Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Luận văn một số giải pháp nhằm tăng cường việc sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ ở các doanh nghiệp việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.79 KB, 33 trang )





Luận văn
Một số giải pháp nhằm tăng cường
việc sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền
tệ ở các doanh nghiệp việt nam trong
giai đoạn hiện nay


2

Lời nói đầu
Quá trình đổi mới sâu sắc cơ chế quản lý kinh tế đòi hỏi nền tài
chính quốc gia nói chung và hệ thống văn bản taì chính nói riêng phải được
tiếp tục đổi mới một cách toàn diện,nhằm tạo ra sự ổn định của môi trường
kinh tế cũng như lành mạnh hoá các quan hệ và các hoạt động tài chính.
Trong cơ chế quản lý mới,tài chính luôn luôn là tổng hoà của các
mối quan hệ kinh tế,tổng thể của các nội dung và giải pháp tài chính,tiền
tệ.Tài chính không chỉ đơn thuần là khai thác các nguồn lực tài chính nhằm
tăng thu nhập, tăng trưởng kinh tế mà còn phải quản lý và sử dụng một
cách có hiệu quả mọi nguồn lực.Điều đó đòi hỏi các hoạt động tài chính
cần phải được quản lý bằng luật pháp, bằng các công cụ và biện pháp quản
lý có hiệu lực.
Với tư cách là công cụ quản lý kinh tế,tài chính,kế toán là một lĩnh
vực gắn liền với hoạt động kinh tế,tài chính,đảm nhiệm hệ thống tổ chức
thông tin có ích cho các quyết định kinh tế.Vì vậy,kế toán có vai trò đặc
biệt quan trọng không chỉ với hoạt động tài chính nhà nước mà còn vô
cùng cần thiết và quan trọng với hạot động tài chính của doanh nghiệp.
Trong thời gian qua,cùng với quá trình phát triển kinh tế,cùng với sự


đổi mới sâu sắc của cơ chế kinh tế,hệ thống kế toán nước ta đã không
ngừng được hoàn thiện và phát triển,góp phần tích cực vào việc tăng cường
và nâng cao chất lượng quản lý tài chính quốc gia,tài chính doanh
nghiệp.Tuy nhiên trong cơ chế mới, hệ thống kế toán này vẫn còn nhiều
tồn tại, nó không còn phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường,của
quá trình hội nhập chung vào nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới


3
nữa. Do đó, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho hệ thống kế toán nước ta trong
giai đoạn hiện nay và sắp tới là phải cải cách triệt để,toàn diện hệ thống kế
toán (kể cả kế toán doanh nghiệp và kế toán nhà nước) sao cho phù hợp
với cơ chế kinh tế trong nước cũng như các chuẩn mực, thông lệ kế toán
của các nước.Trong đó đặc biệt là hệ thống chứng từ kế toán mà trọng tâm
là các Báo các lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT),bởi vì BCLCTT là một
trong những báo cáo tài chính không thể thiếu đối với các doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường, song việc lập BCLCTT lại chưa phải là một
quy định bắt buộc trong hệ thống kế toán Việt Nam.Mặt khác việc thực thi
báo cáo này ở các doanh nghiệp cũng rất hạn chế và chưa thật sự được coi
trọng đúng mức.
Việc đưa ra một giải pháp hữu hiệu nhằm áp dụng triệt để BCLCTT
vào các doanh nghiệp nước ta (kể cả doanh nghiệp quốc doanh và ngoài
quốc doanh) trong giai đoạn hiện nay và sắp tới luôn là đề tài nổi cộp được
các nhà nghiên cứu,các cán bộ quản lý và những người làm công tác kế
toán,những người quan tâm đến kế toán đề cập đến.Do vậy,trong cuốn
chuyên đề này với vốn kiến thức nhỏ bé của mình, em mong muốn được
đóng góp phần sức lực của mình vào công cuộc đổi mới chung của cả nước
bằng việc đưa ra những dẫn chứng về vai trò của BCLCTT và sự cần thiết
phải sử dụng BCLCTT trong các doanh nghiệp.
Cuốn chuyên đề này được trình bày làm 3 phần:

Phần I : Tổng quan về BCLCTT
Phần II : Thực trạng việc lập và sử dụng BCLCTT ở các doanh
nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Phần III : Một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường việc sử


4
dụng BCLCTT ở các doanh nghiệp Việt Nam.

Phần i
tổng quan về báo cáo lưu chuyển tiền tệ
I.Khái niệm và yêu cầu của việc lập “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ”.
1.khái niệm:
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu,các nhà chuyên môn trong lĩnh vực
kế toán cả trong và ngoài nước đã đưa ra rất nhiều các quan điểm khác
nhau về BCLCTT,song tựu chung lại thì tất cả các quan điểm đó đều thống
nhất rằng:
BCLCTT là một trong những hình thức cơ bản của hệ thống báo cáo
tài chính, nó phản ánh các khoản thu và chi tiền trong kỳ kinh doanh của
doanh nghiệp theo từng hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt
động tài chính.
Như vậy BCLCTT nhằm tổng hợp và trình bày cho người sử dụng
một cách tổng quát và toàn diện về sự biến động của luồng tiền trong
doanh nghiệp.Nó cho biết luồng tiền đã được sinh ra bằng cách nào và
doanh nghiệp đã sử dụng chúng trong kỳ báo cáo ra sao. Hơn nữa,
BCLCTT còn cung cấp các thông tin tài chính quan trọng cho việc phân
tích đánh, giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp mà cụ thể hơn là thực
trạng của quá trình lưu chuyển của luồng tièn trong kỳ đã qua và làm cơ sở
để đưa những dự đoán tài chính cho tương lai cũng như đưa ra các quyết
định trong việc điều hành và quản lý doanh nghiệp.

2.Yêu cầu của việc lập BCLCTT.


5
Như trên đã trình bày,BCLCTT là một trong những báo cáo điển
hình của hệ thống báo cáo tài chính vậy nên khi các doanh nghiệp sử dụng
báo cáo này đòi hỏi phải đảm bảo được những yêu cầu cơ bản sau:
_Các chỉ tiêu trong báo cáo phải thống nhất với các chỉ tiêu kế
hoạch về cả nội dung và phương pháp tính toán.
_Báo cáo phải được lập theo đúng mẫu quy định và gửi đến những
nơi nhận báo cáo trong thời hạn quy định.Thông thường thời hạn gửi
báo cáo là phụ thuộc vào loại hình báo cáo và doanh nghiệp lập báo
cáo.
ví dụ: Đối với báo cáo quý (thường được áp dụng cho các DNNN)
+Các doanh nghiệp hoạt động theo phương thức hạch toán độc lập,
hạch toán phụ thuộc tổng công ty và các doanh nghiệp hạch toán
độc lập không nằm trong công tổng công ty,thì thời hạn nộp báo cáo
quý chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày kết thúc quý.
+Các tổng công ty thời hạn gửi báo cáo quý chậm nhất là sau 45
ngày kể từ ngày két thúc quý.
_Đối với báo cáo năm:
+Các doanh nghiệp nhà nước hoạch toán độc lập và hoạch toán phụ
thuộc tổng công ty và các doanh nghiệp haọch toán độc lập không
nằm trong tổng công ty thì thời hạn gửi báo cáo năm chậm nhất là
sau 30 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
+Các tổng công ty thời hạn gửi báo cáo năm chậm nhất là 90 ngày
kể từ ngày kết thúc năm tài chính.


6

+Các doanh nghiệp tư nhân thời hạn gửi báo cáo chậm nhất là 30
ngày kẻ từ ngày kết thúc năm tài chính.
+Các công ty TNHH,công ty cổ phần,doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài và các loại hình hợp tác xã thì thời hạn gửi báo cáo năm
chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
Nơi nhận báo cáo tài chính của các doanh nghiệp là các cơ quan
chức năng có thẩm quyền như: cơ quan tài chính, doanh nghiệp cấp trên,
cơ quan thuế
II. Nội dung và phương pháp lập BCLCTT.
1.Nội dung của BCLCTT.
Hệ thống chế độ kế toán ban hành theo quyết định số 1141 /TC /QĐ
/CĐKT ra ngày 1/11/1995 đã đưa ra quy định chung về mẫu thống nhất
của BCLCTT được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh
vực hoạt động kinh doanh, mọi thành phần kinh tế trong cả nước bao gồm
3 nội dung cơ bản sau:
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ các hoạt động tài chính khác.
a. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như đã biết, các luồng tiền chu chuyển vào_ra doanh nghiệp từ hoạt
động sản xuất kinh doanh chủ yếu là bắt nguồn từ các hoạt động sinh lời cơ
bản của doanh nghiệp,ví dụ như: tiền nhận được từ hoạt động bán hàng,
tiền thu từ hoạt động cung cấp các dịch vụ tư vấn, cho thuê nhãn hiệu bản


7
quyền Do vậy, nhìn chung luồng tiền này chủ yếu là kết quả của các
hoạt động giao dịch gắn liền với việc xác định lãi hoặc lỗ ròng của doanh
nghiệp.Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh phản ánh toàn bộ dòng
tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp.
b. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư phản ánh toàn bộ các
luồng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp.
ví dụ: tiền doanh nghiệp dùng để đầu tư trực tiếp vào nội bộ như đầu tư
mua cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định ;
hoặc tiền doanh nghiệp dùng để đầu tư ra bên ngoài như: góp vốn liên
doanh, đầu tư chứng khoán, cho vay ngắn hạn hay dài hạn Và ứng với
mỗi hoạt động đầu tư trên luôn có những luồng tiền lưu chuyển phản ánh từ
hoạt động đầu tư, nó có thể bao gồm các khoản sau:
_ Các khoản chi trả tiền mua nhà xưởng, máy móc, thiết bị, tài sản
vô hình, các tài sản dài hạn khác liên quan đến các chi phí tăng đã được
vốn hoá và các nhà xưởng máy móc thiết bị tự tạo; các khoản tiền nhận từ
việc bán các nhà xưởng, máy móc thiết bị, tài sản vô hình và các tài sản dài
hạn khác.
_ Trả tiền để mua cổ phần hay các công cụ nợ của các doanh
nghiệp khác và lợi tức trong các liên doanh; tiền thu từ việc bán lại cổ phần
hay các công cụ nợ từ các doanh nghiệp khác và lợi tức trong các liên
doanh.


8
_ Tiền trả cho các hợp đồng trong tương lai, tiền thu từ các hoạt
động trong tương lai, các hợp đồng có kỳ hạn
Như vậy thông qua báo cáo chi tiết về lưu chuyển tiền tệ từ hoạt
động đầu tư, doanh nghiệp cũng như các cơ quan chủ quản có thể nhanh
chóng nắm bắt được tình hình sử dụng vốn tiền tệ dùng cho tất cả các hoạt
động đầu tư từ nội bộ cho đến đầu tư kiếm lợi bên ngoài của doanh nghiệp
trong kỳ kinh doanh,và qua đó giúp cho doanh nghiệp có được những định

hướng phù hợp về đầu tư trong tương lai.
c. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ các hoạt động tài chính khác.
Nếu việc tách biệt các luồng tiền phát sinh từ các hoạt động đầu tư
thể hiện phạm vi mà các chi phí đã được thực hiện cho các nguồn dự định
sẽ tạo ra lợi nhuận và các luồng tiền trong tương lai, thì việc tách biệt các
luồng tiền từ các hoạt động tài chính sẽ rất hữu dụng trong việc dự đoán
các khoản tiền mà những người cung cấp vốn cho doanh nghiệp đòi hỏi
trong các luồng tiền tương lai. Các luồng tiền phát sinh từ các hoạt động tài
chính bao gồm: tiền ròng thu được từ việc phát hành cổ phiếu hay các công
cụ về vốn khác; tiền trả cho các chủ sở hữu để mua hay thanh toán các cổ
phiếu của doanh nghiệp; tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu,
thương phiếu, tín phiếu và các khoản vay ngắn hạn hay dài hạn khác
Để theo dõi chính xác sự di chuyển của các luồng tiền phát sinh từ
hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành lập báo cáo riêng biệt
các loại chính của tổng số tiền thu được cũng như tổng số tiền phải chi phát
sinh từ các hoạt động đầu tư tài chính. Trong doanh nghiệp, ngoài các hoạt
động chính phát sinh từ hoạt động kinh doanh, đầu tư hay tài chính, đôi khi
các luồng tiền phát sinh liên quan đến các khoản mục bất thường, hay
những trường hợp được xem là đặc biệt như các luồng tiền có nguồn gốc từ


9
ngoại tệ, các vấn để phát sinh từ lãi vay và cổ tức, vấn đề góp vốn vào các
xí nghiệp và các hoạt động mua bán cổ phần giữa các xí nghiệp, các cơ sở
kinh doanh khác.Các luồng tiền liên quan đến các khoản mục này được
thuyết trình riêng biệt với các khoản mục phát sinh từ các hoạt động kinh
doanh, hoạt động đầu tư hay hoạt động tài chính trong BCLCTT nhằm giúp
cho người sử dụng có thể hiểu được bản chất và ảnh hưởng của chúng tới
luồng tiền của các doanh nghiệp hiện tại và trong tương lai.
Ngoài ba nội dung bắt buộc phải có có trong mọi BCLCTT trên thì

các doanh nghiệp cũng nên cung cấp thêm những thông tin khác mặc dù
không mang tính chất bắt buộc, chẳng hạn như:việc bổ xung thêm các
thuyết trình về các thông tin này sẽ giúp cho người sử dụng báo cáo tài
chính đánh giá được dễ dàng hơn tình hình tài chính tiền tệ của doanh
nghiệp, cũng như đáp ứng được mục đích cần quan tâm. Hơn nữa qua các
thông tin bổ xung, người sử dụng cũng có thể biết rõ hơn về mối quan hệ
giữa các luồng tiền tổng thể trong doanh nghiệp và các luồng tiền của từng
thành phần cấu thành trong doanh nghiệp.
2. Phương pháp lập BCLCTT.
Theo chế độ kế toán hiện hành,thời điểm lập bảng BCLCTT thường
là cuối ngày của ngày cuối quý và cuối ngày của ngày cuối năm. Tuy nhiên
ngoài thời điểm theo quy định trên doanh nghiệp cũng có thể lập bảng báo
cáo ở những thời điểm khác phục vụ cho yêu cầu quản lý của doanh
nghiệp.Và cũng theo chế độ kế toán này thì BCLCTT sẽ được lập theo 2
phương pháp,đó là: phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp.
Cả hai phương pháp này đều có những những nguyên tắc,những ưu
nhược điểm riêng nên tuỳ theo điều kiện hiện có của mình mà các doanh
nghiệp sẽ tự xác định cho mình một phương pháp phù hợp. Bởi vì việc lựa


10
chọn cho được phương pháp phù hợp không chỉ giúp doanh nghiệp đơn
giản hoá công việc kế toán,giảm thiểu chi phí mà còn giúp cho doanh
nghiệp nắm bắt, đánh giá một cách chính xác những ảnh hưởng của các
nội dung trong BCLCTT đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, cũng
như đánh giá mối liên hệ giữa các nội dung, các hoạt động trong doanh
nghiệp một cách hiệu quả nhất.

a. Phương pháp trực tiếp.
Phương pháp trực tiếp: phương pháp này trình bày chi tiết tổng các

khoản tiền thu và tổng các khoản tiền chi mà doanh nghiệp đã thực hiện
trong kỳ. Dòng tiền mặt của hoạt động kinh doanh thể hiện sự khác nhau
giữa các khoản thu, các khoản chi tiền mặt như là các khoản thu từ bán
hàng, lợi tức nhận được và các khoản chi thanh toán lương, chi phí hàng
hoá dịch vụ mua vào, lãi tiền vay, thuế Phương pháp trực tiếp cung cấp
các thông tin chính xác hơn trong việc dự đoán các luồng tiền trong tương
lai và các thông tin này không thể có được từ phương pháp gián tiếp.
Đối với lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh (I):
A.Tổng thu = (1)+(2)+(3)
Trong đó:
1 Là tiền thu từ hoạt động bán hàng
2 Là tiền thu từ các khoản nợ phải thu
3 Là tiền thu từ các khoản khác
B. Tổng chi =(1)+(2)+(3)+(4)+(5)


11
Trong đó:
1 Là tiền đã trả cho người bán
2 Là tiền đã trả cho công nhân viên
3 Là tiền đã nộp thuế và các khoản khác cho nhà nước
4 Là tiền đã trả cho các khoản nợ khác
5 Là tiền đã trả cho các khoản khác
Đối với lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư (II):
A. Tổng số tiền thu vào từ các hoạt động đầu tư =(1)+(2)+(3)
B. Là tiền thu từ lãi các khoản đầu từ vào đơn vị khác (lợi tức, cổ
tức v.v )
C. Là tiền thu hồi các khoản đầu tư vào đơn vị khác
D. Là tiền thu do bán TSCĐ
B.Tổng số tiền chi ra từ các hoạt động đầu tư =(1)+(2)+(3)

1.Tiền đầu tư vào các đơn vị khác
2.Tiền mua TSCĐ
3. Tiền chi cho hoạt động thanh lý nhượng bán TSCĐ
Đối với lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính khác(III).
A. Tổng số tiền thu từ hoạt động tài chính =(1)+(2)+(3)
1. Tiền thu do đi vay


12
2. Tiền thu do các chủ sở hữu đóng góp
3. Tiền thu từ lãi tiền gửi, thu từ việc phát hành cổ phiếu, thu từ các
khoản vay dài hạn
B. Tổng số tiền chi từ hoạt động tài chính =(1)+(2)+(3)
1. Tiền đã trả nợ vay
2. Tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp
3. Trả nợ thuê tài chính
Tổng lưu chuyển tiền thuần trong kỳ =(I)+(II)+(III).
Hiện nay,các doanh nghiệp Việt Nam được khuyến khích sử dụng
phương pháp lập trực tiếp cho việc báo các các luồng tiền từ hoạt động
kinh doanh. Vì các khoản mục trong báo cáo theo phương pháp trực tiếp
được lập một cách chi tiết rõ ràng hơn so với báo cáo được lập theo
phương pháp gián tiếp, và nó phù hợp với mọi loại hình, quy mô và hình
thức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.
b. Phương pháp gián tiếp.
Phương pháp gián tiếp:điều kiện để doanh nghiệp áp dụng phương
pháp này là dựa trên sự phù hợp giữa lợi nhuận ròng với các dòng tiền mặt
khác của hoạt động kinh doanh. Chẳn hạn như lợi nhuận ròng của doanh
nghiệp trong kỳ kinh doanh phải phù hợp với các thay đổi trong kỳ về hàng
tồn kho,các khoản phải thu, phải trả từ hoạt động kinh doanh và các khoản
mục phaỉ trích bằng tiền khác như:quỹ khấu hao, quỹ dự phòng, khoản

thực hiện do chuyển đổi ngoại tệ, lợi nhuận chưa phân phối, các khoản lợi
tức cổ phần tiếp đó là những ảnh hưởng từ việc điều chỉnh khoản bằng
tiền mặt đối với lợi nhuận ròng được tính toán đến.


13
Đối với luồng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh (I):
A. Lợi nhuận trước thuế
Điều chỉnh cho:
B. Cộng các khoản:
1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ của các tài
khoản phản ánh dự phòng
2. Khấu hao TSCĐ
3. Lỗ do bán TSCĐ
4. Lỗ do đầu tư vào đơn vị khác
5. Lỗ do đánh giá lại tài sản và chuyển đổi tiền tệ
C. Trừ các khoản:
1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn số dư đầu kỳ của các tài
khoản phản ánh dự phòng
2. Thu lãi tiền gửi
3. Lãi do bán TSCĐ
4. Lãi do đầu tư vào đơn vị khác
5. Lãi do đánh giá lại TSCĐ
D. Lợi nhuận kinh doanh trước những thay đổi của vốn lưu động
(=A+B-C)
E. Cộng các khoản sau:


14
1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của các khoản

phải thu
2. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của hàng tồn kho
3. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của các khoản
phải trả
4. Tiền thu từ các khoản khác
F. Trừ các khoản sau:
1. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của các khoản
phải thu
2. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ của hàng tồn kho
3. Chênh lệch giữa số dư cuối kỳ nhỏ hơn đầu kỳ của các khoản
phải trả
4. Tiền chi từ các khoản khác.
G. Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh
(=D+E+F)
Đối với lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư (II):
A. Tổng số tiền thu vào từ hoạt động đầu tư =(1)+(2)+(3)
1. Tiền thu hồi các khoản đầu tư vào đơn vị khác
2. Tiền thu từ lãi các khoản đầu tư vào đơn vị khác (lợi tức, cổ
tức )
3. Tiền thu do bán TSCĐ


15
B. Tổng số tiền chi ra từ hoạt động đầu tư =(1)+(2)+(3)
C. Tiền đầu tư vào các đơn vị khác
1. Tiền mua TSCĐ
2. Tiền chi cho hoạt động thanh lý, nhượng bán TSCĐ
Đới với lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính khác (III):
A. Tổng số tiền thu từ hoạt động tài chính
1. Tiền thu do đi vay

2. Tiền thu do các chủ sở hữu đóng góp
3. Tiền thu từ lãi tiền gửi, thu từ việc phát hành cổ phiếu, thu từ các
khoản vay dài hạn
B. Tổng số tiền chi từ hoạt động tài chính =(1)+(2)+(3)
1. Tiền đã trả nợ vay
2. Tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
3. Trả nợ thuê tài chính

Tổng lưu chuyển tiền thuần trong kỳ =(I) + (II) + (III).
Như vậy, nội dung của một BCLCTT đã phản ánh một cách tổng
quát toàn bộ những vấn đề liên quan về tài chính trong một doanh nghiệp,
đáp ứng được khá nhiều thông tin mà ngay chính bản thân doanh nghiệp
cũng như những người cần quan tâm tới tình hình tài chính của doanh
nghiệp có thể tìm thấy.


16
3. Vai trò của BCLCTT trong nền kinh tế thị trường.
a. Công cụ phân tích vốn bằng tiền.
Vốn là yếu tố cơ bản và tiên quyết để duy trì và phát triển sản xuất,
đồng thời là cơ sở để phân phối lợi nhuận và đánh giá hiệu quả các hoạt
động kinh tế. Vốn tồn tại ở nhiều dạng khác nhau chẳng hạn như: nhà
xưởng,đất đai, bằng phát minh sáng chế nhưng trong đó vốn bằng tiền
đóng vai trò quan trọng hơn cả. Do vậy việc theo dõi và điều tiết quá trình
hình thành và sử dụng lượng vốn bằng tiền trong doanh nghiệp là rất quan
trọng.BCLCTT được lập ra trước hết được sử dụng như một công cụ để
phân tích vốn bằng tiền.
Vốn bằng tiền là một bộ phận tài sản rất quan trọng của doanh
nghiệp. Nó tham gia vào hầu hết các hoạt động của doanh nghiệp. Trong
quá trình sản xuất kinh doanh, vốn bằng tiền được sử dụng để đáp ứng nhu

cầu về thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp hoặc mua sắm vật tư,
hàng hoá đồng thời là kết quả của việc mua bán hoặc thu hồi các khoản nợ.
Qua phân tích tình hình sử dụng vốn bằng tiền, chúng ta có thể biết được
chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Và để tìm hiểu tình hình sử dụng
vốn bằng tiền trong kỳ chúng ta có thể đánh giá tình hình thanh toán với
người bán, thanh toán với người mua, thanh toán với ngân sách, tìm hiểu
các khoản nợ quá han Việc đánh giá các khoản mục liên quan đến các
dòng tiền mặt sẽ giúp cho việc phân tích những gì đã xảy ra liên quan đến
tình hình sử dụng vốn tiền mặt trong kỳ và vấn đề này chỉ có thể được giải
quyết khi doanh nghiệp lập BCLCTT.
Về tổng quát, sự vận động của tiền mặt bao gồm hai mặt: tăng và
giảm hay nói cách khác là thu và chi. BCLCTT cung cấp những con số
phản ánh sự vận động của tiền. Thông tin cơ bản nhất mà chúng ta thu


17
được từ BCLCTT là lượng tiền tăng và giảm trong kỳ. Nhưng điều quan
trọng hơn là thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa các con số, người
quản lý biết được những nguyên nhân, những biến động làm ảnh hưởng đến
tình hình tăng, giảm vốn tiền mặt đó. Thực tế thì sự tăng giảm tiền mặt của
doanh nghiệp có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn như tiền
mặt tăng có thể là kết quả của việc tiêu thụ sản phẩm hay việc thu được
các khoản nợ hoặc cũng có thể là từ việc bán các tài sản cố định Tương
tự như vậy, tiền mặt giảm trong kỳ có thể là do chi mua hàng, chi mua sắm
các tài sản cố định hay trang trải các khoản nợ Mặt khác, việc phân chia
luồng tiền trên BCLCTT theo từng lĩnh vực hoạt động cũng đem lại cho
chúng ta những thông tin hữu ích. Nó cho biết tỷ lệ đóng góp của từng lĩnh
vực hoạt động vào vốn bằng tiền của doanh nghiệp.
Đối với bất cứ doanh nghiệp nào thì việc phân tích chính xác về sự
hình thành và sử dụng vốn bằng tiền cũng rất quan trọng. Người quản lý

cần phải nắm được luồng tiền vào_ ra của doanh nghiệp đã hợp lý hay
chưa để có sự điều chỉnh kịp thời, phù hợp.
Tóm lại, BCLCTT thực sự là một công cụ phân tích tài chính hữu
ích. Nó cung cấp những thông tin quan trọng cho những người quan tâm
đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, người
quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp rất đa dạng. Đó không
chỉ là người quản lý doanh nghiệp, các cơ quan quản lý chức năng mà còn
là những nhà đầu tư, các nhà cung cấp tính dụng, công nhân viên, các kiểm
toán viên độc lập BCLCTT có thể giúp họ có được những quyết định
đúng đắn, hợp lý nhất.
b. BCLCTT là cơ sở để ra các quyết định về tài chính.


18
Báo cáo tài chính nói chung và BCLCTT nói riêng là nguồn thông
tin quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn phục vụ chủ yếu cho
các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như:các cơ quan quản lý nhà nước,
các nhà đầu tư, các nhà cung cấp tín dụng, kiểm toán viên độc lập Do
vậy, việc so sánh báo cáo giữa các doanh nghiệp là rất quan trọng trong
việc đưa ra quyết định đối với các đối tượng sử dụng báo cáo của doanh
nghiệp.
Đối với người quản lý doanh nghiệp, BCLCTT cung cấp những
thông tin quan trọng về việc hình thành và sử dụng lượng tiền trong kỳ báo
cáo, những nguy cơ cũng như triển vọng về mặt tài chính của doanh
nghiệp. Trên cơ sở đó, người quản lý doanh nghiệp phân tích, đánh giá
những tồn tại và phát hiện khả năng tiềm tàng để ra các quyết định quản trị
tài chính doanh nghiệp đúng đắn và có hiệu qủa nhất. Ngoài ra, các nhà
quản lý cũng có thể sử dụng BCLCTT để thông báo cho các nhà đầu tư,
các chủ nợ, các cơ quan nhà nước, công nhân viên biết được tình hình
tài chính của doanh nghiệp mình, qua đó thuyết phục các đối tượng có liên

quan có các quyết định hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
trong tương lai.
Đối với các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước, BCLCTT
cung cấp thông tin cần thiết giúp cho việc thực hiện chức năng quản lý vỹ
mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Chẳng hạn, nhà nước dựa vào
BCLCTT để có những chính sách phù hợp đối với từng doanh nghiệp hoặc
từng khu vực kinh tế như các chương trình tài trợ hay cấp vốn Ngoài ra,
nó còn là nguồn số liệu quan trọng để cơ quan thống kê tính toán các chỉ
tiêu tổng hợp từng ngành, từng địa phương cũng như cả nước, giúp cho các
cơ quan tài chính nhà nước thực hiện việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất
đối với hoạt động của doanh nghiệp.


19
Đối với các nhà đầu tư như:các đối tác tham gia liên doanh, các cổ
đông thì dựa vào BCLCTT của doanh nghiệp để đánh giá khả năng tài
chính của doanh nghiệp để họ đưa ra các quyết định sử dụng vốn đầu tư
hợp lý trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi.
Đối với các nhà cung cấp tín dụng, hàng hoá thì thông tin trên
BCLCTT lại là nguồn số liệu quan trọng để họ phân tích đánh giá khả năng
thanh toán của doanh nghiệp, từ đó họ có quyết định về phương thức cho
vay, phương thức thanh toán hợp lý đối với doanh nghiệp.
Đối với công nhân viên của doanh nghiệp, BCLCTT là cơ sở để họ
đánh giá tính hợp lý của các khoản thu nhập mà họ được hưởng.
Như vậy, BCLCTT là một yếu tố quan trọng đối với doanh nghiệp,
đối với những cá nhân tổ chức có liên quan bởi vì nó cung cấp những thông
tin quan trọng về tình hình và khả năng tài chính của doanh nghiệp, từ đó
mà có được những quyết định đúng đắn. Ngoài ra, việc so sánh BCLCTT
giữa các doanh nghiệp cũng giúp họ có những nhận xét xác đáng về tình
hình hoạt động của các doanh nghiệp để đưa ra các quyết định hợp lý đối

với từng doanh nghiệp.








20







PHầN ii
THựC TRạNG VIệC LậP Và Sử DụNG BCLCTT ở CáC
DOANH NGHIệP VIệT NAM HIệN NAY

I. Sự cần thiết phải lập BCLCTT ở các doanh nghiệp Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
1. Lập BCLCTT sẽ cung cấp được các thông tin về các luồng tiền vào
và ra, tỷ trọng của các luồng tiền này trong các hoạt động sản xuất kinh
doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.
BCLCTT là một trong những báo cáo tài chính không thể thiếu được
đối với các doanh nghiệp ở những nước có nền kịnh tế thị trường đã và
đang phát triển. Thật vậy, khi mà BCĐKT cho biết những nguồn lực tài sản
và nguồn gốc của những tài sản đó và BCKQKD cho biết thu nhập và chi

phí phát sinh để tính được kết qủa lãi, lỗ trong một kỳ thì BCLCTT được
lập để trả lời các vấn đề liên quan đến các luồng tiền vào, ra trong doanh


21
nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời
kỳ.
Mặt khác,BCLCTT cung cấp những thông tin về luồng vào, ra của
tiền và các khoản coi như tiền, những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu
động cao, có thể nhanh chóng và sẵn sàng chuyển đổi thành một khoản tiền
biết trước ít chịu rủi ro lỗ về giá trị do những sự thay đổi về lãi suất. Những
luồng vào_ ra của tiền và các khoản tương đương tiền như ta đã biết được
trong tổng hợp và chia thành 3 nhóm: lưu chuyển tiền từ hoạt động sản
xuất kinh doanh, từ hoạt động đầu tư và từ hoạt động tài chính. Những con
số trên BCLCTT sẽ giúp cho người sử dụng thông tin kế toán của doanh
nghiệp có quyết định đúng đắn, từ đó nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư
từ bên ngoài, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài trong trường hợp doanh
nghiệp có lợi thế về khả năng tài chính hoặc kịp thời có chính sách điều
chỉnh nếu tình hình tài chính của doanh nghiệp không được như mong
muốn.
2. BCLCTT là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp có thể nhận được
các khoản vốn đầu tư từ nước ngoài.
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình phát triển và hội nhập với
nền kinh tế khu vực và thế giới. Vì vậy cùng với công cuộc cải cách hoàn
thiện chung của tất cả các lĩnh vực khác trong nền kinh tế,hệ thống kế toán
ở nước ta cũng đã và đang được cải cách triệt để toàn diện,nhất là hệ thống
chứng từ báo cáo tài chính nhằm đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe
nhất từ phía thị trường. ở những nước có nền kinh tế phát triển thì từ lâu
BCLCTT đã là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc đối với mọi
doanh nghiệp. Do vậy, trong khi hợp tác, liên doanh, liên kết với mước

ngoài thì các doanh nghiệp phải tuân theo sự thoả thuận của hai bên trong
đó hầu hết các chủ đầu tư nước ngoài đều đòi hỏi doanh nghiệp phải lập


22
BCLCTT nhằm phù hợp với quy định của nước họ đồng thời có thể cung
cấp đầy đủ thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp cho tất cả
những cổ đông đã góp vốn đầu ra vào doanh nghiệp.
3. BCLCTT là cơ sở để đánh giá thực trạng khả năng tài chính của
doanh nghiệp.
BCLCTT là một công cụ phân tích vốn bằng tiền rất hữu hiệu hiện
nay. Thông qua các tỷ số tài chính ta có thể thấy tình hình tài chính phụ
thuộc quá nhiều vào thời điểm tính của công việc chuẩn bị báo cáo tài
chính và như vậy có thể có những đánh giá không trung thực về thực trạng
tài chính của doanh nghiệp trong một giai đoạn, một thời kỳ phân tích.
Trong khi đó các tỷ số tiền mặt lại ổn định hơn nhiều vì phần lớn các
khoản mục trên BCLCTT là kết quả của một quá trình được tích luỹ trong
suốt một kỳ báo cáo. Vì vậy, các tỷ số tiền mặt phản ánh tương đối đầy đủ
những gì đã xảy ra ảnh hưởng đến tài khoản “tiền mặt” trong một kỳ phân
tích. Ngoài ra, phân tích tình hình sử dụng vốn bằng tiền còn là một bộ
phận của phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Như vậy có thể nhận thấy rằng những thông tin từ BCLCTT và các
báo cáo tài chính khác giúp người sử dụng phân tích, đánh giá khả năng tạo
ra các luồng tiền trong tương lai, sự biến động tài sản thuần của doanh
nghiệp, khả năng chi trả cổ tức, khả năng thanh toán các khoản nợ cũng
như tình hình lưu chuyển tiền của kỳ tiếp theo. Trên cơ sở đó, dự đoán
được nhu cầu và khả năng tài chính của doanh nghiệp.
4. BCLCTT rút ngắn khoảng cách giữa hệ thống kế toán Việt Nam với
hệ thống kế toán quốc tế.
So với hệ thống kế toán của các nước trên thế giới thì hệ thống kế

toán Việt Nam vẫn là một hệ thống còn rất non trẻ. Do vậy, Việt Nam


23
đang trong quá trình hội nhập với thế giới thì càng cần phải thúc đầy quá
trình cải cách hệ thống kế toán diễn ra một các mạnh mẽ hơn nữa.
BCLCTT có thể được coi là một trong những công cụ làm cầu nối trung
gian cho sự hoà nhập này. Hiện nay, không chỉ các nước có nền kinh tế
phát triển mà ngay cả các nước trong khu vực cũng đã có quy đinh bắt
buộc về việc lập BCLCTT trong hệ thống báo cáo kế toán. Do đó, lập
BCLCTT là một hình thức phù hợp để Việt Nam rút ngắn thời gian và
khoản cách hội nhập với thế giới. Thông qua các chương trình, dự án đầu
tư vào nước mình, Việt Nam có thể ngày càng hoàn thiện hệ thống kết toán
của mình để phù hợp với xu thế của thời đại và BCLCTT là một yếu tố
không thể thiếu được trong sự phát triển này.
II.Thực trạng việc lập BCLCTT hiện nay ở Việt Nam.
BCLCTT với chức năng cung cấp thông tin về các vấn đề liên quan
đến các luồng tiền vào_ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ đầu tư bằng
tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ đã trở thành một trong các báo
cáo quan trọng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực. Tiền và các
khoản có thể chuyển hoá ngay thành tiền có liên quan đến khả năng thanh
toán của doanh nghiệp và nhiều hoạt động khác, ví dụ: Nếu lượng tiền mặt
trong doanh nghiệp quá lớn sẽ làm vốn doanh nghiệp bị tồn đọng không
thúc đẩy quá trình quay vòng vốn làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh
bị trì trệ,nhưng nếu doanh nghiệp duy trì lượng tiền tồn quá nhỏ sẽ làm
doanh nghiệp bị hạn chế trong thanh toán và không nắm được các cơ hội
đầu tư trong điều kiện cạnh tranh. Bởi vậy, việc lập ra một báo cáo kế toán
theo dõi,kiểm soát tình hình sử dụng vốn bằng tiền của doanh nghiệp là
điều rất cần thiết.



24
Hiện nay, một số công ty lớn của Việt Nam đã nhận thức được tầm
quan trọng của BCLCTT nhưng do những nguyên nhân khách quan và chủ
quan khác nhau nên việc đưa BCLCTT vào sử dụng vẫn chưa được phổ
biến một cách rộng rãi. Phần lớn các công ty lập BCLCTT đều là công ty
100% vốn nước ngoài hoặc công ty liên doanh có sự tham gia góp vốn của
nước ngoài. Còn các doanh nghiệp trong nước chủ yếu chú trọng vào các
báo cáo bắt buộc như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh.
Họ cũng có sự lưu tâm đến vốn bằng tiền nhưng chỉ lấy thông tin từ các
khoản mục về tiền trong bảng cân đối kế toán chứ không tiến hành lập
riêng một báo cáo kế toán chuyên dùng theo dõi sự di chuyển ra_vào của
luồng tiền. Ta có thể thấy rõ sự quan tâm này là chưa đúng mức vì bảng
cân đối kế toán chỉ cung cấp những thông tin từ các khoản mục về lượng
tiền và một số tỷ suất về khả năng thanh toán mà không cho biết các luồng
tiền vào ra từ hoạt động nào, do đâu mà có. Nhìn vào BCLCTT, các nhà
quản trị có thể thấy được những chi tiết bất hợp lý cũng như những hoạt
động mang lại hiệu quả lớn cho doanh nghiệp.
Có thể thấy, BCLCTT không có nhiều ý nghĩa trong việc cung cấp
thông tin về sản xuất kinh doanh nhưng lại mang lại những chỉ dẫn rất cần
thiết cho các hoạt động liên quan đến vốn tiền tệ trong tương lai. Nói cách
khác, BCLCTT là sự nhìn nhận lại những hoạt động cũ để hướng tới hoạt
động tương lai một cách hiệu quả. Việt Nam mới bước vào nền kinh tế thị
trường, sự sinh sau đẻ muộn này bên cạnh việc đem lại cho chúng ta một
số thuận lợi, tránh được các thất bại và rút được nhiều kinh nghiệm từ các
nước đi trước nhưng cũng không tránh khỏi sự non kém trong công tác
quản lý và phân tích kinh doanh mà BCLCTT là một ví dụ.
Trong nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao, các mối quan
hệ và các hoạt động kinh tế trở nên phức tạp, việc lập BCLCTT để phân



25
tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mang lại những hiệu quả rất lớn
cho các hoạt động tương lai. Với tác dụng to lớn của BCLCTT, một câu
hỏi đặt ra là tại sao các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều không lập
BCLCTT ? .Cho đến nay đã có rất nhiều lý do được ra để giải thích cho
câu hỏi này có thể là chưa thoả đáng nhưng nó cũng góp phần để từ đó đưa
ra một số phương hướng nhằm đưa BCLCTT áp dụng rộng rãi trong các
doanh nghiệp Việt Nam với mục đích phát huy những mặt tích cực của
BCLCTT từ đó thúc đẩy sự phát triển làm cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung, tạo điều kiện
cho Việt Nam hội nhập vói thế giới về chế độ tài chính và các hoạt động
hợp tác về kinh tế.
ở tầm vĩ mô, có thể nói tới nguyên nhân mang tính chất chi phối, đó
là sự non trẻ của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Bước vào nền kinh tế
thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam có rất ít kinh nghiệm hoạt động
trong môi trường mới. Tính thụ động, thiếu nhạy bén do ảnh hưởng của
điều kiện cũ cộng với việc không đưa việc lập BCLCTT thành việc làm có
tính chất bắt buộc đã trở thành nguyên nhân tất yếu của việc không thấy rõ
lợi ích do BCLCTT mang lại. Và như vậy, một mặt các doanh nghiệp Việt
Nam không tìm thấy mối lợi của việc lập BCLCTT, mặt khác, BCLCTT
đòi hỏi trình độ nhân viên cao; có thể thấy, dựa trên sự nhìn nhận của các
doanh nghiệp Việt Nam, phải thuê thêm nhân viên để lập một bảng báo cáo
không cần thiết là việc bất hợp lý. Vì thế, việc không lập BCLCTT ở phẩn
lớn các doanh nghiệp Việt Nam là điều dễ hiểu. Trên thực tế, với những
hiều biết còn nhiều hạn chế về nền kinh tế thị trường và sự thiếu kinh
nghiệm trong hoạt động kinh tế, các nhà quản trị Việt Nam chỉ ra những
quyết đinh dựa trên các báo cáo cơ bản bắt buộc và tiến hành chỉ đạo một
cách cảm tính mà ít tiến hành phân tích tình hình tài chính. Phần lớn cách

×