
- Việc huy động vốn qua phát hành cổ phiếu đem lại cho doanh nghiệp những thuận
lợi như:
- Làm tăng vốn đầu tư dài hạn nhưng công ty không có nghĩa vụ bắt buộc phải trả lợi
tức cố định như sử dụng vốn vay, dẫn đến giảm bớt nguy cơ phải tổ chức lại hoặc
phá sản công ty.
25

- Cổ phiếu thường không quy định mức cổ tức cố định, mà nó phụ thuộc vào kết quả
kinh doanh, dẫn đến công ty không có nghĩa vụ pháp lý phải trả lợi tức cố định,
đúng hạn.
- Cổ phiếu thường không có thời gian đáo hạn vốn, nên công ty không phải hoàn trả
vốn gốc theo kỳ hạn cố định, điều này giúp công ty chủ động sử dụng vốn linh hoạt
trong kinh doanh không phải lo “gánh nặng” nợ nần.
- Làm tăng hệ số vốn chủ sở hữu, tăng tỷ lệ đảm bảo nợ của công ty, tăng thêm khả
năng vay nợ và tăng mức độ tín nhiệm, giảm rủi ro tài chính.

- Trong một số trường hợp, chẳng hạn khi công ty làm ăn phát đạt, lợi nhuận cao, cổ
phiếu thường dễ bán hơn so với cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu nên nhanh chóng hoàn
thành đợt phát hành huy động vốn.
Tuy nhiên đây không phải là ưu tiên hàng đầu của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp vừa và nhỏ do các doanh nghiệp chưa thực sự có uy tín trên thị trường, chưa thu
hút được đông đảo các nhà đầu tư. Hơn nữa, sức ép phải kinh doanh có hiệu quả khi phát
hành cổ phiếu để huy động vốn hơn các hình thức huy động vốn khác là một trở ngại
khiến các doanh nghiệp chưa mặn mà với việc huy động vốn trên thị trường chứng
khoán. Thêm vào đó, điều kiện phát hành cổ phiếu là một rào cản khá lớn khiến cho phần
lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay không thể đáp ứng và vượt qua.
3.2.2. Về phía nhà đầu tư
Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi phát hành cổ phiếu đều không đủ điều
kiện niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán, vì vậy giao dịch của các nhà đầu tư khi sở
hữu cổ phiếu của các doanh nghiệp này đều diễn ra trên thị trường phi chính thức, chủ
yếu giữa những người biết rõ về doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, phương thức giao dịch cổ
phiếu trao tay trên thị trường Việt Nam hiện nay chứa đựng rất nhiều rủi ro, bởi vì các
cuộc giao dịch mua bán cổ phiếu không bị lệ thuộc vào một nguyên tắc nào nên hoạt
động giao dịch chịu nhiều tác động của nguồn thông tin. Trong khi ấy, nguồn thông tin
trên thị trường ở Việt Nam luôn bị “nhiễu”, hầu hết các thông tin là thông tin hành lang
và có rất nhiều tin đồn, tin “thổi”, vì thế giá cổ phiếu bị nguồn thông tin chi phối. Hàng
ngày, chỉ cần xuất hiện thông tin “xấu” về tình hình hoạt động của công ty lậptức giá cổ
phiếu của công ty ấy trên thị trường sẽ giảm ngay, ngược lại với những nguồn thông tin
tốt giá cổ phiếu sẽ được đẩy lên rất cao, cao hơn hẳn giátrị thực của cổ phiếu.Với nguồn
thông tin không rõ ràng, giá cổ phiếu trên thị trường phi chính thức biến động liên tục sẽ
ảnh hưởng đến quyết định của các nhà đầu tư. Người mua và bán dễ dàng đổi ý khi nắm
được nguồn thông tin. Không chỉ vậy, các nhà đầu tư cổ phiếu OTC lại phải chịu rất
nhiều thiệt thòi vì không rõ các thông tin về các doanh nghiệp. Với kiểu hoạt động động
của thị trường cổ phiếu OTC tại Việt Nam hiện nay, không chỉ có tỉ lệ kết quả giao dịch
thành công không được đảm bảo, mà nhà đầu tư còn có thể bị lừa bằng nhiều hình thức
khác nhau như làm cổ phiếu giả, tung tin để “làm giá”…

×