Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.59 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ HUỆ
CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG
THƠ Ý NHI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN – 2012
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ HUỆ
CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG
THƠ Ý NHI
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HẠNH
NGHỆ AN - 2012
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Cấu trúc của luận văn 11
Chương 1. CƠ SỞ CHO SỰ HÌNH THÀNH CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ Ý NHI


12
1.1. Giới thuyết khái niệm cái tôi trữ tình 12
1.2. Cơ sở cho sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi 14
1.2.1. Hoàn cảnh xã hội 14
1.2.1.1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 15
1.2.1.2. Những năm tháng đổi mới sau chiến tranh 18
1.2.2. Cuộc sống và phẩm chất cá nhân 22
1.2.2.1. Đời sống cá nhân 22
1.2.2.2. Phẩm chất cá nhân 24
1.3. Quan điểm thơ 26
Chương 2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ Ý NHI
33
2.1. Cái tôi trữ tình công dân 34
2.1.1. Những trăn trở suy tư gắn với vận mệnh nhân dân, đất nước 34
2.1.2. Hạnh phúc, hân hoan trước những niềm vui của đất nước 38
2.1.3. Tình cảm da diết với những miền đất đã đi qua 40
2.1.4. Tiếng nói đấu tranh vì công bằng, lẽ phải 42
2.2. Cái tôi trữ tình đời tư thế sự, đời tư 46
2.2.1. Cái tôi cô đơn 47
2.2.2. Cái tôi chiêm nghiệm, suy tư về cuộc sống 56
2.2.3. Những chiêm nghiệm vế tình yêu, hạnh phúc 67
Chương 3. PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ Ý NHI
75
3.1. Thể thơ 75
3.1.1. Thơ tự do 76
3.1.2. Thơ năm chữ 80
3.2. Giọng điệu thơ 85
3.2.1. Giọng trăn trở, suy tư trầm lắng 85

3.2.2. Giọng điệu trữ tình triết lí 89
3.3. Nghệ thuật tổ chức lời thơ 92
3.3.1. Sử dụng ngôn ngữ gần gũi với đời sống 93
3.3.2. Linh hoạt, biến hóa trong kiến trúc câu thơ 97
3
3.3.3. Một số biện pháp tu từ nổi bật 10
1
3.3.3.1. So sánh 10
1
3.3.3.2. Ẩn dụ 10
3
3.3.3.3. Tương phản, đối lập 10
6
KẾT LUẬN 10
9
TÀI LIỆU THAM KHẢO 11
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ trữ tình là sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của nhà thơ.
Những cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ của nhà thơ trong thế giới nghệ thuật chính
là những biểu hiện của cái tôi và các nguyên tắc thể hiện của nó. Cái tôi trữ
tình là hình tượng trung tâm trong thơ trữ tình. Nhìn từ góc độ phản ánh luận
thì cái tôi lại chính là đối tượng phản ánh của nhà thơ, là kết quả của sự miêu
tả, tự đánh giá, tự ý thức của chính nhà thơ. Đi vào nghệ thuật, cái tôi trữ tình
4
cũng đóng vai trò sáng tạo, tổ chức các phương tiện nghệ thuật và là tiền đề
tạo ra sự độc đáo, riêng biệt cho thơ mỗi nhà thơ nói riêng cũng như thơ trữ
tình nói chung. Vì vậy việc tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ là một cách đánh
giá sáng tạo thơ ca từ góc độ thi pháp.

1.2. Ý Nhi là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ. Bà viết từ khá sớm, viết nhiều. Bên cạnh những nhà thơ cùng thời như
Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn,… Ý Nhi được xem là
gương mặt tiêu biểu với một giọng điệu mới lạ. Ngay từ những sáng tác đầu
tiên, Ý Nhi đã cho thấy một bản lĩnh thơ luôn hướng tới những chân trời mới
của thi ca đương đại. Ý Nhi từng được nhận Giải khuyến khích cuộc thi thơ
của tuần báo Văn nghệ 1969. Đặc biệt với sự xuất hiện của tập thơ Người đàn
bà ngồi đan (năm 1985), Ý Nhi được trao Giải thưởng loại A của Hội Nhà
văn Việt Nam. Tập thơ ghi nhận những cố gắng đổi mới thơ Việt Nam hiện
đại của Ý Nhi. Một số nhà thơ, nhà phê bình coi sự xuất hiện của tập thơ như
là một nét chấm phá của thơ hiện đại. Bởi lần đầu tiên trong hợp xướng ngợi
ca của thơ có “một giọng nói trầm lặng và hướng đến một đối tượng trữ tình
không phải là đối tượng của dàn hợp xướng ấy” (Hoàng Đạt). Sau đó hàng
loạt các tác phẩm mới ra đời Ngày thường (1987), Mưa tuyết (1991), Gương
mặt (1991), Vườn (1998), Thơ tuyển (2000), Những gương mặt – Những câu
thơ (2008),… đã tạo được sự thu hút rất nhiều từ các học giả đến các nhà lí
luận, phê bình, nhà văn, nhà thơ trong đời sống nghệ thuật đương đại. Và đặc
biệt với sự xuất hiện của tập thơ mới nhất gần đây Ý Nhi tuyển tập (2010), Ý
Nhi đã ghi lại những nỗ lực cách tân trên các phương diện sác tác của mình
hết sức mạnh mẽ. Vì thế, một lần nữa Ý Nhi đã khẳng định được vị trí của
mình trên thi đàn thơ ca đương đại.
1.3. Trải qua nhiều chặng đường sáng tác, cái tôi trữ tình trong thơ Ý
Nhi biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu cái tôi trữ tình Ý Nhi.
5
Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Cái tôi trữ tình trong thơ
Ý Nhi với hy vọng góp phần nhận diện thơ Ý Nhi một cách hệ thống, sâu sắc
và bao quát hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Ý Nhi là một trong những nhà thơ nữ có vị trí đặc biệt trong thời kỳ

kháng chiến chống Mỹ. Ngay từ khi mới xuất hiện, thơ Ý Nhi đã thu hút sự
chú ý, quan tâm của giới nghiên cứu phê bình và đông đảo những người yêu
thơ. Nhiều công trình, bài viết dưới dạng này đã đề cập đến nhiều vấn đề
trong thơ Ý Nhi.
Trong công trình nghiên cứu Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại,
khi nói về thơ ca chống Mỹ, Hà Minh Đức, đã đánh giá cao tài năng, cá tính
sáng tạo của đội ngũ những nhà thơ trẻ, trong đó có Ý Nhi. Ông viết, “Rồi
đây khi cuộc chiến tranh kết thúc họ sẽ là lực lượng chủ đạo trên thi đàn trong
những thập kỷ cuối của thế kỷ 20. Những nhà thơ chiến sĩ như Nguyễn Duy,
Thu Bồn, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật… những tác giả nữ như Ý Nhi, Xuân
Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng đã có những đóng góp quan trong trong thơ
thời kỳ đổi mới” [15, 119]. Dù không viện dẫn, lí giải dài dòng nhưng những
gì Hà Minh Đức đánh giá đã phần nào cho người đọc thấy được vị trí, vai trò
của Ý Nhi trong hành trình thơ ca Việt Nam hiện đại. Năm 1969, Ý Nhi được
giải thưởng khuyến khích cuộc thi thơ của tuần báo Văn Nghệ, đánh dấu con
đường thơ của chị. Mười lăm năm sau, năm 1985, tập thơ Người đàn bà ngồi
đan của Ý Nhi ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong đời thơ của
chị. Tập thơ được trao Giải thưởng loại A của Hội Nhà văn Việt Nam, ghi
nhận những cố gắng đổi mới thơ Việt của chị. Bởi từ đây, trong thơ ca lần đầu
tiên “xuất hiện một giọng nói hết sức trầm tĩnh”, một phong cách mới lạ và
đầy sáng tạo trong thơ ca. Nhiều các công trình, bài viết nghiên cứu của các
nhà nghiên cứu, phê bình văn học chuyên và không chuyên về thơ Ý Nhi đã
lần lượt xuất hiện. Trong đó, tiêu biểu là Chu Văn Sơn, Nguyễn Thị Minh
Thái, Thúy Nga, Nguyễn Nhã Tiên, Lưu Khánh Thơ, Hà Ánh Minh, Nguyễn
Hoàng Sơn, Anh Ngọc… Phần lớn qua các bài viết đều đánh giá cao thơ Ý
6
Nhi đồng thời qua đó cũng khẳng định được sự đóng góp của Ý Nhi với sự
phát triển của nền thơ ca Việt Nam. Chu Văn Sơn trong bài viết Thơ của tâm
hồn xao xác giữa ngày yên, đăng trên báo Văn nghệ số 36 ngày 5 tháng 9 năm
1987, đã cho rằng, “Xét về toàn vẹn của việc khắc họa hình tượng nhân vật,

thỉ phải nói là các nhân vật của Ý Nhi chưa thật sự nổi lắm. Nhưng họ đều
hiện lên như một chân dung đa diện, đa lẳng lặng sống, lẳng lặng làm việc với
một nỗi lòng phức hợp” [61]. Ông đã chỉ ra cái tôi trong thơ Ý Nhi hết sức
thầm lặng và đa diện phức hợp và gọi tên tâm trạng đặc thù của cái tôi Ý Nhi
là “nỗi niềm không xác thực, một phức hợp những sắc thái đối cực của một
trạng thái nội tâm” [61]. Theo Chu Văn Sơn, “cái phức hợp ta bắt gặp ở cái
tôi Ý Nhi không phải là một cái gì ngẫu nhiên, tự phát mà nó là kết tinh của
quá trình nhận thức về cuộc sống lẫn quan niệm nghệ thuật về con người”
[61]. Từ đó, ông chỉ ra một trong những thao tác nghệ thuật thành công trong
thơ Ý Nhi là “phân tích nội tâm với mọi đối cực” [61] nghịch lý trong cuộc
sống thể hiện trong thơ. Chính vì lẽ đó “đọc thơ Ý Nhi, càng trở lại đây người
đọc càng mừng vì thấy chị càng tự tin hơn trên con đường riêng của mình.
Bằng một nội tâm mạnh mẽ, chị đã đồng hóa được thế giới bên ngoài để làm
thành một cái tôi dồi dào phong phú, một cái tôi lúc nào cũng xáo động như
“cây trước thềm xao xác giữa ngày yên” để làm một trữ lượng thi liệu sáng
tác lâu dài của chị” [61]. Trong bài viết của mình, Chu Văn Sơn còn chỉ ra
một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong thơ Ý Nhi đó là “tăng
cường chất nghĩ” [60] cho thơ. Đặc biệt “những tư tưởng, ngẫm nghĩ, suy tư
đã được tâm trạng hóa… để trở thành cái tôi, sống trong cái tôi. Chất nghĩ
trong thơ sống nhờ vào chất hữu cơ của tâm trạng” [61]. Mặt khác, để thể
hiện cái tôi hơn nữa, cảnh vật thường được “biểu tượng hóa để trở thành một
biểu tượng nào đó của cảnh quan nội tâm nhà thơ” [61] Năm 1992, trong
bài Sự giải tỏa bằng thơ, Chu Văn Sơn đã cho rằng, tập thơ Ngày thường của
Ý Nhi thêm một lần làm sáng danh cho định nghĩa “Thơ trước hết đó là sự
giải tỏa tâm trạng” [63] và “chất thơ của tâm trạng các cá nhân có lẻ là đối
tượng chị đang hướng tới” hay nói theo Ý Nhi “chị đang gắng hình dung ra
7
khuôn mặt tinh thần” của các cá nhân trong cộng đồng chúng ta. Và những
chân dung trong tác phẩm mà nhà thơ hình dung ra đó tất cả đều là bức “tự
họa” của cái tôi tác giả vẽ ra. Nhà phê bình còn chỉ thao tác chủ công của

Ngày thường là “phân tích nội tâm với mọi đối cực, đối lập quyết liệt của nó
rồi trình bày chúng như những nghịch lý bằng những câu, chữ, ý, hình đã
được tôi kỹ trong suy tư, đến nỗi chúng ta đanh chắc, rắn sắc như văn xuôi,
như chính luận” [63] với “giọng triết luận tâm tình khá riết róng” [63]. Nếu ở
tập trước, Ý Nhi đã phổ tâm trạng của mình vào cảnh vật thì ở giờ đây với tập
Ngày thường, tác giả đã chọn một lối thơ khác là “phổ cái tôi của mình vào
nhân vật, ngay cả những nhân vật vốn có, những số phận xác định” [63]. Và
“tạo hình không còn là nhiệm vụ của toàn bài. Nhiệm vụ đó “khoán” cho ít
câu, ít đoạn với kỹ thuật ký họa nhanh, gắng chớp lấy những khoảnh khắc
xuất thần trong hình thể nhân vật” [63]. Ý Nhi từng phổ tâm trạng của mình
vào cảnh vật thì ở giờ đây với tập Ngày thường, tác giả đã chọn một lối thơ
khác là “phổ cái tôi của mình vào nhân vật, ngay cả những nhân vật vốn có,
những số phận xác định. Tiếp đó, trong bài Đến với từng bông tuyết được
đăng trên tạp chí Tác phẩm mới, Chu Văn Sơn nhận định trong các tập thơ
Mưa tuyết và Gương mặt, thơ Ý Nhi là hành trình đang tìm đến với “những
bông tuyết nhẹ nhàng, tinh trong, buốt giá” và đến với “sự trầm tĩnh, chất thơ
của sự trầm tĩnh” và thấy “thoang thoáng một khí vị thiền" [62]. Trong bài
viết Thơ Ý Nhi - lời nguyện cho nỗi yên hàn (năm 2005) Chu Văn Sơn đã thể
hiện những cảm nhận hết sức tinh tế và sâu sắc về thơ Ý Nhi cả về phương
diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Theo ông, sự dày vò đeo đẳng Ý Nhi
suốt mấy chục năm qua trên mọi chặng đường thơ là một “nỗi khát yên bình”.
Từ đó, ông cho rằng, “Cái Tôi Ý Nhi có một diện mạo riêng là kẻ khát Yên
bình. Sống, đối với cái tôi ấy là lên đường tìm kiếm sự yên bình” [64]. Và
“Hành trình của Cái Tôi là gắng bỏ miền khắc nghiệt để đến với chốn yên
bình” [64]. Vì vậy, nhà thơ luôn “yêu những phút giây yên ắng, trong lành dị
ứng với những ồn ào, giả trá. Gắng chịu đựng và vượt qua những nắng nôi,
bỏng sôi, giông gió để đến với những cảnh giới u tĩnh, thanh nhàn” [64]. Theo
8
hướng cảm nhận đó, tác giả đã phát hiện thế giới trong thơ Ý Nhi phân ra
thành hai cực rõ rệt “miền yên bình” và “miền khắc nghiệt”. Nghiên cứu về

hình thức nghệ thuật thơ Ý Nhi, Chu Văn Sơn thường chú ý đến giọng thơ, lời
thơ và hình tượng thơ. Thơ Ý Nhi “Từ bỏ sự giãi bày nặng chất duy cảm buổi
đầu, chị bước nhanh tới những lời thơ tiết chế nặng chất suy tư. Thế là, chất
nhạc tràn ra khiến cho thơ muốn cất thành lời hát giờ đã dần dần chìm vào để
biến thành lời nguyện” [64]. Chẳng hạn, trong tập thơ Nỗi nhớ con đường và
Đến với dòng sông tác giả cho rằng “dòng tâm tình nghiêng về cảm xúc trực
quan, giàu tính mô tả vốn là chủ lưu… cứ chuyển dần thành dòng tâm tư, mà
trong đó lời phân tích của một lý tính sắc sảo cứ chiếm dần ưu thế” [64] và
đặc biệt, trong tập thơ Người đàn bà ngồi đan tác giả còn cho rằng “nét trực
quan cảm tính và lời phân tích lý tính đã đạt tới sự hài hòa” [64]. Chính vì thế,
cả lời thơ, thế giới hình tượng trong tập thơ hòa điệu trong một “chất giọng
đặc thù của Ý Nhi: điềm tĩnh mà chua xót… Nhẹ nhàng, tinh trong mà buốt
giá…” [64]. Ngoài ra, Chu Văn Sơn còn chỉ ra thao tác nghệ thuật chi phối
thơ Ý Nhi đó là “tượng trưng hóa” để trở thành biểu tượng trong thơ Ý Nhi và
chính “khuynh hướng tượng trưng đã khiến thơ chị có độ nén hơn, nhiều dư
vang hơn” [64].
Khi thơ đào sâu đến tận cùng diện mạo của cái tôi, của cái riêng, cái cá
nhân, bao giờ người ta cũng bắt gặp chủ đề tình yêu. Tình yêu cũng là một
chủ đề quan trọng trong thơ Ý Nhi. Nguyễn Thị Minh Thái trong bài Thơ tình
Thành phố Hồ Chí Minh, đã nhận định “Ý Nhi có một lối thơ tình kín đáo,
dịu dàng và đắm đuối như hoa quỳnh hiếm hoi, nở muộn, chỉ nở một lần,
thơm một lần vào thời khắc ngắn ngủi vào giữa đêm” [71]. Và khi nhận xét về
nghệ thuật thơ Ý Nhi, tác giả nhận xét, “Nếu có một thi pháp trong thơ Ý Nhi
thì có thể gọi là gián cách” [71]. Nhà thơ Hoàng Hưng trong bài viết Thơ Ý
Nhi cũng đồng quan điểm trên khi bàn về thi pháp thơ Ý Nhi. Ông viết, “thơ
Ý Nhi là một trữ tình gián cách, những ký ức đã tinh lọc, không ít bài thơ của
chị vững trãi trên một cấu tứ khúc chiết, để bật ra bất ngờ ở cuối kết một
chiêm nghiệm” [24]. Trong bài viết Thơ tình của một đời người (năm 1999),
9
Thúy Nga đã phát hiện tình yêu và nỗi buồn trong tập thơ Vườn mang một

tình yêu của buổi xế chiều nhưng “tình yêu đó lại đậm đặc, đậm đặc hơn tình
yêu của những ngày trẻ” [38] và “một nỗi buồn không gào thét, không đau
đớn vật vả, không gọi tên được, cứ âm ỉ ở trong lòng, cứ trong ngần những
giọt nước mắt lặng lẽ” và ngay khi nói về niềm vui, Ý Nhi cũng nói bằng
những “lời buồn”. Đối với chị, dường như không có niềm vui nào trọn vẹn,
không có nỗi buồn nào trọn vẹn. Niềm vui đến thì nỗi buồn đang chờ đợi. Tập
thơ Vườn là một trong những tập thơ của Ý Nhi được các nhà nghiên cứu
quan tâm, bên cạnh bài viết của Thúy Nga còn có những bài viết của các tác
giả khác như Lưu Khánh Thơ, Việt Hà, N.T.K.C,… tất cả đều đánh giá cao
tập thơ này. Lưu Khánh Thơ trong bài viết Nỗi khắc khoải từ miền ký ức,
đăng trên báo văn nghệ ngày 19/8/2000, tác giả cho rằng, “Vườn” bộc lộ
nhiều khoảnh khắc của tâm trạng – tâm trạng được dồn nén bởi suy tư và cảm
xúc” [74]. Và theo chị, thành công của thơ Ý Nhi là “gia tăng chất nghĩ cho
thơ”, nhịp thơ chính là “nhịp điệu của tâm trạng” được biểu hiện qua thứ ngôn
ngữ “chắt lọc, giàu suy tưởng và hết sức kiệm lời” [74]. Trong bài viết Vườn
của Ý Nhi – xúc cảm về cuộc sống và tình yêu”, Việt Hà cảm nhận biểu hiện
về tình yêu Vườn là sự “dịu dàng, đằm thắm và đầy nữ tính” [74]. Đó không
phải là một thứ tình cảm “ngòn ngọt” hay nồng nàn của cảm xúc, mà là một
tình yêu đằm thắm mang vẻ đẹp trí tuệ, cảm xúc vọng tới từ sâu thẳm của nội
tâm. Hà Ánh Minh trong bài viết Mạch đập thơ Ý Nhi dòng ưu tư chảy xiết
(năm 2001) được đăng trên tạp chí Nha Trang (số 72 tháng 9), đã cho rằng,
“Thơ Ý Nhi có dung lượng lớn, là những nỗi niềm tâm sự, là tấm phiên bản
trung thành của nhà thơ” và nó như “một dòng chảy nham thạch cuộc tròn đỏ
dưới ánh nắng chiều. Ý Nhi không những viết bằng ngôn ngữ của cảm xúc mà
chủ yếu bắng ngôn ngữ của trí tuệ” sức bút có được là nhờ vào “sự suy cảm
nội tâm mạnh mẽ” [36]. Năm 2002, trong bài viết Mạch thơ Ý Nhi: Lửa từ
trái tim trần run rẩy…, đăng trên báo Văn hóa (số 126/21 – 10), Hà Ánh
Minh lý giải sự thành công của thơ Ý Nhi là ở “lối tư duy khúc chiết, mạch
lạc, biết mình nói gì và biết cách làm cho sự việc từ chỗ mơ hồ, rối rắm trên
10

nên giản dị, dễ hiểu” [37]. Cũng trong năm 2002, Ngô Thị Kim Cúc với bài
viết Nhà thơ Ý Nhi: Sự run rẩy của số phận, đăng trên báo Thanh Niên (23/2)
đã nhận xét, “Thơ chị rất ít chữ, càng ít những từ bóng bẩy, nhưng câu thơ
như được nén lại” [6] và trong thơ chị “vừa nữ tính đồng thời lại có chất trí
tuệ” [6]. Nguyễn Hoàng Sơn trong bài viết Ý Nhi qua tuyển tập (năm 2002),
đăng trên báo Tiền phong (28/7), đã nhận định, “Thơ chị rất ngắn gọn, không
vần, lập tứ rất vững” [59]. Năm 2008, Vũ Nho trong bài viết Một nhà thơ cá
tính và bản lĩnh, đăng trên Tạp chí Tác phẩm mới, đã cho rằng, trong thơ Ý
Nhi các sắc thái tình cảm bao giờ cũng trong trạng thái mâu thuẩn và nó cùng
“đồng hiện trong khoảnh khắc tạo sự nhòe mờ của một nỗi lòng không xác
thực” [53]. Mâu thuẩn trong thơ cũng chính là những mâu thuẩn trong tâm
trạng Ý Nhi. Ông còn khẳng định, “Thơ tình của Ý Nhi đằm thắm một vẻ đẹp
trí tuệ … Thơ Ý Nhi có xu hướng nghiêng về triết luận” [53]. Cùng có cùng
cách nhìn ấy, Lê Hồ Quang trong bài viết Thơ Ý Nhi – Hành trình trong lặng
lẽ, đăng trên Tạp chí Thơ, Hội Nhà văn Việt Nam (số 3 năm 2010), cũng đã
cho rằng, thơ Ý Nhi “như một hành trình truy vấn tinh thần mà trong đó, cái
tôi nhà thơ, lặng lẽ nhưng quyết liệt và bền bỉ, không ngừng tự ý thức nhằm
tìm kiếm cái “bản lai diện mục” của tâm hồn” [57]. Và với ý thức cá nhân
tỉnh táo của một tâm hồn phụ nữ nhạy cảm và giàu lòng trắc ẩn Ý Nhi “đã tạo
nên chất “duy lí” độc đáo của thơ Ý Nhi giữa một nền thơ Việt hiện đại vốn
nặng chất “duy tình”, “duy cảm” [57]. Chất triết lí ấy cũng đã tạo nên nét
riêng cho thơ Ý Nhi “không lạm dụng các mĩ từ kêu vang, nó toát ra từ một
cái nhìn nội tâm trầm tĩnh, sâu sắc nhưng đầy khắc khoải của một con người
đang trên hành trình tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời” [57]. Khi nói về tình yêu
trong thơ Ý Nhi, tác giả nhận xét, “Tình yêu trong thơ Ý Nhi đầy những phức
hợp cảm giác, vừa ngóng trong vừa khắc khoải, vừa lo âu vừa hân hoan, vừa
sướng vui vừa ngậm ngùi, vừa hạnh phúc vừa buồn khổ… Ngay cả khi viết về
sự hòa hợp và gặp gỡ trong tình yêu, những cảm giác đầy mâu thuẩn ấy vẫn
không rời bỏ chị” [57]. Lý giải điều này, theo Lê Hồ Quang, “Với Ý Nhi,
những cảm xúc nồng nhiệt dường như luôn đi cùng với ý thức tiết chế, ngọn

11
lửa đam mê luôn song hành cùng niềm kiêu hãnh, sự truy vấn tỉnh táo, rạch
ròi được nhìn nhận trong sự thấu đáo và cận nhân tình” [57]. Vì thế cho nên
“Hình tượng “cái tôi” trong thơ Ý Nhi vừa là phương tiện đồng thời cũng
chính là nội dung giao tiếp với cuộc đời của nhà thơ, nó trở thành điểm nhấn
hết sức nổi bật trong diện mạo nghệ thuật của tác giả” [57]. Ngoài những bài
viết trên đây, trên các báo, tạp chí còn có nhiều bài viết về thơ Ý Nhi của các
tác giả như Mã Giang Lân, Huỳnh Như Phương, Khánh Phương, Nguyễn Bảo
Chân, Nhật Chung,Thanh Thảo…
Trong những năm gần đây ở các trường Đại học thơ Ý Nhi đã được
nhiều sinh viên chọn làm luận văn Thạc sĩ. Năm 2008, Đỗ Thị Hoa trong luận
văn tốt nghiệp với đề tài Thế giới nghệ thuật thơ Ý Nhi (Khoa Ngữ văn, Đại
học Sư phạm Hà Nội) đã có một cái nhìn bao quát về thơ Ý Nhi, “Thế giới
hình tượng trong thơ chị đặc sắc và đa dạng. Một trong những hình tượng nổi
bật trong thơ Ý Nhi là hình tượng cái tôi. Qua hình tượng này người đọc thấy
nhà thơ luôn có những băn khoăn về những vấn đề đạo đức trong đời sống xã
hội. Đó những trăn trở về chính mình, về nhân cách của người nghệ sĩ, về cầu
thủ bóng đá… Chuẩn mực đạo đức trong thơ Ý Nhi là sự chân thực, trong
sáng… Đấy chính là những khát vọng nhân văn rất đẹp trong thơ Ý Nhi”
[21]. Trong luận văn Đặc sắc nghệ thuật thơ Ý Nhi Nguyễn Thị Ánh Tuyết
(Khoa Ngữ văn, ĐH Vinh, 2008). Trong kết luận của mình, tác giả nhận xét,
“Cảm hứng chủ đạo trong thơ Ý Nhi là cảm hứng phân tích – triết lí – chiêm
nghiệm. Bằng trái tim nhân hậu nồng ấm, luôn khao khát thấu hiểu, Ý Nhi
luôn cố gắng nhìn nhận và lí giải cuộc sống trong chiều sâu bản chất của nó.
Cảm hứng sáng tạo có tính phổ quát này chi phối trên nhiều phương diện
nghệ thuật thơ Ý Nhi, tạo nên nét độc đáo không thể trộn lẫn trong thơ chị…
Với một lối tư duy hiện đại, mới mẻ, từ quan niệm thẩm mĩ đến thực tế sáng
tác, Ý Nhi đã góp phần làm phong phú thêm nên thơ ca Việt Nam hôm nay”
[75].
Điểm lại lịch sử nghiên cứu thơ Ý Nhi nói chung, cái tôi trữ tình trong

thơ Ý Nhi nói riêng có thể thấy, nhìn chung các ý kiến đều khẳng định vị trí,
12
vai trò và những đóng góp lớn lao của thơ Ý Nhi trong thơ ca chống Mỹ nói
riêng và thơ ca hiện đại Việt Nam nói chung. Trong đó, nhiều ý kiến đã trực
tiếp, hoặc gián tiếp bàn về cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi. Tuy nhiên, qua các
bài nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng hầu như các nhà phê bình chỉ mới
đánh giá, nghiên cứu về thơ Ý Nhi ở một số phương diện nhất định nào đó
chứ chưa có cái nhìn tổng quát, toàn diện, hệ thống về thơ Ý Nhi, đặc biệt là
cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi. Kế thừa những ý kiến mang tính gợi mở của
những người đi trước, chúng tôi đi vào nghiên cứu một cách sâu, rộng và bao
quát hơn về Cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi. Từ đó, chỉ ra được những nét
riêng, độc đáo của Ý Nhi trong thơ Việt Nam hiện đại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định, mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên
cứu cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích đã xác định trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, chỉ ra cơ sở hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi.
Thứ hai, chỉ ra được những nội dung biểu hiện của cái tôi trữ tình trong
thơ Ý Nhi.
Thứ ba, chỉ ra được nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi
4.2. Về phạm vi khảo sát, chung tôi tập trung khảo sát các tập thơ sau
đây:
- Nỗi nhớ con đường (1974)
- Đến với dòng sông (1978)
- Cây trong phố - chờ trăng (1981)
- Người đàn bà ngồi đan (1985)

- Ngày thường (1987)
- Mưa tuyết (1991)
13
- Gương mặt (1991)
- Vườn (1998)
- Thơ Ý Nhi (2000)
- Ý Nhi tuyển tập(2010)
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi lựa chọn
một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu, như: khảo sát, thống kê, phân loại;
phân tích, tổng hợp; so sánh, đối chiếu.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được triển
khai trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi
Chương 2: Những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi
Chương 1
CƠ SỞ CHO SỰ HÌNH THÀNH CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ Ý NHI
1.1. Giới thuyết khái niệm cái tôi trữ tình
Thơ trữ tình là sự bộc lộ trự tiếp thế giới chủ quan của con người, cảm
xúc, tâm trạng, ý nghĩ trước một hiện tượng đời sống. Vì vậy, nó luôn mang
lại quan niệm về một cá nhân con người cụ thể, sống động, một cái “tôi” có
nỗi niềm riêng. Nhà thơ thổi hồn cho những câu thơ qua “cái tôi”, tâm trạng
của chủ thể bộc lộ trong hoàn cảnh cụ thể nào đó, toát lên nhân cách của chủ
thể trữ tình, tạo ấn tượng sâu đậm.
14
Cái tôi là đơn vị tồn tại của chủ quan, là hình thức tự ý thức chủ quan
của con người. Khi đi vào nghệ thuật, cái tôi được nâng cao hơn, được trình

bày với những màu sắc phong phú hơn và nó mang tính đặc thù của thể loại
trữ tình. Chính vì vậy, cái tôi ngày càng được chú ý trong nhiểu lĩnh vực khoa
học triết học, tâm lí học…, đặc biệt trong lĩnh vực văn học, cái tôi được coi là
“nguồn gốc của mọi hoạt động thơ ca, như lõi cốt của loại thể trữ tình”. Cái
tôi thể hiện cá tính, cá biệt làm nên nét độc đáo riêng biệt của các tác giả trữ
tình. Theo cách nói của Hêghen, thơ ca bắt đầu từ cái ngày con người cảm
thấy cần sự bộc lộ mình. Điều này cho thấy một nhu cầu tự thể hiện mình của
tác giả trong sáng tác thơ ca. Đó là nhu cầu thể hiện cái tôi. Viên Mai trong
Tùy viên thi thoại đã đề cao vai trò của cái tôi trong thơ, coi sự thể hiện của cá
nhân là gốc của thơ trữ tình: “Gốc của thơ là chỗ miêu tả cảnh ngộ của tính
tình và linh cảm cá nhân”. Bởi thế, làm thơ không thể không có cái tôi (Tác
thi bất khả dĩ vô ngã). Thơ trữ tình là thể loại mang tính chủ quan nhất trong
các thể loại văn học, mà trong đó cái tôi trữ tình bao giờ cũng là yếu tố trung
tâm, bởi nó như một nhân tố khởi sự và hoàn tất của sáng tạo trữ tình. Cái tôi
trữ tình là “yếu tố thứ nhất”, cấp cho thơ trữ tình một sự thống nhất về nội
dung và nghệ thuật. Vậy cái tôi trữ tình là gì?
Từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, cái tôi đã được Hoài Thanh trực
diện đề cập đến trong bài Một thời đại trong thi ca (Thi nhân Việt Nam) có ý
nghĩa tổng kết phong trào Thơ mới. Theo Hoài Thanh, chữ “tôi” xuất hiện
trên thi đàn Việt Nam đã đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về con người
cá nhân, “Ngày thứ nhất ai biết đích xác ngày nào – chữ tôi xuất hiện trên thi
đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang
theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” [73, 54].
Và theo ông, cái tôi là linh hồn của Thơ Mới, “Thời đại Thơ mới là thời đại
của chữ tôi” [73]. Khái niệm cái tôi cũng được Hoài Thanh vận dụng uyển
chuyển để nhận dạng phong cách, hồn thơ của mỗi nhà thơ. Cho đến những
năm 70 của thế kỷ XX, vấn đề về cái tôi thật sự được đặt ra như một đối
tượng nghiên cứu ở một số chuyên khảo về thơ. Trong công trình Thơ và mấy
15
vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Hà Minh Đức kế thừa tư tưởng của

Hêghen, Belinski, Tsecnưsepski, đã bàn sâu về cái tôi trữ tình. Theo ông,
trong thơ, vấn đề chủ thể, cái tôi trữ tình trong thơ có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Ông quan niệm cái tôi trữ tình như là nội dung, đối tượng chính
của thơ ca, là khái niệm mang tính bản chất của trữ tình với các biểu hiện qua
các nhận vật trữ tình cụ thể. Đồng thời trong công trình nghiên cứu này, tác
giả còn chỉ ra mối quan hệ giữa cái tôi trữ tình và bản thân nhà thơ là thống
nhất nhưng không đồng nhất “cái tôi trữ tình chính là cái tôi tác giả được nghệ
thuật hóa, lí tưởng hóa, điển hình hóa”. Trần Đình Sử trong công trình Thi
pháp thơ Tố Hữu, đã tiếp cận cái tôi trữ tình như một hình tượng nghệ thuật.
Đó cũng là một hình thức trực diện bàn về cái tôi trữ tình trong thơ. Theo
Trần Nho Thìn, “cái tôi” là hình tượng tác giả trong tác phẩm, là sự giãi bày
thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư thầm kín của tác giả. Nhìn tư góc độ phản
ánh luận, thì cái tôi là đối tượng phản ánh, suy ngẫm của bản thân nhà thơ, là
kết quả của sự tự ý thức, tự đánh giá, tự miêu tả. Đi vào nghệ thuật, cái tôi
được nâng cao hơn, được trình bày với những màu sắc phong phú. Trong bài
viết Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 – 1995 (nhìn từ phương diện sự vận động
của cái tôi trữ tình), Vũ Tuấn Anh đưa ra quan niệm về cái tôi trữ tình “đó là
sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và con người
thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc tổ chức các
phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần riêng biệt, độc đáo,
mang tính thẩm mỹ, nhằm truyền đạt năng lượng tinh thần ấy đến người đọc”
[2, 32]. Trong một cách nói ngắn gọn, khái quát, Lê Lưu Oanh trong bài viết
Cái tôi trữ tình trong thơ (qua một số hiện tượng thơ trữ tình Việt Nam 1975
– 1990) đã cho rằng, theo nghĩa hẹp, cái tôi trữ tình là hình tượng cái tôi, cá
nhân – cụ thể, cái tôi – tác giả – tiểu sử với những nét rất riêng tư; là loại nhân
vật đặc biệt khi tác giả miêu tả, kể chuyện, biểu hiện về chính mình. Theo
nghĩa rộng, cái tôi trữ tình là nội dung, đối tượng, phẩm chất của trữ tình.
Từ các ý kiến trên đây về cái tôi trữ tình, có thể thấy, các ý gần như
thống nhất với nhau về cách hiểu, coi cái tôi trữ tình bao giờ cũng là yếu tố
16

trung tâm, cốt lõi của vận động thơ trữ tình, “đó chính là sự tự ý thức của cái
tôi được biểu hiện trong nghệ thuật và bằng nghệ thuật, cái tôi của hành vi
sáng tạo, là quan niệm về cái tôi được thể hiện thông qua phương tiện trữ
tình”. Đó là “cái tôi nhà thơ được nghệ thuật hóa” (Hà Minh Đức). Vì vậy,
trong thơ, cái tôi trữ tình là yếu tố trung tâm, một trong những điểm nhìn có ý
nghĩa quan trong để khám phá thế giới trữ tình trong thơ.
1.2. Cơ sở cho sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi
1.2.1. Hoàn cảnh xã hội
Trong văn học, con người được nhận thức như là một chỉnh thể sinh
động, toàn vẹn trong các quan hệ đời sống. Do đó con người trở thành trung
tâm của các quan hệ hiện thực được phản ánh trong văn học, chịu sự chi phối
của mạnh mẽ của đời sống hiện thực. Như Bác Hồ đã nói “thời đại nào văn
nghệ ấy”. Thời đại góp phần hình thành quan điểm sáng tác cũng như hình
thành cái tôi trữ tình của mỗi nhà văn trong văn học. Cái tôi trữ tình bao giờ
cũng là sản phẩm của một thời đại. Với tư cách là một hiện tượng nghệ thuật,
nó có sự hình thành, phát triển, kết thúc hoặc chuyển hóa sang một dạng khác,
… đều phải chịu sự chi phối của một thời đại nhất định.
1.2.1.1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước là một trong những trang hào hùng nhất trong lịch sử giữ nước của dân
tộc, tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của xã
hội, trong đó có văn học nghệ thuật. Không khí thời đại mang đến cho thơ
một âm hưởng, diện mạo riêng. Thơ chống Mỹ là một chỉnh thể thống nhất
của nền văn học chiến tranh cách mạng, một nền thơ tương ứng với cấu trúc
tinh thần dân tộc ở một tọa độ xã hội – lịch sử đặc biệt, thời kỳ toàn dân vượt
qua những gian khổ hy sinh khốc liệt nhất trong cuộc chiến đấu giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước. Thơ ca tập trung thể hiện cuộc ra quân vĩ đại
của toàn dân tộc, khám phá sức mạnh của con người Việt Nam, nhận thức và
đề cao sứ mệnh lịch sử, tầm vóc và ý nghĩa nhân loại của cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Đó là điểm xuất phát và ảnh hưởng to lớn đến đời thơ Ý Nhi.

17
Ý Nhi thuộc thế hệ các nhà thơ sống và trưởng thành từ cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Cuộc đời của Ý Nhi đã từng trải nghiệm và cọ xát qua hai
cuộc chiến tranh, nhưng tuổi trưởng thành và bắt đầu sự nghiệp sáng tác thơ
của Ý Nhi gắn liền với thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Sự nghiệp sáng tác của
chị trải dài qua hai giai đoạn trước và sau năm 1975. Đây là thời điểm xã hội
có nhiều biến cố tác động rất lớn đối mọi mặt của đời sống xã hội nói chung,
với cuộc đời, đời thơ Ý Nhi nói riêng. Mười năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1964 – 1975) là một quãng thời gian không dài trong cả thế kỉ XX
đầy biến động của dân tộc cũng như tiến trong tiến trình thơ Việt Nam hiện
đại nhưng có ý nghĩa đặc biệt. Cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến vô cùng
khốc liệt. Với lòng yêu nước và truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất,
nhân dân ta đã đảm nhận một sứ mệnh lịch sử hết sức vẻ vang. Trong cuộc
chiến đấu hào hùng để giành lại và bảo vệ chủ quyền, độc lập của dân tộc và
tự do cho nhân dân, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống trên
chiến trường và đã trở thành tấm gương tiêu biểu cho thế hệ con người Việt
Nam mới, trung thành với lý tưởng và hiến dâng thân mình cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc vĩ đại. Tất cả đã thổi một luồng gió mới vào đời sống văn học
nghệ thuật nước nhà. Nó chính là nhân tố khách quan tạo nên diện mạo mới
với những đặc điểm và quy luật vận động riêng của một giai đoạn văn học,
trong đó có thơ ca. Luôn đồng hành và gắn bó với vận mệnh của dân tộc, đi
qua những bước thăng trầm của lịch sử và thời đại, văn học thực sự đã tạo ra
được những biến đổi sâu sắc, toàn diện và đã tạo cho mình một diện mạo mới
trong giai đoạn mới. Cũng như mọi lĩnh vực hoạt động văn hóa tinh thần
khác, thơ kháng chiến chống Mỹ đã được huy động vào cuộc chiến đấu của
dân tộc, trở thành vũ khí tinh thần có sức mạnh to lớn trong việc khơi dậy
lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí chiến đấu, niềm tin
vào thắng lợi cuối cùng của mỗi người cũng như toàn dân tộc Việt Nam. Thơ
chặng đường này thể hiện rất rõ khuynh hướng mở rộng và đào sâu vào chất
hiện thực, đồng thời tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng, chính luận.

Điều này được ghi nhận qua sự xuất hiện và những đóng góp của thế hệ các
18
nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước. Thơ của họ giàu những chi tiết chân
thực của đời sống chiến trường, phản ánh được một phần cái ác liệt, những hi
sinh, tổn thất trong chiến tranh, đặc biệt là dựng lên được bức chân dung tinh
thần của cả thế hệ trẻ cầm súng. Họ đem đến cho nền thơ Việt Nam hiện đại
một tiếng thơ mới mẻ, trẻ trung, sôi nổi thấm đượm chất suy tư, triết luận. Đó
là Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo, Phan Thị Thanh
Nhàn, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ,… Có thể nói, mặc dù phát triển trong hoàn
cảnh đặc biệt hết sức khó khăn, nhưng chưa bao giờ thơ lại đạt được thành tựu
rực rỡ như ở thời kỳ này. Nó không chỉ mang ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa thời đại,
mà còn là một hiện tượng nghệ thuật lớn, đặc sắc trong tiến trình thơ hiện đại
Việt Nam. Hướng vào đời sống xã hội rộng lớn với nhiều biến cố, sự kiện
trọng đại, thơ phản ánh được hiện thực của đất nước trong thời kì lịch sử đầy
gian khổ, hi sinh nhưng cũng hết sức vẻ vang của dân tộc ta, thực sự là tấm
gương phản chiếu những phương diện cơ bản nhất của tâm hồn dân tộc.
Ý Nhi tốt nghiệp khoa ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội năm
1968. Thời ấy đang chiến tranh phá hoại ác liệt, đế quốc Mỹ leo thanh chiến
tranh bằng không lực, ném bom ra miền Bắc. Ý Nhi theo trường sơ tán lên
Đại Từ - Thái Nguyên, lúc đó chị chỉ mới học hết học kỳ I, năm thứ nhất
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Chính trong những thời khắc vô cùng gian
khổ nhưng cũng vô cùng sôi nổi và đẹp đẽ ấy, Ý Nhi đã viết những bài thơ
đầu tiên của tuổi trưởng thành, trong đó có nhiều trang viết giàu cảm xúc khi
tái hiện lại không khí những ngày người và thơ xung trận. Những câu thơ làm
sống dậy tình cảm mạnh mẽ của một thời. Chị thấu cảm, đau đớn trước những
tang thương, mất mát hi sinh của đồng bào, đồng chí qua cuộc chiến tranh
chống Mỹ, giải phóng và thống nhất đất nước. Năm 1974, Ý Nhi cho ra mắt
tập thơ Trái tim và nỗi nhớ (in chung với Lâm Thị Mỹ Dạ). Đây là tập thơ
được viết trong chiến tranh, vì thế có nhiều bài thơ viết về cuộc sống, con
người trong chiến đấu. Có thể nói rằng, đây là tập thơ đã góp phần không nhỏ

dựng lên gương mặt của một nhà thơ nữ trẻ trung trong giới văn nghệ sỹ thời
chống Mỹ lúc bấy giờ.
19
Mặc dù đến với thơ từ rất sớm và viết nhiều, nhưng đỉnh cao thơ Ý Nhi
là vào những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là thời điểm gắn liền với những
bước ngoặt quan trọng của lịch sử nước nhà. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã
hoàn toàn kết thúc thắng lợi, đất nước bước vào thời kì Đổi mới, dưới sự tác
động của những chính sách kinh tế – xã hội của Nhà nước, sự mở rộng các
sinh hoạt dân chủ trong đời sống văn hóa tư tưởng cũng như sự chín muồi về
tài năng và sự tự ý thức về phẩm chất một nhà thơ, thơ Ý Nhi đã có nhiều
biến đổi mới về nội dung và phương thức biểu đạt gớp phần tạo nên diện mạo
mới của nền văn học Việt Nam.
1.2.1.2. Những năm tháng đổi mới sau chiến tranh
Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài 30 năm đã kết thúc toàn
thắng, lịch sử dân tộc ta chuyển sang trang mới. Từ sau năm 1975, đất nước
từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, cuộc sống dần dần trở lại với những quy
luật bình thường. Đất nước đứng trước những vận hội mới, hứa hẹn một
tương lai tươi sáng, nhưng cũng đứng trước khó khăn, thử thách cam go của
thời kỳ hậu chiến.Tình hình đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của
văn học, làm thay đổi quan niệm nghệ thuật của các nhà văn. Sáng tác của Ý
Nhi giai đoạn này cũng không nằm ngoài qui luật chung đó.
Trong khoảng mười năm đầu sau chiến tranh (1975 – 1986), đất nước
gặp vô vàn thử thách, khó khăn, nhất là khó khăn về kinh tế, rơi vào khủng
hoảng ngày càng trầm trọng. Niềm tin vào cuộc sống mới đã ít nhiều giảm
thiểu trong đông đảo nhân dân, đặc biệt là những người trí thức, nghệ sĩ. Nền
văn học cũng chững lại và không ít người viết lâm vào tình trạng bối rối,
hoang mang, dao động, thậm chí mất niềm tin. Ý thức nghệ thuật của số đông
người viết và công chúng chưa chuyển biến kịp thời với thực tiễn xã hội,
những quan niệm và cách tiếp cận hiện thực vốn quen thuộc trong thời kì
trước đã tỏ ra bất cập trước hiện thực mới và đòi hỏi của người đọc. Đây là

khoảng thời gian mà nhà văn Nguyên Ngọc gọi là “khoảng chân không trong
văn học”. Nhưng cũng chính trong những năm này đã diễn ra sự vận động ở
chiều sâu của đời sống văn học, với những trăn trở vật vã, tìm tòi thầm lặng
20
mà quyết liệt ở một số nhà văn mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc sống, có tâm
huyết và ý thức trách nhiệm cao về ngòi bút của mình. Họ luôn có ý thức tìm
tòi, thể nghiệm, tự đổi mới tư duy nghệ thuật của mình. Những cây bút có
những bứt phá, đổi mới trong thơ có thể kể tới: Ý Nhi, Thanh Thảo, Trần
Mạnh Hảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Nguyễn Trọng Tạo, Lâm
Thị Mĩ Dạ,… Nếu văn học 1945 – 1975, ngòi bút của các nhà văn nghiêng về
phản ánh những sự kiện lịch sử trọng đại có tính chất toàn dân thì văn học sau
1975 nghiêng về phản ánh những khía cạnh đời tư, đời thường, khía cạnh đời
sống cá nhân phức tạp. Cái tôi trữ tình trong thơ đã có nhiều thay đổi. Trăn
trở, suy tư, nghi ngờ và đời hơn. Thơ đã trở về với con người cá nhân, cô đơn.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI (năm
1986) đã chỉ rõ đổi mới là “nhu cầu bức thiết”, là “vấn đề có ý nghĩa sống
còn” của toàn dân tộc. Từ năm 1986, công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng và
lãnh như một luồng gió mới mở ra một thời kì mới, phát triển cho đất nước.
Đất nước từng bước thoát ra khỏi thời kì khủng hoảng bước vào vào đời sống
mới, phát triển mạnh mẽ và ngày càng ổn định về mọi mặt. Kinh tế bao cấp
được bãi bỏ từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vận động theo hướng dân chủ hóa. Đất nước mở cửa,
tiếp nhận giao lưu đa phương. Nền dân chủ được mở rộng, đặc biệt văn hóa
nước nhà có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với nhiều nước trên thế giới, nền văn
học giai đoạn này cũng có sự đổi mới toàn diện. Phương châm “nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã tạo điều kiện cho sự
chuyển hướng văn học. Công cuộc đổi mới do Đảng đề xuất trở thành “cú
hích” kích thích hoạt động sáng tác. Với sự quan tâm, khuyến khích của
Đảng, các văn nghệ sĩ đã vô cùng phấn khởi và tự tin hơn vào những điều
mình đã suy nghĩ và mạnh dạn đổi mới tư duy về cách viết của mình. Đây có

thể được xem là giai đoạn chuyển mình của văn học, như Phong Lê đã nhận
xét, “Văn học có dấu hiệu chuyển lên một đường ray mới, có lúc ngập ngùng
rụt rè, có lúc bạo dạn sấn sổ, dẫu thế nào mặc lòng nó không còn chấp nhận
sự bình ổn, bình yên kiểu cũ”. Có thể nói, năm 1986 với sự nghiệp đổi mới
21
diễn ra ở mọi cấp độ đã làm thay đổi diện mạo đất nước, ảnh hưởng trực tiếp
đến tư tưởng, tình cảm và tư duy sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ cũng
như các nhà nghệ sĩ nói chung. “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục
vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động” (Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI – Đảng Cộng sản Việt Nam) là định hướng
quan trọng cho mọi suy nghĩ và hành động. Mấy chục năm trước do hoàn
chiến tranh, đất nước tạm thời bị chia cắt cùng với những nhận thức ấu trĩ,
cực đoan một thời, con người cá nhân, giá trị cá nhân chưa được quan niệm
đúng đắn. Giờ đây, đời sống văn học nghệ thuật có nhiều chuyển biến, cái tôi
nhà thơ được khẳng định, cá tính sáng tạo được tôn trọng, con người cá nhân
được đặt lên ở vị trí ưu tiên. Bên cạnh giọng điệu ngợi ca, thơ mở ra và chấp
nhận nhiều giọng điệu, nhiều sắc thái tâm lý: nỗi buồn, cô đơn, tâm trạng xao
xuyến không yên,… của thời mở cửa, kinh tế thị trường phát triển.
Tiếp theo đó là Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn học, nghệ thuật
và văn hóa, “Văn học nghệ thuật là một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư
tưởng và nhân văn”, và với cuộc gặp gỡ của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987, tất cả những điều đó tác
động trực tiếp vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra một thời kì
đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy, nhận thức lại
hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản. Đó là
những động lực tinh thần cho văn học của thời kì đổi mới phát triển mạnh mẽ,
sôi nổi. Sự đổi mới ý thức nghệ thuật nằm ở chiều sâu của đời sống văn học,
nó vừa là kết quả vừa là động lực cho những tìm tòi đổi mới trong sáng tác,
nhưng đồng thời cũng chịu sự tác động mạnh của độc giả mang lại. Trong
hoàn cảnh hòa bình, nhu cầu thẫm mĩ của người tiếp nhận văn học đã thay

đổi, công chúng đòi hỏi mỗi nhà văn phải đáp ứng sự tìm hiểu hiện thực cuộc
sống của đất nước một cách toàn diện chứ không phải một chiều, một mặt như
văn học trước đây. Chính vì điều đó đã đòi hỏi nhà văn buộc phải thay đổi
cách viết nếu như không muốn bị bạn đọc lãng quên.
22
Sau năm 1986, cuộc sống trở về với qui luật đời thường của nó, con
người trở về với mọi mặt đời thường, phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề trong
một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay của xã hội. Chính bối cảnh ấy đã
thúc đẩy sự thức tỉnh ý thức cá nhân, đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi người và
từng số phận. Cũng chính vì vậy, văn học trong giai đoạn này có sự mở rộng
phạm trù thẩm mĩ. Cuộc sống mới với cơn gió cơ chế thị trường đã thổi vào
văn học. Nhiều tác phẩm bắt đầu hướng vào khai thác mảng đời thường “ngổn
ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến
động, những bất ngờ…” (Nguyễn Khải). Văn học khơi sâu vào cuộc sống đa
chiều, về những cái nhỏ nhặt đời thường, những chuyện về đời tư, chuyện
tình yêu, tình dục, tâm tư, nguyện vọng của từng số phận con người,… các
nhà văn đã mở rộng tối đa khả năng tiếp xúc của văn học đối với đời sống.
Đặc biệt, thơ trữ tình trong giai đoạn này là sự bừng tỉnh ý thức về cái tôi cá
nhân, một cái tôi chiêm nghiệm luôn tự mình đối diện với chính mình. Điều
này có thể tìm thấy trong thơ Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Tạ Hữu Yên, Đoàn Thị Lam Luyến, Đinh Thị Thu Vân,… một thế hệ
nhà thơ sung sức, mạnh khỏe, khao khát sáng tạo. Các nhà thơ này nhìn cuộc
sống một cách tỉnh táo hơn, duy lí hơn. Thơ trở thành một hình thức tự vấn,
phản tỉnh, có tính chất tự bạch. Từ hướng ngoại thơ chuyển sang hướng nội,
mỗi nhà thơ đều muốn vẽ, tạc chân dung đích thực của mình, nhà thơ Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã viết: “Vẽ tôi một nét môi cười/ Một dòng nước mắt, một
đời phù du”. Có thể nói, sự khám phá và thể hiện con người cá nhân là một
hướng đi tích cực cả về mặt xã hội, thẩm mĩ và nhân văn.
Đến những năm 90 cũng trên tinh thần dân chủ, tự do sáng tạo, một
diện mạo mới của thơ xuất hiện. Trong xu thế đi tới sự ổn định của xã hội,

văn học giai đoạn này trở về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, đồng
thời có ý thức và nhu cầu tự đổi mới hơn bao giờ hết về hình thức nghệ thuật,
phương thức biểu hiện của nhà văn để phù hợp với nguyện vọng của người
đọc cũng như quy luật phát triển khách quan của nền văn học. Tuy nhiên văn
23
học về cơ bản cũng trở lại những quy luật mang tính bình thường, nhưng
không xa rời định hướng đổi mới đã hình thành từ giữa những năm 80.
Với cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại, văn học thể hiện được những hình
tượng cao đẹp về đất nước, về nhân dân, về các tầng lớp, thế hệ con người
Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống, vừa mang đậm những nét mới
của thời đại. Đặc biệt từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986), văn học vận
động theo hướng dân chủ hóa, đổi mới quan niệm về nhà văn, về văn học và
quan niệm nghệ thuật về con người, phát huy cá tính sáng tạo và phong cách
nghệ thuật của nhà văn với những tìm tòi, thể nghiệm mới tạo nên sự đa dạng
về cá tính sáng tạo, sự đa giọng điệu, đa phong cách của văn học góp phần tạo
nên diện mạo mới cho văn học Việt Nam sau năm 1975.
1.2.2. Cuộc sống và phẩm chất cá nhân
1.2.2.1. Đời sống cá nhân
Nhà thơ Ý Nhi tên thật là Hoàng Thị Ý Nhi, sinh năm 1944 tại Thị xã
Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chị xuất thân trong một gia đình hoạt động văn
hóa, cha là nhà nghiên cứu tuồng nổi tiếng Hoàng Châu Ký. Ông rất say mê
hát bội và thích làm thơ, vì thế từ rất sớm ông đã có những vần thơ rất tinh tế.
Ông là một người nhân hậu nhưng rất sâu sắc và nghiêm cẩn trong nghiên cứu
khoa học. Ý Nhi thừa hưởng được ở người cha lối tư duy khúc chiết, mạch
lạc, biết mình nói gì và biết cách làm cho sự việc từ chỗ mơ hồ, rối rắm trở
nên giản dị, dễ hiểu. Mẹ Ý Nhi là một phụ nữ nội trợ nhưng cũng rất yêu thơ,
bà thuộc nhiều thơ của Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Có thể nói gia đình
đã là môi trường đầu tiên nuôi dưỡng và làm nảy nở hồn thơ ở Ý Nhi sau này.
Tuổi thơ, Ý Nhi chịu nhiều vất vả, hằng ngày phải bưng rổ bánh đi bán
rao để giúp mẹ. Ý Nhi thuộc lớp người được sinh ra từ sau Cách mạng,

trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ngày từ những ngày còn
thơ dại đã biết đến cảnh tản cư, tiêu thổ kháng chiến, đã sống trong thiếu thốn,
đã nhìn thấy những cảnh khốc liệt do đế quốc Mỹ gây ra, tất cả gớp phần hình
thành cảm hứng trong thơ chị sau này. Năm 1964, giặc Mỹ ném bom đánh
phá ác liệt ở miền Bắc, lúc bấy giờ cô sinh viên Ý Nhi theo trường Đại học
24
Tổng hợp dời lên Thái Nguyên sơ tán. Trong hoàn cảnh đó Ý Nhi cũng như
các sinh viên khác phải tự lo xây nhà cửa, thư viện, lớp học (bằng tre , nứa) và
vẫn phải bảo đảm chương trình học. Cho đến năm 1968, Ý Nhi tốt nghiệp Đại
học, chị về làm việc tại Viện Văn học rồi Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng.
Trong thời gian chị làm việc tại Nhà xuất bản Văn nghệ Giải Phóng – Nhà
xuất bản chuyên in tác phẩm của các nhà văn đang chiến đấu ở chiến trường
như Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Phan Tứ, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Lê
Anh Xuân, Chim Trắng Với tính chất của công việc và trách nhiệm của
người làm biên tập viên, chị đã nhiều lần đặt chân trên vùng đất lửa Quảng
Bình, Nghệ An Đặc biệt, chị đi vào công tác ở miền Nam rất sớm (trước
tháng 4 năm 1975) để tìm hiểu thực tế ở chiến trường và chuẩn bị làm sách
cho miền Nam. Mỗi lần đi thực tế ở chiến trường về thế nào chị cũng mang
theo những bài thơ mới. Hàng loạt bài thơ của chị ra đời ghi dấu lại những địa
danh mà chị từng đi qua ở Hải Phòng, Thái Nguyên, Hà Nội, Quảng Bình,
Tuy Hòa, Phú Yên,… in rõ dấu ấn của tâm hồn chị trong những năm tháng
gian khổ, hào hùng nhưng cũng hết sức lạc quan và hy vọng.
Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng 1975, chị làm cuộc thiên
di theo cơ quan vào Sài Gòn. Trong thời gian này chị vẫn làm việc tại chi
nhánh miền Nam của Nhà xuất bản, chị chủ trương in lại các tập thơ của
phong trào Thơ mới (vốn đã vắng bóng từ lâu), hồi ký của Vũ Hoàng Chương,
Mưa nguồn của Bùi Giáng,… Là người làm thơ nhưng đồng thời cũng có cái
may mắn làm biên tập thơ rất nhiều năm,Ý Nhi có cơ may đọc được rất nhiều
thơ của các nhà thơ Việt Nam đôi khi biên tập những tập thơ dịch ra từ các
nhà thơ nước ngoài đã tạo điều kiện cho cho nhà thơ học hỏi và tự mình sáng

tác. Đây chính là những tiền đề cho đời thơ Ý Nhi.
Hiện nay Ý Nhi đã nghĩ hưu không còn công tác ở Hội nhà văn và
đang cùng chồng là giáo sư Nguyễn Lộc sống ở Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ
Chí Minh.
1.2.2.2 .Phẩm chất cá nhân
25

×