LỜI MỞ ĐẦU
Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, xu hướng
toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã đặt ra cho doanh nghiệp một sức ép vô cùng
lớn; Đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải không ngừng tự đổi mới, tự hoàn thiện để
có chỗ đứng trên thị trường. Ở Việt Nam, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường
thì sự bao cấp của Nhà nước đối với các doanh nghiệp đã được xoá bỏ.Vì vậy,
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước diễn ra như là một qui luật, một xu hướng
tất yếu khách quan. Khi không còn sự bao cấp, bảo hộ của Nhà nước, buộc
doanh nghiệp phải tự đứng vững trên đôi chân của mình. Các nhà quản lý doanh
nghiệp phải luôn chủ chủ động, tích cực, nhạy bén, chính xác và tỉnh táo trong
các quýêt định liên quan đến hoạt động của doanh nghiêp. Cơ sở của những điều
này là sự am hiểu về thị trường, biết phân tích các điểm mạnh cũng như các
khiếm khuyết của công ty, từ đó, phát huy các thế mạnh, khắc phục hạn chế
những mặt yếu, tìm ra những giải pháp để phát triển doanh nghiệp ngày càng có
uy tín trên thương trường, tạo ưu thế trước đối thủ cạnh tranh. Điều này đòi hỏi
các nhà quản lý phải nắm chắc các mặt hoạt động về Marketing, chính sách về
lao động tiền lương, công tác quản lý vật tư, tình hình tài chính của doanh
nghiêp.
Trong thời gian thực tập tại Công ty CP Bánh kẹo Hải Hà, qua tìm hiểu và
phân tích, em thấy rằng “ Vấn đề tài chính “ của công ty còn nhiều yếu kém.
Trong khi hoạt động tài chính luôn giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động của
doanh nghiệp, chi phối tất cả các khâu trong quá trình sản xuất- kinh doanh, nó
quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp . Đặc biệt trong xu thế
hội nhập khu vực và quốc tế, trong điều kiện cạnh tranh diễn ra khốc liệt thì chất
lượng của hoạt động tài chính trở nên quan trong hơn bao giờ hết. Vì vậy em
quyết định chọn đề tài chuyên đề “Các giải pháp nâng cao chất lưọng hoạt
động tài chính nhằm thúc dẩy hiệu quả kinh doanh của Công ty CP Bánh kẹo
Hải Hà sau cổ phần hoá”.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
1
Dựa vào việc phân tích và dự báo tình hình tài chính của doanh nghiệp các
nhà quản trị sẽ biết được tiềm năng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
khả năng sinh lời cũng như những rủi ro của doanh nghiệp. Có được sự phân
tích tình hình tài chính và nắm được tình hình của doanh nghiệp từ đó đưa ra các
quyết định, các đối sách tốt nhất mang lại kết quả tốt nhất cho doanh nghiệp
trước các biến động ngày càng phức tạp của thị trường và của nền kinh tế nước
ta.
Nội dung chuyên đề bao gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động tài chính doanh nghiệp trong cơ
chế thị trường
Chương II: Thực trạng hoạt động tài chính của Công ty CP Bánh kẹo Hải
Hà
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động tài chính Công ty CP
Bánh kẹo Hải Hà
Em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Nguyễn
Đình Kiệm đã trực tiếp hướng dẫn em viết Chuyên đề này và các thầy cô trong
Khoa Tài chính Doanh nghiệp, Học viện Tài chính Hà Nội đã tạo điều kiện
thuận lợi để em hoàn thành chuyên đề theo yêu cầu.
Em xin chân thành cám ơn các cán bộ công nhân viên phòng Tiếp thị Bán
hàng, phòng Tài chính Kế toán, phòng Tổ chức Hành chính, phòng Kế hoạch
Vật tư Công ty CP Bánh kẹo Hải Hà đã tạo điều kiện và giúp đỡ em rất nhiều để
em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn !
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
I. HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ
TRƯỜNG
1. Khái niệm hoạt động tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính có vai trò quyết định đối với quá trình sản xuất của
doanh nghiệp. Đó là sự tác động có hệ thống của chủ thể quản lý lên các hoạt
động tài chính của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Nhiệm vụ của các nhà quản lý là nghiên cứu các mối quan hệ tài chính phát sinh
trong phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó ra quyết định tài chính
nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
2. Nội dung hoạt động tài chính
Các quan hệ tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong cả quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các nhà quản lý doanh nghiệp
phải xử lý các quan hệ tài chính thông qua việc giải quyết những vấn đề chủ yếu
sau:
• Doanh nghiệp nên đầu tư dài hạn vào đâu, đầu tư bao nhiêu, qui mô ra
sao, có phù hợp với loại hình sản xuất mà doanh nghiệp lựa chọn hay không.
Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp và là cơ sở để dự toán
vốn đầu tư.
• Nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể khai thác là nguồn nào? Các nhà quản
lý quan tâm đến việc làm thế nào để có được vốn để đầu tư dài hạn. Cơ cấu vốn
của doanh nghiệp thể hiện tỷ trọng của nợ và vốn của chủ do chủ và cổ đông
cung ứng. Nhà quản lý tài chính phải cân nhắc tính toán để quyết định doanh
nghiệp nên vay bao nhiêu? Duy trì cơ cấu giữa nợ và vốn của chủ như thế nào là
phù hợp? Nguồn vốn nào là tốt cho doanh nghiệp?
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
3
• Nhà quản lý sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào? Đây
thực chất là việc quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp, hay là quản lý các
tài sản ngắn hạn. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn liền với các dòng tiền nhập
quĩ và dòng tiền xuất quĩ. Các nhà quản lý sẽ phải giải quyết những vấn đề phát
sinh trong quản lý tài sản lưu động như: doanh nghiệp nên nắm giữ bao nhiêu
tiền và dự trữ? Doanh nghiệp có nên bán chịu không? Doanh nghiệp sẽ tài trợ
ngắn hạn bằng cách nào?
Hoạt động tài chính thực chất là việc đảm bảo đủ nguồn vốn tài chính
cho tổ chức với sự hợp lý giữa nguồn tài chính dài hạn và ngắn hạn cũng như
đảm bảo khả năng thanh toán tốt nhất, huy động vốn với chi phí thấp nhất, đảm
bảo cho các nguồn vốn được sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả
2.1 . Xác định mục tiêu của hoạt động tài chính
Doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như: tối đa
hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong mối quan hệ với nhiều rằng buộc về
lợi ích … song mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản
cho chủ doanh nghiệp. Mục tiêu tài chính của các công ty cổ phần là nhằm giải
quyết tốt các mối quan hệ kinh tế phát sinh giữa công ty với ngân sách nhà
nước, giữa công ty với cán bộ công nhân viên của công ty và giữa các cổ đông
trong công ty.
Trong hoạt động tài chính doanh nghiệp, nhà quản lý phải cân nhắc các yếu
tố bên trong, và các yếu tố bên ngoài trước khi đưa ra quyết định làm tăng giá trị
tài sản của chủ sở hữu, phù hợp với lợi ích của chủ sở hữu. Các quyết định tài
chính trong doanh nghiệp là: các quyết định về đầu tư, quyết định về huy động
vốn, quyết định về phân phối, ngân quỹ. Tất cả các quyết định này có mối quan
hệ chặt chẽ lẫn nhau.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
4
2.2. Phân tích tài chính
2.2.1. Khái niệm niệm phân tích tài chính
Phân tích tài chính cung cấp một bức tranh tổng thể về tình hình tài chính
của doanh nghiệp, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh…Đó là một quá
trình nhà quản lý tài chính sử dụng các phương pháp, các công cụ cho phép xử
lý thông tin về kế toán, các thông tin về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài
chính khả năng, tiềm lực cũng như mức độ rủi ro, hiệu quả hoạt động của tổ
chức.
Trọng tâm của phân tích tài chính là phân tích báo cáo tài chính,các chỉ tiêu
đặc trưng tài chính.Qua đó có thể đánh giá một cách toàn diện, khái quát hoạt
động tài chính của tổ chức, từ đó ra các quyết định tài chính, quyết định tài trợ
và đầu tư hiệu quả.
2.2.2. Nội dung phân tích tài chính
2.2.2.1. Đọc báo cáo tài chính
Các báo cáo tài chính được tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các chỉ
tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình phân bổ tài sản, tình hình và
kết quả sản xuất kinh doanh, tình hình lưu chuyển các dòng tiền và các thông tin
tổng quát khác về tình hình doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Chính vì
vậy, các báo cáo tài chính có vai trò quan trọng đối với công tác quản lý trong
doanh nghiệp đó:
- Các báo cáo tài chính phản ánh khá trung thực, đầy đủ, toàn diện tình
hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Mà hoạt động tài
chính có mối liên hệ trực tiếp, qua lại với hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó,
tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng đến tình hình tài chính
của doanh nghiệp. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác động
thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
5
- Các chỉ tiêu, số liệu trên các báo cáo tài chính là cơ sở quan trọng để tính
ra các chỉ tiêu kinh tế khác nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả của
việc sử dụng tài sản, cơ cấu tài sản, nguồn vốn cũng như khả năng sinh lợi của
doanh nghiệp. Từ đó, có những quyết định quản lý thích hợp về điều chỉnh cơ
cấu, cách điều hành sản xuất kinh doanh, các hướng đầu tư… để đạt được các
mục tiêu đề ra của doanh nghiệp.
- Các báo cáo tài chính là căn cứ để cung cấp các thông tin cần thiết cho
nhiều đối tượng khác nhau, như: các nhà quản lý trong doanh nghiệp, các cơ
quan quản lý của nhà nước, các nhà đầu tư, các nhà cung cấp, các khách hàng…
Mỗi đối tượng quan tâm đến báo cáo tài chính với các mục đích khác nhau.
Nhưng nói chung, mục đích cuối cùng của các đối tượng là tìm hiểu, nghiên cứu
các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phục vụ cho
việc ra quyết định của mình.
- Các báo cáo tài chính còn là căn cứ để xây dựng các kế hoạch kinh tế, kỹ
thuật, tài chính của doanh nghiệp từ đó đưa ra các biện pháp nhằm tăng cường
khả năng quản lý doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tăng lợi
nhuận.
2.2.2.2 Phân tích các tỷ số tài chính
Trong phân tích tài chính, các hệ số tài chính chủ yếu thường được phân
tích thành 5 nhóm chính.
- Các hệ số về cơ cấu tài sản và nguồn vốn: nhóm chỉ tiêu này phản ánh tài
sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi nguồn vốn nào.
- Các hệ số về khả năng thanh toán: đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để
đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
- Các hệ số về khả năng quản lý tài sản: đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng
cho việc sử dụng nguồn lực tài sản của doanh nghiệp.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
6
- Các hệ số vể khả năng quản lý vốn vay: đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng về
việc quản lý nợ của doanh nghiệp.
- Các hệ số về khả năng sinh lời: nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản
xuất kinh doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp.
- Sơ đồ DuPont và mối liên hệ giữa chúng.
Tuỳ theo từng mục đích phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng
nhiều hơn tới nhóm hệ số này hay nhóm hệ số khác.
Để có được các số liệu phản ánh trung thực tình trạng tài chính của doanh
nghiệp thì trước khi tiến hành phân tích phải chuyển bảng cân đối kế toán thành
bảng cân đối tài chính và báo cáo kết quả kinh doanh thành báo cáo thu nhập.
2.2.2.2.1 Phân tích các hệ số về cơ cấu tài sản và nguồn vốn:
Các hệ số cấu trúc được thiết lập từ các số liệu trên bảng cân đối tài chính,
riêng biệt đối với từng bên tài sản và nguồn vốn, trên cơ sở đó so sánh giá trị của
một hoặc một số mục với tổng số. Với hệ thống các chỉ số này bảng cân đối tài
chính sẽ chuyển từ dạng giá trị sang dạng %. Điều này cho phép thực hiện việc
đánh giá biến động theo thời gian.
- Các hệ số cấu trúc bên tài sản là đặc trưng kỹ thuật, kinh tế trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
7
T
1
T
1
=
Tiền & ĐTTCNH
Tiền & ĐTTCNH
Tổng tài sản
T
2
=
Các khoản phải thu
Tổng tài sản
T
3
=
Hàng tồn kho
Tổng tài sản
Các hệ số cấu trúc bên nguồn vốn thể hiện chính sách tài chính về độ ổn
định trong tài trợ và độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
+ Độ ổn định nguồn tài trợ V
1
và V
2
:
+ Độ tự chủ tài chính tổng quát V
3
và V
4
:
+ Độ tự chủ tài chính dài hạn V
5
, V
6
, V
7
:
2.2.2.2.2 Phân tích các hệ số về khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng của
công tác tài chính. Nếu hoạt động tài chính tốt, thì doanh nghiệp ít công nợ, khả
năng thanh toán dồi dào, ít chiếm dụng vốn cũng như ít bị chiếm dụng vốn.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
8
V
1
=
VTX(Vốn chủ + Nợ ) NH)
Tổng nguồn vốn
V
2
=
Nợ ngắn hạn
Tổng nguồn vốn
V
3
=
vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
V
4
=
Nợ phải trả
Tổng nguồn vốn
V
5
=
Vốn chủ sở hữu
VTX
V
6
=
Nợ dài hạn
VTX
V
7
=
Nợ dài hạn
VCSH
T
4
=
TSCĐ hữu hình
Tổng tài sản
Ngược lại, nếu hoạt động tài chính kém hiệu quả thì sẽ dẫn đến tình trạng
chiếm dụng vốn lẫn nhau, các khoản công nợ phải thu, phải trả sẽ dây dưa, kéo
dài.
Chỉ số hiện hành
Tổng TSLĐ & ĐTGH
Tổng nợ ngắn hạn
T ỷ số hiện hành =
TSC Đ-H. H àng t ồn kho
Tổng nợ ngắn hạn
T ỷ số thanh toán
nhanh
=
TSLĐ - HTK
Tổng nợ ngắn hạn
T ỷ số thanh toán
=
Vốn bằng tiền
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số công nợ
=
Các khoản phải thu
Các khoản phải trả
2.2.2.2.3 Phân tích các hệ số về hoạt động:
Các hệ số này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của doanh
nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các tài
sản khác nhau. Trên thực tế cho thấy tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của
từng doanh nghiệp mà mức độ hoạt động sẽ được biểu thị khác nhau. Nhưng
thông qua sự biến động về mức độ hoạt động cũng chứng minh được hiệu quả
kinh doanh, hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực tài chính.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
9
Vòng quay HTK =
Doanh thu thuần
Hang ton kho
Kỳ thu nợ bán chịu =
Khoản phải thu x 360
Doanh thu
Vòng quay TSCĐ =
Doanh thu
Tài sản cố định
Vòng quay TSLĐ =
Doanh thu
Tài sản lưu động
Vòng quay TTS =
Doanh thu
Tổng tài sản
2.2.2.2.4 Phân tích các hệ số về khả năng quản lý vốn vay:
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
10
Chỉ số nợ =
Tổng nợ
Tổng tài sản
Khả năng thanh
toán lãi vay
=
Lợi nhuận trước LV&T
Lãi vay
Khả năng thanh
toán tổng quát
=
Tổng tài sản
Nợ phải trả
2.2.2.2.5 Phân tích các hệ số về khả năng sinh lời:
Các hệ số sinh lời là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh trong một kỳ nhất đinh, là đáp số sau cùng của hiệu quả kinh
doanh. Phân tích khả năng sinh lợi cho phép doanh nghiệp đánh giá được tình
trạng tăng trưởng, giúp doanh nghiệp điều chỉnh lại cơ cấu tài chính và hoạch
định chiến lược ngăn ngừa rủi ro ở mức độ tốt nhất, cũng như đề xuất hướng
phát triển trong tương lai.
2.2.2.2.6. Các đẳng thức DuPont và mối liên hệ giữa các chỉ số:
Mục đích của việc phân tích DuPont là phục vụ cho việc sử dụng vốn chủ
sở hữu sao cho có hiệu quả sinh lời là nhiều nhất.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
11
Lợi nhuận biên
(PM)
=
Doanh thu
LN sau thuế
Tỷ suất thu hồi tài
sản (ROA)
=
Tổng tài sản
LN sau thuế
Tỷ suất thu hồi vốn
góp (ROE)
=
Tổng vốn chủ sở hữu
LN sau thuế
2.2.2.3. Phương pháp phân tích
Phương pháp phân tích báo cáo tài chính:
Trước tiên, xác định giá trị phản ánh trên các báo cáo tài chính là giá trị
nào? Theo giá trị lịch sử, theo giá trị hiện hành, theo giá trị cố định? Đây là
doanh nghiệp đang hoạt động hay đang ở giai đoạn thanh lý hay đang cần đầu tư
mới?
Có nhiều công cụ và kỹ thuật chuẩn hoá khác nhau có thể sử dụng trong
phân tích báo cáo tài chính. Với mục đích làm nổi bật được thực trạng và triển
vọng của hoạt động tài chính, vạch rõ những mặt tích cực, tồn tại, xác định
nguyên nhân và ảnh hưởng của các yếu tố từ đó đề ra các biện pháp nhằm nâng
cao hơn nữa hiệu quả của doanh nghiệp. Có nhiều phương pháp được sử dụng
trong phân tích báo cáo tài chính, như: phương pháp so sánh, phương pháp đồ
thị, phương pháp nội suy, phương pháp ngoại suy, phương pháp tương quan,…
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
Tỷ suất thu hồi vốn chủ sở hữu ROE
Tỷ suất thu hồi tài sản ROA Tài sản / Vốn góp
nhân với
Lợi nhuận biên
Vòng quay tổng tài sản
nhân với
Lãi ròng
Doanh thu
Doanh thu Tổng tài sản
cộng vớitrừ đi
chia chochia cho
Tổng chi phíDoanh thu
Khấu
hao
Các chi
phí hoạt
động khác
Tài sản cố định Tài sản lưu động
Lãi
vay
Thuế Tiền mặt và
chứng
khoán dễ
bán
Khoản
phải thu
Hàng
tồn
kho
+ ++ + +
12
Tuy nhiên, trong phân tích báo cáo tài chính chúng ta thường tiến hành theo
phương pháp so sánh là chủ yếu. Phương pháp so sánh tuyệt đối và tương đối
theo chiều ngang hoặc chiều dọc.
- Phân tích so sánh số tuyệt đối cho thấy độ lớn của các chỉ tiêu, các khoản
mục phí chi phí, tài sản công nợ vốn liếng được phản ánh trong các báo cáo tài
chính.
- Phân tích so sánh số tương đối là phân tích dựa vào các tỷ lệ được tính
toán theo chiều ngang hoặc theo chiều dọc của các báo cáo tài chính.
So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng loại trong tổng số,
so sánh theo chiều ngang để thấy được biến động của từng loại.
Cụ thể:
+ So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu
hướng thay đổi về mặt tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp
có những biện pháp trong kỳ tới.
+ So sánh số thực hiện kỳ này với số trung bình ngành để thấy được tình
hình tài chính của doanh nghiệp đang ở tình trạng như thế nào so với các doanh
nghiệp khác cùng ngành.
+ So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy được khả năng hoàn
thành kế hoạch từ đó tìm ra yếu tố ảnh hưởng tới kết quả đạt được.
2.3. Hoạch định tài chính
Hoạch định tài chính là công việc đầu tiên, có ý nghĩa quyết định trong
quy trình quản lý tài chính của một tổ chức. Lập kế hoạch tài chính bao gồm các
bước:
- Dự toán thu chi của ngân sách
- Lựa chọn phương án hoạt động tài chính trong tương lai cho tổ chức.
- Ấn định sự kiểm soát đối với các hoạt động trong tổ chức.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
13
2.3.1. Mục đích
- Bảo đảm việc xây dựng dự toán thu chi tài chính phù hợp với thực tiễn,
với thực tế của tổ chức.
- Bảo đảm việc thực hiện đúng trình tự, thời gian, và hiệu quả các kế hoạch
thu chi của tổ chức.
- Tăng cường hiệu quả quản lý tài chính cho các nhà quản lý tổ chức. Trong
một môi trường với nhiều sự biến đổi khôn lường và sự cạnh tranh khốc liệt,
việc hoạch định tài chính, lên kế hoạch về tài chính sẽ giúp cho nhà quản lý dự
đoán, đối phó được những rủi ro biến động của môi trường. Từ đó xác định
được các nhu cầu tài chính, các nhà quản lý có thể nắm vững được những yếu tố
tác động của môi trường và có phản ứng linh hoạt trước những tác động đó.
2.3.2. Nội dung của hoạch định tài chính
- Dựa vào mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức, xác định
mục đích, nhiệm vụ của việc lập dự toán. Từ đó, có chính sách phân phối, sử
dụng ngân sách một cách hiệu quả.
- Việc lập kế hoạch tài chính phải căn cứ vào kết quả phân tích tình hình
thực hiện các kế hoạch dự toán tài chính của tổ chức trong năm trước, dựa vào
khả năng tài chính, diễn biến thị trường, các thành tựu về khoa học công nghệ,
chính sách Nhà nước, và các yếu tố về kinh tế, chính trị trong và ngoài nước có
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của tổ chức. Từ đó rút ra những thông tin
bổ sung cần thiết cho việc lập dự toán thu chi trong kỳ kế hoạch.
- Xác định khả năng, mức độ, lĩnh vực cần khai thác nguồn thu, đồng thời
xác định được nhu cầu lĩnh vực cần phân phối đầu tư. Việc lập kế hoạch phải
dựa vào hệ thống chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức thu chi, lấy đó làm
căn cứ khoa học và cơ sở pháp lý.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
14
2.4. Kiểm tra tài chính
2.4.1. Vai trò
Kiểm tra tài chính là một hoạt động quan trọng của nhà quản lý. Nó có
nhiệm vụ tìm ra những khuyết điểm, và sai lầm để sửa chữa ngăn ngừa sự vi
phạm.
- Kiểm tra tài chính giúp các nhà quản lý hoàn thiện các quyết định trong
quản lý. Kiểm tra tài chính thẩm định sự phù hợp của phương pháp mà cán bộ
quản lý sử dụng để hoàn thành mục tiêu về quản lý tài chính.
- Kiểm tra tài chính tạo ra sự cân đối trong phân phối các nguồn tài chính,
tạo ra hiệu quả trong việc sử dụng các quỹ tiền tệ, bảo toàn vốn và làm tăng
thêm nguồn tài chính cho tổ chức. Kiểm tra tài chính đảm bảo cho các kế hoạch
được thực hiện với hiệu quả cao.
- Tạo ra sự bình đẳng về pháp luật giữa các doanh nghiệp, các tổ chức và
tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, thể hiện tính tự chủ của người quản lý.
- Kiểm tra tài chính giúp nhà quản lý và tổ chức theo sát và đối phó với sự
thay đổi của môi trường.
- Kiểm tra tài chính tạo tiền đề cho quá trình hoàn thiện và đổi mới trong
công tác quản lý tài chính.
2.4.2. Đặc điểm của kiểm tra tài chính
- Kiểm tra đã thực hiện chức năng giám đốc của tài chính trong quá trình
vận động. Kiểm tra tài chính là kiểm tra bằng đồng tiền trong lĩnh vực phân phối
của nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng quĩ tiền tệ. Kiểm tra tài chính là một
bộ phận của kiểm tra bằng đồng tiền tệ, thông qua sự chu chuyển thực tế của
đồng tiền, kiểm tra tài chính giúp cho việc tạo lập và sử dụng nguồn tài chính
theo đúng mục tiêu đã đề ra.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
15
- Kiểm tra tài chính gắn liền với việc tạo lập và sử dụng quĩ tiền tệ. Kiểm
tra tài chính là kiểm tra bằng đồng tiền thông qua các chỉ tiêu tài chính. Các chỉ
tiêu tài chính luôn là những chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh một cách toàn diện tình
hình kinh tế, tình hình thực hiện kế hoạch của tổ chức. Như vậy, kiểm tra tài
chính mang tính tổng hợp và thường xuyên trong mọi hoạt động.
- Kiểm tra tài chính được áp dụng trên phạm vi tất cả các lĩnh vực trong
hoạt động kinh tế tài chính. Vì vậy, thông qua hoạt động này, ngăn ngừa được
những tác động, ảnh hưởng xấu trong hoạt động sản xuất- kinh doanh và ảnh
hưởng không tốt đến quá trình thực hiện chính sách, các chế độ, kỷ luật về tài
chính. Kiểm tra tài chính giúp nhà quản lý điều hành và kiểm soát các mặt hoạt
động sản xuất kinh doanh của tổ chức. Qua đó, phát hiện kịp thời những hạn chế
của tổ chức, từ đó có những tác động phù hợp nhằm bảo toàn và nâng cao năng
lực hiệu quả sử dụng vốn , cuối cùng là ra quyết định tài chính một cách kịp
thời, hiệu lực.
- Kiểm tra tài chính đảm bảo quyền lợi cho mọi thành viên trong tổ chức.
- Kiểm tra tài chính thúc đẩy sự thực hiện kế hoạch của tổ chức, đảm bảo
tính mục đích của tiền vốn, làm tăng hiệu quả kinh tế, xã hội , góp phần thực
hành tiết kiệm, tôn trọng kỷ luật tài chính của Nhà nước, chế độ Nhà nước đã
định.
2.4.3. Nguyên tắc của kiểm tra tài chính
Là những tiêu chuẩn , căn cứ cho tổ chức kiểm tra và đánh giá hiệu quả
hoạt động của tổ chức.
- Nguyên tắc tuân thủ pháp luật.
Khi thực hiện chức năng kiểm tra tài chính các tổ chức phải tuân thủ theo
pháp luật để đảm bảo tính công bằng, tính độc lập của chủ thể tài chính và đề
cao tinh thần trách nhiệm, phát huy hiệu lực của công tác kiểm tra tài chính.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
16
- Nguyên tắc chính xác – khách quan – công khai - thường xuyên và phổ
cập.
Kiểm tra tài chính trước hết phải đề cao tính chính xác và nghiêm túc trong
quá trình kiểm tra. Có như vậy thì kiểm tra mới là hoạt động có ý nghĩa. Tính
khách quan đảm bảo quá trình kiểm tra phải phản ánh đúng sự thật, vô tư, không
thiên lệch. Điều này yêu cầu đối với nhà quản lý là không chỉ có thái độ đúng
đắn khi hành xử, công tư phân minh rõ ràng mà còn đòi hỏi cán bộ làm công tác
điều tra phải có trình độ nhất định, có năng lực chuyên môn và nghiệp vụ
chuyên môn giỏi để có thể nhận thức tình hình.
Công khai tài chính bao gồm: công khai quyết định kiểm tra, nội dung đối
tượng kiểm tra, công khai kết quả kiểm tra…
Kiểm tra tài chính phải được tiến hành một cách thường xuyên, sau một
khoảng thời gian nhất định. Kiểm tra phải được tiến hành một cảch rộng rãi, trên
phạm vi rộng, nhiều đối tượng có liên quan đến hoạt động tài chính.
- Nguyên tắc hiệu lực và hiệu quả
Tính hiệu lực yêu cầu công tác kiểm tra phải có khả năng tác động tới việc
cải tiến hoạt động của tổ chức. Kết quả của quá trình kiểm tra phải đưa ra được
các biện pháp cải thiện, chấn chỉnh tình hình.Tính hiệu quả đòi hỏi kiểm tra phải
có tác dụng đề phòng, ngăn ngừa những thiếu sót, nêu ra được những nguy cơ
tiềm tàng, và nâng cao chất lượng. Tính hiệu quả và hiệu lực luôn gắn liền với
nhau.
Đồng thời để nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả, tính khách quan và chính
xác, cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trong quá trình quản lý.
Phải động viên đông đảo quần chúng lao động cùng tham gia kiểm tra. Đó vừa
là nguyên tắc vừa là phương pháp thu được kết quả cao.
2.4.4. Nội dung của kiểm tra tài chính
*Kiểm tra trước khi thực hiện kế hoạch tài chính
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
17
Đây là loại hình kiểm tra được thực hiện trước các hoạt động tài chính,
trước khi có nghiệp vụ tài chính phát sinh. Trước khi tiến hành xây dựng, xét
duyệt và quyết định dự toán ngân sách của tổ chức, tiến hành công tác kiểm tra.
Mục đích của kiểm tra trước khi thực hiện kế hoạch tài chính là xác định
một cách chính xác mục tiêu tài chính trong các ngành, các doanh nghiệp, đảm
bảo cho kế hoạch tài chính phù hợp với chiến lược phát triển của tổ chức.
Nôi dung
- Kiểm tra chủ trương, chính sách của Đảng trong kế hoạch tài chính, kiểm
tra sự phù hợp của dự án tài chính với mục tiêu của tổ chức.
- Kiểm tra việc khai thác khả năng của tổ chức, phát hiện các yếu tố chưa
hợp lý.
- Kiểm tra việc tính toán, áp dụng các phương pháp lập kế hoạch, phát hiện
những sai sót trong quá trình tính toán các chỉ tiêu.
* Kiểm tra thường xuyên quá trình thực hiện kế hoạch
Kiểm tra thường xuyên quá trình thực hiện kế hoạch là công tác kiểm tra
ngay trong các hoạt động tài chính, trong các nghiệp vụ tài chính chưa phát sinh.
Mục đích bảo toàn, phát triển sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả.
Đánh giá được ưu, nhược điểm trong quản lý tài chính,đưa ra các giải pháp
tài chính, các quyết định tài chính một cách chính xác và kịp thời.
Nội dung:
- Kiểm tra các hoạt động thu- chi tài chính
- Kiểm tra về thanh toán, về kết cấu tài chính, về khả năng sinh lời thông
qua phân tích các hệ số tài chính …
- Kiểm tra việc phân phối và sử dụng các quĩ tiền tệ đánh giá khả năng hoạt
động và dự báo xu thế hoạt động của tổ chức.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
18
*Kiểm tra sau khi thực hiện kế hoạch tài chính
Kiểm tra sau khi thực hiện kế hoạch tài chính là kiểm tra được tiến hành
sau khi kết thúc giai đoạn thực hiện kế hoạch tài chính, sau khi các nghiệp vụ tài
chính diễn ra, được hạch toán, ghi chép vào hệ thống bảng biểu.
Mục đích: xem xét tính đúng đắn, hợp lý, xác thực của các hoạt động tài
chính, các số liệu, tài liệu tổng hợp được đưa ra trong sổ sách, bảng biểu. Đồng
thời, tổng kết rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng thực hiện kế
hoạch trong các kỳ tiếp theo.
Nội dung
- So sánh, đối chiếu các chỉ tiêu tài chính với các chỉ tiêu kinh tế xã hội,
giữa số phát sinh thực tế với số chỉ tiêu kế hoạch tài chính
- Phát hiện đúng những kết quả cũng như những thiếu sót trong thực hiện
kế hoạch, phát hiện những sai sót trong hoạt động quản lý tài chính của doanh
nghiệp…
- Đưa ra các vấn đề cần nghiên cứu, từng bước hoàn chỉnh các chính sách,
chế độ tài chính phù hợp với cơ chế mới.
2.4.5. Phương pháp kiểm tra tài chính
- Kiểm tra toàn diện: kiểm tra mọi hoạt động của tổ chức, kiểm tra toàn bộ
nghiệp vụ tài chính của tổ chức.
- Kiểm tra chuyên đề
Kiểm tra chỉ tập trung vào một số nghiệp vụ tài chính nhất định hoặc kiểm
tra một bộ phận quan trọng nào đó có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của tổ chức.
- Kiểm tra điển hình
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
19
Kiểm tra điển hình là kiểm tra chọn ra một mẫu điển hình theo một tiêu
chuẩn nào đó. Qua đó, có thể phát hiện được những tồn tại của tổ chức từ đó có
biện pháp thích hợp để điều chỉnh.
- Kiểm tra qua chứng từ
Đây là phương thức kiểm tra một cách gián tiếp, dựa vào các số liệu như
bảng biểu, sổ sách … để xem xét tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, công
tác quản lý tài chính của doanh nghiệp.
- Kiểm tra thực tế
Kiểm tra thực tế là phương thức kiểm tra trực tiếp tại hiện trường, nơi diễn
ra hoạt động cần đến sự kiểm tra.
Tóm lại, Trong nền kinh tế thị trường, khi mà yếu tố cạnh tranh hết sức gay
gắt, thì quản lý tài chính hiệu quả là điều kiện sống còn đối với doanh nghiêp.
Điều này đòi hỏi các nhà quản lý phải biết sử dụng những phương pháp, công cụ
tài chính một cách hợp lý nhằm đảm bảo họat động tài chính của doanh nghiệp
đươc diễn ra một cách trôi chảy, hiệu quả, nhằm tối đa hoá lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP SAU CỔ PHẦN HOÁ
1. Đặc trưng cơ bản hoạt động tài chính doanh nghiệp Nhà Nước.
Doanh nghiệp Nhà nước là loại hình doanh nghiệp một chủ sở hữu, thuộc
quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện nắm quyền sở hữu, quản lý.
Nguồn vốn chủ sở hữu doanh nghiệp
Nhà nước giao vốn cho người quản lý, điều hành doanh nghiệp. Còn với
công ty cổ phần thì chủ sở hữu không giao vốn cho người quản lý điều hành
doanh nghiệp.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
20
Đối với mỗi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao
gồm các bộ phận chủ yếu:
Vốn góp ban đầu
Lợi nhuận không chia
Tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của
Nhà nước. Chủ sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước. Trong tình
hình hiện nay, cơ chế quản lý tài chính nói chung, cơ chế quản lý vốn của doanh
nghiệp nói riêng đang có những thay đổi để phù họp với tình hình thưc tế.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương
thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp. Đối
với doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả
năng sinh lợi của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách
khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước.
Nhà nước can thiệp vào quản lý tài chính về hiện vật và giá trị:
- Nhượng bán, thanh lý tài sản và toàn bộ dây truyền sản xuất chính.
- Xử lý tài sản tổn thất
- Góp vốn liên doanh
- Quyết định các dự án đầu tư
- Chỉ phân cấp cho hội đồng quản trị, tổng công ty đối với dự án nhóm
Phân phối lợi nhuận
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, quy định trình tự phân phối lợi nhuận sau
thuế, tỷ lệ trích vào các quĩ doanh nghiệp. Với công ty cổ phần, quyết định việc
sử dụng lợi nhuận sau thuế mức cổ tức hang năm của từng loại cổ phiếu.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
21
Báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp Nhà nước không phải thông
qua chủ sở hữu. còn với công ty cổ phần, báo cáo tài chính do đại hội cổ đông
thông qua.
Trong nền kinh tế thị trường, chính phủ thường đầu tư thành lập những
doanh nghiệp Nhà nước trong những ngành chậm thu hồi vốn, khó thu hút vốn
từ khu vực tư nhân. Thuận lợi của các doanh nghiệp Nhà nước là chính có thể
nhận được sự trợ giá ưu đãi về thuế và trong một số trường hợp có những doanh
nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận riêng mà vì lợi ích chung của nền
kinh tế.
Do những ưu thế riêng của doanh nghiệp Nhà nước như vậy, nên hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước thường thấp hơn khu vực tư nhân.
Các doanh nghiệp Nhà nước gặp khó khăn khi huy động nguồn kinh phí từ các
thị trường tài chính.
2. Những vấn đề về hoạt động tài chính doanh nghiệp sau cổ phần hoá
Khi doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần thì có sự khác
biệt rất lớn trong quản lý hoạt động tài chính. Công ty cổ phần hoàn toàn tự chủ
về tài chính, tự lo liệu, giải quyết các vấn đề tài chính, tìm kiếm các nguồn vốn
bổ sung, tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong việc sử dụng vốn và kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Những vấn đề trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp sau cổ phần hóa
là:
- Các nguồn tạo vốn, tổ chức sử dụng vốn
Công ty cổ phần được toàn quyền tổ chức sử dụng vốn. Nhà nước tham gia
quản lý với vai trò là cổ đông của công ty. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, điệu kiện cạnh tranh gay gắt thì yêu cầu đặt ra với bất kỳ doanh nghiệp
nào là phải kinh doanh có lãi, mức doanh thu lợi nhuận phải bù đắp được chi phí
đã bỏ ra. Vì vậy, bảo toàn phát triển vốn đã trở thành mục tiêu bắt buộc, mang
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
22
tính tất yếu đối với mỗi doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, dẫn
đến mất khả năng thanh toán, chi trả, dẫn tới phá sản. Chính vì vậy, công ty cổ
phần phải rất chú trọng vào việc tổ chức sử dụng vốn góp của các cổ đông sao
cho hiệu quả.
- Phân phối lợi nhuận để lại
Sự phân phối sử dụng lợi nhuận còn lại của công ty cổ phần khác nhiều so
với doanh nghiệp Nhà nước. Sau khi nộp thuế cho Nhà nước, việc sử dụng lợi
nhuận của công ty cổ phần do các cổ đông quyết định.
Lợi nhuận để lại của các công ty cổ phần được trích lập vào các quĩ: quỹ dự
trữ, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ trả tức cổ phần, trái phiếu…
- Chế độ trả lương, thưởng cho những người lao động, thành viên HĐQT,
giám đốc, …
- Xử lý các vấn đề về tài chính khi công ty cổ phần giải thể hoặc phá sản.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH
I. Khái quát về công ty Bánh kẹo Hải Hà
1. Giới thiệu chung về công ty Bánh kẹo Hải Hà:
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty cổ phần Bánh kẹo Hải Hà được thành lập ngày 25/12/1960 đã trải
qua quá trình phát triển gần nửa thế kỉ, từ một xưởng làm nước mắm chấm và
ma gi đã trở thành một trong những nhà sản xuất bánh kẹo hàng đầu Việt Nam
với quy mô sản xuất lên tới 20.000 tấn sản phẩm/năm.
Năm 2003 Công ty thực hiện cổ phẩn hoá theo quy định số
191/2003/QĐ_BCN ngày 14/11/2003 của Bộ Công nghiệp.
Công ty chính thức hoạt động dưới hình thưc Công ty cổ phần từ ngày
20/1/2004 theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103003614 do Sở Kế
hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp và thay đổi lần thứ hai ngày 13/08/2007.
1.2. Hình thức tổ chức sản xuất và kết cấu sản xuất:
1.2.1. Hình thức tổ chức xí nghiệp:
Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Hà được tổ chức và hoạt động tuân theo
Luật Doanh nghiệp 2005. Các hoạt động của Công ty tuân theo Luật Doanh
nghiệp, các Luật khác có liên quan và Điều lệ của Công ty. Điều lệ Công ty bản
sửa đổi đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua ngay 24/03/2007 là cơ sở chi
phối cho mọi hoạt động của Công ty.
1.2.2.Các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp
. Sản xuất, kinh doanh bánh kẹo và chế biến sản phẩm.
. Kinh doanh xuất nhập khẩu
. Đầu tư xây dựng, cho thuê văn phòng,nhà ở,trung tâm thương mại
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
24
1.3. Cơ cấu quản lý của Công ty
Đại hội đồng cổ đông
Là cơ quan có thẩm quyền cao nhất quyết định mọi vấn đề quan trọng cua
Công ty theo Luật doanh nghiệp và Điều lệ của Công ty. ĐHĐCĐ là cơ quan
thông qua chủ chương chính sách đầu tư dài hạn trong việc phát triển Công ty,
quyết định cơ cấu vốn, bầu ra cơ quan quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh
của Công ty.
Hội đồng quản trị:
Là cơ quan quản lý Công ty có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết
định mọi vấn đề liên quan đến mục đích quyền lợi của Công ty, trừ những vấn
đề thuộc ĐHĐCĐ quyết định. Định hướng các chính sách tồn tại và phát triển để
thực hiện các quyết định của ĐHĐCĐ thông qua việc hoạch định chính sách ra
nghị quyết hành động cho từng thời điểm phù hợp với tình hình sản xuất của
Công ty.
Ban kiểm soát:
Do ĐHĐCĐ bầu, thay mặt cổ đông kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh,
quản trị và điều hành của công ty.
Ban điều hành:
Do HĐQT bổ nhiệm gồm có một Tổng giám đôc, hai Phó Tổng giám đốc,
một Kế toán trưởng. Tổng giám đốc do HĐQT bổ nhiệm là người đại diện theo
pháp luật của Công ty, chịu trách nhiệm trước HĐQT, quyết định tất cả các vấn
đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của Công ty. Phó Tổng giám đốc và Kế
toán trương do HĐQT bổ nhiệm theo đề xuất của Tổng giám đốc.
SV: Nguyễn Ngọc Minh Lớp: K42/11.02
25