Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CHÍNH SÁCH lãi SUẤT của NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG AUSTRALIA từ năm 2011 đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.75 KB, 15 trang )

1
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG AUSTRALIA TỪ
NĂM 2011 ĐẾN NAY.
I.Cơ sở lý thuyết
1.Khái quát chung về lãi suất:
1.1. Khái niệm lãi suất
Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải trả thêm một phần giá trị
ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Tỷ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần
vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất. Đó là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong
một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
1.2.1 Cung cầu quỹ cho vay
- Cầu quỹ cho vay là nhu cầu vay vốn phục vụ sản suất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các
chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Cầu quỹ cho vay được hình thành từ nhu cầu vay
vốn của các doanh nghiệp và hộ gia đình, khu vực Chính phủ và nhu cầu vay vốn của chủ
thể nước ngoài và biến động ngược chiều với lãi suất.
- Cung quỹ cho vay là khối lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể khác
nhau trong xã hội. Cung quỹ cho vay được tạo bởi số vốn dư thừa chưa sử dụng đến của
hộ gia đình, của các doanh nghiệp, của Chính phủ và của người nước ngoài. Mặc dù có
những bộ phận biến động không phụ thuộc vào lãi suất nhưng tổng hợp lại cung quỹ cho
vay phản ứng đồng biến với sự thay đổi của lãi suất trong điều kiện các yếu tố ngoại sinh
không thay đổi.
*Những nhân tố làm dịch chuyển đường cầu quỹ cho vay:
a, Lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư
+Khi nền kinh tế tăng trưởng, cơ hội đầu tư sinh lợi lớn làm lượng cầu quỹ cho vay tăng
lên ở mọi mức lãi suất, lãi suất tăng.
+Khi nền kinh tế suy thoái, cơ hội đầu tư sinh lời giảm sút, lượng cầu quỹ cho vay giảm,
lãi suất giảm.
B, Lạm phát dự tính
+Mức lạm phát dự tính tăng, làm chi phí thực dự tính của việc vay tiền ở mức lãi suất cho
trước giảm xuống, làm tăng nhu cầu vay vốn, lượng cầu quỹ cho vay tăng, lãi suất tăng.


+Mức lạm phát dự tính giảm, cầu quỹ cho vay giảm, lãi suất giảm.
C, Tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước
+Khi mức bội chi ngân sách nhà nước tăng, nhu cầu vay vốn từ công chúng tăng, làm
tăng cầu quỹ cho vay, lãi suất tăng.
*Những nhân tố làm dịch chuyển đường cung quỹ cho vay:
A, Tài sản và thu nhập
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
2
+Khi nền kinh tế tăng trưởng, tài sản và thu nhập của các chủ thể kinh tế tăng, cung quỹ
cho vay tăng, lãi suất giảm.
+Khi nền kinh tế suy thoái, lượng cung quỹ cho vay giảm, lãi suất tăng.
B, Tỷ suất lợi tức dự tính của công cụ nợ
+Khi tỷ suất lwoij tức dự tính của công cụ nợ giảm, cung quỹ cho vay giảm, lãi suất tăng.
+Khi tỷ suất lợi tực dự tính của công cụ nợ tăng, cung quỹ cho vay tăng, lãi suất giảm.
C, Rủi ro
+Khi mức độ rủi ro của các công cụ nợ tăng lên, cung quỹ cho vay giảm, lãi suất tăng.
+khi mức độ rủi ro của các công cụ nợ giảm, cung quỹ cho vay tăng, lãi suất giảm.
D, Tính lỏng của các công cụ đầu tư
+Khi tính lỏng của công cụ nợ cao hơn tính lỏng của các công cụ đầu tư khác, lượng cung
quỹ tăng, lãi suất giảm.
+Khi tính lỏng của công cụ nợ thấp hơn tính lỏng của accs công cụ đầu tư khác, lượng
cung quỹ giảm, lãi suất tăng.
1.2.2 Cung cầu tiền tệ
- Mức cầu tiền là lượng tiền mà các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân muốn nắm giữ để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hiện tại và trong tương lai với giá cả và các biến số kinh tế cho
trước.
- Mức cung tiền là khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông bao gồm các tài sản là tiền và
các tài sản khác được coi là tiền nhằm đáp ứng nhu cầu giao dịch và nhu cầu cất trữ giá trị
của các chủ thể phi ngân hàng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất

*Thu nhập thực tế
+Khi nền kinh tế tăng trưởng, thu nhập thực tế tăng, cầu tiền tăng, lãi suất tăng.
+Khi nền kinh tế suy thoái, thu nhập giảm, cầu tiền giảm, lãi suất giảm.
*Mức giá cả
+Khi mức giá cả tăng, cầu tiền tăng, lãi suất tăng.
+Khi mức giá cả giảm, cầu tiền giảm, lãi suất giảm.
*Ngân Hàng Trung Ương
+Khi NHTW tăng cung ứng tiền, lãi suất giảm.
+Khi NHTW giảm lượng cung tiền, lãi suất tăng.
1.3 Vai trò của lãi suất
- Là công cụ kích thích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm của các chủ thể kinh
tế.
- Là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô.
- Là công cụ phân phối vốn và kích thích sử dụng vốn có hiệu quả.
- Là công cụ đo lường tình trạng sức khỏe của nền kinh tế.
- Là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
2.Ngân hàng Trung ương với việc điều chỉnh lãi suất:
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
3
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn Ngân hàng Trung ương của các nước
trên thế giới là ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia - thông qua việc kiểm soát lạm phát.
Trong đó, lãi suất là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ để
đạt được mục tiêu tôn chỉ đó.
Về phương diện lý thuyết, lãi suất danh nghĩa và lạm phát có mối quan hệ cùng chiều.
Khi lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa tăng để đảm bảo mức lãi suất thực được chấp
nhận bởi các chủ thể trong nền kinh tế. Triển vọng của lãi suất thực có ảnh hưởng đến các
kỳ vọng và hoạt động chi tiêu và đầu tư. Sau khi xác định được các kỳ vọng lạm phát, nếu
người tiêu dùng tin rằng lãi suất tiết kiệm sẽ không thay đổi hoặc tăng rất thấp, nghĩa là
lãi suất thực sẽ âm thì họ sẽ có khuynh hướng rút tiền gửi tiết kiệm và đầu tư vào bất động
sản hoặc chứng khoán để bảo vệ sức mua. Điều này sẽ tạo nên bong bóng trên thị trường

bất động sản và ngay lập tức sẽ làm cho CPI có xu hướng gia tăng, vì thế, lãi suất thực sẽ
là một biến số quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định tiêu dùng, đầu tư của các
chủ thể trong nền kinh tế, đồng thời cũng là biến số tác động đến kỳ vọng lạm phát. Do
vậy, NHTW các nước thường kiểm soát kỳ vọng lạm phát thông qua xu hướng của lãi
suất thực. Thông thường, NHTW sẽ bắt đầu tăng tỷ lệ lãi suất dần dần khi lạm phát tiến
gần tới lãi suất tiền gửi danh nghĩa. Điều này phát đi một tín hiệu là NHTW sẽ có khuynh
hướng duy trì chính sách lãi suất thực dương. Dấu hiệu này cũng sẽ làm suy yếu các kỳ
vọng của thị trường về lãi suất thực âm và tăng giá của tài sản.
Mối quan hệ giữa lãi suất và lạm phát được hình thành dựa trên sự ảnh hưởng của lãi suất
lên tổng cầu, và đó cũng là điểm mấu chốt để sử dụng lãi suất trong việc quản lý kinh tế.
Trong cấu phần của tổng cầu có hai yếu tố sẽ chịu tác động trực tiếp của việc thay đổi lãi
suất là tiêu dùng và đầu tư. Trong đó, tiêu dùng sẽ giảm xuống khi lãi suất tăng lên là do
giá cả của việc vay mượn cho nhu cầu tiêu dùng trở nên đắt đỏ hơn. Đối với đầu tư, chi
phí vay mượn tăng làm cho khả năng sinh lời của các khoản đầu tư trở nên thấp hơn. Vì
thế mà việc tăng lãi suất cũng sẽ làm giảm mức độ đầu tư, tuy nhiên, mức độ đầu tư giảm
còn phụ thuộc vào sự co dãn của cầu đầu tư so với lãi suất. Ngược lại, khi lãi suất giảm
xuống thì hành vi của người tiêu dùng và nhà đầu tư thay đổi theo hướng ngược lại. Sự
thay đổi đó được thể hiện bằng sự dịch chuyển của đường tổng cầu.Chính vì mối quan hệ
trên nên lãi suất đã trở thành công cụ được lựa chọn để kiểm soát lạm phát mục tiêu và
kiểm soát các kỳ vọng lạm phát hữu hiệu.
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
4
Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT, vì vậy, mục tiêu theo đuổi của chính sách
lãi suất phải nằm trong mục tiêu của CSTT, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất
trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của CSTT là ổn định tiền tệ,
kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa,
sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo
tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là
nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ.
Ngân hàng Trung ương thực hiện điều hiện điều chỉnh lãi suất bằng 2 cách: trực tiếp và

gián tiếp thông qua chính sách tiền tệ. Đối với công cụ trực tiếp, NHTW khống chế trực
tiếp lãi suất tiền gửi – lãi suất tiền vay. Công cụ gián tiếp được NHTW thực hiện thông
qua việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chính sách tái chiết khấu. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, lượng cung ứng tiền cũng bị ảnh hưởng theo. Cụ thể, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm
giảm mức cung vốn NHTW trên thị trường liên ngân hàng. Trong điều kiện vốn khả dụng
khôngthay đổi, sự giảm sút này làm tăng lãi suất liên ngân hàng, từ đó gây ảnh hưởng đến
các mức lãi suất dài hạn và khối lượng tiền cung ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng cũng
làm tăng chi phí đầu vào cho NHTM, nếu chi phí này quá lớn buộc NHTM phải tăng lãi
suất cho vay để bù đắp. Trong chính sách tái chiết khấu NHTW ấn định hạn mức tái chiết
khấu lãi suất tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu. Sự thay đổi mức lãi suất tái
chiết khấu tác động trước hết vào giá đầu vào của các NHTM, vì thế các ngân hàng này
dần tăng (hoặc giảm) lãi suất cho vay, do đó làm giảm (hoặc tăng) nhu cầu tín dụng. Sự
thay đổi lãi suất tái chiết khấu được coi như dấu hiệu của định hướng chính sách tiền tệ
của NHTW. Các tuyên bố của NHTW về chiều hướng biến động lãi suất tái chiết khấu có
tác dụng hướng dẫn hành vi của thị trường theo định hướng chính sách tiền tệ.
II. Thực trạng Chính sách lãi suất của Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA)
1.Mục tiêu, khung điều chỉnh lãi suất của RBA:
Khung chính sách tiền tệ (CSTT) của ngân hàng trung ương một quốc gia phản ánh việc
lựa chọn mục tiêu cuối cùng, mục tiêu trung gian, chỉ tiêu hoạt động của CSTT và sử
dụng các công cụ để đạt các mục tiêu đó.
Mục tiêu cuối cùng: Ưu tiên kiểm soát lạm phát
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
5
Hướng tới mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế, tăng phúc lợi cho người dân
Úc, Ngân hàng dự trữ Úc đã điều hành chính sách tiền tệ rất chặt chẽ.Ngân hàng dự trữ sử
dụng chính sách lạm phát mục tiêu để kiềm chế lạm phát, cụ thể là mức trung bình trong
trung hạn từ 2% đến 3%. Lạm phát thấp hỗ trợ doanh nghiệp và hộ gia đình trong việc
đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn. Hơn nữa, lạm phát thấp là cơ sở cho việc tạo ra
công ăn việc làm, bảo vệ các khoản tiết kiệm của người dân Úc và bảo tồn các giá trị của
tiền tệ. Mục tiêu kiềm chế lạm phát giá tiêu dùng cho phép thay đổi ngắn hạn tự nhiên

trong chu kỳ lạm phát nhưng vẫn giữ nguyên chuẩn hiệu suất xác định rã ràng theo thời
gian. Lạm phát qua các năm từ 2011- 2014 có xu hướng giảm và đạt gần đến mức lạm
phát mục tiêu 2% - 3% ( Hình 1). Tỷ lệ lạm phát cơ bản trong quí II năm 2012 chỉ là 2%,
phần dưới cùng của 2%-3% nhóm mục tiêu lạm phát của RBA. Kinh nghiệm ở Úc và ở
những nơi khác đã cho thấy rằng mức lạm phát không thể được điều chỉnh trong một dải
hẹp. Khi tổng nhu cầu trong nền kinh tế yếu đi, áp lực của sự lạm phát sẽ có khuynh
hướng triệt tiêu, và lúc đó các chính sách kinh tế sẽ bớt căng thẳng, kích thích cho các
hoạt động kinh tế.
Hình 1: Diễn biến lạm phát từ năm 2011- 2012
Mục tiêu trung gian: Sự ổn định của tiền tệ và duy trì công ăn việc đầy đủ tại Úc
Úc là quốc gia có nền kinh tế hiện đại và phát triển. Năm 2013, Úc được đánh giá là nền
kinh tế lớn thứ 12 trên thế giới. Số liệu năm 2010 cho thấy tổng thu nhập quốc nội của Úc
chiếm khoảng 1,7% kinh tế thế giới. Năm 2011, Úc được OECD đánh giá là quốc gia có
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
6
chất lượng sống cao nhất thế giới với tuổi thọ trung bình là 81 tuổi và tỷ lệ lao động phải
làm việc hơn 50 giờ mỗi tuần chỉ 0,14% (VnExpress, 2011). Mục tiêu đầu tiên và quan
trọng nhất của phần lớn Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) của các nước trên thế giới cũng
như NHTƯ Úc là ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia - thông qua việc kiểm soát lạm
phát. Kiểm soát lạm phát, duy trì giá trị tiền tệ nhằm khuyến khích tăng trưởng mạnh và
bền vững trong dài hạn
Sử dụng công cụ chính sách tiền tệ: công cụ trực tiếp, trức tiếp khống chế lãi suất cơ bản .
Ngân hàng trung ương sẽ điều chỉnh lãi suất cơ bản ( ở Úc có tên gọi là Cash Rate) chính
là lãi suất cho vay qua đêm của thị trường liên ngân hàng chứ không can thiệp trực tiếp
vào lãi suất huy động và cho vay thông thường. Chính phủ Úc xác định kiểm soát lạm
phát sẽ đảm bảo cho giá trị đồng tiền nhờ đó khuyến khích kinh tế phát triển mạnh về dài
hạn. Vì không tác động trực tiếp nên lãi suất huy động và cho vay tự điều chỉnh theo thị
trường.Biến động lãi suất cơ bản nhanh chóng bị ảnh hưởng bởi lãi suất thị trường vốn
khác như lãi suất thị trường tiền tệ và lãi suất trái phiếu. Những thay đổi về lãi suất ảnh
hưởng đến hoạt động kinh tế và lạm phát với độ trễ dài hơn nhiều, bởi vì nó cần có thời

gian cho các cá nhân và các doanh nghiệp để điều chỉnh hành vi của họ. Lãi suất ảnh
hưởng đến hoạt động kinh tế thông qua một số cơ chế (Hình 4). Lãi suất có thể ảnh hưởng
đến hành vi tiết kiệm và đầu tư, hành vi chi tiêu của hộ gia đình, cung cấp tín dụng, giá tài
sản và tỷ giá hối đoái, tất cả đều ảnh hưởng đến mức độ tổng cầu. Ngược lại, sự phát triển
của tổng cầu, cùng với sự phát triển của tổng cung cũng ảnh hưởng đến mức độ lạm phát
trong nền kinh tế. Lạm phát cũng bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng thay đổi trong lãi suất có về
giá hàng hóa nhập khẩu, thông qua tỷ giá hối đoái, và thông qua ảnh hưởng của các kỳ
vọng lạm phát nói chung trong nền kinh tế.
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
7
2.Công cụ điều chỉnh chính sách lãi suất của RBA:
Ngân hàng Dự trữ chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ của Úc.Chính sách tiền tệ liên
quan đến việc thiết lập lãi suất cho vay qua đêm trong thị trường tiền tệ ('lãi suất cơ bản "-
lãi suất liên ngân hàng).Lãi suất cơ bản này ảnh hưởng đến tỷ lệ lãi suất khác trong nền
kinh tế, ảnh hưởng đến hành vi của người đi vay và người cho vay, hoạt động kinh tế và
cuối cùng là tỷ lệ lạm phát.
Ngân hàng dự trữ Úc cũng có trách nhiệm hình thành và thực thi các chính sách về tiền tệ.
Ngân hàng này có trách nhiệm đảm bảo rằng những chính sách về tiền tệ và ngân hàng
mà họ đưa ra phải hỗ trợ cho quyền lợi của nhân dân nước Úc. Theo “Đạo luật về Ngân
hàng Dự trữ”, ngân hàng này phải đóng góp các mục tiêu như sau:
- Sự ổn định của đồng tiền Úc
- Việc duy trì toàn bộ công ăn việc làm
- Sự hưng thịnh về kinh tế và phúc lợi của nhân dân Úc
Để đạt được những mục tiêu này theo luật định, Ngân hàng phải tìm cách để giữ lạm
phát giá tiêu dùng trong nền kinh tế trung bình 2-3%, trong trung hạn. Kiểm soát lạm phát
duy trì giá trị của tiền bạc và khuyến khích tăng trưởng mạnh và bền vững của nền kinh tế
trong dài hạn.
Chính sách tiền tệ có mục đích kiểm soát mức lạm phát trong giá cả hàng tiêu dùng và
khích lệ cho sự tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững về kinh tế. Việc kiểm soát lạm phát sẽ
giữ giá trị cho đồng tiền. Về lâu về dài, đây là con đường chính để các chính sách về tiền

tệ tạo thành căn bản vững chắc cho sự tăng trưởng dài ngày về nền kinh tế của Úc hiện
nay.
Những quyết định về chính sách tiền tệ liên quan đến việc đặt ra mức lãi suất cho các
khoản vay ngắn ngày trên thị trường tài chính. Những mức lãi suất khác trong nền kinh tế
sẽ chịu ảnh hưởng của mức lãi suất này ở nhiều mức độ khác nhau, do đó cách ững xử
của người đi vay và người cho vay trên thị trường tài chính sẽ chịu ảnh hưởng của các
chính sách tiền tê. Bằng con đường này, chính sách tiền tệ sẽ ảnh hưởng đến cả nền kinh
tế.
Kế hoạch về chính sách tiền tệ
Năm Tháng Mức lãi suất
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
8
2011
1-10
Duy trì lãi suất cơ bản ở mức 4,75% từ tháng 1 cho đến cuối
tháng 10
11 Giảm lãi suất cơ bản bằng 25 điểm cơ bản xuống còn 4,5%
12 Giảm lãi suất cơ bản 25 điểm cơ bản xuống mức 4,25%
2012 1-4 Giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức 4,25% trong 4 tháng đầu
năm từ tháng 1 đến tháng 4
5 Giảm lãi suất cơ bản 50 điểm cơ bản xuống 3,75%
6-9 Tiếp tục giảm lãi suất cơ bản 25 điểm xuống còn 3,5% và
tiếp tục duy trì mức lãi suất này cho đến hết tháng 9
10-11 Lãi suất cơ bản giảm tiếp 25 điểm xuống mức 3,25% trong 2
tháng 10 và 11
12 Lần hạ lãi suất cơ bản cuối cùng trong năm 2012 và đạt mức
lãi suất 3,0%
2013 1-4 Tỉ lệ lãi suất cơ bản 4 tháng đầu năm duy trì ở mức 3,0%
5-7 Ngân hàng giảm lãi suất 25 điểm xuống còn 2,75% và duy trì
cho đến hết tháng 7

8 đến cuối năm Ngân hàng tiếp tục hạ lãi suất cơ bản 25 điểm xuống còn
2,5% - mức thấp nhất trong vòng 50 năm qua nhằm kích
thích tăng trưởng và kiềm chế lạm phát.
Mục tiêu trung hạn của các chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát. Kinh nghiệm ở Úc và
những nơi khác đã cho thấy rằng mức lạm phát không thể được tinh chỉnh trong thời gian
ngắn. Khi tổng nhu cầu trong nên kinh tế yếu đi, áp lực của sự lạm phát sẽ có khuynh
hướng triệt tiêu, và lúc đó các chính sách kinh tế sẽ bớt căng thẳng, kích thích cho các
hoạt động kinh tế.
BẢNG SỐ LIỆU CÁC MỨC LÃI SUẤT NHTW ĐIỀU CHỈNH 2011-2013
Các chỉ số kinh tế cơ bản của Úc trong năm 2013: (theo số liệu thống kê của Úc)
Chỉ số
Đơn
vị
2013
GDP Tỷ 1.488.0
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
9
USD
GDP (PPP) Tỷ
USD
998,3
GDP đầu người USD 64.157
Tăng trưởng GDP % 2,5
Xuất khẩu Triệu
USD
262.309
Tăng trưởng XK % -12,58
Nhập khẩu Triệu
USD
241.151

Tăng trưởng NK % -23,76
Nhập siêu/Xuất siêu Triệu
USD
21.158
Lạm phát % 2,2

Đặc biệt chú ý là vào năm 2014
Ngân hàng Dự trữ đặt mục tiêu "lãi suất cơ bản", đó là lãi suất thị trường trên quỹ qua
đêm hay lãi suất liên ngân hàng. Họ sử dụng mục tiêu này như một công cụ chính sách
tiền tệ và ảnh hưởng đến lãi suất cơ bản thông qua hoạt động của thị trường tài chính.

Ngân hàng Dự trữ Australia ngày đã quyết định giữ nguyên lãi suất ở mức thấp kỷ lục là
2,5% trong suốt cả năm 2014, do các lĩnh vực của nền kinh tế (không bao gồm khai mỏ)
chưa được cải thiện một cách rõ nét, sau lần hạ lãi suất gần đây nhất là vào tháng Tám
năm ngoái nhằm hỗ trợ nền kinh tế khi sự bùng nổ đầu tư cho ngành khai mỏ kéo dài cả
thập niên đến lúc thoái trào.
Giám đốc RBA Glenn Stevens nhận định các thông tin gần đây cho thấy nhu cầu tiêu
dùng tăng trưởng nhẹ và dự báo hoạt động xây dựng nhà ở sẽ được đẩy mạnh. Ông nói
một số dấu hiệu chỉ ra rằng các điều kiện và lòng tin kinh doanh đã khá hơn so với một
năm trước và xuất khẩu đang tăng lên. Tuy nhiên, theo ông, đầu tư cho lĩnh vực khai thác
tài nguyên bắt đầu giảm đáng kể, còn các dấu hiệu về sự cải thiện trong những lĩnh vực
khác còn chưa rõ, khi các công ty chờ những các điều kiện kinh doanh thuận lợi hơn để
bắt tay vào các kế hoạch mở rộng hoạt động.
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
10
Theo thông báo từ RBA, chính sách tiền tệ được hoạch định để có thể thúc đẩy sự tăng
trưởng ổn định về nhu cầu và đảm bảo rằng lạm phát phù hợp với mục tiêu đề ra. RBA
cho rằng, trong thời gian tới, chính sách tiền tệ vẫn cần tiếp tục khuyến khích nhu cầu và
đưa tăng trưởng kinh tế mạnh hơn, và trong hai năm tới, lạm phát sẽ vẫn nằm trong giới
hạn cho phép là 2-3%. RBA dự báo chi tiêu công sẽ vẫn thấp và tỷ lệ thất nghiệp sẽ cần

thêm thời gian để có thể giảm xuống một cách ổn định.
Tháng trước, Cục Thống kê Australia cho biết tỷ lệ lạm phát ở nước này giảm từ 0,8%
trong quý 4/2013 xuống 0,6% trong quý 1/2014, còn trong tháng Ba, giá cả tăng 2,9% so
với cùng kỳ năm ngoái, nhưng vẫn nằm trong biên độ mục tiêu. Tỷ lệ thất nghiệp ở
Australia trong tháng Ba đã bất ngờ giảm so với tháng Hai, xuống 5,8%.
Ngân hàng trung ương Úc vẫn quyết định giữ nguyên mức lãi suất thấp kỉ lục 2,5% trong
những tháng tiếp sau và hiện vẫn chưa có thay đổi gì.Trong phán quyết của Hội đồng
quan trị, chính sách tiền tệ được quyết định phù hợp để thúc đẩy tăng trưởng bền vững
nhu cầu và lạm phát kết quả phù hợp với các mục tiêu. Về hiện tại, mục tiêu vẫn là ổn
định lãi suất.
Ngân hàng trung ương Úc đã sử dụng công cụ trực tiếp thông qua ấn định mức lãi suất
cơ bản cho từng tháng hoặc từng năm. Thực chất lãi suất cơ bản ở đây chính là mức lãi
suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng. NHTW đưa ra một khung lãi suất
hoặc ấn định 1 trần lãi suất cho vay để hướng các ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi
suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng đến qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có
thể quản lý dễ dàng mức cung tiền của mình.
3.Kết quả thực hiện chính sách điều chỉnh lãi suất của RBA:
1. Năm 2011
• Từ đầu năm 2011 đến tháng 10 năm 2011, Ngân hàng duy trì mức lãi suất ở mức
4.75%.
- Sự tăng trưởng của nền kinh tế: thương mại của Úc ở mức cao và thu nhập quốc
dân tăng trưởng mạnh mẽ. Đầu tư trong lĩnh vực tài nguyên đang tăng mạnh để đáp
ứng với mức độ cao của giá cả hàng hóa và triển vọng vẫn rất tích cực.Một số lĩnh vực
dịch vụ cũng được mở rộng với một tốc độ vững chắc.
- Thất nghiệp: Thị trường lao động vững chắc trong năm 2010, với sự tăng trưởng
mạnh mẽ và tỷ lệ thất nghiệp giảm. Tăng trưởng việc làm đã kiểm duyệt trong những
tháng giữa năm và tỷ lệ thất nghiệp thay đổi rất ít, gần 5%. Hầu hết các chỉ số hàng đầu
cho tăng trưởng hơn nữa trong công việc, dù với một tốc độ chậm hơn. Sau khi sự suy
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
11

giảm đáng kể trong năm 2009, tiền lương đã tăng trở lại mức trước khi nhìn thấy sự suy
thoái mặc dù tăng trưởng năng suất còn thấp.
-Lạm phát: đã giảm đáng kể so với mức đỉnh trong năm 2008. Do tác động của thời
tiết khắc nghiệt hồi đầu năm chỉ số lạm phát CPI tăng cao vào đầu năm nhưng sau đó đã
giảm xuống để phù hợp với mục tiêu 2-3% mỗi năm.
• Hai tháng cuối năm 2011, Ngân hàng Úc liên tiếp giảm lãi suất 25 điểm xuống 4.5%
vào tháng 11 và 4.25% vào tháng 12.
- Tổng thể nền kinh tế tăng trưởng ở mức độ vừa phải, thương mại của Úc đạt mức cao
nhất. Đầu tư trong lĩnh vực tài nguyên đang tăng rất mạnh. Một số ngành dịch vụ có liên
quan đang có những điều kiện phát triển tốt hơn.
- Tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên một chút so với những tháng gần đây, mặc dù nó vẫn còn
gần 5 phần trăm.
- Lạm phát: CPI vẫn cao hơn mục tiêu do ảnh hưởng của các sự kiện thời tiết mùa hè năm
ngoái, nhưng đã bắt đầu suy giảm khi sản xuất của các loại cây trồng chính phục hồi.
2. Năm 2012
• Bốn tháng đầu năm Ngân hàng Úc tiếp tục duy trì lãi suất 4.25%
- Tổng thể nền kinh tế Úc tiếp tục tăng trưởng, với sự khác biệt giữa các khu vực và thay
đổi cơ cấu đáng kể. Điều kiện thị trường lao động đã dịu lại trong năm 2011 và tỷ lệ thất
nghiệp tăng nhẹ vào giữa năm, mặc dù nó đã được ổn định trong những tháng gần
đây. CPI đã giảm như mong đợi và sẽ tiếp tục giảm so với quý tiếp theo còn lạm phát cơ
bản khoảng 2.5%.
• Ngân hàng liên tiếp giảm mức lãi suất trong 2 tháng tiếp theo: 3.75% tháng 5 và
3.5% tháng 6
- Lạm phát sau khi tăng trong nửa đầu năm ngoái, đã giảm một lần nữa còn gần 2% trong
bốn quý gần nhất. Chỉ số CPI cũng đã giảm, từ khoảng 3.5% xuống dưới 1.5%.
- Việc giảm lãi suất để điều chỉnh lãi suất cho vay, lãi suất cho vay đã đạt gần với trung
bình trung hạn trong những tháng gần đây, tăng trưởng tín dụng vẫn còn khiêm tốn về
tổng thể.
• Ngân hàng Australia duy trì lãi suất trong 3 tháng tiếp theo tại 3.5%
- Hầu hết các chỉ số đều cho thấy tốc độ tăng trưởng đã được chạy gần với xu hướng,

chiếm tỉ trọng lớn là chi tiêu vốn trong lĩnh vực tài nguyên. Tăng trưởng tiêu dùng cũng
khá vững chắc trong nửa đầu năm, mặc dù chỉ là tạm thời. Dữ liệu thị trường lao động
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
12
cho thấy tăng trưởng việc làm ở mức trung bình, các công việc đổ trong một số ngành
công nghiệp, và tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức thấp.
- Lạm phát vẫn ở mức thấp, lạm phát cơ bản gần 2% đến tháng Sáu, chỉ số CPI thấp hơn.
- Như một kết quả của các quyết định trước đó, lãi suất cho vay thấp hơn mức trung bình
trung hạn một ít.
• Mức lãi suất tháng 10 giảm xuống 3.25% và tháng 12 giảm còn 3%
- Lạm phát cao hơn một chút so với dự kiến, mặc dù nó vẫn phù hợp với các mục tiêu
trung hạn, mức cơ bản khoảng 2.5%, chỉ số CPI thấp hơn một chút.
- Tốc độ tăng trưởng đã được chạy với gần xu hướng trong năm qua, do sự gia tăng rất lớn
trong chi tiêu vốn trong lĩnh vực tài nguyên, trong khi một số ngành khác có điều kiện
yếu hơn
3. Năm 2013
• Tỉ lệ lãi suất 3 tháng đầu năm duy trì ở mức 3%/năm
- Ở Australia, hầu hết các chỉ số cho thấy tốc độ tăng trưởng là gần xu hướng trong năm
2012, do sự gia tăng rất lớn trong chi tiêu vốn trong lĩnh vực tài nguyên, trong khi một số
ngành khác có kinh nghiệm trong điều kiện kém hơn.
- Lạm phát là phù hợp với các mục tiêu trung hạn, với cả hai chỉ số CPI và cơ bản vào
khoảng 2.25%. Thị trường lao động đã dịu hơn và thất nghiệp cao hơn tạo ra áp lực về chi
phí lao động. Hơn nữa, các doanh nghiệp có khả năng tập trung vào việc nâng cao hiệu
quả trong điều kiện tăng trưởng nhu cầu vừa phải. Những xu hướng này sẽ giúp để giữ
lạm phát thấp, thậm chí là ảnh hưởng đến giá cả của các trước đó tỷ giá hối đoái đánh giá
cao suy yếu dần. Đánh giá của Ngân hàng vẫn cho rằng lạm phát sẽ phù hợp với các mục
tiêu trong một, hai năm tới.
• Tháng 5 Ngân hàng giảm lãi suất 25 điểm còn 2.75% và duy trì trong 3 tháng tới
- Tăng trưởng ở Úc đã gần với xu hướng trong năm 2012, nhưng thấp hơn một chút trong
nửa cuối năm và điều này dường như đã tiếp tục vào năm 2013. Việc làm đã tiếp tục phát

triển nhưng chậm hơn so với lực lượng lao động, do đó tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên một
chút, mặc dù nó vẫn còn tương đối thấp.
- Dữ liệu về giá xác nhận rằng lạm phát là phù hợp với mục tiêu, và nếu bất cứ điều gì, một
chút thấp hơn so với dự kiến. Chỉ số CPI tăng 2.5% trong năm qua, và lạm phát cơ bản
cũng có một kết quả tương tự nhau. Những kết quả này đã bị đẩy lên một chút do tác
động của giá carbon. Tăng trưởng của chi phí lao động đã kiểm duyệt nhẹ so với quý gần
đây, trong khi tăng trưởng năng suất xuất hiện được cải thiện.
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
13
- Việc nới lỏng chính sách tiền tệ trong 18 tháng qua đã hỗ trợ lãi suất khu vực nhạy cảm
của chi tiêu và đã được phản ánh trong những thay đổi danh mục đầu tư bằng cách tiết
kiệm và giá trị tài sản cao hơn. Ảnh hưởng hơn nữa có thể được dự kiến theo thời
gian. Tốc độ cho vay vẫn còn tương đối nhẹ nhàng, mặc dù gần đây đã có một số dấu hiệu
tăng nhu cầu về tài chính của các hộ gia đình.
• Ngân hàng đã giảm lãi suất xuống 2.5% và duy trì từ đó đến cuối năm.
- Ở Úc, nền kinh tế đã phát triển một chút theo xu hướng trong năm 2012. Điều này dự kiến
sẽ tiếp tục trong thời gian tới khi nền kinh tế điều chỉnh để giảm mức độ đầu tư khai thác
mỏ. Tỷ lệ thất nghiệp đã tăng nhẹ. Lạm phát đã được phù hợp với các mục tiêu trung hạn.
4. Năm 2014
• Trong năm nay, ngân hàng dự trữ Australia duy trì mức lãi suất ở 2.5%
- Ở Úc, nền kinh tế đã tăng trưởng với tốc độ thấp hơn xu hướng trong năm 2013 về tổng
thể, nhưng sự tăng trưởng có vẻ như đã được phần nào vững chắc hơn. Điều này nhờ một
phần từ sự tăng trưởng trong xuất khẩu tài nguyên như năng lượng mới đã đi vào hoạt
độngt. Nhu cầu tiêu dung tăng và báo hiệu một sự mở rộng vững chắc trong xây dựng nhà
ở. Một số chỉ số về điều kiện kinh doanh đã được cải thiện. Đồng thời, với chi phí đầu tư
thiết lập khu vực nguồn lực để giảm đáng kể, thay đổi cơ cấu đáng kể xảy ra và kéo dài
bất ổn ở một số khu vực của cộng đồng doanh nghiệp. Nhu cầu lao động vẫn yếu, và kết
quả là, tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục leo cao. Tăng trưởng tiền lương đã giảm đáng kể.
- Tăng trưởng tiền lương đã giảm đáng kể và điều này đã được phản ánh rõ ràng hơn trong
các dữ liệu giá mới nhất, cho thấy một điều độ tăng trưởng trong giá cả hàng hóa và dịch

vụ không được giao dịch. Kết quả là, lạm phát là phù hợp với mục tiêu.
III. Phân tích, đánh giá:
1.Đánh giá:
Ngân hàng trung ương Úc đã duy trì mức lãi suất thấp kỷ lục nhằm hỗ trợ kinh
tế và đồng thời cho biết tiền tệ được định giá cao sẽ tác động vào quá trình
chuyển đổi kinh tế.
Mục tiêu lãi suất tiền mặt qua đêm được duy trì ở mức 2.5%, đây là tháng thứ 13 liên
tiếp, Thống đốc ngân hàng Glenn Stevens cho biết sau cuộc họp hội đồng RBA ở
Adelaide. Ông Stevens cho rằng, đồng Đôla Australia (AUD) đã bị định giá cao quá
mức và cần thiết phải hạ giá đồng AUD hơn nữa để thúc đẩy tăng trưởng. Do đó, sẽ
khó có thay đổi tỷ lệ lãi suất trong vòng 6 tháng tới. Một mặt, đồng AUD bị định giá
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
14
cao đã gây thiệt hại cho khu vực xuất khẩu nhưng mặt khác, lại giúp cho tỷ lệ lạm phát
ổn định.
Bên cạnh đó, chi phí đi vay thấp đang đẩy giá nhà tăng lên. Sự ổn định của chính phủ
và lãi suất thấp đã khuyến khích các công ty hoạt động.Ngân hàng trung ương đang cố
kích thích tăng trưởng quốc nội bao gồm xây dựng nhà ở, khuyến khích thuê các thợ
mỏ củ và tránh chệch hướng tăng trưởng xuất hiện khi nguồn đầu tư bùng nỗ dần yếu
đi. Điều này gây cản trở là do thiếu chi tiêu ở các công ty và đôla Úc mạnh lên trong 3
năm gần đây.
2.Bài học rút ra đối với Việt Nam:
Hiện tại lãi suất liên ngân hàng của Việt Nam cao hơn so với mặt bằng lãi suất quốc tế.
Vì vậy trong ngắn hạn Việt Nam nên điều chỉnh giảm lãi suất 1 cách hợp lý như 1 gói
kích cầu, kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên với
sức khỏe của nền kinh tế Việt Nam thì không nên áp dụng lãi suất quá thấp như ngân
hàng Úc trong dài hạn. Công cụ lãi suất có tính 2 mặt rất nhạy cảm. Một mặt lãi suất
thấp nhằm thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng nhưng mặt khác, lại gây ảnh hưởng tiêu cực
đến nhiều người tiết kiệm.
Một số khuyến nghị đối với Ngân hàng Việt Nam:

-Đổi mới cơ chế điều hành cơ chế lãi suất: Chính sách lãi suất phải đảm bảo Ngân
hàng Nhà nước thống nhất quản lý một cách ổn định theo cơ chế định hướng còn các
lãi suất cụ thể phải đi cơ chế thị trường trong cơ chế định hướng ấy. Tuy nhiên,nền
kinh tế có định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước mà cụ thể là Ngân hàng Nhà nước
nên làm rõ phần chính sách lãi suất để thực hiện các mục tiêu xã hội như chính sách
đối với dân tộc vùng sâu vùng xa, chính sách xoá đói giảm nghèo xong việc đầu tư
phải được rạch ròi cũng đã đến lúc phải giao cho Ngân hàng chính sách làm việc này
được Ngân hàng xử lý cụ thể, chỉ như là các tổ chức tín dụng mới hoạt động tốt được
mà cũng đúng với cơ chế lãi suất thực có của nước ta.
-Tiếp tục giảm lãi suất cho vay: Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay rất
cần vay vốn để đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm
nhằm tăng sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
-Nâng cao tính ổn định của lãi suất tín dụng: tiềm lực kinh tế và dự trữ ngoại tệ chưa
đạt đến trình độ phát triển nên vấn đề ổn định lãi suất càng chỉ nên đặt ra trong một
khoảng thời gian nhất định ít nhất là một năm.
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay
15
-Phân định rõ hớn nữa chức năng xã hội trong hoạt động của các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng theo hướng xoá bỏ triệt để một số chính sách biểu hiện
bao cấp qua lãi suất tín dụng: Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng chỉ
làm chức năng kinh doanhtiền tệ theo luật ngân hàng. Chuyên chức xã hội cho các tổ
chức tài chính khác nhau, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn…Muốn vậy, cần phải hạn chế và tiến tới xoá bỏ bao cấp của Nhà
nước qua lãi suất tín dụng của ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng của Nhà
nước. Chừng nào còn tồn tại bao cấp của Nhà nước qua tín dụng thì các ngân hàng
thương mại chưa thể thực hiện chức năng tiền theo đúng Luật Ngân hàng. Tính chủ
động trong sản xuất kinh doanh của các chủ nhà băng vẫn còn hạn chế hiệu quả hoạt
động của ngân hàng không thể hoạch toán rõ được
-Về kinh tế và xã hội. Cần nhanh chóng tạo sân chơi bình đẳng giữa các ngân hàng
thương mại quốc doanh với các ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương

mại liên doanh nước ngoài.
Chính sách lãi suất Ngân hàng Dự trữ Úc từ năm 2011 đến nay

×