Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Luận văn báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo chế độ hiện hành tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.1 KB, 32 trang )



1




Luận văn
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo
chế độ hiện hành tại Việt Nam


2
Lời nói đầu
Xã hội càng phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật càng tiên tiến trình độ
phát triển kinh tế càng cao, mức độ cạnh tranh để tồn tại và phát triển trên thị
trường càng ngày càng gay gắt, nhu cầu thông tin càng trở nên bức thiết.Nền
kinh tế thị trường với những đổi mới thực sự trong cơ chế quản lý kinh tế - tài
chính đã khẳng định vai trò của thông tin kế toán trong quản trị doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh, thông tin là một nhân tố không thể thiếu của
các nhà quản lý. Đặc biệt trong những thời gian gần đây, sự ra đời của thị trường
chứng khoán và hàng loạt các doanh nghiệp cổ phần đã đòi hỏi hệ thống thông
tin trên báo cáo tài chính phải bảo đảm phản ánh được thực trạng tài chính của
doanh nghiệp và có khả năng phân tích cao, đáp ứng được yêu cầu của mọi đối
tượng sử dụng thông tin: Các nhà quản lý, các chủ doanh nghiệp, người cho vay,
nhà đầu tư, khách hàng
Sự đổi mới sâu sắc cơ chế quản lý kinh tế đòi hỏi nền tài chính quốc gia phải
được tiếp tục đổi mới một cách toàn diện, nhằm tạo ra sự ổn định của môi
trường kinh tế, hệ thống pháp luật tài chính, lành mạnh hoá các quan hệ và các
hoạt động tài chính. Hệ thống thông tin kinh tế tài chính chủ yếu trong các
doanh nghiệp chính là hệ thống các báo cáo tài chính, trong đó có BCLCTT.Đây


là một trong những báo cáo tài chính quan trọng để giúp cho những người sử
dụng thông tin có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về doanh nghiệp. Tuy
nhiên,nó có thể sẽ là báo cáo bắt buộc đối với các doanh nghiệp ở nước ta trong
tương lai.
Chính vì lý do đó nên tôi quyết định chọn đề tài về "BCLCTT theo chế độ
kế toán doanh nghiệp Việt Nam hiện hành và những điều kiện cơ bản để vận
hành chế độ BCLCTT trong quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp".






3
Chương I: Tổng quan về báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo chế
độ hiện hành tại Việt Nam
I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
Xu hướng tự do hoá thị trường tài chính và thị trường vốn vào những năm
80 làm cho các thị trường tài chính ngày càng trở nên thiếu ổn định.Từ đó xuất
hiện nhu cầu cần phải có thêm thông tin phục vụ cho đánh giá tình hình tài chính
và tình trạng của các doanh nghiệp nhằm phục vụ cho các nhu cầu bảo đảm sự
ổn định về tài chính.
Vào những năm 90, khi xu hướng tự do hoá thị trường tài chính và thị
trường vốn dâng cao đã gây sức ép đòi hỏi phải cung cấp thông tin hữu ích trong
cả khu vực tài chính lẫn khu vực tư nhân. Các yêu cầu tối thiểu về công bố
thông tin giờ đây sẽ là đánh giá chất lượng và dung lượng thông tin cần cung
cấp cho các đối tượng tham gia thị trường và cho công chúng nói chung.
Việc công bố rộng rãi thông tin chỉ thực hiện được khi có các tiêu chuẩn
kế toán tốt và phương pháp công bố thông tin thoả đáng. Điều này gắn liền với

việc cung cấp các thông tin định tính và định lượng thích hợp trong các báo cáo
tài chính hàng năm. Các báo cáo này thường đi kèm với các báo cáo tài chính
nội bộ và các thông tin có liên quan khác.
Hiện nay hệ thống báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ở Việt Nam
bao gồm 4 báo cáo:
- Bảng cân đối kế toán.
- Báo cáo kết quả kinh doanh.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
- Thuyết minh báo cáo tài chính.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong 4 báo cáo của hệ thống báo cáo
tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện thông tin ngày càng trở nên quan
trọng và cần thiết đối với những người quan tâm, báo cáo lưu chuyển tiền tệ là
một nguồn thông tin không thể thiếu góp phần thoả mãn nhu cầu của người sử
dụng.


4

2. Cơ sở thực tiễn
Trên thế giới, trước năm 1961 đã có một số doanh nghiệp tự giác lập và
công bố các báo cáo về tình hình lưu chuyển và vận động của các quỹ.
Nhữngbáo cáo này cho biết nguồn hình hành và tình hình sử dụng vốn lưu động
của doanh nghiệp và trình bày những thông tin đó theo 3 loại hoạt động:
- Hoạt động sản xuất kinh doanh
- Hoạt động tài chính
- Hoạt động đầu tư
Vào năm 1961, các nhà khoa học nghiên cứu về kế toán đã cho biết và
nhấn mạnh rằng bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh đều chưa
thể cung cấp những thông tin đầy đủ, hoàn chỉnh về mọi sự thay đổi nguồn lực
tài chính của công ty và cho rằng cần thiết phải có một báo cáo về quỹ. Qua quá

trình nghiên cứu và phát triển đặc biệt từ giai đoạn 1980-1986 báo cáo lưu
chuyển tiền tệ đã ra đời và nhanh chóng được nhiều doanh nghiệp đón nhận.
Như vậy xuất phát từ yêu cầu thực tế, nội dung và hình thức của báo cáo
lưu chuyển tiền tệ ngày càng được hoàn thiện hơn theo nhu cầu cấp bách về
thông tin trên thị trường.
II. Bản chất, ý nghĩa và tầm quan trọng của báo cáo lưu chuyển tiền tệ
1. Khái niệm
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh
việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh
nghiệp
Lượng tiền phát sinh của doanh nghiệp bao gồm các dòng thu, chi bằng
tiền và tương đương tiền của doanh nghiệp.
2. Mục đích
Mục đích chính của báo cáo lưu chuyển tiền tệ là:
- Cung cấp thông tin về lượng tiền thu vào và lượng tiền chi ra trong kỳ.
- Cung cấp thông tin về các hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính của
doanh nghiệp.


5
- Cung cấp chi tiết các thông tin về quá trình nguồn tiền hình thành và quá
trình chi tiêu sử dụng chúng trong kỳ.
Ví dụ: Trong kỳ doanh nghiệp đã kiếm được số tiền đó bằng cách nào và
chi tiêu nó như thế nào? Hoạt động nào là hoạt động chủ yếu tạo ra tiền cho
doanh nghiệp? Số tiền của doanh nghiệp được sử dụng với mục đích gì, có hợp
lý không, quy mô tăng thêm của doanh nghiệp được tài trợ như thế nào? Do
doanh nghiệp hay do nguồn tài chính bên ngoài? Tại sao kết quả kinh doanh
trong kỳ có lãi nhưng doanh nghiệp vẫn không đủ tiền để trả nợ vay, thanh toán
cổ tức hoặc vẫn còn nợ lương công nhân?
3. ý nghĩa

Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cung cấp
thông tin cho những người sử dụng, đánh giá khả năng thanh toán và dự đoán
được luồng tiền trong kỳ tiếp theo của doanh nghiệp.
Ngoài ra các nhà quản lý còn sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ để lập kế hoạch
khác như:
- Liên kết chính sách trả lãi với các mặt hoạt động của doanh nghiệp.
- Lập kế hoạch tài trợ cho việc lập kế hoạch sản xuất.
- Tìm ra hướng giải quyết cho các nhu cầu tiền mặt.
4. Vị trí của báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong hệ thống báo cáo tài chính
Từ bản chất và ý nghĩa của báo cáo lưu chuyển tiền tệ ta thấy rằng những
thông tin trên chỉ có thể tìm thấy ở báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Do vai trò quan trọng của báo cáo lưu chuyển tiền tệ mà ở Mỹ năm 1987
việc lập báo cáo này đã là một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp trong
các báo cáo tài chính và sau đó được phổ biến sang các nước.Tuy nhiên, mỗi
nước cũng có cách hiểu và cách làm khác nhau phù hợp với đặc điểm và điều
kiện riêng của nước mình.
ở Việt Nam, báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong hệ thống báo cáo tài chính
của doanh nghiệp được áp dụng từ năm 1995 theo quyết định số 1141
TC/QĐ/CĐKT của Bộ tài chính và hiện nay thực hiện theo quyết định mới số
167/2000/QĐ-BTC. Tuy nhiên, báo cáo này mới chỉ là tạm thời chưa quy định


6
bắt buộc phải lập và gửi, nhưng do tác dụng quan trọng của nó mà Chính phủ
khuyến khích các doanh nghiệp lập và sử dụng báo cáo này.
III. Nội dung của báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Bao gồm 3 nội dung chính và một số chỉ tiêu bổ sung:
1. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp như: Tiền thu từ bán hàng, thu từ các khoản

phải thu thương mại. Các chi phí bằng tiền như: trả tiền cho nhà cung cấp, tiền
thanh toán cho công nhân viên về tiền lương và bảo hiểm xã hội, các chi phí
khác bằng tiền (chi phí văn phòng phẩm, công tác phí ).
2. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp. Bao gồm:
- Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân doanh nghiệp (hoạt động
xây dựng cơ bản, mua sắm TSCĐ).
- Đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức góp vốn liên doanh, đầu tư
chứng khoán, cho vay, không phân biệt đầu tư ngắn hạn hay dài hạn.
- Dòng tiền lưu chuyển bao gồm toàn bộ các khoản thu do bán, thanh lý
TSCĐ, thu hồi các khoản đầu tư và các khoản chi mua sắm, xây dựng TSCĐ,
chi để đầu tư vào các đơn vị khác.
3. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt
động tài chính của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính bao gồm các nghiệp vụ
làm tăng, giảm vốn kinh doanh của doanh nghiệp như: Chủ doanh nghiệp góp
vốn vay vốn (không phân biệt vay dài hạn hay vay ngắn hạn), nhận vốn liên
doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, trả nợ vay
Dòng tiền lưu chuyển bao gồm toàn bộ các khoản thu, chi liên quan như: tiền
vay nhận được, tiền thu được do nhận vốn góp liên doanh, do phát hành cổ
phiếu, trái phiếu, tiền chi trả lãi cho các bên góp vốn, trả lãi cổ phiếu, trái phiếu
bằng tiền, thu lãi tiền gửi


7
4. Một số chỉ tiêu bổ sung
- Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ: là chỉ tiêu tổng hợp các kết quả tính
được từ các dòng tiền lưu chuyển qua 3 mặt (hoạt động sản xuất kinh doanh,
hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính). Nếu nguồn thu>nguồn chi thì ta có mức

tăng của tiền, ngược lại nguồn thu< nguồn chi thì ta có mức giảm của tiền
- Tiền đầu kỳ và tiền cuối kỳ: hai chỉ tiêu này được trích từ bảng cân đối
kế toán của năm hiện hành. Chênh lệch của tiền cuối kỳ so với đầu kỳ phải bằng
kết quả tính được ở phần lưu chuyển tiền thuần trong kỳ.
IV. Cơ sở và phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ
1. Cơ sở lập
Lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp:
- Bảng cân đối kế toán (Mẫu B01- DN).
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Mẫu B02- DN).
- Các tài liệu khác (như sổ cái, sổ kế toán chi tiết, báo cáo vốn góp, khấu
hao,chi tiết hoàn nhập dự phòng, hoặc các tài liệu chi tiết về mua bán TSCĐ, trả
lãi vay ).
Lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp:
- Bảng cân đối kế toán (Mẫu B01- DN).
- Sổ kế toán theo dõi thu, chi vốn bằng tiền (tiền mặt và tiền gửi).
- Sổ kế toán theo dõi các khoản phải thu, phải trả.
2. Nguyên tắc lập
Theo phương pháp gián tiếp: báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập bằng
cách điều chỉnh lợi tức trước thuế của hoạt động sản xuất kinh doanh khỏi ảnh
hưởng của các nghiệp vụ không trực tiếp thu tiền hoặc chi tiền đã làm tăng,
giảm lợi tức, loại trừ các khoản lãi lỗ của hoạt động đầu tư và hoạt động tài
chính đã tính vào lợi nhuận trước thuế, điều chỉnh các khoản mục thuộc vốn lưu
động.
Theo phương pháp trực tiếp: báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập bằng
cách xác định và phân tích trực tiếp các khoản thực thu, chi bằng tiền trên các sổ
kế toán vốn bằng tiền theo từng loại hoạt động và theo nội dung thu, chi.


8
3. Phương pháp lập

3.1. Phương pháp gián tiếp. Gồm 3 phần:
Phần I: lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Phản ánh
những chỉ tiêu liên quan đến luồng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Lợi nhuận trước thuế: Lấy từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
- Điều chỉnh các khoản:
+ Khấu hao TSCĐ.
+ Các khoản dự phòng.
+ Lãi lỗ do bán TSCĐ.
+ Lãi, lỗ do đánh giá lại tài sản và chuyển đổi tiền tệ.
+ Lãi, lỗ do đầu tư vào các đơn vị khác.
+ Thu lãi tiền gửi.
-Lợi nhuận kinh doanh trước những thay đổi vốn lưu động: Phản ánh
luồng tiền được tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ báo cáo đã loại
trừ ảnh hưởng của các khoản thu nhập và chi phí không trực tiếp bằng tiền
nhưng chưa tính đến những thay đổi các yếu tố của vốn lưu động. Được lập căn
cứ vào lợi nhuận trước thuế cộng hoặc trừ các khoản điều chỉnh. Bao gồm:
+ Tăng, giảm các khoản phải thu.
+ Tăng, giảm hàng tồn kho.
+ Tăng, giảm các khoản phải trả.
+ Tiền thu từ các khoản khác.
+ Tiền chi cho các khoản khác.
- Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất, kinh doanh: Phản ánh
chênh lệch giữa tổng số tiền thu vào với tổng số tiền chi ra từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh trong kỳ báo cáo.
Phần II: lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư: Phản ánh những chỉ tiêu
liên quan đến luồng tiền tạo ra từ hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Bao gồm:
- Tiền thu hồi các khoản đầu tư vào đơn vị khác.
- Tiền thu từ lãi các khoản đầu tư vào các đơn vị khác.



9
- Tiền thu do bán TSCĐ.
- Tiền mua TSCĐ.
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư: Phản ánh chênh lệch giữa
tổng số tiền thu vào với tổng số chi ra từ hoạt động đầu tư trong kỳ báo cáo.
Phần III: lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính: Phản ánh những chỉ
tiêu liên quan đến luồng tiền từ hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Bao gồm:
- Tiền thu do đi vay.
- Tiền thu do các chủ sở hữu góp vốn.
- Tiền thu từ lãi tiền gửi.
- Tiền đã trả nợ vay.
- Tiền đã hoàn vốn cho các chủ sở hữu.
- Tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư.
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính: Phản ánh chênh lệch giữa
tổng số tiền thu vào với tổng số tiền chi ra từ hoạt động tài chính trong kỳ báo
cáo. Chỉ tiêu này được tính bằng tổng số liệu các chỉ tiêu trên.
Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ: Phản ánh chênh lệch giữa tổng số tiền thu
vào với tổng số tiền chi ra từ hoạt động tài chính trong kỳ báo cáo. Chỉ tiêu này
được tính bằng tổng cộng các chỉ tiêu: Phần I +Phần II + Phần III
Tiền tồn đầu kỳ: Chỉ tiêu này được lập căn cứ vào số dư vốn bằng tiền đầu
kỳ báo cáo, có đối chiếu với chỉ tiêu "Tiền tồn cuối kỳ" trên báo cáo lưu chuyển
tiền tệ kỳ trước và số dư đầu kỳ trên sổ kế toán thu, chi tiền kỳ báo cáo.
Tiền tồn cuối kỳ: Chỉ tiêu này là số tổng cộng của lưu chuyển tiền thuần
trong kỳ và tiền tồn cuối kỳ.

Tiền tồn
cuối kỳ
=


Lưu chuyển tiền thuần
trong kỳ
+

Tiền tồn
đầu kỳ
Chỉ tiêu này phải bằng số dư vốn bằng tiền cuối kỳ trên bảng cân đối kế
toán kỳ báo cáo.
3.2.Phương pháp trực tiếp
Phần I: Lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh:
Tiền thu bán hàng: Thu do bán hàng hoá sản phẩm, dịch vụ trong kỳ.


10
Tiền thu từ các khoản nợ phải thu: Nợ phải thu từ khách hàng, từ các đơn
vị nội bộ, và các khoản phải thu khác, kể cả tạm ứng-Phần thanh toán bằng tiền
trong kỳ.
Tiền thu từ các khoản khác: Các khoản khác liên quan đến hoạt động sản
xuất, kinh doanh trong kỳ báo cáo như: Tiền thu về được bồi thường, được phạt
không thông qua các tài khoản theo dõi nợ phải thu
Tiền đã trả cho người bán: Phần đã trả bằng tiền trong kỳ báo cáo.
Tiền đã trả cho công nhân viên: Căn cứ vào tổng số tiền đã trả công nhân
viên thông qua tài khoản 334 "Phải trả công nhân viên", trong kỳ báo cáo.
Tiền đã nộp thuế và các khoản khác cho Nhà nước: Căn cứ tổng số tiền
đã nộp thuế và các khoản khác cho Nhà nước trong kỳ báo cáo, trừ khoản nộp
khấu hao cơ bản TSCĐ đối với doanh nghiệp Nhà nước.
Tiền đã trả cho các khoản nợ phải trả khác: Phải trả cho các đơn vị nội
bộ, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, nợ dài hạn đến hạn trả,
các khoản ký quỹ, ký cược đến hạn trả và các khoản phải trả khác.
Tiền đã trả cho các khoản khác: Căn cứ vào tổng số tiền đã trả cho các

khoản liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh chưa được phản ánh trong
các chỉ tiêu trên như: Mua hàng trả tiền ngay, các khoản trả ngay bằng tiền
không thông qua các tài khoản theo dõi nợ phải trả.
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất, kinh doanh: Chỉ tiêu này
phản ánh chênh lệch giữa tổng số tiền thu vào với tổng số tiền chi ra từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh trong kỳ báo cáo.
Phần II: Lưu chuyển từ hoạt động đầu tư
Phản ánh những chỉ tiêu liên quan đến luồng tiền tạo ra từ hoạt động đầu
tư của doanh nghiệp.
Tiền thu hồi các khoản đầu tư vào các đơn vị khác: Căn cứ vào tổng số
tiền đã thu về các khoản cho vay, góp vốn liên doanh, trái phiếu đến hạn, bán cổ
phiếu, trái phiếu đã mua của các doanh nghiệp, các đơn vị khác trong kỳ báo
cáo.


11
Tiền thu từ lãi các khoản đầu tư vào đơn vị khác: Căn cứ vào số tiền đã
thu về các khoản lãi do cho vay, góp vốn liên doanh, nắm giữ các cổ phiếu, trái
phiếu của các đơn vị khác trong kỳ báo cáo.
Tiền thu do bán TSCĐ: Căn cứ vào số tiền đã thu do bán, thanh lý TSCĐ
trong kỳ báo cáo.
Tiền đầu tư và các đơn vị khác: Căn cứ vào tổng số tiền đã cho vay, góp
vốn liên doanh, mua cổ phiếu, trái phiếu của các đơn vị khác.
Tiền mua TSCĐ: Căn cứ vào tổng số tiền đã chi ra trong kỳ báo cáo để
mua sắm, xây dựng, thanh lý tài sản cố định.
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư: Phản ánh chênh lệch giữa
tổng số tiền thu vào với tổng số tiền chi ra từ hoạt động đầu tư trong kỳ báo cáo.
Phần III. Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính
Phản ánh những chi tiêu liên quan đến luồng tiền tạo ra từ hoạt động tài
chính của doanh nghiệp.

Tiền thu do liên doanh: Căn cứ vào tổng số tiền đã thu do đi vay các Ngân
hàng, tổ chức tài chính, các đối tượng khác.
Tiền thu do các chủ sở hữu góp vốn: Căn cứ vào tổng số tiền đã thu do
các chủ sở hữu của doanh nghiệp góp vốn dưới các hình thức chuyển tiền hoặc
mua cổ phần của doanh nghiệp bằng tiền.
Tiền thu từ lãi tiền gửi: Căn cứ vào số tiền đã thu về các khoản lãi được
trả do gửi tiền có kỳ hạn, hoặc không có kỳ hạn ở các ngân hàng, tổ chức tài
chính hoặc các đơn vị khác trong kỳ báo cáo.
Tiền đã trả nợ vay: Căn cứ vào tổng số tiền đã trả cho các khoản vay của
các ngân hàng, tổ chức tài chính và các đối tượng khác.
Tiền đã hoàn vốn cho các chủ sở hữu: Căn cứ tổng số tiền đã chi hoàn
vốn cho các chủ sở hữu của doanh nghiệp dưới các hình thức bằng tiền hoặc
mua lại cổ phần của doanh nghiệp bằng tiền.
Tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư: Căn cứ tổng số tiền đã chi trả lãi cho
các bên góp vốn liên doanh, các cổ đông, chủ doanh nghiệp.


12
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính: Phản ánh chênh lệch giữa
tổng số tiền thu vào với tổng số tiền chi ra từ hoạt động tài chính trong kỳ báo
cáo. Chỉ tiêu này là tổng cộng của các chỉ tiêu thuộc phần lưu chuyển tiền từ
hoạt động tài chính.
Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ: Phản ánh chênh lệch giữa tổng số tiền
thu vào với tổng số tiền chi ra từ tất cả các hoạt động trong kỳ báo cáo.
Lưu chuyển tiền
thuần trong kỳ
=
Lưu chuyển tiền từ
hoạt động SXKD
+


Lưu chuyển tiền từ
hoạt động đầu tư
+

Lưu chuyển
tiền từ HĐTC

Tiền tồn đầu kỳ: Căn cứ vào số dư vốn bằng tiền đầu kỳ báo cáo, có đối
chiếu với chỉ tiêu "tiền tồn cuối kỳ" trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ kỳ trước và
số dư đầu kỳ trên sổ kế toán thu, chi tiền kỳ báo cáo.
Tiền tồn cuối kỳ: Chỉ tiêu này bằng với số dư vốn bằng tiền cuối kỳ trên
bảng cân đối kế toán kỳ báo cáo.

Tiền tồn
cuối kỳ

=
Lưu chuyển tiền
thuần trong kỳ

+
Tiền tồn
cuối kỳ

4. Ưu nhược điểm trong từng phương pháp
4.1. Phương pháp gián tiếp:
Ưu điểm: Do xuất phát từ lãi thuần sau đó tiến hành điều chỉnh các khoản
thu, chi không phải bằng tiền nên phương pháp này có ưu điểm nổi bật là cho
biết rõ nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau giữa kết quả lại đạt được trong kỳ với

số tiền lưu chuyển thuần trong kỳ. Ngoài ra còn dễ làm, tốn ít thời gian.
Cho phép người sử dụng đoán được luồng tiền trong kỳ bằng việc bắt đầu
dự đoán lãi thuần sau đó điều chuyển cho các khoản theo dự đoán.
Nhược điểm: Chỉ có biết được lượng lưu chuyển tiền thu tổng hợp trong
kỳ mà không biết được quan hệ đó lượng tiền vào là bao nhiêu, chúng được thu
từ đâu và lượng ra là bao nhiêu, chi cho những việc gì.
4.2. Phương pháp trực tiếp


13
Ưu điểm: Cho biết rõ số lượng tiền được sinh ra từ đâu mục đích dùng
vào việc gì, cho biết tổng số tiền vào, số tiền ra và lượng lưu chuyển tiền thuần.
Những nhà cho vay và chủ hộ rất quan tâm tới những thông tin liên quan đến
vấn đề này.
Nhược điểm: Không lý giải được những lý do dẫn đến sự chênh lệch giữa
lãi và lượng lưu chuyển ở tiền thuần của doanh nghiệp trong kỳ. Chính vì vậy
mà nó không có khả năng cho phép dự đoán được luồng tiền trong tương lai.
Phương pháp này cần nhiều thời gian và chi phí lớn.
Do ưu nhược điểm như vậy nên ở Mỹ hiện nay Hội đồng tiêu chuẩn kế
toán tài chính khuyến khích doanh nghiệp sử dụng phương pháp gián tiếp.Và
trên thực tế hiện nay ở Mỹ có tới 97% doanh nghiệp sử dụng phương pháp gián
tiếp, khoảng 3% doanh nghiệp sử dụng phương pháp trực tiếp.
ở Việt Nam hiện nay không bắt buộc doanh nghiệp phải sử dụng phương
pháp này hay phương pháp khác mà tuỳ theo đặc điểm hoạt động và trình độ kế
toán viên của mình mà các doanh nghiệp có thể vận dụng các phương pháp cho
thích hợp.

















14











Chương II: Thực trạng việc thực hiện chế độ báo cáo lưu chuyển tiền tệ
ở Việt Nam
I. Kế toán Việt Nam và những đòi hỏi mới
Từ những năm đầu của thập kỷ 90 nền kế toán Việt Nam đã có những
thành công đáng kể và nhiều thay đổi rõ nét. Các doanh nghiệp đã thực sự bước
vào cuộc chơi của nền kinh tế thị trường. Sự xuất hiện của các nhà đầu tư nước

ngoài ngày càng nhiều, thị trường chứng khoán đang trong quá trình hình
thành Trước những đòi hỏi mới của nền kinh tế, hệ thống kế toán Việt Nam đã
và đang hoàn thiện để đáp ứng những vấn đề mà thực tiễn đang và sẽ đặt ra.
Tuy nhiên trong nền kinh tế mở và đa dạng đòi hỏi kế toán phải mang một
hình ảnh trung thực về tình hình tài chính của doanh nghiệp góp phần bảo vệ,
bảo toàn vốn, tài sản doanh nghiệp, số liệu kế toán và báo cáo tài chính phải
được trình bày phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế, tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài có thể hiểu, phân tích và so
sánh được các thông tin kinh tế ra các quyết định đầu tư đúng. Do việc cung cấp
thông tin trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết nên các cơ quan quản lý xem
chất lượng thông tin như một sự ưu tiên hàng đầu.
Để đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin phục vụ công tác quản lý kinh tế
tài chính của các doanh nghiệp và các đối tượng có liên quan, Bộ Tài chính ra


15
quyết định số 167/2000 (QĐ-BTC) ban hành về chế độ báo cáo tài chính áp
dụng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế.
Quyết định này áp dụng thống nhất trong cả nước từ ngày 01/01/2001
thay thế cho quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT 01/11/1995. Nội dung của hệ
thống báo cáo tài chính quy định cho các doanh nghiệp bao gồm 4 biểu mẫu báo
cáo:
- Bảng cân đối kế toán Mẫu số 01 - DN
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Mẫu số 02 - DN
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Mẫu số 03 - DN
- Thuyết minh báo cáo tài chính Mẫu số 09 - DN
Tất cả các doanh nghiệp phải lập và gửi báo cáo tài chính theo quy định
của chế độ tức là vào cuối quý, cuối năm tài chính cho các cơ quan quản lý Nhà
nước và cho các doanh nghiệp cấp trên theo quy định.
II. BCLCTT trong các doanh nghiệp ở Việt Nam

1. Tính bắt buộc
Trước đây theo quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 và
hiện nay theo quyết định 167/2000/QĐ - BTC ngày 25/10/2000 thì tất cả các
doanh nghiệp phải lập và gửi báo cáo tài chính theo đúng quyết định của chế độ
này riêng báo cáo lưu chuyển tiền tệ là tạm thời, chưa quy định là báo cáo bắt
buộc phải lập và gửi, nhưng khuyến khích các doanh nghiệp lập và sử dụng báo
cáo lưu chuyển tiền tệ. Trong khi đó trên thế giới báo cáo này là yêu cầu bắt
buộc đã báo cáo doanh nghiệp từ năm 1987 (Mỹ).
Các chuyên gia EU cho biết, mặc dù trong chuẩn mực kế toán quốc tế bắt
buộc phải có báo cáo lưu chuyển tiền tề nhưng một số nước không bắt buộc tất
cả các doanh nghiệp phải lập báo cáo này mà chỉ bắt buộc đối với những doanh
nghiệp có đăng ký niêm yết trên thị trường chứng khoán. Còn đối với các doanh
nghiệp khác việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ chỉ là tự nguyện.
Như vậy báo cáo lưu chuyển tiền tệ không có tính bắt buộc trong hệ
thống báo cáo tài chính nên hiệu lực thực hiện, phạm vi sử dụng báo cáo lưu
chuyển tiền tệ nhỏ.


16
2. Nhận thức về báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong các doanh nghiệp
Hiện nay có thể nói rất nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến báo cáo
lưu chuyển tiền tệ. Điều này có nhiều lý do, nhưng vấn đề chủ yếu là các doanh
nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trong của báo cáo này trong việc cung
cấp thông tin, đặc biệt quan tâm đến phương thức quản lý doanh nghiệp.
Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng nếu thiếu báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì
hệ thống kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh vẫn có thể cung cấp được các
thông tin trung thực, hợp lý. Tuy nhiên người ta chưa thể đánh giá một cách đầy
đủ và toàn diện thực trạng về khả năng sinh ra tiền của doanh nghiệp cũng như
một số vấn đề khác về tài chính của doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp quan niệm, báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng là báo

cáo thu, chi vốn bằng tiền nên cho rằng lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể dựa
trên cơ sở thu, chi tiền mặt và tiền gửi ngân hàng.
Các doanh nghiệp chưa đưa báo cáo lưu chuyển tiền tệ vào hệ thống báo
cáo định kỳ.
III. Quan điểm quốc tế về báo cáo lưu chuyển tiền tệ được áp dụng ở Việt
Nam
1. Chuẩn mực kế toán quốc tế số 7 (IAS 7)
Vấn đề đặt ra trong chuẩn mực này là các thông tin về những thay đổi từ
trước tới nay.
Về tiền mặt và những tài sản tương đương tiền mặt của một doanh nghiệp
cần phải được thể hiện dưới hình thức báo cáo lưu chuyển tiền tệ, phân loại
luồng lưu chuyển tiền tệ trong kỳ báo cáo từ các hoạt động kinh doanh, đầu tư
và tài trợ.
Người sử dụng đòi hỏi có những thông tin này để đưa ra đánh giá về:
- Thay đổi trong tài sản ròng.
- Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
- Khả năng thanh toán và thanh khoản của doanh nghiệp.
- Khả năng ảnh hưởng của doanh nghiệp tới lượng tiền và thời gian lưu
chuyển.


17
- Khả năng tạo nguồn tiền mặt.
- Giá trị hiện tại của các dòng tiền, tiền tệ tương lai của các doanh nghiệp
khác nhau chuẩn mực này được áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp.
Tất cả các doanh nghiệp đều phải trình bày báo cáo lưu chuyển tiền tệ để
báo cáo về dòng tiền lưu chuyển trong kỳ báo cáo theo cách phân loại như sau:
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Hoạt động đầu tư.
+ Hoạt động tài chính.

2. Một số vấn đề cần quan tâm khi xây dựng và hoạt động tổng hợp báo cáo
lưu chuyển tiền tệ ở Việt Nam
2.1. Về nguyên tắc phân loại luồng tiền
Luồng tiền từ hoạt động kinh doanh là các luồng tiền chủ yếu có liên quan
đến các hoạt động tạo ra doanh thu cơ bản của đơn vị (tiền nhận và chi trả cho
việc mua, bán hàng, cung cấp dịch vụ, trả cho người lao động ); lãi vay, cổ tức
đã trả; thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp hoặc được hoàn trả; các khoản tiền
thu, chi từ các hoạt động bất thường (trừ thanh lý, nhượng bán TSCĐ).
Luồng tiền từ hoạt động đầu tư: là các luồng tiền có liên quan đến việc
mua sắm, xây dựng, thanh lý, nhượng bán TSCĐ và tài sản khác không phải
tương đương tiền như: tiền thu, chi về mua, xây dựng, thanh lý, nhượng bán
TSCĐ; thu, chi về mua, bán cổ phiếu, công nợ, góp vốn liên doanh, đầu tư khác;
thu lãi tiền cho vay, lãi tiền gửi, cổ tức
Luồng tiền từ hoạt động tài chính: là các luồng tiền có liên quan đến sự
thay đổi vốn chủ sở hữu và vốn vay của đơn vị như: nhận, trả vốn góp của các
chủ sở hữu; tiền gốc vay ngắn hạn; trả nợ thuê tài chính
2.2. Về các khoản tương đương tiền
Về các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn có khả năng
chuyển đổi nhanh thành tiền, không có rủi ro nhiều trong chuyển đổi thành tiền.
Không phải tất cả các khoản đầu tư ngắn hạn đều được coi là tương đương tiền
mà chỉ những khoản có thời hạn từ 3 tháng trở xuống (tính từ khi đầu tư) và
không được lấy số liệu trên các tài khoản tổng hợp về đầu tư ngắn hạn để lập.


18
2.3. Về phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Đối với các luồng tiền từ hoạt động tài chính và hoạt động đầu tư thì có
một phương pháp lập: Phương pháp trực tiếp. Còn luồng tiền từ hoạt động kinh
doanh có 2 phương pháp lập: Phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp.
Theo phương pháp trực tiếp có 2 cách lập:

Lập theo cách dựa vào các ghi chép chi tiết kế toán thu, chi tiền mặt và
tiền gửi ngân hàng. Cách này thực tế rất khó thực hiện.
Lập bằng cách điều chỉnh doanh thu, sự biến động của các khoản phải thu,
giá vốn hàng bán, sự biến động của các khoản phải trả, hàng tồn kho và các
khoản không phải trả là tiền để xác định luồng tiền vào và luồng tiền ra.
Để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ không chỉ dựa vào các báo cáo tài chính và
các sổ kế toán tổng hợp mà cần phải dựa vào các sổ chi tiết các tài khoản.
Những tài khoản này liên quan đến nhiều luồng tiền thì phải mở chi tiết theo
nhiều luồng tiền, các tài khoản đầu tư phải mở chi tiết theo thời hạn đầu tư
Theo phương pháp gián tiếp: Xuất phát từ lợi nhuận trước thuế, điều
chỉnh các khoản: Dự phòng, khấu hao TSCĐ, các khoản lãi (lỗ) do đầu tư, do
thanh lý, nhượng bán TSCĐ, do chuyển đổi ngoại tệ, lãi tiền vay phải trả
Điều chỉnh các thay đổi vốn lưu động như: Tăng, giảm hàng tồn kho, tăng giảm
các khoản phải thu, phải trả từ hoạt động kinh doanh (trừ thuế thu nhập doanh
nghiệp phải nộp). Sau đó trừ đi các khoản tiền đã chi trả cho các khoản: lãi vay,
cổ tức, thuế thu nhập doanh nghiệp. Cuối cùng cộng hoặc trừ các khoản tiền thu
hoặc chi từ các khoản bất thường, vì nó được tính vào luồng tiền từ hoạt động
kinh doanh.
2.4.Các giao dịch nội bộ tiền và các khoản giao dịch không bằng tiền
Các giao dịch nội bộ giữa các khoản mục chi tiết của tiền như: Tiền mặt,
tiền gửi ngân hàng, Tiền đang chuyển, tiền tạm ứng không phát sinh luồng tiền
trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Các nghiệp vụ về đầu tư vầ tài chính không
trực tiếp sử dụng tiền như: Mua tài sản bằng nhận nợ hoặc thông qua thuê tài
chính, mua doanh nghiệp thông qua phát hành cổ phiếu, chuyển nợ thành vốn
không phát sinh luồng tiền, nên phải loại ra khổi báo cáo lưu chuyển tiền tệ.


19
2.5.Các luồng tiền liên quan đến ngoại tệ
Các luồng tiền liên quan đến ngoại tệ phải quy đổi theo tỷ giá tại thời

điểm phát sinh giao dịch đó. Lãi (lỗ) phát sinh từ việc quy đổi ngoại tệ không
phải là các luồng tiền nhưng chúng lại ảnh hưởng đến tiền và tương đương
tiềnđơn vị đang nắm giữ trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Vì vậy, chúng được
trình bày riêng một khoản mục không thuộc luồng tiền nào. Mục đích là để đối
chiếu tiền và tương đương tiền đầu kỳ và cuối kỳ.
2.6. Lập BCLCTT trong trường hợp đầu tư vào công ty con, công ty liên
kết liên doanh, mua và thanh lý công ty con và các đơn vị khác
Đây là một vấn đề rất mới chưa phổ biến ở Việt Nam, nhất là việc hợp
nhất báo cáo tài chính. Theo sự gợi ý của các chuyên gia Châu Âu, ở Việt Nam
tạm thời chưa đưa vấn đề này vào chuẩn mực BCLCTT. Quy định trong chuẩn
mực kế toán quốc tế trường hợp đầu tư vào công ty liên doanh liên kết hạch toán
theo phương pháp vốn chủ hay phương pháp chi phí. Còn các trường hợp khác
tạm thời chưa đưa vào chuẩn mực này. Do đây là vấn đề mới nên chúng ta
không thể cầu toàn đòi hỏi triệt để đồng bộ ngay được mà phải qua nhiều lần
hoàn thiện mới có thể đáp ứng được những yêu cầu đó.
IV. So sánh hệ thống kế toán Việt Nam (VAS) và các chuẩn mực kế toán
quốc tế (IAS) trong tổng hợp báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Thực tế ở Việt Nam cho thấy hệ thống các chuẩn mực kế toán toàn diện là
rất cần thiết để hoàn thành việc cải cách hệ thống kế toán Việt Nam. Những
chuẩn mực kế toán này vừa phải thống nhất với các chuẩn mực kế toán quốc tế
vừa phải đáp ứng những yêu cầu của Việt Nam.
Trong một số trường hợp VAS bao gồm những điều khoản tương tự hoặc
ít nhất cũng rất gắn với những yêu cầu của IAS. ở đây một trường hợp được đề
cập đến là báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Theo IAS số 7, báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một phần không thể tách rời
trong báo cáo tài chính. Theo VAS, nội bộ các mẫu báo cáo tài chính quy định
trong quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 (trước đây) và đến
nay trong quyết định số 167/2000/QĐ-BTC (25/10/2000) của Bộ Tài chính cũng



20
bao gồm việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ tuy nhiên điều đó chưa phải là bắt
buộc mà chỉ là khuyến khích sử dụng.
Một báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho phép người sử dụng các báo cáo tài
chính đánh giá khả năng của doanh nghiệp tạo ra các luồng tiền tệ và nghiên cứu
của doanh nghiệp về việc sử dụng luồng tiền tệ này.
Báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh do khả năng kinh doanh và các kết
quả hoạt động kinh doanh trên phương diện thu nhập và chi phí có mức độ chủ
quan đáng kể trong việc xác định các khoản thu và chi (như dự phòng các khoản
dồn tích lại ).
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ loại trừ mọi khả năng sử dụng những đánh giá
chủ quan bằng cách thay các khoản thu chi bằng các luồng tiền tệ. Thu, chi là
những khả năng kế toán rất dễ chịu ảnh hưởng của các cách hiểu khác nhau, còn
tiền và các luồng tiền tệ lại là những yếu tố khách quan có thể định lượng được.
Các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với những khó
khăn nghiêm trọng khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Có thể nói không thể lập
một báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo quy định của VAS điều này giải thích tại
sao Bộ Tài chính không quy định việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ là những
nội dung bắt buộc trong VAS.
Qua nghiên cứu cho thấy, có thể lập được một báo cáo lưu chuyển tiền tệ
theo VAS với điều kiện phải có thay đổi nhỏ trong các quyết định.
- Vấn đề quản lý đóng thuế thu nhập doanh nghiệp
Trong phương pháp gián tiếp thu nhập thuần trước thuế được chuyển
thành lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Do quy trình cân
đối bắt đầu từ thu nhập thuần trước thuế thu nhập thì có nghĩa thuế phải được
hạch toán ở đâu đó trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ, song trong mẫu lại không
quy định việc hạch toán nộp thuế. Do đó phải thay đổi một chút về báo cáo lưu
chuyển tiền tệ.
Thuế đã trả phải được hạch toán như là một yếu tố riêng của báo cáo lưu
chuyển tiền tệ ngay sau mục những thay đổi trong vốn lưu động trong sản xuất

kinh doanh (đây là cách hạch toán thuế trong IAS 7).


21
- Phần lãi (lỗ) do đánh giá lại tài sản và chuyển đổi ngoại tệ
Trong VAS và IAS 7 được đánh giá bằng cách ghi tăng giá trị của chúng
trong bảng cân đối kế toán và ghi có khoản dự phòng đánh giá lại trong phần tài
sản của bảng cân đối kế toán. Việc đánh giá lại không được hạch toán trong kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh do vậy không làm ảnh hưởng đến lợi tức trước
thuế. Điều này dẫn tới việc đánh giá lại không thể là một điều chỉnh để làm cân
đối lợi tức trước thuế trong lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy với những thay đổi nhỏ có thể làm cho quy định của Việt Nam
phù hợp với quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế (có thể làm cho VAS và
IAS trùng khớp với nhau).
Yêu cầu đòi hỏi cấp bách hiện nay là việc quy định bắt buộc lập báo cáo
lưu chuyển tiền tệ trong các doanh nghiệp. Điều này sẽ góp phần tăng tính xác
đáng và tính hữu ích của báo cáo tài chính. Đây là điều mà những người sử dụng
báo cáo tài chính đang mong đợi.
Chương III: Điều kiện vận hành báo cáo lưu chuyển tiền tệ
I. Đánh giá chung về báo cáo lưu chuyển tiền tệ
1. Đánh giá cấu trúc của BCLCTT
Cấu trúc BCLCTT theo hệ thống kế toán Việt Nam cũng có các phần
giống với quy định của chuẩn mực quốc tế về kế toán như phân chia quá trình
lưu chuyển tiền theo các hoạt động, xác định tổng lưu chuyển tiền thuần trong
kỳ của doanh nghiệp và chỉ tiêu tiền tồn đầu kỳ, cuối kỳ. Nhưng mỗi phần của
các hoạt động chưa được hiểu một cách rõ ràng, do đó có một số nghiệp vụ
người lập sẽ bị nhầm lẫn hoặc không biết xếp các dòng tiền vào hoạt động nào.
2. Đánh giá về nội dung báo cáo
Nội dung cơ bản của một BCLCTT theo quy định của chế độ kế toán Việt
Nam phù hợp với IAS: Phản ánh dòng tiền thu vào, chi ra theo từng hoạt động

phát sinh trong doanh nghiệp. Có 3 hoạt động cơ bản: hoạt động kinh doanh,
hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính.
Đảm bảo tính cân đối về thu, chi tiền của một báo cáo tài chính.


22
Có một số khái niệm, quan điểm khác với IAS7, nhiều nội dung phản ánh
chưa phù hợp:
- Quan niệm về tiền trong BCLCTT chưa đầy đủ tổng quát.
- Cách dùng từ chưa phù hợp với nội dung phản ánh.
- Các chỉ tiêu phản ánh trong từng nội dung còn thiếu, chồng chéo với
nhau giữa các hoạt động, các khoản thu, chi hộ, các khoản chênh lệch ngoại tệ
3. Đánh giá về phương pháp lập
-Lập BCLCTT theo phương pháp trực tiếp: Chỉ cần căn cứ Sổ chi tiết tài
khoản 111 "Tiền mặt", tài khoản 112 "Tiền gửi ngân hàng", Tài khoản 113
"Tiền đang chuyển", kết hợp với các Sổ chi tiết khác như: nợ phải thu, nợ phải
trả có liên quan để phản ánh số tiền thực thu, thực chi theo từng hoạt động.
Theo phương pháp này thì vấn đề quyết định tính chính xác của các chỉ tiêu
cũng như đảm bảo việc lập báo cáo kịp thời sẽ tuỳ thuộc vào doanh nghiệp trong
việc tổ chức một cách khoa học hợp lý kế toán chi tiết các khoản vốn bằng tiền
Cách lập các chỉ tiêu báo cáo theo phương pháp này đơn giản có thể hiểu được
ngay nội dung phương pháp và định hướng những công việc cần thiết trong việc
lập báo cáo. Với việc ứng dụng các phần mềm tin học trong công tác kế toán thì
việc tập hợp, phân loại dữ kiện và tổng hợp số liệu trong việc lập báo cáo theo
phương pháp này sẽ thực hiện được một cách nhanh chóng, không phức tạp
trong việc xử lý và tổng hợp. Tuy nhiên, phương pháp này không chỉ rõ được lý
do tại sao lượng tiền thuần từ hoạt động doanh nghiệp khác với lãi ròng. Trong
công tác kế toán thủ công nếu doanh nghiệp có quy mô lớn nghiệp vụ nhiều,
khâu xử lý phức tạp, không đáp ứng tính chính xác của báo cáo, không kịp thời
trong việc lập và cung cấp thông tin.

- Lập BCLCTT theo phương pháp gián tiếp: Được lập căn cứ vào lợi tức
trước thuế của doanh nghiệp trong kỳ để điều chỉnh các khoản không trực tiếp
thu, chi tiền nhưng đã ảnh hưởng tới việc tăng giảm lợi tức và các khoản lãi lỗ
ngoài hoạt động kinh doanh đã tính vào lợi tức trước thuế.


23
Theo phương pháp này sẽ thấy được mối quan hệ giữa lợi nhuận trong kỳ và
lượng tiền thuần trong kỳ đó như thế nào. Tuy nhiên, phương pháp này không
nêu cụ thể từng khoản, từng loại tiền từ hoạt động kinh doanh.
Trong hai phương pháp trên, chế độ kế toán Việt Nam cho phép các
doanh nghiệp tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động và khả năng của cán bộ kế toán
mà lựa chọn phương pháp vận dụng cho phù hợp.
II. Điều kiện vận hành BCLCTT
1. Ban hành chế độ bắt buộc chung cho tất cả các doanh nghiệp
Xuất phát từ yêu cầu thực tế khách quan, cũng như ý nghĩa và sự cần thiết
của BCLCTT, cần quy định báo cáo này là báo cáo tài chính bắt buộc cho các
doanh nghiệp. Nếu trước mắt chưa áp dụng cho tất cả các loại hình doanh
nghiệp thì những doanh nghiệp nào dùng vốn vay buộc phải lập báo cáo này.
2.Cần có chính sách hướng dẫn, khuyến khích cụ thể
Bộ Tài chính khi ban hành chế độ mới cần phải có những hướng dẫn cụ
thể về nội dung, phương pháp lập của từng chỉ tiêu, cũng như giải thích cơ sở tại
sao lại tính toán và lập chỉ tiêu đó như hướng dẫn (ví dụ: theo phương pháp gián
tiếp tại sao lại cộng chỉ tiêu khấu hao TSCĐ còn các khoản dự phòng lại trừ đi,
hoặc tại sao nguyên tắc điều chỉnh lợi tức kinh doanh trước những thay đổi vốn
lưu động lại được quy định như vậy ) để người lập và người sử dụng báo cáo
dễ hiểu và dễ vận dụng hơn.
3. Thay đổi thái độ, nhận thức của doanh nghiệp
BCLCTT trong hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp có một vai
trò rất quan trọng. Song hiện nay có thể nói rất ít doanh nghiệp quan tâm đến

BCLCTT, điều này có nhiều lý do nhưng vấn đề chủ yếu là doanh nghiệp chưa
nhận thức được tầm quan trọng của báo cáo này trong việc cung cấp thông tin
nhất là trong phương thức quản lý doanh nghiệp.
Do vậy cần phải đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ kế toán,
ban hành chế độ hướng dẫn cụ thể chi tiết về BCLCTT, nhằm nâng cho các
doanh nghiệp thấy rõ sự cần thiết của việc lập BCLCTT trong cơ chế thị trường
hiện nay ở nước ta.


24
III. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện BCLCTT
1.Những hạn chế
Qua tìm hiểu và phân tích có thể nói rằng báo cáo lưu chuyển tiền tệ là
một trong các báo cáo không thể thiếu được đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên
khi thực hiện chế độ báo cáo lưu chuyển tiền tệ ở Việt Nam chúng ta đã gặp phải
những khó khăn sau:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn quá mới mẻ đối với đội ngũ của những
người làm công tác kế toán nên cần phải có thời gian để tập dượt, làm quen.Do
đó Bộ Tài chính tạm thời chưa quy định mang tính chất bắt buộc đối với việc lập
và nộp báo cáo này nhưng khuyến khích các doanh nghiệp lập và sử dụng trong
nội bộ. Đây là điểm khác so với chuẩn mực kế toán quốc tế: báo cáo lưu chuyển
tiền tệ phải là một bộ phận hợp thành của báo cáo tài chính mà doanh nghiệp
phải có trách nhiệm lập và cung cấp cho các đối tượng sử dụng.
Hiện nay có rất ít doanh nghiệp quân tâm đến báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
điều này còn nhiều lý do nhưng vấn đề chủ yếu là các doanh nghiệp chưa nhận
thức được tầm quan trọng của báo cáo này trong việc cung cấp thông tin cũng
như nhu cầu sử dụng thông tin từ báo cáo này cho quản lý của mình.
Bộ Tài chính chưa có hướng dẫn cụ thể về các chỉ tiêu trên báo cáo lưu
chuyển tiền tệ: Khi đưa báo cáo lưu chuyển tiền tệ vào sử dụng mặc dù Bộ Tài
chính có ban hành những chỉ tiêu hướng dẫn và cách lập nhưng chỉ ở mức độ

đơn giản, chưa có lời giải thích tại sao cần có chỉ tiêu đó,chế độ cũng không đưa
ra các chỉ tiêu phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Chính sự đơn giản và thiếu
sót đó đã che lấp đi nội dung và bản chất thực sự của báo cáo, làm cho việc tìm
hiểu vận dụng càng khó khăn, tốn nhiều thời gian, công sức để trao đổi, bàn luận
trong việc sử dụng báo cáo này. Bên cạnh đó việc kiểm tra thông tin trên báo
cáo này còn gặp nhiều khó khăn.
Vị trí vai trò của báo cáo lưu chuyển tiền tệ chưa tương xứng với các báo
cáo tài chính khác.


25
Doanh nghiệp chưa thấy nhu cầu cần thiết phải lập và sử dụng báo cáo
như một nguồn thông tin cần thiết cho quản lí. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ chưa
trở thành công cụ đắc lực trong việc cung cấp thông tin.
Chưa hình thành một chế độ hướng dẫn hoàn chỉnh để có thể đảm bảo
thực hiện, dễ sử dụng.
Bản thân nội dung cấu thành báo cáo có nhiều điểm thiếu sót, sai lệch,
chưa phù hợp với hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam.
Ví dụ: Chỉ tiêu "Tăng giảm các khoản phải thu" sẽ không thích hợp nếu
phát sinh các khoản phải thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ, về bất động sản, về
tiền cho thuê TSCĐ. Chỉ tiêu "Tăng, giảm hàng tồn kho" sẽ không hợp lý nếu
phát sinh các nghiệp vụ kinh tế như: Nhận quà biếu, nhận viện trợ vì đây là hoạt
động tài chính không tiền mặt, hay nhận lại khoản vốn liên doanh bằng hàng tồn
kho vì đây là hoạt động đầu tư không bằng tiền
2. Quan điểm và phương hướng hoàn thiện
Mục đích của báo cáo tài chính nhằm cung cấp thông tin tài chính cho
nhiều đối tượng sử dụng với nhiều mục đích khác nhau,từ đó đã hình thành một
số quan điểm về soạn thảo và trình bày báo cáo tài chính. Từ việc nghiên cứu kĩ
nội dung, cách lập của báo cáo lưu chuyển tiền tệ, tôi xin đưa ra một số quan
điển và phương hướng để hoàn thiện như sau:

*Tuân thủ pháp luật: Nhà nước luôn luôn quan tâm đến các hoạt động
kinh tế và kế toán thông qua việc ban hành các văn bản pháp quy về tài chính -
kế toán phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Việc xây dựng hệ
thống báo cáo tài chính cần phải dựa trên quan điểm tuân thủ pháp luật nhưng
vẫn đảm bảo tính trung thực và hợp lý của các thông tin.
*Phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế và đặc điểm nền
kinh tế Việt Nam: Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã, đang và
sẽ có những thay đổi lớn lao với xu hướng tự do thương mại. Việt Nam đang
trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới.Kế toán công
cụ quản lý nền kinh tế cũng phải đổi mới, hoà nhập nhằm tạo tiền đề cho sự hoà
nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Việc xây dựng hệ thống

×