TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
PHẠM THỊ KIM PHƯỢNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC CỦA BỆNH
VI KHUẨN TRÊN CÁ THÁT LÁT CÒM (Chitala chitala
Hamilton, 1822)
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN
2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
PHẠM THỊ KIM PHƯỢNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC CỦA BỆNH
VI KHUẨN TRÊN CÁ THÁT LÁT CÒM (Chitala chitala
Hamilton, 1822)
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN:
PGS.TS. TỪ THANH DUNG
ThS. ĐẶNG THỤY MAI THY
2014
1
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC CỦA BỆNH VI KHUẨN TRÊN
CÁ THÁT LÁT CÒM (Chitala chitala Hamilton, 1822)
Phạm Thị Kim Phượng
*
, Đặng Thụy Mai Thy và Từ Thanh Dung
Bộ môn Bệnh học Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ
*Email:
ABSTRACT
A study on histopathology in Clown Knifefish (Chitala chitala) effected of red spots
and hemorrhage diseases (Anus-fin area). A total of 22 fish samples were collected
for exam bacteria and histology. In all of the diseased fish, pure cultures were
identified Ewardsiella tarda on rod, round, grey colonie, wounds when were pressed
on the gas will emit a foul odor and Aeromonas hydrophila on small rod, shiny,
cream were isolated from liver and kidney on TSA agar plates. Basing on
characteristic of morphological, physiological and biochemical and testing by API
20E kit. As Clown Knifefish was infected by these two type of bacteriums, the
histopathology of gills, liver, kidney and spleen lesions indicate hyperaemic,
haemorrhage and necrosis in tissues. The renal tubules were observed degeneration
and necrosis followed by tubular destruction. Hemorrhaged sometimes occurred
among damaged muscle fibers. Histological structure of gills was characterised by
the oedematous secondary lamellae with a bacterial invasion into the primary
lamellae and gill congestion. Giemsa stain method showed that markedly bacterial
cells that rod shape in these tissues. Tissue necrosis in many samples were stained
with H&E and appear many bacteria with Giemsa stained only pattern evident in
infected of A. hydrophila, besides that E. tarda was not clearly.
Keywords: Clown knifefish, Aeromonas hydrophila, Edwardsiella tarda,
histopathology
Title: Histopathology of Clown knifefish (Chitala chitala Hamilton, 1822) effected
of bacterial disease
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành nhằm tìm hiểu biến đổi mô bệnh học ở cá thát lát còm
(Chitala chitala) khi nhiễm bệnh đốm đỏ và xuất huyết (đỏ lườn). Tổng số 22 mẫu cá
bệnh được thu, phân tích vi khuẩn và mô học. Kết quả phân lập được hai loại vi
khuẩn Edwardsiella tarda với khuẩn lạc hình que, tròn, màu xám, có những vết
thương khi ấn vào sẽ phát ra khí có mùi hôi và Aeromonas hydrophila với khuẩn lạc
hình que nhỏ, trơn láng, màu kem được phân lập trên môi trường TSA từ gan và thận
dựa vào đặc điểm hình thái, sinh lý, sinh hóa và bộ kit API 20E. Mô bệnh học ở
mang, gan, thận, tỳ tạng và cơ của cá nhiễm hai loại vi khuẩn này cho thấy có sự
xung huyết, xuất huyết ở nhiều vùng mô. Mất cấu trúc và hoại tử ở các ống thận.
Nhiều cụm vi khuẩn được tìm thấy trong mô mang, gan, thận và tỳ tạng. Mô da cơ bị
2
xuất huyết và cấu trúc giữa các sợi cơ rời rạc. Mô mang có hiện tượng trương phồng
dính lại của các sợi mang thứ cấp, vi khuẩn trong sợi mang sơ cấp và có hiện tượng
xung huyết. Phương pháp nhuộm Giemsa cho thấy tế bào vi khuẩn rõ ràng trong các
cấu trúc mô. Hoại tử ở nhiều vùng mô với mẫu nhuộm H&E và vi khuẩn xuất hiện
nhiều với mẫu nhuộm Giemsa chỉ thấy rõ ở cá nhiễm vi khuẩn A. hydrophila, mặt
khác cá nhiễm vi khuẩn E. tarda thì biểu hiện không rõ ràng.
Từ khóa: Cá thát lát (Chitala chitala), Aeromonas hydrophila, Edwardsiella tarda,
mô học
1 GIỚI THIỆU
Cá thát lát còm (Chitala chitala) đã và đang trở thành đối tượng nuôi phổ biến ở
Đồng bằng sông Cửu Long trong những năm gần đây. Cá có chất lượng thịt thơm
ngon, giá trị kinh tế cao và có triển vọng phát triển đa dạng sản phẩm trong xuất
khẩu. Vì là đối tượng nuôi mới nên các công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào
nhu cầu dinh dưỡng ở các giai đoạn phát triển của cá và sản xuất giống nhân tạo
nhằm tăng năng suất và hiệu quả kinh tế cho người nuôi (Trần Thị Thanh Hiền và
Nguyễn Hương Thùy, 2008). Cho nên hiện nay có nhiều nông hộ chuyển sang nuôi
cá thát lát còm với nhiều mô hình nuôi khác nhau như ao đất hay vèo lưới nên bệnh
đã xuất hiện gây khó khăn và thiệt hại lớn (Lê Ngọc Diện và ctv, 2006). Tuy nhiên
các công trình nghiên cứu về bệnh trên cá thát lát còm còn hạn chế vì vậy nghiên cứu
đặc điểm mô bệnh học trên cá thát lát còm (Chitala chitala) nhiễm vi khuẩn được
thực hiện nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của bệnh vi khuẩn đến cấu trúc mô ở một số cơ
quan của cá góp phần cung cấp thông tin cho quá trình chẩn đoán và điều trị bệnh đạt
hiệu quả, giúp cho người dân có mô hình nuôi bền vững và đạt năng suất cao.
2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp thu mẫu và phân lập vi khuẩn ở cá
Tổng số 35 mẫu cá còm ở giai đoạn cá hương có chiều dài từ 2,5 – 6 cm, được thu ở
Cần Thơ và Đồng Tháp trong đó 22 mẫu cá bệnh và 13 mẫu cá khỏe. Cá được tiến
hành phân tích tại điểm thu mẫu hoặc vận chuyển về phòng thí nghiệm bằng thùng
xốp và mẫu được tiến hành phân tích trong ngày.
Quan sát cá bằng mắt thường và ghi nhận tất cả các dấu hiệu bệnh lý bên ngoài và
bên trong nội quan. Tiến hành phân tích mẫu vi sinh bằng cách khử trùng bên ngoài
bằng cồn 70° sau đó dùng dao kéo đã tiệt trùng để giải phẫu cá. Dùng que cấy tiệt
trùng lấy mẫu vi sinh ở gan và thận cấy trên môi trường Tryptic Soy Agar (TSA). Ủ
đĩa phân lập trong tủ ấm 28°C trong 24-48 giờ. Ghi nhận màu sắc, hình dạng khuẩn
lạc và tách ròng để có được đĩa vi khuẩn thuần. Vi khuẩn được trữ trong môi trường
Brain Heart Infusion Broth (BHIB) và glycerol trong tủ -80°C để tiến hành các
nghiên cứu kế tiếp.
3
2.2 Phương pháp định danh vi khuẩn
Các đặc điểm về hình thái, sinh lý và sinh hoá của vi khuẩn được xác định bằng cách
kiểm tra các chỉ tiêu cơ bản: Gram, hình dạng, tính di động, catalase, oxidase, O/F,
và bộ kit API 20E (MicrobankTM, PRO-LAB Diagnostics, UK). Vi khuẩn được định
danh theo phương pháp của Cowal and Steel’s (Barrow and Feltham, 1999).
2.3 Phương pháp mô học
Các cơ quan mang, gan, thận, tỳ tạng và cơ được thu và cố định trong dung dịch 10%
Neutral Buffer Formalin (NBF). Mẫu được xử lý qua các giai đoạn: loại nước, làm
trong mẫu và tẩm paraffin. Sau đó mẫu được đúc khối, cắt với độ dày từ 4-6m và
nhuộm Haematoxylin & Eosin (H&E), Giemsa. Tiêu bản được quan sát dưới kính
hiển vi lần lượt ở độ phóng đại 20x, 40x và 100x và chụp hình tiêu bản đặc trưng.
Đọc kết quả dựa vào những đặc điểm của tế bào chết được đưa ra bởi Robert (1978)
và hình dạng các tế bào trên mô cá trê không bị bệnh (Suprance Chinabut, 1991).
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Dấu hiệu bệnh lý
Cá bệnh được thu có các dấu hiệu bên ngoài như: lờ đờ, nổi đầu, hoạt động chậm
chạp, kém linh hoạt, màu sắc cơ thể nhợt nhạt, xuất huyết ở vây. Quan sát bên trong
nội quan: tỳ tạng và thận mềm và xuất huyết, gan sẫm màu (Hình 1) và đã xác định
được 2 nhóm bệnh đó là bệnh đốm đỏ còn được gọi là bệnh đen thân, rớt đáy ở cá
ương và bệnh xuất huyết còn được gọi là bệnh đỏ lườn hay bệnh trướng bụng.
Hình 1. Dấu hiệu bên ngoài của cá bệnh
A. Cá bị bệnh đỏ lườn (xuất huyết); B. Cá bị bệnh đốm đỏ
Dấu hiệu bệnh lý ở cá bệnh đỏ lườn như xuất huyết ở vây hậu môn và cơ quan nội
tạng gan, thận, tỳ tạng đỏ bầm, nhũn, có dịch trong xoang bụng lồi và xuất huyết
vùng mắt và miệng của cá chép, cá rô phi, cá da trơn, cá chình, cá vàng và cá Sparus
aurata, cá tra, cá rô và lươn (Austin and Austin, 1987; Noga, 2010; Rahman et al.,
2001; Sarkar and Rashid, 2012; Đặng Thị Hoàng Oanh và Nguyễn Đức Hiền, 2012;
Đặng Thụy Mai Thy và ctv, 2012). Bệnh do vi khuẩn Aeromonas spp. được nghiên
cứu đầu tiên bởi Scaperclous (1930). Cá bị nhiễm loài vi khuẩn này thường có biểu
hiện xuất huyết trên da của vây và thân, thường được gọi là bệnh đỏ vây (Hoshina,
1962). Cá tra bị nhiễm vi khuẩn A. hydrophila thường có biểu hiện xuất huyết da,
A
B
4
vây, cơ, phù đầu mắt lồi, gan thận tùy tạng xuất huyết, xoang bụng có dịch hồng
hoặc vàng, một số trường hợp bị bệnh nặng có thể gây nhũn cơ (Dung et al., 2005).
Mặt khác, dấu hiệu bệnh lý ở cá bệnh đốm đỏ như thân đen, mắt bị lồi và xuất huyết,
có nhiều đốm đỏ xuất huyết quanh miệng và trên thân, trên vây hậu môn, vây đuôi.
Ngoài ra, cá bệnh sẽ có những vết thương bên dưới biểu bì và cơ, khi ấn vào sẽ phát
ra khí có mùi hôi, các vết thương này sẽ làm hoại tử các vùng cơ xung quanh (Trần
Thị Mỹ Hân, 2013). Bên cạnh đó, trên thế giới nghiên cứu về bệnh đốm đỏ do vi
khuẩn Edwardsiella cũng được thực hiện trên một số đối tượng nuôi tại một số quốc
gia như lươn (Anguilla japonica) tại Nhật Bản và Đài Loan (Egusa, 1976), cá bơn
Nhật Bản (Paralichthys olivaceus) (Nakatsugawa, 1983) và các loài cá khác ở châu
Á và các nơi khác. Khi gây bệnh trên cá nheo Mỹ (Ictalurus puntatus), E. tarda
thường gây ra những vết loét nhỏ trên da, những trường hợp bệnh nặng, chúng gây ra
những vùng bạc màu trên da, tại đó hình thành vùng bị áp xe sâu trong cơ của cá
(Meyer và Bullock, 1973).
3.2 Kết quả phân lập vi khuẩn, nhuộm Gram, các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa và
định danh của vi khuẩn
Các mẫu cá bệnh tiến hành phân tích vi sinh ở gan và thận kết quả phân lập được 12
chủng vi khuẩn: 9 chủng vi khuẩn từ cá bị bệnh đốm đỏ và 3 chủng vi khuẩn từ cá bị
bệnh đỏ lườn. Vi khuẩn phát triển trên môi trường TSA sau 24 giờ ở 28
0
C và cho 2
dạng khuẩn lạc khác nhau. Quan sát và phân tích các đặc điểm hình thái các chủng vi
khuẩn có hình que ngắn và Gram âm. Kiểm tra đặc điểm sinh lý và sinh hóa cho thấy
vi khuẩn có khả năng di động, phản ứng dương tính với oxidase và catalase (Bảng 1).
Bảng 1: Kết quả phân lập vi khuẩn
Chỉ tiêu
Đốm đỏ
E. tarda
Buller (2004)
Đỏ lườn
A. hydrophila
Buller (2004)
Số chủng VK
9
3
Hình dạng khuẩn lạc
0.5 mm
0.5 mm
3-5 mm
3-5 mm
Màu sắc khuẩn lạc
Trắng trong
Trắng trong
Kem
Kem
Gram
Âm
Âm
Âm
Âm
Hình dạng vi khuẩn
Que ngắn
Que
Que ngắn
Que ngắn
Di động
+
+
+
+
Oxidase
-
-
+
+
Catalase
+
+
+
+
OF
+/+
+/+
+/+
+/+
Đối với vi khuẩn gây bệnh đỏ lườn cho phản ứng dương tính với arginine, lysine, VP
và phản ứng âm tính với ornithine. Vi khuẩn có khả năng sinh axít từ mannitol,
sucrose, glucose và không sử dụng các đường rhamnose, sorbitol, abrabinose,
innositol, melibiose, amygdalin. Đặc điểm hình thái, sinh lý và sinh hóa của các
chủng phân lập được hoàn toàn giống với A. hydrophila (Buller, 2004) ngoại trừ
không sinh axít từ abrabinose. Vi khuẩn A. hydrophila hình que, garm âm, di động và
số lượng lớn các chủng có thể tồn tại và có khả năng gây bệnh khác nhau (Camus et
al., 1998). Đường kính 0,1-1,0 µm, dài 1,0-3,5 µm, không tạo bào nang, nhiệt độ cực
thuận là 28°C, có thể phát triển ở 37°C. Khuẩn lạc trên môi trường NA có màu trắng
đến hồng nhạt, tròn, lồi, rìa trơn. Trên môi trường đặc trưng GSP, chúng tạo thành
5
những khuẩn lạc màu vàng, to, trơn láng ủ ở 28°C sau 24 giờ (Trần Thị Mỹ Hân,
2013). Bệnh do vi khuẩn Aeromonas spp. được nghiên cứu đầu tiên bởi Scaperclous
(1930). Nhóm vi khuẩn này đã được biết đến là nguyên nhân gây bệnh xuất huyết
trên cá chình (Anguilla anguilla) và cá chép (Cyprinus carpio) ở nhiều nước trên thế
giới (Inglis et al., 1993; Aoki, 1999). Tại Việt Nam, bệnh xuất huyết do A.
hydrophila gây ra khá phổ biến trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus), cá basa
(Pangasianodon bocorti) và nhiều loài cá nước ngọt khác như cá lóc, cá rô đồng, cá
điêu hồng (Dung et al., 2005, Đỗ Thị Hoà và ctv, 2004; Lư Trí Tài, 2010).
Mặt khác, chủng vi khuẩn gây bệnh đốm đỏ cho thấy có phản ứng dương tính với
indol, H
2
S. Bên cạnh đó, các chủng vi khuẩn không có khả năng sử dụng đường
mannitol, sucrose và arabino nhưng cho phản ứng dương tính với lysine, ornithine và
glucose. Các đặc điểm sinh hóa của các chủng phân lập được hoàn toàn giống với
loài Edwardsiella tarda tham khảo của Buller (2004) phân lập được. Từ đó cho kết
quả hoàn toàn phù hợp với chủng chuẩn, xác định đây là loài E. tarda. Loài E.tarda
được phân lập đầu tiên trên cá chình tại Nhật Bản bởi Hoshinae (1962), được mô tả
đầy đủ và đặt tên bởi Ewing et al., (1965). Đây là loài được biết đến gây bệnh
Ewardsiella trên cá nheo Mỹ (Ictalurus punctatus), cá chình Nhật Bản (Anguilla
jabonica), nhiều loài cá nước ngọt, nước mặn khác, chim, các loài động vật hữu nhũ
và cả trên người. Vi khuẩn di động mạnh ở điều kiện 37
0
C. Bên cạnh đó, khi khảo sát
khả năng chịu mặn của các chủng vi khuẩn ở 3 nồng độ 0, 1, 2, 3% NaCl trong môi
trường lỏng BHI (Brain Heart Infusion), có thể sinh trưởng ở môi trường có nồng độ
NaCl từ 0 – 3% và ở điều kiện nhiệt độ 28
o
C, 37
o
C (Trần Thị Mỹ Hân, 2013).
Hình 2. Hình dạng vi khuẩn và kết quả nhuộm Gram
A-B. Vi khuẩn Aeromonas hydrophila; C-D. Vi khuẩn Edwardsiella tarda
A
B
C
D
6
3.3 Biến đổi cấu trúc mô học ở các cơ quan
3.3.1 Mang
Mang là cơ quan hô hấp chủ yếu của cá. Quan sát mặt cắt ngang mô mang có sợi
mang sơ cấp được bao phủ bởi các tế bào biểu mô vẩy, bên trong có chứa nhiều tế
bào tiết chất nhầy và được nâng đỡ bỡi các tế bào ngoài gồm lớp ngoài và lớp biểu
mô vẩy đơn, bên trong có các tế bào trụ liên kết với nhau tạo thành các mao mạch
liên hệ với động mạch ra vào mang (Herrera, 1996). Mang cá còm có 4 đôi cung
mang, mỗi cung mang gồm có các sợi mang sơ cấp được tạo thành từ các sợi mang
thứ cấp xếp thành hai hàng dọc xương cung mang.
Hình 3. Mô mang cá thát lát còm nhiễm vi khuẩn (H&E)
A. Mô mang khỏe. a. Sợi mang sơ cấp; b. Sợi mang thứ cấp (100x); A. hydrophila (B-C-D):
B. Động mạch ra vào mang bị xung huyết (100x). C. Sợi mang thứ cấp bị sưng phồng và
dính lại (200x). D. Sợi mang thứ cấp bị xung huyết và mất đoạn (mũi tên, 400x); E. tarda
(E-F): E. Sợi mang bị gãy (200x). F. Động mạch bị xung huyết (400x).
A
B
D
C
F
E
a
b
7
Quan sát mô mang cá bệnh vi khuẩn A. hydrophila và E. tarda có sự xung huyết ở
động mạch mang và sợi mang sơ cấp và thứ cấp. Hiện tượng phình to sợi mang sơ
cấp, thứ cấp và sự tăng lên của các tế bào biểu mô và các sợi mang thứ cấp dính lại.
Một số mẫu mang bị gãy đứt hay mất đoạn (Hình 3). Mô mang nhuộm Giemsa, có sự
hiện diện của nhiều cụm vi khuẩn hình que trong sợi mang sơ cấp khi nhiễm hai loại
vi khuẩn này (Hình 4). Kết quả này trùng hợp với mô tả của Ferguson (2006), đã tìm
thấy chúng ở mô mang cá hồi và mô mang cá tra bị bệnh trắng đuôi do vi khuẩn
Flavobacterium columnare gây ra do Từ Thanh Dung và ctv (2012) tìm được.
Hiện tượng dính lại và phồng lên của mang là do khi mầm bệnh tấn công tạo nên
phản ứng miễn dịch làm cho các tế bào mang sưng lên và khi các tế bào mang sưng
to sẽ dẫn đến sự tiếp xúc giữa các sợi mang này. Từ đó làm giảm chức năng hô hấp
và khi bệnh xảy ra, cấu trúc mang bị hủy hoại nghiêm trọng hơn (Robert, 1989). Tế
bào biểu mô bị sưng phồng và có sự thay đổi hình thái mô học của mang cho thấy
mang đang bị tổn thương (Ferguson, 2006). Hiện tượng sợi mang thứ cấp bị sưng
phồng và dính lại khi bị hai loại vi khuẩn A. hydrophila và E. tarda gây ra trên mô
mang cá tương tự như kết quả của Quách Thị Tú Ly (2010) trên mô mang cá điêu
hồng do vi khuẩn Streptococcus agalactiae gây bệnh.
Hình 4. Mô mang cá thát lát còm nhiễm vi khuẩn (Giemsa)
A. Cụm vi khuẩn A. hydrophila hình que ở mô mang, B. Cụm vi khuẩn E. tarda hình que ở
mô mang (200x)
Từ kết quả trên, ta có thể kết luận rằng khi cá thát lát còm bị nhiễm 2 loại vi khuẩn A.
hydrophila và E. tarda, các dấu hiệu trên mô mang đều giống nhau thông qua hai
cách nhuộm H&E và Giemsa.
3.3.2 Gan
Gan bao gồm các tĩnh mạch, động mạch, ống dẫn mật, các trung tâm đại thực bào sắc
tố, các đảo tụy. Đảo tụy có chức năng ngoại tiết dịch tụy để tiêu hóa thức ăn và chức
năng nội tiết (Herrera, 1996). Gan cá còm có hình dạng như một khối lớn có thùy và
thường nằm về một bên trong xoang bụng. Ở giữa gan có tĩnh mạch trung tâm, tuyến
tụy nằm rải rác trên mô gan cá còm. Các tế bào gan có hình đa giác và sắp xếp lan
tỏa theo tĩnh mạch trung tâm.
A
B
8
Quan sát mô gan cá bệnh có hiện tượng xung huyết và xuất huyết. Nhiều vùng cấu
trúc mô gan có sự biến đổi cấu trúc tế bào gan, màng tế bào bị vỡ và hoại tử. Vi
khuẩn hình que xuất hiện rời rạc hay thành cụm trong mô gan khi nhuộm bằng H&E
và Giemsa. Ngoài ra, phát hiện được vi khuẩn ở vùng cơ trơn của ống dẫn tụy (Hình
5A, B, C, D) đối với cá nhiễm vi khuẩn A. hydrophila. Kết quả này giống với nghiên
cứu biến đổi cấu trúc mô học ở cá Fundulus grandis nhiễm Streptococcus sp. cho
thấy tế bào gan bị teo đồng thời với sự giảm glycogen và gia tăng không bào, thoái
hóa và hoại tử tế bào (Rasheed et al., 1985) và cá rô phi nhiễm S. agalactiae
(Suanyuk et al., 2005; Filho et al., 2009).
Hình 5. Mô gan cá thát lát còm nhiễm vi khuẩn
A. hydrophila. (A-B-C-D). A (H&E, 100x): a. Vùng tế bào gan bị biến đổi cấu trúc, b. Vùng
tế bào gan bị hoại tử; B. Cụm vi khuẩn ở cơ trơn của ống dẫn tụy; C (H&E, 400x): Gan bị
xung huyết (mũi tên), cụm vi khuẩn nằm rải rác trong các tế bào gan (khoanh tròn) ; D. Cụm
vi khuẩn trong tế bào gan (Giemsa, 200x). E. tarda (E-F). E. Động mạch bị hoại tử (H&E,
400x). F. Vi khuẩn tập trung thành cụm ( Giemsa, 1000x)
A
B
D
C
E
F
a
b
9
Theo Ngô Thị Thu Thảo và ctv (2005), quá trình xung huyết kéo dài làm vỡ mạch
máu trong tổ chức mô gan dẫn đến tế bào gan bị mất cấu trúc. Theo Trần Thị Ngọc
Hân (2006), khi những vùng xung huyết dưới ảnh hưởng của độc tố vi khuẩn, các
mao mạch máu bị vỡ hoặc tính thẩm thấu của mao mạch tăng lên, làm cho các tế bào
máu trong vùng xung huyết thoát ra xen lẫn với các tế bào máu cơ quan sẽ gây ra
hiện tượng xuất huyết.
Khi cá nhiễm vi khuẩn E. tarda, ta thấy được sự hoại tử của động mạch khi nhuộm
H&E và có sự tập trung thành cụm của vi khuẩn khi nhuộm Giemsa (Hình 6E, F).
Theo Furguson và ctv (2001), hiện tượng xung huyết xảy ra hầu như toàn bộ tổ chức
gan, thận và tỳ tạng. Đồng thời tại đây cũng xuất hiện những vùng hoại tử mất cấu
trúc. Dưới ảnh hưởng của độc tố vi khuẩn, các mao mạch máu bị vỡ hoặc tính thẩm
thấu của mao mạch tăng lên, làm cho các tế bào máu trong vùng xung huyết thoát ra
xen lẫn với các tế bào máu cơ quan. Hiện tượng này gọi là hiện tượng xuất huyết.
Hai hiện tượng xung huyết và xuất huyết này kéo dài sẽ làm cho mô của gan, thận và
tỳ tạng sưng lên mất cấu trúc và dẫn đến hoại tử. Vi khuẩn E. tarda làm cho các tế
bào gan trương to và tăng kích thước nhân (Miwa và Mano, 2000). Sự nhiễm trùng
E. tarda trong gan cá rô phi, u hạt và sự xâm nhập đại thực bào trong gan cá vền biển
(Miyazaki, 1985). Khi cá rô phi bị nhiễm bệnh, các ổ áp xe trong cơ quan nội tạng
cũng bị u hạt (Kubota et al., 1981). Qua các biểu hiện trên, có thể kết luận rằng cá bị
bệnh đỏ lườn có dấu hiệu nghiêm trọng và nặng hơn bệnh đốm đỏ với những biểu
hiện rõ ràng và cả hai bệnh đều có sự hiện diện của vi khuẩn hình que trên gan cá.
3.3.3 Thận
Thận sau cá còm là một dãy dài nằm dọc sống lưng trong xoang cơ thể. Cấu trúc mô
thận gồm đoạn cổ, ống lượn gần và ống lượn xa và tiểu cầu thận giúp thận thực hiện
chức năng chủ yếu là điều hòa muối và nước trong cơ thể. Ngoài ra, giữa các ống có
nhiều mao mạch xen kẽ nhưng có rất ít mô liên kết và mô tạo máu. Quan sát biến đổi
cấu trúc thận cá bệnh đỏ lườn do A. hydrophila cũng có xung huyết và xuất huyết ở
các động mạch và mao mạch. Phát hiện nhiều cụm vi khuẩn hình que trong các ống
thận cho nên các ống thận ở các mẫu quan sát đều bị phá vỡ và hoại tử. Tương tự,
tiểu cầu thận cũng bị vi khuẩn tấn công phá vỡ màng ngoài của nang Bowman (Hình
6A,B,C,D).
Quản cầu thận bị xung huyết làm cho làm cho hệ thống ống mạch và tiểu cầu thận
sưng to và kéo dài hơn mức bình thường (Huỳnh Thị Ngọc Thanh, 2012). Theo
nghiên cứu của Đặng Thị Hoàng Oanh (2012), xác định loài vi khuẩn này cũng gây
xuất huyết trên lươn đồng (Monopterus albus), cũng chính là tác nhân gây bệnh trên
cá rô (Anabas testudineus) (Đặng Thụy Mai Thy và ctv, 2012) và nhiều loài cá nước
ngọt khác như cá lóc, cá rô đồng, cá điêu hồng (Dung et al., 2005, Đỗ Thị Hoà và
ctv, 2004; Lư Trí Tài, 2010).
Khi cá nhiễm vi khuẩn E. tarda, ta thấy được động mạch bị hoại tử khi nhuộm H&E
và vi khuẩn tập trung thành cụm trên gan khi nhuộm Giemsa (Hình 6E và 6F). Vi
khuẩn E. tarda gây nhiễm trùng trong gan của cá rô phi, sự xâm nhập đại thực bào ở
các tế bào gan, u hạt trong gan cá vền biển khi nhuộm Giemsa (Miyazaki, 1985). E.
10
tarda làm cho các tế bào gan trương to và tăng kích thước nhân của tế bào gan trên
cá tra bị gan, thận mủ (Miwa và Mano 2000).
Hình 6. Mô thận cá thát lát còm nhiễm vi khuẩn
A. hydrophila. A. Thận cá bị xung huyết, xuất huyết và hoại tử (H&E, 200x); B. Cụm vi
khuẩn phá hủy màng ngoài của nang Bowman ở tiểu cầu thận (H&E, 400x); C. Cụm vi
khuẩn phá hủy các ống thận (H&E, 200x); D. Cụm vi khuẩn phá hủy tế bào trong ống thận
(Giemsa, 1000x). E. tarda. E. Vùng thận bị xung huyết (khoanh tròn) (H&E, 200x); F. Quản
cầu thận bị teo (Giemsa, 1000x)
3.3.4 Tỳ tạng
Tương tự các loài cá nước ngọt khác, tỳ tạng cá còm có vùng tủy trắng và tủy đỏ là
nơi chứa rất nhiều tế bào máu và tế bào lympho xen lẫn nhau. Tủy trắng bắt màu
đậm hơn tủy đỏ khi nhuộm H&E. Ngoài ra trên tỳ tạng còn có các hạt sắc tố vàng
nâu khi nhuộm bằng H&E và sự hiện diện rải rác của trung tâm đại thực bào sắc tố.
Kết quả phân tích mô học ở cá bệnh đỏ lườn và đốm đỏ cho thấy cũng có sự xung
huyết và xuất huyết trong mô. Tương tự ở gan và thận, vi khuẩn hình que cũng được
A
B
C
D
F
E
11
tìm thấy trong mô tỳ tạng cá bệnh, vi khuẩn phát hiện rõ hơn trong mô nhuộm
Giemsa. Tuy nhiên, chỉ phát hiện được sự biến đổi cấu trúc tế bào tỳ tạng cá bệnh
như vỡ màng ngoài không thấy hiện tượng hoại tử (Hình 7, 8).
Hình 7. Mô tỳ tạng cá thát lát còm nhiễm vi khuẩn A. hydrophila
A. Mô tỳ tạng cá khỏe. a. Vùng tủy đỏ, b. Vùng tủy trắng (H&E, 100x); B. Xung huyết ở mô
tỳ tạng (mũi tên), cụm vi khuẩn nằm xen giữa tế bào (H&E, 200x); C và D. Vi khuẩn hình
que trong mô tỳ tạng (Giemsa, 200x và 400x).
Theo Nguyễn Quốc Thịnh (2002), xuất huyết kéo dài có thể làm thay đổi cấu trúc mô
và nặng hơn là tạo các vùng hoại tử làm mất cấu trúc, chức năng của cơ quan. Vi
khuẩn A. hydrophila gây hại cho lươn bao gồm hoại tử các bó cơ, xuất huyết, tỳ tạng
bị tổn thương, mủ gan, mô tạo máu thận bị teo và hoại tử (Chien and Chieh, 1994).
Hình 8. Mô tỳ tạng cá thát lát còm nhiễm vi khuẩn E. tarda
A: xung huyết ở tĩnh mạch (H&E, 400X); B: cụm vi khuẩn tập trung (Giesam, 400X)
Vi khuẩn E. tarda cũng là 1 tác nhân gây bệnh nguy hiểm và gây thiệt hại nặng cho
nền công nghiệp nuôi cá Bơn tại Nhật và cá rô phi ở Trung Quốc (Nakat-Sugawa,
A
B
D
A
b
a
C
B
12
1983). Sự hiện diện cụm vi khuẩn ở mô tỳ tạng cá còm bệnh đốm đỏ và đỏ lườn
giống với kết quả của Rangdale et al. (1999), Ekman & Norrgren (2003), Ekman et
al. (2003), các tác giả này đã tìm thấy số lượng lớn vi khuẩn hình que, dạng sợi phân
tán ở nhu mô tỳ tạng (trích dẫn bởi Dworrin et al., 2006).
3.3.5 Cơ
Da cá có chức năng là bảo vệ cơ thể không bị tổn thương và là vách ngăn thẩm thấu
cũng như là rào cảng chống lại tổn thương và ngăn chặn tác các nhân gây bệnh
(Ferguson, 1989). Độ dày của da thay đổi tùy thuộc vào cơ thể cá, nhưng lớp da dày
nhất là ở phần đầu nơi không có hoặc có rất ít vẩy bảo vệ. Da bao gồm một lớp biểu
bì bên ngoài và một lớp hạ bì bên trong (Morrison et al., 2006).
Cấu trúc da cơ cá còm cũng gồm lớp biểu bì bên ngoài kế đến là lớp hạ bì, mô liên
kết và các tế bào hắc tố cũng được tìm thấy. Lớp cơ vân được cấu tạo từ những tế
bào hình thoi thon dài, có nhiều nhân. Những sợi cơ kết lại thành bó và giữa các bó
cơ có mô liên kết giúp cho khối cơ rắn chắc. Ở cá bệnh xuất huyết và đốm đỏ, mô da
cơ không có sự biến đổi nhiều. Xuất huyết ở giữa các bó cơ đồng thời liên kết giữa
các bó cơ trở nên rời rạc (Hình 9). Kết quả nhuộm Giemsa cũng không phát hiện vi
khuẩn ở mô da cơ.
Hình 9. Mô da cơ cá thát lát còm nhiễm vi khuẩn
A. hydrophila (A-B). A. Xuất huyết ở các bó cơ (H&E, 100x); B (Giemsa, 200x). a. tế bào
biểu mô, b. màng mô liên kết, c. lớp tế bào hắc tố, d. cơ vân ; E. tarda (C-D). C. Cấu trúc bó
cơ rời rạc, nhân của tế bào cơ vân (mũi tên) (H&E, 200x; D. Cơ vân (Giemsa, 400x)
Nhìn chung khi quan sát các mẫu cá bệnh đỏ lườn cho thấy cấu trúc mô các cơ quan
mang, gan, thận và tỳ tạng chủ yếu bị xung huyết, xuất huyết và hoại tử. Theo
A
C
B
D
a
c
b
d
13
Hybiya (1982), hoại tử trải qua quá trình thoái hóa tế bào, sự thực bào của đại thực
bào hoặc tế bào lưới nội mô. Sự hoại tử là quá trình thoái hóa tế bào thường xuyên
xảy ra.
Khi gan, thận, tỳ tạng hoại tử gần như hoàn toàn làm cho cá không còn thực hiện
được quá trình trao đổi chất của cơ thể cùng với ảnh hưởng của độc tố vi khuẩn làm
cho cá chết. Song song đó, vi khuẩn hình que được tìm thấy trong các mô làm phá vỡ
tế bào gan, ống tụy, ống thận, tế bào máu ở tỳ tạng làm cho các cơ quan này mất
chức năng. Kết quả này cũng hoàn toàn phù hợp với kết quả phân lập vi khuẩn ở gan,
thận và tỳ tạng trên môi trường TSA cho vi khuẩn hình que, gram âm và định danh là
vi khuẩn A. hydrophila và E. tarda. Nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Hân và Từ
Thanh Dung (2013) đã xác định tác nhân gây bệnh trên cá còm là vi khuẩn A.
hydrophila và E. tarda. Năm 1979, Huizinga et al. nghiên cứu mô bệnh học cá
Micropterus salmoides phát hiện vi khuẩn này nhiễm ở cả cá ở ngoài tự nhiên và cá
thí nghiệm. Các thay đổi ở tỳ tạng và tim không gây nguy hiểm nhưng các tổn
thương lớn ở gan và thận. Bên cạnh đó, các biến đổi mô học ở thận cá còm nhiều hơn
so với các cơ quan khác.
Hầu hết các nghiên cứu về bệnh học và bệnh lý của E. tarda đã được nghiên cứu trên
cá chình Nhật Bản. Điều này trái ngược với một số lượng ít ỏi thông tin mô bệnh học
ở cá da trơn. Tuy nhiên, có một số báo cáo mô tả E. tarda trong các loài cá khác.
Egusa (1976) mô tả lươn nhiễm E. tarda lây lan từ tổn thương ở cơ quan nội tạng
vào cơ và sau đó đến lớp hạ bì. Theo Miyazaki và Egusa (1976) mô tả mô bệnh học
của các biểu hiện thận bị mủ viêm do Edwardsiellosis trên lươn thương phẩm, trong
đó Edwardsiella làm cho mô tạo máu của thận có khối lượng bạch cầu trung tính, có
chứa vi khuẩn. Đối với cá rô phi bị nhiễm bệnh, các ổ áp xe trong cơ quan nội tạng
cũng dẫn đến u hạt (Kubota et al., 1981).
4 KẾT LUẬN
Cá còm bệnh có dấu hiệu xuất huyết ở mang, gan, thận và tỳ tạng phân lập được vi
khuẩn A. hydrophila và E. tarda. Cấu trúc mô mang, gan, thận và tỳ tạng có biến đổi
chủ yếu gồm xung huyết, xuất huyết và hoại tử. Cấu trúc mô da cơ thì không có sự
thay đổi. Vi khuẩn hình que trong mô các cơ quan được phát hiện nhanh hơn khi
nhuộm Giemsa. Các dấu hiệu bệnh lý và các biến đổi cấu trúc mô trên các cơ quan
đều giống nhau khi nhiễm hai loại vi khuẩn này và tùy thuộc vào mức độ nặng nhẹ
khi bệnh xuất hiện. Sự hiện diện của vi khuẩn A. hydrophila tập trung thành cụm thể
hiện rõ và nhiều hơn vi khuẩn E. tarda. Giữa hai loại vi khuẩn này thì A. hydrophila
gây bệnh nặng hơn với các trường hợp hoại tử nhiều hơn E. tarda.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aoki, T., Kitao, T. and Fukudome, M. (1989) Chemotherapy against infection
with multiple drug resistant strains of Edwardsiella tarda in cultured eels. Fish
Pathology 24, 161–168.
14
2. Austin, B., and D.A. Austin. 1987. Bacterial fish pathogens disease in framed
and wild fish. Ellis Horwood. Chichester. United Kingdom.
3. Barrow, G. H., R. K. A Feltham (1999): Cowan and Steel's Manual for
Identification of Medical Bacteria. Third edition. Cambridge University Press,
Cambridge. pp. 331.
4. Buller, N. B., 2004. Bacteria from fish and other aquatic animal: A practical
indentification manal. CABI publishing. 353 pp.
5. Chinabut S, P Kitsawat and C Limsuwan, 1991. Histology of the walking
catfish, Clarias batrachus. International development research centre, Canada.
96 pages
6. Đặng Thị Hoàng Oanh và Nguyễn Đức Hiền, 2012. Đặc điểm mô bệnh học cá rô
(Anabas testudineus) nhiễm vi khuẩn Aeromonas hydrophila và Streptococcus
sp. trong điều kiện thực nghiệm. Tạp chí khoa học, Đại Học Cần Thơ, trang 183-
193.
7. Đặng Thụy Mai Thy, Trần Thị Thủy Cúc, Nguyễn Châu Phương Lam, Nguyễn
Đức Hiền và Đặng Thị Hoàng Oanh, 2012. Đặc điểm mô bệnh học cá rô
(Anabas testudineus) nhiễm vi khuẩn Aeromonas hydrophila và Streptococcus
sp. trong điều kiện thực nghiệm. Tạp chí khoa học, Đại học Cần thơ. 22c:183-
193.
8. Dworkin, M. (editor-in-chief), Stanley Falkow, Eugene Rosenberg, Kari-Heinz
Schleifer, Erko Stackebrvaft (ediotrz0, 2006. Proteobacteria: Delta and epsilon
subclasses. Deeply rooting bacteria. 7:523pp
9. Egusa, S. (1976) Some bacterial diseases of freshwater fishes in Japan. Fish
Pathology 10, 103–114. Edwardsiella Septicaemias.
10. Ewing, W.H., McWhorter, A.C., Escobar, M.R. and Lubin, A.H. (1965)
Edwardsiella, a new genus of Enterobacteriaceae based on a new species,
Edwardsiella tarda.
11. Ferguson, H. W. 1989. Systemic pathology of fish. Lowa state university.
12. Groman, D.B. 1982. Histology of the striped bass. American Fisheries Society.
13. Hibiya, T., 1982. An atlas of Fish Histology – Normal and Pathological
Features. College of Agrculture and Veterinary Medicine, Nihon Univ. Tokyo,
Japan, 147pp.
14. Hoshinae, T. (1962) On a new bacterium, Paracolobactrum anguillimortiferum
sp. nov. Bulletin of the Japanese Society of Scientific Fisheries 28, 162–164.
15. Huizinga, H.W., G.W. Esch and T.C. Hazen, 1979. Histopathology of red-sore
disease (Aeromonas hydrophila) in naturally and experimentally infected
largemouth bass Micropterus salmoides (Lacepede). Journal of Fish Diseases
2(4):263-277.
16. Inglis, V., Roberis R.J and Bromage N.R, 1993. Bacterial disease of fish.
Blackwell Siience
17. Inglis, Valerie., Ronald J. Roberts and Niall R. Bromage. 1993. Bacteria
diseases of fish. Institute of Aquacuture, University of Stirling, p61-75. 312pp.
18. Lê Ngọc Diện, Phan Văn Thành, Mai Bá Trường Sơn và Trịnh Thu Phương,
2006. Nghiên cứu ương giống và nuôi thương phẩm cá thát lát (Notopterus
notopterus Pallas). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ 2006: trang 79 –
85.
15
19. Meyer, F.P. and Bullock, G.L. (1973) Edwardsiella tarda, a new pathogen of
channel catfish ( Ictalurus punctatus). Applied Microbiology 25, 155–156.
20. Miyazaki, T. and Egusa, S. (1976a) Histopathological studies of edwardsiellosis
of the Japanese eel ( Anguilla japonica) – I. Suppurative interstitial nephritis
form. Fish Pathology 11, 33–43.
21. Miyazaki, T. and Egusa, S. (1976b) Histopathological studies of edwardsiellosis
of the japanese eel ( Anguilla japonica) – II. Suppurative hepatitis form. Fish
Pathology 11, 67–75.
22. Miyazaki, T., T. Kageyama , M. Miura and T. Yoshida, 2001. Histopathology of
viremia-associated ana-aki-byo in combination with Aeromonas hydrophila in
color carp Cyprinus carpio in Japan. Diseases Aquatic Organism 44(2): 109-
120.
23. Nakatsugawa, T. (1983) Edwardsiella tarda isolated from cultured young
flounders. Fish Pathology 18, 99–101.
24. Ngô Thị Thu Thảo, Đặng Thụy Mai Thy, Phạm Trần Nguyên Thảo. 2005. Bài
giảng mô bệnh học động vật thủy sản. Khoa thủy sản. ĐHCT.
25. Nguyễn Quốc Thịnh, 2002. Bước đầu nghiên cứu mô bệnh học bệnh đốm trắng
trong nội tạng cá tra. Luận văn tốt nghiệp Đại học. Khoa Thủy Sản. Trường Đại
Học Cần Thơ. 40 trang.
26. Nguyễn Quốc Thịnh, Từ Thanh Dung và Ferguson H.W, 2004. Nghiên cứu mô
bệnh học cá tra (Pangasius hypophthamus) bị bệnh trắng gan, tạp chí khoa học-
Đại Học Cần Thơ. Trang 120-125.
27. Rahman, M.H. and K. Kawai. 1999. Biological characteristics of starved
Aeromonas hydrophila which contribute to virulence in crucian carp, Carassius
cuvieri. Mic. Research (154): 145-149.
28. Robert R.J., Chinabut, S. 1999. Pathology and Histopathology of Epizootic
Ulcerative Syndrom (EUS). Aquatic Animal Health Research Intitute
Department of Fisheries Bangkok, Thailand. 33p.
29. Robert, Ronald J. 1978 and 1989. Fish pathology. Institute of Aquacuture,
30. Sae-Oui, D., Muroga, K. and Nakai, T. (1984) A case of Edwardsiella tarda
infection in cultured colored carp Cyprinus carpio. Fish Pathology 19, 197–199.
31. Sarkar, M.J.A. and M.M. Rashid. Pathogenicity of the bacterial isolate
Aeromonas hydrophila to catfishes, carps and perch. J. Bangladesh Agril. Univ.
10(1): 157–161.
32. Trần Thị Mỹ Hân, 2013. Nghiên cứu một số mầm bệnh vi khuẩn gây bệnh trên
cá thát lát còm (Chitala chitala Hamiton, 1822). Luận văn Cao học. Khoa Thủy
sản – Trường Đại học Cần Thơ.
33. Trần Thị Ngọc Hân, 2006. Khảo sát mô học cá tra (Pangasius hypophthalmus).
Luận văn tốt nghiệp Đại học. Khoa Thủy Sản. Trường Đại Học Cần Thơ. 25
trang.
34. Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008. Khả năng sử dụng thức ăn
chế biến của cá còm (Chitala chitala) giai đoạn bột lên giống. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ 2008, quyển 1: trang 134 – 140.
35. Từ Thanh Dung, Đặng Thị Hoàng Oanh và Trần Thị Tuyết Hoa. 2005. Giáo
Trình Bệnh học Thủy Sản. Khoa Thủy Sản. Đại học Cần Thơ. 50 trang.