Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Huy động vốn cho sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần xây lắp điện 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.26 KB, 42 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU 2
LỜI MỞ ĐẦU 4
1.2.2.1. Các điều kiện chủ quan 12
1.2.2.2. Các điều kiện khách quan 13
1.3. Yêu cần đối với việc huy động vốn 13
2.3. Đánh giá về tình hình huy động vốn của công ty 25
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của công ty 26
2.4.1. Các nhân tố chủ quan 26
2.4.1.1. Nhiệm vụ, lĩnh vực kinh doanh của công ty 26
2.4.1.2. Hiệu quả kinh doanh 26
2.4.2. Các nhân tố khách quan 27
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh công tác huy động vốn 30
3.2.1. Đối với công ty 30
3.2.2.1.Môi trường kinh tế 33
3.2.2.2. Môi trường pháp lý 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NSNN Ngân sách nhà nước
SXKD Sản xuất kinh doanh
GDCK Giao dịch chứng khoán
UBND Ủy ban nhân dân
CNV Công nhân viên
TSLĐ Tài sản lưu động
TSCĐ Tài sản cố định
NV Nguồn vốn
CNH - HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
XDCB Xây dựng cơ bản
KTTT Kinh tế thị trường
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại


NHTMQD Ngân hàng thương mại quốc doanh
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU 2
LỜI MỞ ĐẦU 4
1.2.2.1. Các điều kiện chủ quan 12
1.2.2.2. Các điều kiện khách quan 13
1.3. Yêu cần đối với việc huy động vốn 13
2.3. Đánh giá về tình hình huy động vốn của công ty 25
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của công ty 26
2.4.1. Các nhân tố chủ quan 26
2.4.1.1. Nhiệm vụ, lĩnh vực kinh doanh của công ty 26
2.4.1.2. Hiệu quả kinh doanh 26
2.4.2. Các nhân tố khách quan 27
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh công tác huy động vốn 30
3.2.1. Đối với công ty 30
3.2.2.1.Môi trường kinh tế 33
3.2.2.2. Môi trường pháp lý 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, có thể coi vốn là vấn đề sống còn của doanh
nghiệp và doanh nghiệp phải làm sao đảm bảo hiệu quả trong huy động vốn, hiệu quả trong
sử dụng vốn. Một thực trạng đang được đặt ra đối với chúng ta là hầu hết các doanh nghiệp
đều đang ở tình trạng thiếu vốn, đặc biệt với các doanh nghiệp đang góp phần quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như điện, xây dựng, thuỷ sản, nông
sản Ngoài phần vốn ngân sách nhà nước (NSNN) mà có xu hướng ngày càng hạn hẹp thì
các doanh nghiệp phải luôn tìm cách huy động các nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh (SXKD) của mình. Nhưng huy động vốn không có nghĩa là tìm mọi cách
để có vốn mà không tính đến hiệu quả của nó. Mặt khác, việc huy động vốn từ các nguồn
cũng không phải là đơn giản mà ngược lại, còn có rất nhiều khó khăn vướng mắc.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần xây lắp điện 1, em nhận thấy vấn đề huy

động vốn của công ty rất được quan tâm và theo dõi sát xao. Trước tình hình đó, bằng
những kiến thức đã được học tập tại nhà trường và thực trạng tại công ty, em đã lựa chọn
đề tài:
"Huy động vốn cho sản xuất - kinh doanh ở công ty cổ phần xây lắp điện 1" cho
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung chuyên đề gồm
3 phần.
Chương 1: Các nguồn vốn và việc huy động vốn của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng huy động vốn ở công ty cổ phần xây lắp điện 1
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh công tác huy động vốn của công ty
CHƯƠNG 1
CÁC NGUỒN VỐN VÀ VIỆC HUY ĐỘNG VỐN
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Vốn của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm vốn
Vốn là yếu tố cơ bản không thể thiếu để một doanh nghiệp được thành lập và tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh
nguồn lực tài chính đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhiều học giả đã nghiên cứu và đưa ra
các khái niệm khác nhau về vốn của doanh nghiệp, ở đây tôi xin trình bày một số trong số
đó.
Theo Các Mác, dưới góc độ các yếu tố sản xuất, vốn được khái quát thành phạm trù tư
bản. Các Mác cho rằng: Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của quá trình sản
xuất. Định nghĩa này có tầm khái quát lớn vì bao hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của vốn.
Bản chất của vốn là giá trị cho dù nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: tài
sản cố định, nhà cửa, nguyên vật liệu, tiền công…Vốn là giá trị mang lại giá trị thặng dư vì nó
tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo David Begg, tác giả cuốn “Kinh tế học” cho rằng: vốn bao gồm vốn hiện vật và
vốn tài chính. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hóa, sản phẩm đã sản xuất ra để sản xuất các
hàng hóa khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Theo định
nghĩa trên, David Begg đã đồng nhất vốn với tài sản doanh nghiệp. Thực chất vốn của

doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản mà doanh nghiệp dùng trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối tài sản
của doanh nghiệp.
Theo quan điểm của Paul A.Samuelson và Wiliam D.Nordhalls thì vốn là khái niệm
thường dùng để chỉ các hàng hoá dùng làm vốn nói chung, một nhân tố sản xuất. Vốn gồm
2 loại là vốn vật chất ( nhà máy, thiết bị, kho tàng…) và vốn tài chính (tiền mặt, chứng
khoán, các giấy tờ có giá. …). Quan điểm này cho thấy nguồn vốn hình thành và các trạng
thái biểu hiện của vốn nhưng chưa cho thấy mục đích về sử dụng vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh
nghiệp cần phải có các yếu tố cơ bản sau: Sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao
động. Để có được các yếu tố này đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn nhất định
phù hợp với quy mô và điều kiện kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thường xuyên vận động và chuyển hóa từ hình
thái ban đầu là tiền sang hình thái hiện vật và cuối cùng lại trở về hình thái ban đầu là tiền.
Sự vận động của vốn kinh doanh như vậy gọi là sự tuần hoàn của vốn. Quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục, không ngừng. Do đó, sự tuần hoàn
của vốn kinh doanh cũng diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu
1
chuyển của vốn kinh doanh.
Từ đó có thể hiểu: Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
1.1.2. Các đặc trưng của vốn
Vốn của doanh nghiệp có những đặc trưng xác định trong điều kiện kinh tế thị
trường, theo tác giả có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của vốn như sau:
Thứ nhất: Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Điều đó có nghĩa vốn biểu hiện
giá trị bằng tiền của tài sản hữu hình và vô hình như: nhà xưởng, đất đai, máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu, vị trí địa lý, thương hiệu, bản quyền, phát minh, sáng chế, bí quyết công
nghệ, uy tín của doanh nghiệp… Ở đây cần phân biệt giữa vốn và tài sản, giữa sử dụng vốn
và chi tiêu. Không phải tất cả tài sản đều là vốn mà chỉ có tài sản hoạt động mới được gọi
là vốn, còn tài sản ở trạng thái tĩnh chỉ là vốn tiềm năng. Chi tiêu mất đi thì không gọi là

vốn còn chi phí kinh doanh được bù đắp lại thì được gọi là vốn. Nhận thức được đặc trưng
này giúp cho doanh nghiệp chủ động tìm mọi biện pháp để huy động mọi tài sản vào kinh
doanh, biến vốn tiềm năng thành vốn hoạt động.
Thứ hai: Vốn phải vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền
nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để tiền biến thành vốn thì đồng tiền phải vận
động sinh lời. Trong quá trình vận động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện
nhưng kết thúc vòng tuần hoàn, nó phải trở về hình thái ban đầu là tiền với giá trị lớn hơn.
Đây cũng là nguyên tắc sử dụng và bảo vệ vốn. Tiền bị ứ đọng, tài sản cố định không cần
dùng, tài nguyên, sức lao động không được sử dụng, tiền, vàng cất trữ hoặc các khoản nợ
tồn đọng khó đòi… chỉ là những đồng vốn “chết”. Mặt khác, tiền vận động nhưng lại bị
thất lạc, không quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn thì vốn cũng không được bảo đảm,
chu kỳ vận động tiếp theo bị ảnh hưởng. Nhận thức được đặc trưng này, doanh nghiệp cần
tìm mọi cách để cho đồng vốn sinh lời,tránh tình trạng vốn ứ đọng.
Thứ ba: Vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng đủ lớn mới có thể đáp ứng
được nhu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Một lượng vốn
chưa đủ lớn để trang trải những chi phí đầu tư cần thiết tối thiểu thì không thể tiến hành
sản xuất kinh doanh được. Do đó doanh nghiệp phải biết khai thác tối đa mọi nguồn vốn. Đặc
trưng này cho thấy doanh nghiệp phải xác định cho được nhu cầu vốn kinh doanh và có chiến
lược tạo vốn phù hợp, bảo đảm đủ vốn cần thiết cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Thứ tư: Vốn có giá trị theo thời gian bởi sức mua của đồng tiền ở các thời điểm là
khác nhau do ảnh hưởng của giá cả, lạm phát, tiến bộ khoa học Nhận thức được đặc
trưng này giúp cho doanh nghiệp tính đúng, tính đủ các chi phí vốn kinh doanh tránh tình
trạng “lãi giả, lỗ thật”.
Thứ năm: Vốn bao giờ cũng gắn liền với chủ sở hữu nhất định. Người sử dụng vốn
có thể là chủ sở hữu, có thể không nhưng đồng vốn luôn luôn có chủ. Người sử dụng vốn
được đảm bảo các lợi ích kinh tế do đồng vốn mang lại. Người sử dụng vốn có trách nhiệm
trả lại cho người sở hữu vốn một khoản tiền nhất định trong thời gian xác định, khoản tiền
này được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Điều này đặt ra yêu cầu đối với doanh nghiệp
2
sử dụng vốn như thế nào để đạt hiệu quả cao.

Thứ sáu: Vốn là một hàng hóa đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Thông qua thị
trường tài chính, người cần vốn và người có vốn có thể trao đổi với nhau. Tuy nhiên với
hàng hóa đặc biệt này việc trao đổi không làm thay đổi quyền sở hữu mà chỉ là sự chuyển
nhượng quyền sử dụng. Để có quyền sử dụng vốn, người vay phải trả cho người cho vay
một lãi xuất nhất định được xác định theo quan hệ cung - cầu trên thị trường vốn vay.
1.1.3. Phân loại vốn
Vốn của doanh nghiệp tồn tại dưới nhiều hình thái vật chất khác nhau và có mặt ở tất
cả các hoạt động, các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy,
việc phân loại vốn là cần thiết để tạo điều kiện cho việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh,
quản lý quá trình sản xuất, đảm bảo huy động đầy đủ vốn, sử dụng vốn tiết kiệm và đạt
được mục tiêu của mình.
Tuỳ theo mục đích phân loại vốn, người ta có thể sử dụng các tiêu thức khác nhau để
phân loại vốn. Một số cách phân loại phổ biến bao gồm:
Căn cứ vào hình thái biểu hiện, vốn được chia thành hai loại: vốn hữu hình và
vốn vô hình.
Căn cứ vào kỳ hạn luân chuyển, vốn được chia làm hai loại là: ngắn hạn và dài hạn.
Căn cứ vào tính chất sở hữu, vốn được chia thành hai nguồn cơ bản: nguồn vốn chủ
sở hữu và nợ phải trả.
Căn cứ vào nguồn hình thành, vốn được chia làm hai loại: nguồn vốn bên trong và
nguồn vốn bên ngoài.
Căn cứ vào nội dung kinh tế, vốn được chia làm hai loại: vốn cố định và vốn lưu
động.
Về cơ bản trên giác độ lý thuyết cũng như trong thực tiễn, vốn được phân loại căn cứ
vào hai tiêu thức chính là theo nội dung kinh tế và tính chất sở hữu.
1.1.3.1. Theo nội dung kinh tế
Đây là tiêu thức phân loại chủ yếu, hiệu quả nhất trong việc quản lý vốn. Căn cứ vào
tiêu thức này, vốn được phân thành hai loại: vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định: Trong nền kinh tế thị trường, để có được các tài sản cố định cần thiết
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải đầu tư ứng trước một lượng vốn
tiền tệ nhất định. Số vốn doanh nghiệp ứng ra để hình thành nên tài sản cố định được gọi là

vốn cố định của doanh nghiệp.
Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử dụng
dài cho các hoạt động của doanh nghiệp và phải thỏa mãn đồng thời tất cả các tiêu chuẩn
về tài sản cố định. Tài sản cố định tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều chu kỳ sản
xuất kinh doanh. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định không thay đổi hình thái vật chất
ban đầu cho đến lúc hư hỏng hoàn toàn, giá trị của nó được dịch chuyển dần từng phần vào
giá trị của sản phẩm và được bù đắp lại bằng tiền khi sản phẩm được tiêu thụ.
Tài sản cố định với đặc điểm tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và giá
3
trị hao mòn dần đã đưa đến đặc điểm chu chuyển vốn cố định là luân chuyển dần từng
phần qua các chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tương ứng với mức độ hao mòn tài sản cố định
sẽ có một phần vốn cố định ra nhập chi phí sản xuất kinh doanh. Phần còn lại của vốn cố
định thể hiện trong giá trị còn lại của tài sản cố định. Cứ như vậy vốn cố định được luân
chuyển dần qua các chu kỳ sản xuất kinh doanh tương ứng với giá trị hao mòn tài sản cố
định. Khi tài sản cố định hết giá trị sử dụng thì vốn cố định cũng hoàn thành một vòng luân
chuyển của nó.
Như vậy,vốn cố định của doanh nghiệp là bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài
sản cố định. Đặc điểm của nó là chu chuyển giá trị dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ
kinh doanh và hoàn thành một vòng chu chuyển khi tái sản xuất được tài sản cố định về
mặt giá trị.
Vốn lưu động: Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường
xuyên, liên tục đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tài sản lưu động nhất định. Do đó,
để hình thành nên tài sản lưu động, doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn tiền tệ nhất định
đầu tư vào các tài sản đó. Số vốn này được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp gồm 2 bộ phận: Tài sản lưu động sản xuất và tài
sản lưu động lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất gồm nguyên vật liệu, nhiên liệu…còn
tài sản lưu động lưu thông là những tài sản lưu động trong quá trình lưu thông của doanh
nghiệp như thành phẩm trong kho chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán…
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu
thông luôn thay thế chỗ cho nhau, vận động không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình tái

sản xuất được tiến hành liên tục thuận lợi.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên vận động, chuyển hóa lần lượt qua
nhiều hình thái khác nhau. Lúc đầu là hình thái tiền tệ, sau chuyển qua hình thái vật tư,
hàng hoá dự trữ.… cuối cùng chuyển về hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục không ngừng nên sự tuần hoàn của vốn lưu
động cũng diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn
lưu động.
Như vậy, vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn ứng ra để hình thành nên các tài
sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện
thường xuyên liên tục. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và
được thu hồi toàn bộ, hoàn thành trong một vòng luân chuyển khi kết thúc một chu kỳ kinh
doanh.
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp khác nhau tuỳ thuộc vào đặc
điểm kinh doanh của từng doanh nghiệp. Vấn đề là ở chỗ xác định sao cho phù hợp với qui
mô kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở đó có biện pháp huy động vốn kịp thời phục
vụ cho hoạt động kinh doanh.
Việc phân chia vốn thành vốn cố định và vốn lưu động có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc quản lý và sử dụng đối với mỗi loại. Nếu như vốn cố định phản ánh
4
trình độ năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì vốn lưu động là điều kiện
để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và ổn định. Do đó doanh
nghiệp cần phải xác định cơ cấu và quy mô của mỗi loại một cách chính xác và khoa
học dựa trên những định mức kinh tế kỹ thuật tiên tiến mới có thể chủ động bảo toàn và
phát triển vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
1.1.3.2. Xuất phát từ tính chất sở hữu
Vốn của doanh nghiệp có thể được hình thành từ các nguồn khác nhau. Xét trên
phương diện nguồn hình thành, có thể chia thành vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu: là vốn do doanh nghiệp sở hữu hoặc đại diện cho chủ sở hữu. Vốn
chủ sở hữu có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau tùy theo từng loại hình doanh
nghiệp.

- Vốn do nhà nước cấp: Các doanh nghiệp nhà nước được ngân sách cấp một phần
hoặc toàn bộ vốn khi bắt đầu hoạt động, có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn do nhà
nước cấp. Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có thể được ngân sách nhà nước cấp
bổ sung hoặc được tài trợ vốn thông qua việc cấp tài sản, tín dụng ưu đãi hay giảm thuế,
giảm phí…
- Vốn tự có: Là phần vốn do chủ doanh nghiệp, chủ đầu tư bỏ ra để đầu tư vào kinh
doanh khi doanh nghiệp mới thành lập hoặc đầu tư dự án.
- Vốn cổ phần: Hình thành do phát hành cổ phiếu trên thị trường khi sáng lập công
ty. Trong quá trình hoạt đông, doanh nghiệp có thể tăng vốn cổ phần bằng cách phát hành
thêm cổ phiếu ra thị trường. Tuy nhiên, cần thận trọng tính toán đến các yếu tố thuộc về
môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư để việc phát hành thêm cổ phiếu đạt hiệu quả
cao.
- Vốn tự bổ sung: Sau mỗi kỳ kinh doanh, doanh nghiệp có thể tự bổ sung vốn từ lợi
nhuận hàng năm, hoặc từ chênh lệch giá được để lại hay từ việc điều chỉnh lại cơ cấu tài
sản cố định của doanh nghiệp.
Quy mô vốn chủ sở hữu càng lớn sẽ là điều kiện để doanh nghiệp hoạt động một
cách chủ động và độc lập đồng thời là điều kiện để doanh nghiệp tham gia các hoạt động
đầu tư, tăng cường khả năng cạnh tranh và thu được nhiều nguồn lợi. Chính vì vậy, một
doanh nghiệp phát triển tốt luôn có phương án bổ sung, tăng trưởng vốn chủ sở hữu.
Nợ phải trả: là phần vốn không thuộc sở hữu của các chủ sở hữu doanh nghiệp bao
gồm các khoản vốn chiếm dụng và nợ vay.
Một doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết vẫn phải đi vay vốn dưới nhiều
hình thức khác nhau. Việc đi vay vốn một mặt giải quyết nhu cầu về vốn đảm bảo cho sự
ổn định và liên tục của qúa trình sản xuất kinh doanh, mặt khác cũng là phương pháp sử
dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính của nền kinh tế. Việc vay vốn của ngân hàng và vay
lẫn nhau giữa các doanh nghiệp sẽ góp phần tăng cường các quan hệ hữu nghị trong toàn
bộ nền kinh tế và sự phát triển của thị trường trong nước. Một phần vốn vay còn có thể bao
gồm cả vốn các doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng của lẫn nhau. Việc chiếm dụng vốn của
5
các doanh nghiệp là một tất yếu khác quan nhưng chỉ được chấp nhận trong một giới hạn

nhất định bởi vì nó gây ra những vấn đề thiếu lành mạnh trong quan hệ tài chính giữa các
doanh nghiệp.
- Vốn vay: Trong quá trình kinh doanh, tuỳ theo nhu cầu về vốn, doanh nghiệp có thể
tiến hành vay từ nhiều nguồn khác nhau như từ ngân sách nhà nước, các ngân hàng và tổ
chức tín dụng, các tổ chức kinh tế - xã hội, từ dân cư trong và ngoài nước dưới nhiều hình
thức như tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, phát hành trái phiếu doanh nghiệp.…
- Thuê tài chính: hay còn gọi là thuê vốn hoặc thuê mua thuần là phương thức tín
dụng trung, dài hạn. Theo phương thức này, người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị
theo yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Người thuê
sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn đã được thỏa thuận và
không được hủy bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển
quyền sở hữu mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận
trong hợp đồng thuê.
1.1.4. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Quá trình vận động của vốn trong doanh nghiệp có thể được xem là bản chất, nội
dung của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp biểu hiện dưới hình thức giá trị.
Vai trò của vốn trong doanh nghiệp được thể hiện khái quát như sau:
- Vốn là điều kiện ban đầu cần thiết để hình thành doanh nghiệp. Không một doanh
nghiệp nào có thể xuất hiện và tồn tại mà không có vốn. Vốn phải được ứng trước để mua
các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
- Vốn được đáp ứng đầy đủ kịp thời hay không luôn có ảnh hưởng mang tính quyết
định tới sự thành bại của doanh nghiệp khi thực hiện chiến lược kinh doanh: sản xuất cái gì?
Sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào?
- Muốn đầu tư mở rộng quy mô, đạt sự phát triển về kỹ thuật, công nghệ và trang thiết bị
thì doanh nghiệp phải có vốn để đầu tư trong lĩnh vực nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và
hiện đại hoá doanh nghiệp. Đó là cơ sở để nâng cao năng lực sản xuất, năng suất lao động, sức
cạnh tranh và hiệu quả kinh tế.
- Quy mô vốn có ảnh hưởng rất lớn đến phạm vi hoạt động và sự đa dạng hóa ngành
nghề kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải có lượng vốn

nhất định để có thể được tiến hành, doanh nghiệp nào có tiềm lực về vốn càng mạnh thì sự
tự chủ về tài chính và sức cạnh tranh càng cao. Do vậy, việc tạo ra sự tăng trưởng và phát
triển vốn luôn là một mục tiêu cơ bản trong mỗi doanh nghiệp.
1.2. Các hình thức và điều kiện huy động vốn
1.2.1. Các hình thức huy động vốn
1.2.1.1. Vay ngân hàng
Đây là nguồn vốn vay chủ yếu của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa
qua. Và trong tương lai được đánh giá là có triển vọng nhất đối với Việt Nam. Theo thống
6
kê thì số các doanh nghiệp công nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng chiếm 63,08% (41/65
doanh nghiệp điều tra) và số vốn vay của ngân hàng chiếm tỷ trọng 45,97% tổng nguồn
vốn của doanh nghiệp. Qua đó có thể thấy rằng nguồn vốn vay ngân hàng không những
phổ biến nhất mà còn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, có
những nơi nguồn vốn đó chiếm tới 85%, nhiều doanh nghiệp chỉ có nguồn tài trợ bên ngoài
duy nhất là vay ngân hàng. Qua đó, thấy tầm quan trọng của nguồn huy động này đối với
doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thời gian gần đây xuất hiện một mâu thuẫn lớn, đó là tình
trạng các ngân hàng thương mại thừa vốn không cho vay được còn các doanh nghiệp thì
thiếu vốn trầm trọng.
Trong lúc ngân hàng đang thừa tiền, các doanh nghiệp vẫn ca điệp khúc "thiếu vốn".
"khó tiếp cận vốn". Kết quả giám sát của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (UBGSTC)
tiến hành từ cuối tháng 8/2013 cho thấy có tới 50% doanh nghiệp khó tiếp cận vốn từ các
ngân hàng. Anh Trần Lâm - Giám đốc Công ty Đồ gỗ nội thất Sông Hồng cho biết., muốn
được vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp phải có hồ sơ pháp lý, hồ sơ tài chính và hoạt động
sản xuất. kinh doanh, hồ sơ vay vốn, hồ sơ về tài sản đảm bảo “Doanh nghiệp có thể
chứng minh được năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự; Chứng minh được mục đích
sử dụng vốn vay hợp pháp; có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
nhưng rào cản vướng nhất là hồ sơ về tài sản đảm bảo. Những năm qua, doanh nghiệp làm
ăn khó khăn và đã thế chấp bất động sản, xe hơi cho ngân hàng, giờ muốn vay vốn để
“vượt khó” tiếp tục sản xuất, kinh doanh thì không ngân hàng nào chấp nhận cho doanh
nghiệp dùng hợp đồng hàng tồn kho làm tài sản thế chấp để đảm bảo cho vay nữa ”- anh

Trần Lâm kể.
Lý giải về thực tế, ngân hàng thừa tiền, doanh nghiệp vẫn thiếu vốn, TS. Cao Sĩ
Kiêm cho biết: có nhiều nguyên nhân khiến doanh nghiệp khó vay vốn ngân hàng nhưng
chủ yếu là do doanh nghiệp chưa đáp ứng đủ điều kiện về tài sản đảm bảo."Nếu các quy
định hiện hành không giảm bớt yêu cầu về tài sản đảm bảo thì dù lãi suất cho vay có hạ
( lãi suất ngân hàng sẽ giảm từ 7% xuống 6%), dù nguồn vốn của ngân hàng có thừa,
doanh nghiệp cũng khó có cơ hội tiếp cận nguồn vốn vay" - ông Kiêm nói. Thông tin trên
Báo Đầu tư - TS Trần Du Lịch - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ
quốc gia cho rằng: lãi suất giảm nhiều so với trước nhưng chưa hẳn hấp dẫn để doanh
nghiệp vay vốn đầu tư, sản xuất trong bối cảnh sức mua, tồn kho chưa cải thiện nhiều.
"Do đó, tình hình thừa tiền - thiếu vốn sẽ còn tiếp diễn trong năm nay và chưa thể
sớm chấm dứt khi mà việc giải quyết nợ xấu, hấp thụ vốn cũng như khả năng phục hồi sức
mua của thị trường chưa thể cải thiện nhiều" - TS Trần Du Lịch nói.
1.2.1.2. Phát hành trái phiếu
Doanh nghiệp quốc doanh hoặc ngoài quốc doanh được Nhà nước cho phép huy
động vốn bằng cách phát hành trái phiếu doanh nghiệp để có thể có vốn từ dân cư, từ các
đại lý bán hàng của chính doanh nghiệp. Có thể nói đây là nguồn vốn quan trọng giúp
không ít doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ và khẳng định vị trí của
7
mình trên thị trường. Việc huy động vốn bằng hình thức này thực sự chỉ có hiệu quả cao
khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và lãi suất huy động thích hợp với một thị trường
chứng khoán hoạt động có hiệu quả.
Năm 2013 là năm ập kỷ lục phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Doanh nghiệp đã huy
động 33.600 tỷ đồng vốn trong nước qua trái phiếu doanh nghiệp từ đầu năm tới nay. theo
số liệu của Vụ Tài chính Các ngân hàng và Tổ chức tài chính thuộc Bộ Tài Chính. Số liệu
được đưa ra tại Hội thảo “Hướng dẫn quy trình phát hành trái phiếu doanh nghiệp” do Vụ tổ
chức tại Sở GDCK Hồ Chí Minh ngày 11/12. Con số này đã vượt 33.000 tỷ đồng tổng lượng
phát hành trong 4 năm từ 2006-1010. Vụ Tài chính cũng cho biết trong giai đoạn 2006-2010
còn có một số đợt phát hành của doanh nghiệp tư nhân nhưng không có hệ thống cơ sở dữ
liệu thống kê chính thức. Lượng phát hành trong năm 2013 đã tăng 17% so với khối lượng

phát hành của cả năm 2012. Cũng theo số liệu của Vụ, số lượng phát hành thực tế này bằng
64% so với khổi lượng các doanh nghiệp đã đăng ký phát hành trong năm.
Trong số 62.300 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành trong năm 2012 và
2013, có khoảng 34.600 tỷ đồng trái phiếu có kỳ hạn dưới 3 năm, 20.400 tỷ đồng kỳ hạn từ
3-5 năm và 7.270 tỷ đồng kỳ hạn trên 5 năm. Cũng theo báo cáo của Vụ, các đợt phát hành
trái phiếu doanh nghiệp từ đầu năm tới nay có lãi suất rơi vào khoảng 10-15%/năm đối với
kỳ hạn dưới 3 năm. Đối với kỳ hạn từ 3-5 năm, lãi suất phát hành tương đương lãi suất tiền
gửi kỳ hạn 1 năm cộng biên độ 3-5%/năm. Lãi suất phát hành của kỳ hạn trên 5 năm rất
cao, lên tới 14-16%/năm. Theo số liệu thống kê riêng của Đầu tư Chứng khoán, tính đến
ngày 30/11/2013 đã có ít nhất 13 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp với tổng giá trị
35.100 tỷ đồng. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp bây giờ huy động vốn bằng hình thức phát
hành trái phiếu doanh nghiệp rất phổ biến thay vì đi vay ngân hàng.
1.2.1.3. Huy động bằng tín dụng thuê mua
Tín dụng thuê mua hay cho thuê tài chính là một hình thức huy động vốn rất phù hợp
với điều kiện kinh doanh ở các công ty, doanh nghiệp đồng thời khắc phục được nhiều
vướng mắc trong chính sách tín dụng và trình độ quản lý ở nước ta hiện nay.
Theo định nghĩa tại quy chế tạm thời về tổ chức hoạt động của các công ty cho thuê
tài chính Việt Nam thì: “ Cho thuê tài chính là một hình thức tín dụng trung và dài hạn
thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua
máy móc thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu với tài sản
cho thuê, sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê đã được 2
bên thỏa thuận và không được hủy hợp đồng trước thời hạn. Khi kết thúc hợp đồng thuê,
bên thuê được chuyển sở hữu, mua lại hoặc thuê tiếp các tài sản đó theo điều kiện trong
hợp đồng thuê”.
Cùng theo quy chế này, một giao dịch cho thuê phải thỏa mãn các điều kiện sau:
Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu
tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của 2 bên. Nội dung của hợp đồng
thuê có quy định: Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản
8
thuê theo đánh giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê đem lại mua.

Thời hạn cho thuê mỗi tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao
hết tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Đây là một giải pháp huy động tối ưu vì nó giải quyết được các mâu thuẫn cơ bản
hiện nay như:
Đối với tài sản thuê mua, quyền sở hữu vốn với quyền sử dụng vốn trong các doanh
nghiệp đã được tách rời một cách rõ ràng và thực chất người cho thuê vẫn được nắm quyền
sở hữu các tài sản cho thuê, có quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản đó. Người đi
thuê chỉ có quyền sử dụng nhưng phải sử dụng tài sản một cách có hiệu quả nhất do sự
giám sát của người cho thuê và để đảm bảo trả lãi và gốc kịp thời theo đúng hợp đồng.
Như vậy sẽ giải quyết được sự mâu thuẫn về quyền sở hữu tài sản của nhà nước và quyền
sử dụng vốn của các giám đốc trong các doanh nghiệp nhà nước rất mập mờ, đang gây
nhiều ý kiến trái ngược nhau trong quản lý vĩ mô hiện nay.
Xét về mặt hiệu quả, bên cho thuê chỉ mua tài sản khi có yêu cầu của bên đi thuê.
Thông thường các công ty cho thuê thường thực hiện phương thức cho thuê có sự giám sát
của 3 bên, bên thuê có quyền trực tiếp với bên cung cấp máy móc thiết bị để có được
những tài sản phù hợp với yêu cầu của mình. Chỉ khi nào bên thuê chấp nhận, bên thuê
mới thanh toán tiền mua và thực hiện quyền sở hữu tài sản của mình. Do đó, các máy móc
thiết bị mua về hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của đơn vị đi thuê, công suất và hiệu quả sử
dụng đạt rất cao.
Nghiệp vụ thuê mua giúp cho bên đi thuê tránh được hao mòn vô hình bằng việc
đồng thời rút ngắn thời hạn thuê để chuyển tài sản sang cho bên cho thuê ( bán tái thuê),
sau đó có thể thuê các công nghệ mới, tiên tiến để phù hợp hơn.
Vì khoản tín dụng là hiện vật nên các doanh nghiệp không cần có tài sản thế chấp
vẫn vay được vốn. Nhưng do sự quản lý chặt chẽ của bên cho thuê, hợp đồng lại không
được hủy bỏ trước thời hạn thuê nên khoản tín dụng được đảm bảo sử dụng đúng mục
đích, tránh được rủi ro cao hơn so với các loại hình tín dụng khác.
Do bên đi thuê chỉ phải trả vốn và lãi dần theo mức khấu hao trong quá trình kinh
doanh nên bên đi thuê không phải đầu tư vốn ban đầu mà vẫn có tài sản để tiến hành sản
xuất kinh doanh bình thường.
Để đảm bảo cho bên đi thuê thực hiện đúng hợp đồng, bên cho thuê sẽ có trách

nhiệm trong việc thẩm định trình độ công nghệ, giá cả giúp cho các doanh nghiệp một
khâu then chốt trong việc lựa chọn và đánh giá chính xác trình độ công nghệ.
Bên cho thuê còn có trách nhiệm hợp tác để đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật
giúp bên đi thuê.
Hiện nay ở nước ta đã có một số công ty thuê mua ra đời và hoạt động có hiệu quả
như: Công ty thuê mua và đầu tư của VIETCOMBANK, công ty thuê mua và tư vấn ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, công ty liên doanh VINALEASING,
công ty liên doanh cho thuê tài chính Việt Nam.
9
1.2.1.4. Vốn do ngân sách cấp
Nếu như trước đây gần như toàn bộ vốn sản xuất của doanh nghiệp Nhà nước ở nước
ta được ngân sách cấp (vốn cố định, vốn lưu động) thì hiện nay vốn cấp từ ngân sách Nhà
nước đã giảm đi rất nhiều nhưng ngân sách Nhà nước vẫn cấp toàn bộ vốn cố định và một
phần vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước.
Tuy nhiên, phương thức cấp vốn này là thực hiện theo lối bình quân dàn đều cho mọi
doanh nghiệp, trong đó nhiều doanh nghiệp không đáng được cấp. Mặt khác, vốn ngân
sách có hạn và không phải lúc nào cũng có sẵn nên việc cấp cho doanh nghiệp nào trước
doanh nghiệp nào sau và cho đủ là một vấn đề nan giải.
Theo Nghị định 22/HĐBT ngày 24/1/1991 về chế độ thu sử dụng vốn ngân sách Nhà
nước đối với doanh nghiệp Nhà nước (thuế vốn) các doanh nghiệp có sử dụng vốn ngân
sách Nhà nước đều phải nộp khoản thu sử dụng vốn với tỷ lệ 3,6% đến 4,8%/năm tuỳ theo
ngành nghề kinh doanh bất kể doanh nghiệp đó làm ăn lỗ hay lãi. Chính sách này cũng đã
phát huy được tác dụng nhất định, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng vốn tiết kiệm,
tăng thêm một khoản thu vào ngân sách Nhà nước, góp phần giải quyết nhu cầu chi tiêu
của nền kinh tế. Tuy nhiên, nó cũng không khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vốn có
hiệu quả.
1.2.1.5. Vốn do liên doanh liên kết
Có thể thực hiện việc liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp Nhà nước với các doanh
nghiệp khác. Đó có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc doanh nghiệp nước ngoài liên
doanh liên kết để thu hút nguồn tài chính trình độ quản lý, công nghệ của những đối tác

này. Hiện tại hình thức liên doanh chủ yếu thực hiện với đối tác nước ngoài, do trình độ
quản lý yếu kém nên bên Việt Nam thường chịu thiệt thòi nhiều. Lượng vốn góp của bên
Việt Nam còn thấp từ (30%-35%) mà chủ yếu bằng quyền sử dụng đất và mặt nước. Điều
này khiến cho các quyết định của bên Việt Nam thiếu trọng lượng luôn bị chèn ép, việc
đánh giá công nghệ khi liên doanh do thiếu thông tin và trình độ còn non kém nên thường
đánh giá sai, gây thiệt hại cho bên Việt Nam.
1.2.1.6. Vốn từ lợi nhuận để lại
Vốn tích luỹ từ lợi nhuận để lại chiếm một phần nhỏ vì quy mô của các doanh
nghiệp không lớn lắm, lượng tích luỹ không nhiều, hơn nữa hiệu quả kinh doanh lại
không ổn định. Thực tế hoạt động của các doanh nghiệp nước ta cho thấy: hầu hết các
doanh nghiệp có nguồn vốn tự có rất nhỏ bé, không đủ tài trợ cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô, đổi
mới thiết bị công nghệ sản phẩm. Vì vậy nhiều doanh nghiệp phải dựa chủ yếu vào
nguồn vốn từ bên ngoài.
Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia, nó là 1 phần của lợi nhuận được để lại để
10
tái đầu tư. Đó là một trong những cách giúp doanh nghiệp phát triển trong tương lai.
Đó là nguồn “vốn đầu tư mạo hiểm” tốt nhất cho một doanh nghiệp đang hoạt động,
chính là số tiền mà công ty đó đang thực sự tạo ra. Lợi ích từ việc sử dụng nguồn vốn
nội bộ là đem lại lợi nhuận đủ lớn đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng mà không
phải chịu lãi từ việc vay vốn bên ngoài. Việc tái đầu tư lợi nhuận trong kinh doanh
chính là bí quyết để có được sự phát triển lâu dài thành công. Đây chính là vốn “kiên
nhẫn” để xây dựng giá trị cho doanh nghiệp mà không cần phải nợ nần hay chia sẻ lợi
nhuận với các đối tác khác. Vậy nên, khoảng 46% các chủ doanh nghiệp được
American Express khảo sát đều nói rằng họ đã hoạch định tài chính cho sự phát triển
của mình bằng cách tái đầu tư lợi nhuận.
Với công ty nhà nước, với nguồn vốn tự có ban đầu là từ ngân sách nhà nước, thì tái
đầu tư phụ thuộc vào khả năng sinh lời của doanh nghiệp và cả chính sách tái đầu tư của
nhà nước.
Theo thông tư số 1034 – HTĐT/TĐ ngày 1-8-1992 của Ủy ban nhà nước về hợp tác

và đầu tư hướng dẫn về việc dùng lợi nhuận để tái đầu tư. Nhằm thực hiện Điều 32 của
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Điều 74 Nghị định 28-HĐBT của Hội đồng Bộ
trưởng, Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư hướng dẫn việc dùng lợi nhuận thu được để
tái đầu tư ở Việt Nam như sau:
“Tái đầu tư” là dùng lợi nhuận thu được do hoạt động đầu tư ở Việt Nam để:
Tăng (hoặc góp phần tăng) vốn pháp định hoặc vốn đầu tư của một dự án đang
thực hiện.
Đầu tư vào một dự án mới ở Việt Nam.
Số lợi nhuận dùng để tái đầu tư từ 3 năm trở lên (nghĩa là dùng lợi nhuận làm vốn
đầu tư trong thời gian ít nhất là 3 năm), được hoàn lại số thuế lợi tức đã nộp cho số lợi
nhuận tái đầu tư đó.
Khi phát sinh việc dùng lợi nhuận để tái đầu tư, nhà đầu tư có thể lập hồ sơ kèm theo
đơn xin phép hoàn lại số thuế lợi tức đã nộp cho số lợi nhuận tái đầu tư gửi đến Uỷ ban
Nhà nước về hợp tác và đầu tư.
Với công ty cổ phần, tức là công ty có nguồn vốn được hình thành chủ yếu do các cổ
đông đóng góp thì việc tái đầu tư theo phương pháp này có liên quan đến một số yếu tố
nhạy cảm. Cụ thể, khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là
không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ
phần (cổ tức) nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty.Việc
tự tài trợ từ vốn nội bộ giúp trị giá ghi sổ của các cổ phiếu tăng lên. Điều này, một mặt
khuyến khích cổ đông trong công ty giữ cổ phiếu lâu dài nhưng mặt khác dễ làm giảm tính
hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức
nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ lợi nhuận dùng để chi trả cổ tức thấp hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn
11
thì giá cổ phiếu sẽ bị giảm sút.
Khi nói đến nguồn vốn tái đầu tư của các công ty cổ phần không thể không lưu ý tới
tầm quan trọng của chính sách phân phối cổ tức. Chính sách phân phối cổ tức của công ty
cổ phần phải tính đến một số khía cạnh:
- Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ.
- Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước.

- Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty.
- Hiệu quả của việc tái đầu tư từ nguồn lợi nhuận để lại.
1.2.1.7. Các nguồn khác
- Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp có thể tận dụng phần vốn nhàn rỗi của các khoản phải nộp, phải trả
cho Nhà nước nhưng chưa nộp, các khoản chi phí trích trước chưa chi, các khoản phải trả
cho các đơn vị nội bộ nhưng chưa trả.
- Ngoài ra các doanh nghiệp còn có tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
1.2.2. Các điều kiện huy động vốn
1.2.2.1. Các điều kiện chủ quan
- Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Để có thể huy động được các nguồn vốn dưới bất kỳ hình thức nào thì thông thường
mức sinh lợi của vốn hay hiệu quả sử dụng vốn phải cao hơn chi phí sử dụng vốn hay ít
nhất cũng phải cao hơn lãi suất tín dụng trên thị trường. Trong mọi trường hợp để chủ
động huy động nguồn thì chính doanh nghiệp phải nỗ lực tìm mọi cách nâng cao hiệu quả
kinh doanh và khi đó sẽ nâng cao được sự tín nhiệm của mọi đối tác liên quan đến hiệu quả
huy động vốn của doanh nghiệp.
- Mức rủi ro trong hoạt động của doanh nghiệp: Ta hiểu, rủi ro ở đây là rủi ro kinh
doanh và rủi ro kinh doanh có thể từ hai phía:
Thứ nhất, do đặc điểm tính chất của ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, đó là rủi ro doanh nghiệp gặp phải khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trong cả hai trường hợp thì doanh nghiệp phải tìm cách hạn chế bớt mức độ rủi
ro này.
- Uy tín và quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức tài chính: Một doanh nghiệp
bất kỳ, khi có những người lãnh đạo có tài, năng động, thích ứng nhanh với thị trường luôn
biến động thì doanh nghiệp có thể dễ dàng tìm được những nguồn vốn phù hợp.
- Tính khả thi của dự án, phương án kinh doanh:
Một trong những khó khăn lớn nhất khi huy động vốn là thiếu các dự án phương án
kinh doanh có tính khả thi. Trong điều kiện hiện nay tiềm lực nhàn rỗi ở Việt Nam vẫn
được đánh giá là chưa khai thác hết nhưng nhiều nhà đầu tư không dám cho doanh nghiệp

vay vốn hoặc ngần ngại khi góp vốn vào doanh nghiệp vì không tin vào tính khả thi của
các phương án kinh doanh được đưa ra. Chính vì vậy, xây dựng những phương án kinh
12
doanh có đủ căn cứ, sức thuyết phục về tương lai khả quan khi sử dụng vốn là yêu cầu bức
thiết hiện nay.
1.2.2.2. Các điều kiện khách quan.
- Sự phát triển của thị trường tài chính và các tổ chức tài chính:
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các giao dịch mua, bán các loại tài sản tài chính
hay các công cụ vốn hay vốn. Thị trường tài chính ở Việt Nam được coi là chưa phát triển
do chưa hình thành một cách đồng bộ và quy mô hoạt động nhỏ bé, nguồn huy động thông
qua thị trường tài chính chưa nhiều, các doanh nghiệp thường huy động thông qua các tổ
chức tài chính là chủ yếu.
- Tổ chức tài chính:
Hệ thống ngân hàng ở nước ta đó được cải cách đáng kể. Trong thời gian vừa qua, số
lượng và tỷ trọng của các ngân hàng không phải là quốc doanh trong số các ngân hàng
thương mại đó tăng lên đáng kể trong khi các ngân hàng thương mại quốc doanh hầu như
không thay đổi về số lượng.
- Các chính sách của Nhà nước:
Các doanh nghiệp Nhà nước thường gặp nhiều khó khăn hơn trong việc huy động
vốn so với doanh nghiệp thương mại, dịch vụ. Vì những đặc thù trong hoạt động sản
xuất kinh doanh như: chu kỳ sản xuất dài hơn, rủi ro hơn, nhu cầu vốn lớn hơn Chính
vì vậy, yếu tố Nhà nước rất quan trọng mà buộc doanh nghiệp phải nắm rõ về các cơ
chế chính sách, thể hiện ý chí của Nhà nước. Ngoài các chính sách ưu tiên khuyến
khích hay hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp, trong tình hình hiện nay,
bên cạnh sự nỗ lực của doanh nghiệp và cải tổ của hệ thống ngân hàng rất cần sự hỗ trợ
của Nhà nước nhằm tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn
nữa các hình thức huy động vốn.
1.3. Yêu cần đối với việc huy động vốn
Để việc huy động vốn tạo hiệu quả cao, cần đáp ứng một số yêu cầu sau:
- Thứ nhất, huy động vốn phải đảm bảo tính kịp thời.

Thông thường khi có yêu cầu về vốn bổ sung, doanh nghiệp tìm nguồn vốn để giải
quyết nhu cầu đó. Tuy nhiên, nếu việc cung ứng vốn không đúng thời điểm, thời cơ đầu tư
thì nguồn vốn đó sẽ mất ý nghĩa hoặc làm giảm khả năng thu lợi ích từ các hoạt động đầu
tư kinh doanh.
Vì vậy cải tiến các thủ tục hành chính phức tạp trong các quy trình giao dịch về vốn
là một mong muốn của các doanh nghiệp.
- Thứ hai, cần lựa chọn nguồn vốn đảm bảo hiệu quả nhất trong những điều kiện nhất
định. Trong điều kiện thị trường tài chính càng phát triển thì doanh nghiệp càng có cơ hội
tiếp cận với các nguồn vốn khác nhau để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Do đó cần lựa
chọn nguồn vốn thích hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong việc huy động vốn.
13
- Thứ ba, việc huy động vốn cần đảm bảo đáp ứng nhu cầu về số lượng và thời gian.
Một ý đồ đầu tư, kinh doanh sẽ không thể thực hiện được nếu không có đủ một lượng vốn
nhất định theo nhu cầu tính toán do đó khi huy động vốn phải đảm bảo đủ về số lượng và
tính tương thích về thời gian.
- Thứ tư, việc huy động vốn phải đảm bảo tối thiểu hoá chi phí giao dịch. Một nguồn
vốn với lãi suất thấp đôi khi có thể trở nên quá đắt do chi phí liên quan đến giao dịch về
vốn quá cao.
- Cuối cùng, doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng thu hồi vốn của các hoạt động đầu
tư để hoàn thành trả vốn vay.
Trên đây là một số vấn đề chung nhất của công tác huy động vốn, để làm rõ thêm
những nội dung này, ta đi vào phân tích thực trạng công tác huy động vốn ở công ty cổ
phần xây lắp điện 1.
14
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN Ở CÔNG TY CỔ PHẦN
XÂY LẮP ĐIỆN 1
2.1. Khái quát chung về công ty CP xây lắp điện 1
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển
- Tên doanh nghiệp: CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY LẮP ĐIỆN 1

- Tên giao dịch quốc tế: POWER CONSTRUCTION JOINT STOCK COMPANY No.1
- Tên viết tắt tiếng Anh: PCC1
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nghiệp số: 0100100745
- Vốn điều lệ: 130.000.000.000 đồng.
- Vốn đầu tư của chủ sở hữu: 140.000.000.000 đồng.
- Số điện thoại: 04.38456329 - Fax: 04.38231997
- Địa chỉ: Tòa nhà CT2, số 583 đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội.
- Website: www.pcc1.vn
Công ty cổ phần xây lắp điện I – PCC1 tiền thân là công ty xây lắp đường dây và
trạm trực thuộc Bộ Điện và Than được thành lập ngày 02 tháng 03 năm 1963. Khi mới
thành lập, công ty là đơn vị duy nhất hoạt động trong lĩnh vực xây lắp đuờng dây và trạm
nguồn điện trên toàn quốc.
Theo hoạch định của chiến lược phát triển ngành năng lực Quốc gia trong từng giai
đoạn phát triển của Đất nước. Công ty đã lần lượt được mang tên công ty xây lắp đường
dây và trạm, Công ty xây lắp đường dây và trạm I. Công ty xây lắp điện I và tại quyết định
số 1263/QĐ-TCCB ngày 05 tháng 4 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp. Công ty
xây lắp điện I được phê duyệt phương án cổ phần hoá và chuyển thành công ty cổ phần xây
lắp điện I, có Đăng ký kinh doanh số: 0103008651 do Sở Kế hoạch & Đầu tư thành phố Hà
nội cấp ngày 20 tháng 7 năm 2005.
Với trên 45 năm hình thành và phát triển, các lớp thế hệ nối tiếp của công ty đã làm
nên những dấu ấn đậm nét trên toàn bộ hệ thống mạng lưới vận hành và truyền tải phân
phối năng lượng điện Quốc gia bằng những dự án, công trình đường dây và trạm quy mô
lớn, chất lượng cao, mang nguồn năng lượng điện đến khắp mọi miền Bắc, Trung, Nam
của Đất nước: từ thành thị đến nông thôn vùng sâu vùng xa, miền núi cao, hải đảo xa và cả
trên vùng núi, đồng bằng của nước bạn Lào anh em…
Trong những năm qua với ngành nghề kinh doanh và năng lực của mình Công ty đã
đảm nhận thực hiện hoàn thành hàng nghìn km ĐDK 500kV, hàng chục nghìn km ĐDK
220kV, 110kV, hàng trăm nghìn km ĐDK Ê 35kV, hoàn thành nhiều dự án trạm biến áp
15
đến 500kV tổng công suất hàng chục nghìn MVA, tham gia thi công các nhà máy thuỷ

điện, hoàn thành nhiều hệ thống thông tin viễn thông, đường dây cáp quang. Sản xuất chế
tạo, lắp đặt hàng chục nghìn tấn kết cấu thép tiêu chuẩn. phi tiêu chuẩn… Đào tạo được đội
ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao, đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề
có khả năng kế thừa và phát triển để đảm nhận quản lý và thực hiện những dự án có quy
mô lớn, có tính chất đặc biệt quan trọng của Quốc gia.
Với những đóng góp của Công ty vào chiến lược phát triển năng lượng điện của
Quốc gia trong những năm qua, Công ty đã được Nhà nước phong tặng nhiều phần thưởng
cao quý như: Huân chương Độc lập hạng nhì, hạng 3; Huân chương lao động hạng nhì,
hạng 3; và nhiều phần thưởng khác của Bộ ngành và UBND các tỉnh thành phố.
Công ty có năng lực máy móc, thiết bị thi công được trang bị đủ đáp ứng thực hiện
đồng thời nhiều dự án Đường dây, trạm nguồn điện có quy mô lớn cả phạm vi trong và
ngoài nước.
Công ty có năng lực tài chính bằng vốn lưu động tự có và sự tín nhiệm cam kết cung
cấp tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt nam và các tổ chức tín dụng như
Công ty Tài chính Dầu khí… khi cần thiết, đủ để đáp ứng phục vụ thực hiện các dự án có
quy mô lớn, đảm bảo luôn luôn kiểm soát được tiến độ và chất lượng dự án.
Để luôn luôn cải tiến nâng cao năng lực quản lý chất lượng các dự án, công trình xây
dựng do Công ty thực hiện ngoài việc thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ
của cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công ty đã và đang vận hành hệ thống quản lý chất
lượng và đã được cấp chứng chỉ quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2008.
Với chiều dài lịch sử và bề dày truyền thống trên 45 năm, với năng lực & kinh
nghiệm cơ bản nêu trên, với phương châm của lãnh đạo công ty luôn luôn cải tiến: “Chất
lượng - Tiến độ - Giá thành - Thẩm mỹ công nghiệp” công ty cổ phần xây lắp điện I - có
tên viết tắt tiếng Anh “PCC1” đã và đang phấn đấu luôn là doanh nghiệp hàng đầu trong
lĩnh vực xây lắp đường dây và trạm nguồn điện của Việt Nam.
16
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty
17
2.1.3. Thực trạng huy động vốn tại công ty cổ phần xây lắp điện 1
Để đánh giá được tình hình huy động vốn, trước tiên ta đi nghiên cứu về cơ cấu vốn

của công ty.
Bảng 2. 1 : Tổng hợp nguồn vốn theo thời gian (2010- 2012)
Năm
Vốn vay Vốn chủ sở hữu Tổng vốn
Số tiền
(triệu đ)
Tỉ trọng
(%)
Số tiền
(triệu đ)
Tỉ trọng
(%)
Số tiền
(triệu đ)
Tỉ trọng
(%)
2010
562.582.41
3
73.18%
206.197.02
1
26.82% 768.779.434 100%
2011 714.562.659 72.58%
269.987.34
0
27.42% 984.549.999 100%
2012 724.557.895 72.09% 280.497.351 27.91% 1005.055.246 100%
Vì đây là một công ty lớn, có rất nhiều công ty con và đơn vị thành viên, thêm vào
đó công ty đã có bề dày lịch sử hoạt động nên nguồn vốn của công ty tương đối lớn về mặt

lượng và biến động không đáng kể giữa các năm.
Bảng trên cho chúng ta thấy tuy lượng vốn lớn nhưng trong đó vốn vay cũng chiếm
một tỉ trọng rất cao đều từ 70% trở lên và năm 2010 còn lên tới 73,18%. Tuy nhiên tỷ lệ
vốn vay và vốn chủ sở hữu như này là khá hợp lý. Để đánh giá chính xác hơn về nguồn
vốn, chúng ta đi sâu vào phân tích nguồn vốn qua từng năm.
2.2. Thực trạng huy động vốn trong công ty cổ phần xây lắp điện 1
2.2.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
18
Bảng 2.2: Sự biến động nguồn vốn qua các năm gần đây (ĐVT: nghìn đồng)
Chỉ tiêu
Số cuối
năm 2009
Số cuối
năm 2010
Số cuối
năm 2011
Số cuối
năm 2012
Chênh lệch năm
2009 so với 2010
Chênh lệch năm
2010 so với 2011
Chênh lệch năm
2011 so với 2012
Tiền % Tiền % Tiền %
B - VỐN CHỦ SỞ
HỮU
151.120.513 206.197.021 269.987.340 280.497.351 55.076.508 36.45% 63.790.319 30.94% 10.510.011 3.89%
I. Vốn chủ sở hữu 151.120.513 206.197.021 269.987.340 280.497.351 55.076.508 36.45% 63.790.319 30.94% 10.510.011 3.89%
1. Vốn đầu tư của

chủ sở hữu
100.000.000 100.000.000 140.000.000 140.000.000 0 0.00% 40.000.000 40.00% 0 0.00%
2. Thặng dư vốn
cổ phần
13.832.188 13.832.188 25.832.188 25.832.188 0 0.00% 12.000.000 86.75% 0 0.00%
3. Vốn khác của
chủ sở hữu
- - - - - - - - - -
4. Cổ phiếu quỹ
(*)
- - - -18.106.000 - - - - - -
5. Chênh lệch
đánh giá lại tài sản
- 5.534 - - - - - - - -
6. Chênh lệch tỷ
giá hối đoái
-5.227 - -28.435 - 5.227 - 28.435 - - -
7. Quỹ đầu tư phát
triển
5.498.718 7.653.854 11.153.854 11.153.854 2.155.136 39.19% 3.500.000 45.73% - 0.00%
8. Quỹ dự phòng
tài chính
2.738.302 5.065.870 8.565.870 8.565.870 2.327.568 85.00% 3.500.000 69.09% - 0.00%
9. Quỹ khác thuộc
vốn chủ sở hữu
- 1.250.000 3.000.000 3.000.000 - - 1.750.000
140.00
%
- 0.00%
10. LNST 29.578.088 78.389.576 81.373.864 110.051.439 48.811.488

165.03
%
2.984.288 3.81% 28.677.575
35.24
%
11. Nguồn vốn
đầu tư XDCB
- - - - - - - - - -
II. Nguồn kinh phí
và quỹ khác
- - - - - - - - - -
19
Từ số liệu ở bảng trên ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu tăng dần qua các năm. Năm
2009 là 151.120.513 nghìn đồng, năm 2012 là 280.497.351 nghìn đồng. Trong bối
cảnh nền kinh tế đang gặp khó khăn, nhiều công ty trong các lĩnh vực khác nhau đang
gặp khó khăn về tiếp cận nguồn vốn hoặc phải chịu gánh nặng chi phí tài chính thì
tình hình tài chính của công ty cổ phần xây lắp điện 1 tương đối tốt. Lợi nhuận chưa
phân phối năm 2010 tăng 48.811.488 nghìn đồng so với năm 2009, tương đương tăng
165,03%. Năm 2011 tăng 2.984.288 nghìn đồng tương đương tăng 3,81%. Năm 2012
tăng 28.677.575 nghìn đồng tương đương tăng 35,24%. Mặc dù thị trường tài chính
năm 2010 có nhiều khó khăn nhưng công ty vẫn xuất sắc trong việc điều hành kế
hoạch tài chính và dòng tiền phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Trong những thời điểm
khó khăn nhất về vốn của thị trường Việt nam, công ty vẫn kiểm soát được tài chính,
đảm bảo được vốn cho hoạt động. Thanh toán lương cho cán bộ công nhân viên, cho
các nhà cung cấp vật tư, nhà thầu phụ, các đơn vị thi công của Công ty đúng tiến độ
và kế hoạch. Và hơn hết là công ty đã kinh doanh rất hiệu quả khi thu về một lượng
lợi nhuận sau thuế khá lớn. Qua đây ta thấy, công ty có thể huy động 1 số vốn nhất
định từ lợi nhuận sau thuế để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Bên cạnh lợi
nhuận chưa phân phối tăng qua các năm thì nguồn vốn chủ sở hữu còn tăng do vốn
đầu tư của chủ sở hữu và thặng dư vốn cổ phần tăng qua các năm. Cụ thể, vốn đầu tư

của chủ sở hữu năm 2011 tăng 40 tỷ đồng so với năm 2010 tương đương tăng 40%.
Năm 2010 là 1 năm tương đối khó khăn với nền kinh tế nói chung và các doanh
nghiệp nói riêng. Trong thời kỳ này, hàng nghìn doanh nghiệp phải phá sản vì “vỡ
nợ”, không có vốn sản xuất kinh doanh….Tuy nhiên, công ty cổ phần xây lắp điện 1
vẫn vượt qua được và hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường. Vì sao vậy? Nhìn
trên bảng 2.4 chúng ta có thể thấy, năm 2011, chủ sở hữu đã đầu tư 40 tỷ đồng vào
công ty. Qua đó có thể nguồn lực tài chính của công ty cổ phần xây lắp điện 1 rất dồi
dào. Cho dù thị trường có biến động thì công ty cũng vẫn khẳng đinh được chỗ đứng
của mình trên thị trường. Để chứng minh cho điều này, chúng ta hãy nhìn vào chỉ tiêu
thặng dư vốn cổ phần. Năm 2010, thặng dư vốn cố phần của công ty là 13,8 tỷ đồng
nhưng đến năm 2011, thặng dư vốn cổ phần của công ty đã lên tới 25,8 tỷ đồng. Tăng
12 tỷ đồng tương đương tăng 86,75% so với năm 2010. Thặng dư vốn cổ phần chính
là phần chênh lệch giữa mệnh giá và giá phát hành cổ phiếu. Như vậy, trong năm
2011, công ty đã thu về được một nguồn tiền lớn nhờ việc phát hành cổ phiếu, chứng
tỏ giá trị cổ phiếu của công ty lớn hơn mệnh giá của nó rất nhiều. Sang năm 2012,
tình hình kinh tế có vẻ ổn định nên nguồn vốn của công ty ít biến động hơn. Quỹ đầu
tư phát triển tăng đều qua các năm. Năm 2009 là 5,5 tỷ đồng, đến năm 2010 là 7,7 tỷ
đồng, tăng hơn 2 tỷ, tương đương 39,19%. Quỹ đầu tư phát triển năm 2011 là 11,2 tỷ
20
đồng, tăng 3,5 tỷ, tương đương 45,7%. Qua đây ta thấy, trong thời kỳ khó khăn như
năm 2010 nhưng công ty vẫn trích 1 khoản tiền tương đối lớn vào quỹ đầu tư phát
triển. Điều đó chứng tỏ công ty có tấm nhìn về định hướng phát triển tương đối tốt.
Bên cạnh đó, quỹ dự phòng tài chính tăng vùn vụt qua các năm. Năm 2009 là 2,74 tỷ
nhưng đến năm 2010 đã lên tới 5,07 tỷ ( tăng 2,33 tỷ tương đương tăng 85%). Qua
đây ta thấy, để đối mặt với nền kinh tế khủng hoảng, không chỉ có nguồn vốn đầu tư
của chủ sở hữu, thặng dư vốn cổ phần “cứu cánh” cho công ty mà để an toàn, công ty
cũng trích 1 khoản tiền khá lớn vào quỹ dự phòng tài chính. Năm 2011 tiếp tục tăng
lên 8,6 triệu đồng tương đương tăng 69,09%. Sang năm 2012, nguồn vốn của công ty
dường như ít biến động hơn. Chứng tỏ trong thời gian này, công ty đi vào ổn định
hơn. Qua bảng phân tích sự biến động của nguồn vốn chủ sở hữu ở trên ta thấy, công

ty có một nguồn lực tài chính rất mạnh, nguồn vốn được huy động rất hợp lý chứng tỏ
tình hình huy động vốn của công ty là rất tốt.
2.2.2. Nguồn vốn vay
21

×