Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

ứng dụng vi khuẩn bacillus subtillis trong nuôi tôm thẻ chân trắng (litopenaeusvannamei) ở các độ mặn khác nhau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.31 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






NGUYỄN NHƯ HUỲNH






ỨNG DỤNG VI KHUẨN Bacillus subtillis TRONG NUÔI TÔM THẺ
CHÂN TRẮNG (Litopenaeusvannamei)
Ở CÁC ĐỘ MẶN KHÁC NHAU





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN







2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






NGUYỄN NHƯ HUỲNH





ỨNG DỤNG VI KHUẨN Bacillus subtillis TRONG NUÔI TÔM THẺ
CHÂN TRẮNG (Litopenaeusvannamei)
Ở CÁC ĐỘ MẶN KHÁC NHAU




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN







CÁN BỘ HƯỚNG DẨN
TS. PHẠM THỊ TUYẾT NGÂN




2014
Trường Đại học Cần Thơ
1

ỨNG DỤNG VI KHUẨN Bacillus subtillis TRONG NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
(Litopenaeus vannamei)
Ở CÁC ĐỘ MẶN KHÁC NHAU
Nguyễn Như Huỳnh, Trần Quốc Qui và Phạm Thị Tuyết Ngân

ABSTRACT

Effect of Bacillus subtillis bacteria on water quality, growth and survival rate of white leg
shrimp which cultured in different salinity were researched. The experiment included three
treatments with three different salinities 10‰, 20‰, and 30‰. The Bacillus subtillis bacteria
were added periodically in three treatments. The result indicated that the environment factor
were not significant difference and ranged in the allowed limitation. The total density of
bacteria were highest in salinity 30‰ and not significant difference with each other. The
density of Bacillus sp bacteria between three treatments ranged from 1,3×10
2
- 1,6×10
5


CFU/mL,. The density of Vibrio bacteria in salinity 20‰ were always the lowest (4.6×10
3
CFU/mL) and different significant with the highest salinity 30‰ (1.1×10
4
CFU/mL). After
experiment period, the highest survival rate of shrimp were in salinity 20‰ (74.7%) and the
lowest value in salinity 10‰ (42.7%), the highest length of shrimp were in salinity 20‰ (6.7
cm) and the lowest in salinity 10‰ (4.7 cm) and significant different between treatments.
There were no significant different in growth rate between treatments.
Key words: Litopenaeus vannamei, Bacillus, Vibrio

TÓM TẮT

Ảnh hưởng của vi khuẩn Bacillus subtillis lên chất lượng nước, sinh trưởng và tỉ lệ sống của
tôm thẻ chân trắng nuôi trong bể ở các độ mặn đã được nghiên cứu. Thí nghiệm gồm 3
nghiệm thức với 3 độ mặn khác nhau 10‰, 20‰, và 30‰, đều được bổ sung vi khuẩn
Bacillus sp định kỳ. Kết quả cho thấy yếu tố môi trường khác biệt không có ý nghĩa thống kê
giữa các nghiệm thức và nằm trong giới hạn cho phép để tôm sinh trưởng và phát triển. Mật
độ vi khuẩn Bacillus sp ở các nghiệm thức dao động từ 1,3×10
2
- 1,6×10
5
CFU/mL và sai
khác không có ý nghĩa thống kê. Mật độ vi khuẩn Vibrio ở nghiệm thức 20‰ (4,6×10
3

CFU/mL) luôn thấp hơn 2 nghiệm thức còn lại và khác biệt có ý nghĩa thống kê với nghiệm
thức có mật độ Vibrio cao nhất 30‰ (1,1×10
4
CFU/mL). Tỷ lệ sống tôm nuôi cao nhất ở

nghiệm thức 20‰ (74,7%), thấp nhất ở nghiệm thức 10‰ (42,7%) và khác biệt có ý nghĩa
thống kê. Chiều dài tôm dài nhất ở nghiệm thức 20‰ (6,7 cm) và khác biệt có ý nghĩa thống
kê với nghiệm thức 10‰ (4,7 cm). Tốc độ tăng trưởng giữa các nghiệm thức khác biệt không
có ý nghĩa thống kê.
Từ khóa: Litopenaeus vannamei, Bacillus, Vibrio
1 GIỚI THIỆU
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước đang là vấn đề lo ngại trong nuôi trồng thủy sản. Môi
trường ô nhiễm thường dẫn đến bệnh dịch gây thiệt hại cho người nuôi. Để ngăn ngừa và
kiểm soát dịch bệnh, việc sử dụng thuốc kháng sinh, hóa chất ngày càng phổ
biến
dẫn đến
động vật nuôi kháng thuốc, sản phẩm thủy sản xuất khẩu không đạt tiêu chuẩn do dư lượng
thuốc kháng sinh, bảo vệ thực vật và vi sinh vật gây bệnh. Trước tình hình đó, mô hình ứng
dụng vi sinh vật hữu ích vào nuôi trồng thủy sản được xem là giải pháp khả thi.
Ngoài việc

giảm thiểu việc sử dụng các thuốc kháng sinh

hóa chất để ngăn ngừa dịch bệnh, hạn
chế tối đa vấn đề ô nhiễm môi trường; vi sinh vật hữu ích đã được sử dụng nhằm nâng cao
hàm
lượng dinh dưỡng và cải thiện khả năng miễn dịch của động vật thủy sản để ngăn chặn
mầm bệnh
(Flcen, 2013).
Hiện nay, chế phẩm vi sinh được sử dụng rất phổ biến vì vậy việc
Trường Đại học Cần Thơ
2

nghiên cứu về chủng, loài vi khuẩn để tạo ra sản phẩm chất lượng ngày càng nhiều. Một
trong những nhóm vi khuẩn được nghiên cứu nhiều nhất là vi khuẩn Bacillus. Tuy nhiên,

việc đánh giá hiệu quả của vi khuẩn Bacillus mang lại ở các
độ mặn khác nhau trong bể
nuôi chưa được nghiên cứu nhiều. Mặt khác theo Verchure
et al.,
(2000) nguyên tắc
chung để ứng dụng thành công vi khuẩn hữu ích là nên sử dụng loài phân lập trên chính
môi trường ứng dụng, sẽ làm tăng hiệu quả xử lý hơn. Vì vậy, nghiên cứu “Ứng dụng vi
khuẩn
Bacillus subtillis
trong nuôi tôm thẻ chân trắng ở các độ mặn khác

nhau” được
thực hiện nhằm đánh giá độ mặn thích hợp để sử dụng loài vi khuẩn này với mục đích
nâng cao tỉ lệ sống và sinh trưởng của tôm nuôi.

2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 Vật liệu thí nghiệm
Dòng vi khuẩn Bacillus sp đã được Bộ môn Thủy Sinh Học Ứng Dụng, Khoa Thủy Sản –
Trường Đại Học Cần Thơ phân lập từ ao nuôi tôm sú thâm canh tỉnh Sóc Trăng và được trữ
trong tủ - 80
o
C phòng thí nghiệm vi sinh.
Nguồn tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) thí nghiệm được mua từ trại sản xuất tôm
giống ở giai đoạn PL
10
, trọng lượng tôm bố trí trung bình 1 g/con, tôm khỏe mạnh và không
nhiễm bệnh đã được chọn. Nước ót pha thêm nước ngọt để đạt độ mặn 10‰, 20‰, 30‰ sau
đó được xử lý bằng chlorine với nồng độ 30 - 50 mg/L và sục khí mạnh trong 24 - 48 giờ, sau
đó kiểm tra lại Chlorine, trung hòa lượng dư bằng Na
2

S
2
O
3
và bơm qua túi lọc (5 µm) vào bể
nuôi.
2.2 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành với 3 nghiệm thức ở độ mặn 10‰
,
20‰ và 30‰, mỗi nghiệm
thức được lặp lại 3 lần trong thời gian 60 ngày. Các nghiệm thức được bố trí bằng bể
composite 100 lít với mật độ tôm thẻ chân trắng 50 con/bể. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn
ngẫu nhiên.
Vi khuẩn hữu ích Baciilus subtillis được bổ sung với mật độ 10
5
CFU/mL là, vi khuẩn được
bố trí trước khi thả tôm 2 ngày và nhịp bổ sung sau khi thả tôm 5 ngày/lần.
Tôm được cho ăn bằng thức ăn công nghiệp Leader Vannamei 40% đạm. Tần suất cho ăn 4
lần/ngày vào 6 giờ (30%), 11 giờ (15%), 16 giờ (15%), 21giờ (40%).
Trong suốt quá trình thí nghiệm các yếu tố môi trường bao gồm pH, nhiệt độ được theo dõi
thường xuyên và kiểm tra 02 lần/ngày vào lúc sáng (8 giờ), chiều (14 giờ). Ngoài ra các chỉ
tiêu như độ kiềm, TAN, COD, DO, TSS được thu mỗi 5 ngày cùng lúc với thu mẫu các yếu
tố vi sinh để xác định mật độ vi khuẩn tổng, vi khuẩn Bacillus và vi khuẩn Vibrio. Tăng
trưởng và tỉ lệ sống của tôm được ghi nhận khi kết thúc thí nghiệm.
2.3 Phương pháp xác định mật độ vi khuẩn
2.3.1 Phương pháp xác định mật độ vi khuẩn tổng cộng và Vibrio
Phương pháp pha loãng mẫu: Theo phương pháp pha loãng mẫu của Đặng Thị Hoàng
Oanh và ctv, (2004).
Môi trường MA (Marine Agar) và TCBS (Thiosulphate Citrate Bile Sucrose gar) được chuẩn
bị để cấy vi khuẩn. Từ mỗi nồng độ pha loãng 100 µL của mẫu nước đã được hút ra và cho

vào các đĩa môi trường MA, TCBS, dùng que thủy tinh trải đều. Mỗi nồng độ pha loãng lặp
Trường Đại học Cần Thơ
3

lại 3 lần. Đĩa môi trường sau khi tán được ủ ở 30ºC trong vòng 24 giờ và mật độ vi khuẩn
được xác định sau khi ủ (Baumann et al., 1980).
2.3.2 Phương pháp xác định mật độ vi khuẩn Bacillus
Phương pháp xác định mật độ vi khuẩn Bacillus dựa theo phương pháp của Nguyễn Lân
Dũng, (1983); Harwood và Archibald, (1990).
Sau khi pha loãng, sắp sếp các ống nghiệm vào cùng một giá và đem sấy ở 80
o
C, đợi 20 phút
lấy ống nghiệm ra và dùng micropipette hút 100 µL dung dịch vi khuẩn cho vào các đĩa chứa
môi trường chuyên biệt cho Bacillus, dùng que thủy tinh đã tiệt trùng tán đều đến khi khô.
Các đĩa sau khi tán đem ủ ở 28 - 30
o
C trong vòng 24 giờ. Mỗi ống ngiệm chứa vi khuẩn cần
chọn hai độ pha loãng khác nhau, mỗi độ pha loãng lặp lại 3 lần. Sau khi ủ kiểm tra môi
trường để xác định số khuẩn lạc dao động từ 20 - 200. Xác định số khuẩn lạc trong mỗi đĩa
và tính số lượng trung bình của vi khuẩn trong mỗi ống ống nghiệm. Số lượng khuẩn lạc
được tính theo công thức:
Đơn vị hình thành khuẩn lạc (CFU/mL) = số khuẩn lạc * độ pha loãng * 10
2.4 Phương pháp thu và phân tích chất lượng nước
Tất cả các chỉ tiêu môi trường được phân tích theo phương pháp chuẩn (APHA at el., 1995),
đang áp dụng tại phòng phân tích chất lượng nước, Khoa Thủy sản, trường Đại Học Cần Thơ.
Mẫu nước được thu bằng ống falcon tiệt trùng, cách mặt nước khoảng 20 cm. Mẫu nước
được trữ lạnh (4
o
C) ngay sau khi thu và được phân tích trong vòng 2 giờ.
2.5 Tôm thẻ chân trắng

Khối lượng tôm được xác định và đo chiều dài lúc bắt đầu thí nghiệm và kết thúc thí nghiệm
nhằm tính tốc độ tăng trưởng của tôm, đồng thời số lượng tôm nuôi được ghi nhận để tính tỉ
lệ sống khi kết thúc quá trình thí nghiệm.
số cá thể cuối thí nghiệm
Tỉ lệ sống (%) = x 100
số cá thể ban đầu
Công thức tính tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng (g/ngày).
W
t
– W
0
DWG (g/ngày) = ————
t
Công thức tính tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài (cm/ngày)
L
t
– L
0

DLG (cm/ngày) = ————
T
Trong đó :
W
0
: Khối lượng tôm ban đầu
W
t
: Khối lượng tôm ở thời điểm t
L
0:

Chiều dài tôm ở thời điểm ban đầu
L
t
: Chiều dài tôm ở thời điểm t
t: Thời gian nuôi
Trường Đại học Cần Thơ
4

2.6 Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được tính toán và thống kê mô tả bằng phần mềm Excel. Số liệu được so
sánh thống kê ANOVA một nhân tố và phép thử DUNCAN bằng chương trình SPSS với mức
ý nghĩa 0,05.
3 KẾT QUẢ THẢO LUẬN
3.1 Biến động các yếu tố môi trường
3.1.1 Nhiệt độ, pH, oxy hòa tan
Nhiệt độ không có sự biến động lớn giữa các nghiệm thức, nhiệt độ dao động từ 26,8 -
29,9
o
C. Mặc dù trong thời gian thí nghiệm có những ngày nhiệt độ xuống thấp do trời mưa
nhưng biến động này nằm trong giới hạn thích hợp nhất cho sự phát triển của tôm là 25 -
32
o
C (Nguyễn Trọng Nho và ctv, 2003), nhiệt độ không được thay đổi quá 5
o
C trong ngày
(Bùi Quang Tề, 2003).
Tương tự, pH không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức và dao động từ 7,5 - 8,0 và nằm
trong giới hạn pH 7,5 - 8,5 phù hợp cho sự phát triển của tôm (Boyd, 1999), không dao động
quá 0,5 (Chanratchakool, 1995 được trích dẫn bởi Trương Quốc Phú, 2006). Theo
Chanratchakool (2003) thì cần khống chế pH dưới 8,3 nhằm đảm bảo sự cân bằng ion của độ

kiềm.
Oxy hòa tan ở 3 nghiệm thức nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Oxy hòa tan trong quá trình thí nghiệm chủ yếu phụ thuộc vào quá trình sục khí, môi trường
ít vật chất hữu cơ thì oxy sẽ dể dàng hòa tan. Hàm lượng oxy hòa tan trong quá trình thí
nghiệm thích hợp cho sự phát triển của tôm. Theo Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư (2003) thì
hàm lượng DO trong ao nuôi tôm chân trắng lớn hơn 4 mg/L và không được nhỏ hơn 2 mg/L.
3.1.2 Tổng vật chất lơ lửng (TSS – Total Supspended Solid)
Hình 1 cho thấy, ở tất cả các nghiệm thức, TSS thấp nhất vào lúc bắt đầu thí nghiệm (13
mg/L), sau đó tăng dần cho đến cuối thí nghiệm, TSS đạt giá trị cao nhất vào ngày 60 (386,7
mg/ L). Khi kết thúc thí nghiệm, sự tích lũy hàm lượng vật chất hữu cơ, chất thải và lượng
thức ăn dư thừa được tích tụ trong quá trình nuôi, phù hợp với nghiên cứu Phạm Thị Tuyết
Ngân (2010). Theo
Nguyễn Thanh Long và Võ Thành Toàn (2008), hàm
lượng TSS trong ao
nuôi tôm sú không sử dụng chế phẩm vi sinh dao động từ 75,9 mg/L đến 746,6 mg/L, tôm nuôi
trong ao vẫn sinh trưởng tốt. Như vậy hàm lượng vật chất hữu cơ trong các bể có vi khuẩn nêu
trên thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Nguyễn Thanh Long (2008). TSS trung bình giữa
các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, từ ngày 10 - 25, 40 và 55
hàm lượng TSS giữa các nghiệm thức khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). TSS thấp nhất
ở nghiệm thức 20‰ (160 mg/L) và khác biệt với nghiệm thức 10‰ và 30‰ (190 mg/L) ở
ngày 40 và tương tự cho các ngày 10 - 25 và 55. Qua thí nghiệm cho thấy vi khuẩn Bacillus
sp ở độ mặn 20‰ phân hủy vật chất hữu cơ tốt hơn các nghiệm thức còn lại, vì được phân lập
từ ao nuôi có độ mặn 16‰ nên độ mặn 20‰ phù hợp cho vi khuẩn Bacillus sp hoạt động.
Trường Đại học Cần Thơ
5


Hình 1: Biến động hàm lượng TSS trong thời gian thí nghiệm
3.1.3 Tiêu hao oxy hóa học (COD - Chemical Oxygen Demand)
Hình 3 cho thấy COD trong 3 nghiệm thức dao động từ 5,6 - 23,2 mg/L, có khuynh hướng

tăng dần vào cuối thí nghiệm. Nguyên nhân do lượng thức ăn dư thừa và chất thải của tôm
tích lũy theo thời gian, do đó cần nhiều oxy cho quá trình phân hủy các chất thải.
Hàm lượng COD trung bình giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê, tuy
nhiên ở ngày 30 và từ ngày 45 - 60 khác biệt có ý nghĩa thống kê. Ngày thứ 30 COD của
nghiệm thức 10‰ đạt giá trị cao nhất (14,1 mg/L), nghiệm thức 30‰ (13,8 mg/L) và thấp
nhất ở nghiệm thức 20‰ (13,3 mg/L). Ngày 30, 45 và 50 chỉ khác biệt có ý nghĩa ở nghiệm
thức 10‰ và 20‰, không có sự khác biệt giữa nghiệm thức 20‰ và 30‰, 10‰ và 30‰.
Ngày 55 và 60 COD ở nghiệm thức 10‰ cao nhất và không khác biệt có ý nghĩa so với
nghiệm thức 30‰, tuy nhiên khác biệt có ý nghĩa thống kê đối với nghiệm thức 20‰ so với
10‰ và 30‰.

Hình 2: Biến động COD trong thời gian thí nghiệm
3.1.4 Độ kiềm
Hình 4 cho thấy hàm lượng kiềm dao động khoảng 44,7 - 167,3 mg/L, và khác biệt không có
ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức. Tuy có những ngày hàm lượng kiềm hạ xuống thấp
nhưng nằm trong giới hạn cho tôm phát triển. Kiềm hạ thấp nguyên nhân do quá trình tôm
lột xác hấp thu, đồng thời do nhóm vi khuẩn Nitrosomonas và Nitrobacter thực hiện quá
Trường Đại học Cần Thơ
6

trình nitrate hóa. Theo Trương Quốc Phú (2006) 1,98 eq (đương lượng) HCO
3-
bị phá hủy
khi 1 mol N-NH
4+
thành NO
3-
tương đương 7,14 g CaCO
3
/g N-NH

4+
. Độ kiềm thích hợp cho
nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm ở độ mặn 15 - 25‰ là 80 - 150 mg/L (Trần Ngọc Hải,
2010). Ở vùng có độ mặn thấp thì độ kiềm lớn hơn 40 mgCaCO
3
/L thích hợp cho tôm phát
triển tốt (Ong Mộc Quý và ctv., 2010).

Hình 3: Biến động độ kiềm trong thời gian thí nghiệm
3.1.5 Ammonia tổng cộng (TAN - Total Ammonia Nitrogen)
Qua biểu đồ (Hình 5) cho thấy hàm lượng TAN ở các nghiệm thức tăng cao nhất vào ngày 25
(10,34 mg/L) và bắt đầu giảm dần từ tuần thứ tư cho đến khi kết thúc thí nghiệm. Nguyên
nhân TAN tăng cao có thể do vi khuẩn Bacillus sp chuyển hóa đạm hữu cơ tạo ra NH
4
nhiều,
trong khi đó nhóm vi khuẩn nitrate hóa chưa phát triển nên chưa hấp thụ NH
4
, đến cuối thí
nghiệm nhóm vi khuẩn nitrate hóa phát triển và sử dụng hàm lượng TAN sinh ra nên hàm
lượng TAN giảm, hàm lượng NO
2-
và NO
3-
tăng lên. Theo Phạm thị Tuyết Ngân (2012) thì
hàm lượng NO
2-,
NO
3-
trong bể ương nuôi tôm sú tăng cao vào cuối thí nghiệm do sự phát
triển của nhóm vi khuẩn Nitrosomonas đã thực hiện quá trình nitrate hóa phân hủy đạm amôn

thành NO
2-
và NO
2-
sinh ra được vi khuẩn Nitrobacter chuyển hóa thành dạng nitrat NO
3-
ít
độc cho tôm nuôi. Hàm lượng TAN trung bình ở nghiệm thức 10‰ và 30‰ khác biệt không
có ý nghĩa, cao nhất ở nghiệm thức 30‰ (3,45 mg/L và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với
nghiệm thức 20‰ (2,61 mg/L). Theo Boyd (1990) (trích dẫn bởi Trương Quốc Phú, 2006) thì
nồng độ NH
3
an toàn cho ao nuôi nhỏ hơn 0,13 ppm,
hàm lượng NH
4+
thích hợp cho ao nuôi
thủy sản từ 0,2 - 2 ppm.
Trường Đại học Cần Thơ

9


Hình 4: Biến động TAN trong thời gian thí nghiệm
3.2 Biến động mật độ vi khuẩn
3.2.1 Vi khuẩn tổng
Kết quả phân tích (Hình 6) cho thấy mật độ vi khuẩn tổng cộng trong nước ở các nghiệm
thức dao dộng từ 2,4×10
3
- 9,2×10
5

CFU/mL và có xu hướng tăng dần vào cuối thí nghiệm.
Khi so sánh mật độ vi khuẩn tổng trung bình giữa các nghiệm thức thì khác biệt không có ý
nghĩa thống kê nhưng mật độ vi khuẩn tổng cao nhất ở nghiệm thức 30‰, nguyên nhân do sự
phát triển của vi khuẩn Vibrio. Điều này phù hợp với các nghiên cứu trước đây khi bổ sung vi
khuẩn định kỳ vào bể nuôi sẽ làm hạn chế sự phát triển của nhóm vi khuẩn khác (Phạm Thị
Tuyết Ngân và Trương Quốc Phú, 2010). Theo Anderson (1993) trong nước sạch thì tổng vi
khuẩn nhỏ hơn 10
3
CFU/mL nếu mật độ vi khuẩn vượt 10
7
CFU/mL sẽ có hại cho tôm cá và
môi trường trở nên bẩn.
Bảng 1: Biến động vi khuẩn tổng trong thời gian thí nghiệm

Ngày/NT

10‰ 20‰ 30‰
1
2,4×10
3
±0,2
a
2,5×10
3
±0,2
a
3,5×10
3
±0,1
b

5
2,9×10
4
±1,3
b
6,9×10
4
±1,4
a
7,5×10
4
±1,1
a
10
3,2×10
4
±0,4
b
6,9×10
4
±1,2
a
5,6×10
4
±2,8
ab

15
6,5×10
4

±0,4
b
7,5×10
4
±0,9
ab
8,4×10
4
±0,5
a

20

1,2×10
5
±0,2
a

1,4×10
5
±0,2
a
2,2×10
5
±0,7
b

25
6,0×10
5

±1,2
b
1,3×10
5
±0,3
a
2,8×10
5
±1,2
a
30
4,2×10
5
±1,1
a
1,6×10
5
±0,2
b
2,8×10
5
±1,2
ab
35

3,9×10
5
±0,4
a
1,7×10

5
±0,9
b
3,2×10
5
±0,9
ab
40
1,7×10
5
±0,4
a
1,5×10
5
±0,2
a
3,9×10
5
±1,3
b
45
2,0×10
5
±0,4
a
2,6×10
5
±1,8
a
3,8×10

5
±1,1
a
50
2,4×10
5
±0,4
a
3,0×10
5
±0,8
a
3,5×10
5
±0,4
a
55
2,8×10
5
±0,8
b
5,9×10
5
±0,9
a
6,8×10
5
±2,1
a
60

2,8×10
5
±0,3
b
7,7×10
5
±1,3
a
9,2×10
5
±0,5
a
TB
2,2×10
5
±1,8
a
2,2×10
5
±2,2
a
3,1×10
5
±2,6
a
Các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt rất có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)
Trường Đại học Cần Thơ

10


3.2.1 Vi khuẩn Bacillus
Hình 7 cho thấy mật số vi khuẩn Bacillus sp trong nước của 3 nghiệm thức dao động 1,3×10
2

- 1,6×10
5
CFU/mL, tăng dần đến khi kết thúc thí nghiệm và khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05). Mặc dù vậy có một số ngày mật số vi khuẩn ở các nghiệm thức có sự khác biệt,
điển hình ngày 50 mật số vi khuẩn Bacillus sp cao nhất ở nghiệm thức 20‰ (1,1×10
5
CFU/mL), thấp nhất ở nghiệm thức 10‰ (4,3×10
4
CFU/mL) và tương tự cho những ngày 15
- 20, 30. Tuy nhiên, khác biệt chỉ có ý nghĩa thống kê giữa nghiệm thức 10‰, 20‰ và khác
biệt không có ý nghĩa thống kê giữa nghiệm thức 20‰, 30‰ và giữa nghiệm thức 10‰,
30‰.
Bảng 2: Biến động vi khuẩn Bacillus trong thời gian thí nghiệm
Ngày/NT

10‰ 20‰ 30‰
1
1,4×10
2
±0,2
a
1,3×10
2
±0,3
a

1,6×10
2
±0,1
a
5
2,6×10
3
±0,4
a
9,7×10
3
±7,8
a
1,1×10
4
±0,3
a
10
1,8×10
4
±1,4
a
3,5×10
4
±2,0
a
3,7×10
4
±1,4
a

15
2,7×10
4
±0,9
a
5,3×10
4
±1,4
b
3,3×10
4
±0,6
ab
20
3,8×10
4
±0,8
a
6,5×10
4
±0,6
b
5,0×10
4
±0,9
ab
25
3,9×10
4
±1,4

a
5,8×10
4
±0,5
a
5,0×10
4
±1,1
a
30
3,7×10
4
±1,3
a
6,3×10
4
±1,3
b
5,2×10
4
±0,8
ab
35
4,8×10
4
±0,4
a
5,1×10
4
±0,9

a
7,0×10
4
±4,1
a
40
6,9×10
4
±0,2
a
8,7×10
4
±1,8
a
9,2×10
4
±5,8
a
45
7,7×10
4
±0,8
a
1,6×10
5
±0,3
b
8,8×10
4
±5,8

a
50
4,3×10
4
±0,6
a
1,1×10
5
±0,2
b
6,8×10
4
±3,3
ab
55
8,9×10
4
±1,0
a
1,2×10
5
±0,3
a
9,1×10
4
±0,6
a
60
9,2×10
4

±1,2
a
1,2×10
5
±0,2
a
9,6×10
4
±0,8
a
TB
4,5×10
4
±3,0
a
7,1×10
4
±2,4
a
5,7×10
4
±3,1
a
Các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt rất có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)
3.2.2 Vi khuẩn Vibrio
Qua các đợt thu mẫu, Hình 8 cho thấy mật độ vi khuẩn Vibrio ít dao động. Nguyên nhân có
thể là do bổ sung định kỳ vi khuẩn Bacillus sp trong suốt thời gian thí nghiệm cạnh tranh lấn
áp sự phát triển vi khuẩn Vibrio. Mật độ vi khuẩn Vibrio trung bình trong nước giữa các
nghiệm thức có sự khác biệt và có ý nghĩa thống kê giữa nghiệm thức 10‰, 30‰ và nghiệm

thức 20‰ cho ta thấy có sự tương quan giữa mật độ Bacillus sp và Vibrio, mặc dù mật độ
Bacillus sp ở nghiệm thức 20‰ cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm
thức còn lại chỉ vài ngày, nhưng mật độ Vibrio ở nghiệm thức 20‰ (4,6×10
3
CFU/mL) thấp
hơn nghiệm thức 30‰ (1,1×10
4
CFU/mL), nghiệm thức 10‰ (9,2×10
3
CFU/mL) và khác
biệt có ý nghĩa thống kê. Theo Rengpipat (1998) (trích dẩn bởi Phạm Thị Tuyết Ngân, 2011)
bào tử Bacillus có thể đóng vai trò như một tác nhân sinh học giúp làm giảm Vibrio trong hệ
thống nuôi thủy sản. Ngoài ra, Hasting và Nealson (1981) cũng cho rằng Bacillus có thể tạo
ra một số chất kháng khuẩn hoặc một vài sản phẩm có thể tiêu diệt Vibrio harveyi. Theo
nghiên cứu Đặng Phương Nga (2007) Bacillus sp có khả năng ức chế tốt các vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus HH1, V. furnisii VT14-1, V. harvey NC5-1 và V. vulnificus HH2.

Bảng 3: Biến động vi khuẩn Vibrio trong thời gian thí nghiệm
Ngày/NT 10‰ 20‰ 30‰
Trường Đại học Cần Thơ

11

1
0,9×10
3
±0,06
a
1,2×10
3

±0,2
a
3,6×10
3
±0,2
b
5
3,6×10
3
±0,2
a
1,2×10
3
±0,6
a
1,8×10
4
±0,7
b
10

3,8×10
3
±0,2
a
1,9×10
3
±1,8
a
1,3×10

4
±0,5
b
15
4,1×10
3
±0,6
ab
2,3×10
3
±0,2
b
8,6×10
3
±5,0
a
20
1,2×10
4
±0,1
a
6,3×10
3
±1,5
b
1,4×10
4
±0,3
a
25

1,8×10
4
±0,4
a
7,8×10
3
±2,3
b
1,2×10
4
±0,5
ab
30
1,2×10
4
±0,1
a
7,8×10
3
±2,2
a
1,2×10
4
±0,4
a
35
1,5×10
4
±0,5
a

5,3×10
3
±1,3
b
1,1×10
4
±0,3
ab
40
1,5×10
4
±0,5
a
6,5×10
3
±2,2
a
1,2×10
4
±0,6
a
45

6,1×10
3
±1,8
a
5,5×10
3
±0,7

a
1,1×10
4
±0,4
a
50
1,2×10
4
±0,3
a
3,3×10
3
±1,6
a
9,6×10
3
±6,4
a
55
1,1×10
4
±0,1
a
5,4×10
3
±3,7
a
1,0×10
4
±0,3

a
60
6,9×10
3
±0,6
a
5,4×10
3
±3,9
a
9,1×10
3
±0,9
a
TB
9,2×10
3
±5,3
a

4,6×10
3
±2,4
b
1,1×10
4
±0,3
a
Các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt rất có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)

3.3 Tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống tôm thẻ chân trắng
Bảng 1 cho thấy tốc độ tăng trưởng của tôm trong các nghiệm thức khác biệt không có ý
nghĩa thống kê. Nhưng sai khác về tốc độ tăng trưởng chiều dài, cao nhất ở nghiệm thức 20‰
(0,112 cm/ngày) và khác biệt có ý nghĩa thống kê với 2 nghiệm thức 10‰ (0,087 cm/ngày)
và 30‰ (0,091 cm/ngày), không có sự sai khác giữa nghiệm thức 10‰ và 30‰.
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống tôm thẻ chân trắng
Nghiệm thức 10‰ 20‰ 30‰
Chiều dài
(cm/ngày)
0,078±0,004
b
0,112±0,007
a
0,091±0,015
b

Tăng trưởng
(g/ngày)
0,073±0,012
a
0,094±0,017
a
0,083±0,002
a

Tỉ lệ sống (%)
42,7±2,31
b
74 ,7±5,03
a

64±8,72
a

Các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt rất có ý nghĩa thống kê
(p<0,05).
Tỉ lệ sống của tôm ở nghiệm thức 20‰ cao nhất (74,7%), khác biệt có ý nghĩa thống kê so
với nghiệm thức thấp nhất 10‰ (42,7%) nhưng sai khác không có ý nghĩa với nghiệm thức
30‰ (64%). Tỉ lệ sống của tôm thấp, nguyên nhân do kiềm thấp, làm ảnh hưởng đến quá
trình lột xác của tôm, tôm lột xác không thể cứng vỏ trở lại, tôm dể dàng ăn nhau và vi khuẩn
có hại dể dàng tấn công, đặc biệt là nhóm Vibrio. Qua kết quả thí nghiệm, độ mặn 20‰ là tối
ưu nhất cho hoạt động của vi khuẩn Bacillus sp trong việc phân hủy vật chất hữu cơ và thức
ăn dư thừa, đồng thời làm giảm các chất gây độc cho tôm như NH
3,
H
2
S, NO
2
giúp tôm tăng
trưởng tốt và nâng cao tỉ lệ sống cho tôm nuôi. Theo nghiên cứu Vaseeharan et al. (2003) khi
sữ dụng vi khuẩn Bacillus sp trong ao nuôi tôm giúp nâng cao tỉ lệ sống và tăng cường sự
tăng trưởng của ao nuôi tôm sú.
Trường Đại học Cần Thơ

12

4 KẾT LUẬN – ĐỀ XUẤT
4.1 Kết luận
Các chỉ tiêu môi trường giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê, duy nhất
chỉ tiêu TAN ở nghiệm thức 20‰ thấp hơn 2 nghiệm thức 10‰ và 30‰ và khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Vi khuẩn tổng cộng và vi khuẩn Bacillus khác biệt không có ý nghĩa giữa 3

nghiệm thức. Tổng vi khuẩn Vibrio ở nghiệm thức 20‰ thấp hơn 2 nghiệm thức còn lại.
Tôm ở nghiệm thức 20‰ có tỉ lệ sống cao hơn và chiều dài tốt hơn so với nghiệm thức 10‰
và 30‰, nhưng không có sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng giữa các nghiệm thức.
4.2 Đề xuất
Bố trí thử nghiệm ra môi trường ao nuôi để xác định hiệu quả trên thực tế.
Thử nghiệm trên mô hình lớn hơn như nuôi thâm canh ở độ mặn 20‰ để đánh giá hiệu quả
thực tế mang lại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Anderson, I. 1993. The veterinary approach to matine prawns. In: Aquaculture for veterinarians:
fish husbandry and medicine (Editor Brown L.), pp. 271 – 296.
Baumann, P., L. Baumann, S. S. Bang, and M. J. Woolkalis. 1980. Reevaluation of the taxonomy
of Vibrio, Beneckea, and Photobacterium: abolition of the genus Beneckea. Curr.
Microbiol. 4: 127- 132.
Boyd, C. E., 1990. Water Quality for Aquaculture. Binninghan Pushlishing Co. Binninghan,
Alabana. 482p.
Boyd, C.E., and Laurence, M., 1999. Risks associated with use of chemicals in pond
aquaculture. Aquaculture Engineering. Volume 20. Issue 2, June 1999. Pages 113-
132.
Bùi Quang Tề, 2003. Bệnh của tôm nuôi và phương pháp phòng trị. Nhà xuất bản nông
nghiệp Hà Nôi. 190 trang.
Chanratkool, Pornlerd. 2003. Proplem in Penaeus monodon culture in low salinity areas.
Advice on Aquatic Animal Health Care. Aquaculture Asia, vol. VIII, no.1.pp. 54 –
55
Đặng Phương Nga, Nguyễn Thị Yên, Đỗ Thu Phương, Nguyễn Bá Tú, Lại Thúy Hiền,
2007. Khả năng ức chế vi khuẩn gây bệnh Vibrio trong nước nuôi tôm của Bacillus
subtillis HY1 và Lactococcus Lactics CC4K. Tạp chí công nghệ sinh học. 8 trang.
Đặng Thị Hoàng Oanh, Đoàn Nhật Phương, Nguyễn Minh Hậu và Nguyễn Thanh Phương,
2004. Thiết lập bộ sưu tập vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh chloramphenicol tại
Khoa Thủy Sản, Đại học Cần Thơ. Tạp chí Khoa học. Đại học Cần Thơ, 2: 76 – 81.

Flcen, Chế phẩm sinh học, tác nhân ức chế hoạt động của vi rút trong nuôi tôm.
111e/che-pham-sinh-
hoc-tac-nhan-uc-che-hoat-111ong-cua-vi-rut-trong-nuoi-tom/ (17/11/2013).
Harwood, C. and A. Archibald, 1990. Growth, maintenance and general techniques. In:
C.R., Harwood, S.M. Cutting, (Eds), Molecular Biologycal Methods for Bacillus,
Wiley, Chichester, England: 1 – 26.
Nguyễn Lân Dũng, 1983. Thực tập vi sinh vật học. Nhà xuất bản Đại học và Trung học
chuyên nghiệp Hà Nội, 386 trang.
Nguyễn Thanh Long và Võ Thành Toàn, 2008. Đánh giá mức độ tích lũy đạm, lân trong mô
hình nuôi tôm sú (Penaeus monodon) thâm canh. Trong tạp chí trường Đại học Cần
Thơ, 2008 (1):45-53.
Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2003. Giáo trình kỹ thuật nuôi giáp
xác. NXB Nông nghiệp TP.HCM.
Trường Đại học Cần Thơ

13

Phạm Thị Tuyết Ngân và Trương Quốc Phú, 2010. Biến động các yếu tố môi trường và mật
độ vi khuẩn Bacillus sp trong bể nuôi tôm sú (Penaeus monodon). Tạp chí khoa học
năm 2010: 14b 29-42, trường Đại học Cần Thơ.
Phạm Thị Tuyết Ngân và Trương Quốc Phú, 2011. Ảnh hưởng của vi khuẩn Bacillus (B8,
B37, B18) lên chất lượng nước bể nuôi tôm sú (Penaeus monodon). Kỷ yếu hội nghị
khoa học thủy sản lần 4: 28-41. Trường Đại học Cần Thơ.
Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư, 2003. Kỹ thuật nuôi tôm He chân trắng. Nhà xuất bản nông
nghiệp Hà Nội. 107 trang.
Tràn Viết Mỹ, 2009. Cẩm nang nuôi tôm thẻ chân trắng. Sở NN&PTNN TP. Hồ Chí Minh. 30
trang.
Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009. Nguyên lý và kỷ thuật nuôi tôm sú
(Penaeus monodon). Nhà xuất bản nông nghiệp Tp.Hồ Chí Minh. 203 trang.
Trương Quốc Phú và Vũ Ngọc Út, 2006. Bản dịch Quản lý chất lượng nươc ao nuôi thủy

sản. Khoa thủy sản - Đại học Cần Thơ. 201 trang.
Vaseeharan, B and Ramasamy, P. 2003. Control of pathogenic Vibrio spp by Bacillus
subtilis
BT23, a possible probiotic treatment for black tiger shrimp Penaeus
monodon. In
The
society for Applied Microbiology, 36,
83-87.
Verschuere, L., Rombaut G., Sorgeloos P., & Verstraete W., 2000. Probiotic bacteria
as
biological control agents in aquaculture. Microbiology and Molecular Biology
Review
64,
655-671.

Whetstone, J.M., G. D. Treece, C. L. B and A. D. Stokes, 2002. Opportunities and Contrains
in
Marine Shrimp Farming. Southern Regional Aquaculture Center (SRAC)
publication
No.
2600
USDA.











×