Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục trẻ em ở thái bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.9 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





PHÍ THI NGA


PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG
VIỆC GIÁO DỤC TRẺ EM Ở THÁI BÌNH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Dƣơng Minh Đức




Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
dướng dẫn của TS. Dương Minh Đức. Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận
văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo
có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.



Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn



Phí Thị Nga

LỜI CẢM ƠN

Luận văn “Phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục trẻ em ở
Thái Bình hiện nay” là công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, là kết quả của
quá trình học tập tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc
gia Hà Nội của tác giả dưới sự hướng dẫn của các thầy cô bộ môn; sự giúp đỡ của
các thầy cô trong ban chủ nhiệm khoa Triết học. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc
tới các thầy cô!
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn chân thành đến TS. Dƣơng Minh Đức là
giáo viên trực tiếp hướng dẫn luận văn cho tôi, người đã luôn tận tình hướng dẫn,
dành nhiều thời gian quý báu để trao đổi và định hướng nghiên cứu cho tôi trong
suốt quá trình thực hiện đề tài luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đã luôn
động viên và là chỗ dựa tinh thần để tôi học tập, thực hiện thành công đề tài luận
văn này.
Tôi xin trân trọng gửi lời tri ân tất cả các thầy cô, bạn bè và người thân!


Hà Nội ngày tháng năm 2015
Người thực hiện luận văn



Phí Thị Nga



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. GIA ĐÌNH VỚI TƢ CÁCH LÀ CHỦ THỂ GIÁO DỤC
TRẺ EM 8
1.1. Tầm quan trọng của giáo dục gia đình đối với trẻ em. 8
1.1.1. Gia đình và chức năng giáo dục của gia đình 8
1.1.2. Trẻ em trong gia đình và trong phát triển xã hội 13
1.2. Nội dung của giáo dục gia đình đối với trẻ em 21
1.2.1. Giáo dục đạo đức 21
1.2.2. Giáo dục trí tuệ 25
1.2.3. Giáo dục thể chất 28
1.2.4. Giáo dục thẩm mĩ 29
1.3. Những yếu tố tác động đến việc giáo dục trẻ em trong các gia đình
ở Thái Bình hiện nay. 31
1.3.1. Vị trí địa lý, kinh tế, văn hóa - xã hội và con ngƣời Thái Bình. 31
1.3.2. Tác động giáo dục của các thành viên trong gia đình tới trẻ em ở
Thái Bình 37
1.3.3. Tác động của chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc đến vai trò
của gia đình trong giáo dục trẻ em ở Thái Bình 42
1.3.4. Tác động của khoa học công nghệ và cơ chế thị trƣờng tới việc
giáo dục trẻ em ở Thái Bình. 45
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Ở THÁI BÌNH HIỆN NAY 49
2.1.Thực trạng giáo dục trẻ em trong gia đình ở Thái Bình hiện nay. 49
2.1.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em trong các gia đình ở
Thái Bình 51

2.1.2. Thực trạng giáo dục trí tuệ cho trẻ em trong các gia đình ở Thái
Bình. 53
2.1.3. Thực trạng giáo dục thể chất cho trẻ em trong các gia đình ở
Thái Bình 57
2.1.4. Thực trạng giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em trong các gia đình ở
Thái Bình 61
2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục trẻ em trong gia đình
ở Thái Bình hiện nay. 63
2.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, mong muốn của gia đình
với thực trạng giáo dục hiện nay ở Thái Bình 64
2.2.2. Mâu thuẫn giữa mong muốn của gia đình với điều kiện cơ sở vật
chất hiện có trong gia đình hiện nay 67
2.2.3. Mâu thuẫn giữa mong muốn của trẻ em với thực trạng giáo dục
của gia đình hiện nay ở Thái Bình 68
2.2.4. Những tác động ngƣợc chiều giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội
trong giáo dục trẻ em 73
Kết luận chƣơng 2 79
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM
PHÁT HUY 80
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC TRẺ EM
Ở THÁI BÌNH 80
3.1. Những quan điểm cơ bản 80
3.1.1. Trẻ em là vốn quý của gia đình, là lớp công dân đặc biệt của xã
hội, phải dành cho trẻ em theo tinh thần “Trẻ em hôm nay, thế giới
ngày mai”. 80
3.1.2. Tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền cơ bản và nhu cầu của
trẻ em, bảo đảm cho trẻ em phát triển hài hòa về nhân cách- là yếu tố
cơ bản bảo vệ hạnh phúc gia đình và sự phát triển bền vững của xã
hội 82
3.1.3. Thực hiện công bằng về giáo dục trẻ em trong gia đình và trong

xã hội 83
3.1.4. Sự phát triển toàn diện của trẻ em là một trong những yếu tố cơ
bản của sự phát triển kinh tế- xã hội bền vững 84
3.1.5. Giáo dục trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội mà trƣớc hết là
của gia đình 86
3.1.6. Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng và chính
quyền các cấp đối với công tác giáo dục trẻ em 88
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia đình
trong việc giáo dục trẻ em ở thái Bình hiện nay 90
3.2.1. Xây dựng gia đình “ấm no, tiến bộ và hạnh phúc” 90
3.2.2. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội, tạo
môi trƣờng thống nhất cho việc giáo dục trẻ em 93
3.2.3. Giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ, quê hƣơng, đất nƣớc
cho trẻ em 98
KẾT LUẬN 105
KIẾN NGHỊ 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi cá nhân từ khi sinh ra, trưởng thành cho đến khi từ biệt cõi đời đều gắn
bó với gia đình. Tuy gia đình không phải là thiết chế duy nhất có vai trò trách nhiệm
giáo dục trẻ em nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng: Gia đình là môi trường đầu
tiên, có tầm quan trọng quyết định việc hình thành nhân cách của trẻ và có ảnh
hưởng lâu dài, toàn diện tới mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Trong mối quan hệ
với xã hội thì gia đình là tế bào của xã hội. Và khi so với các lực lượng giáo dục

khác thì giáo dục gia đình có nhiều ưu thế vượt trội. Giáo dục gia đình vừa mang
tính cá biệt rõ rệt, vừa thấm đậm tình cảm ruột thịt sâu sắc, với sự đa dạng và phong
phú về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, địa vị xã hội của chủ thể giáo dục. Ở đó, trẻ
được giáo dục theo hình thức thẩm thấu tích lũy về lượng, mỗi ngày một ít và
thường xuyên lặp lại. Mọi chức năng của gia đình đều có ý nghĩa kép- vừa thỏa mãn
nhu cầu cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu xã hội. Gia đình không chỉ gánh vác trách
nhiệm duy trì dòng giống, chủng tộc, chuẩn bị lực lượng lao động tương lai “Trẻ em
hôm nay, thế giới ngày mai” mà còn thay mặt xã hội đền đáp công lao bộ phận lao
động quá khứ, chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần cho người lao động hiện tại.
Sức mạnh của một dân tộc được nuôi dưỡng trong lòng mỗi gia đình.
Tầm quan trọng đó của gia đình cũng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã
hội là gia đình. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội tốt đẹp thì phải chú ý hạt nhân gia
đình cho tốt" [31,tr. 728].
Hơn nữa, trong mỗi gia đình lại có những mầm non giữ vai trò quyết định
tương lai của dân tộc, đang cần được chăm sóc và giáo dục khoa học. Những mầm
non đó chính là trẻ em- những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể lực và
trí tuệ, nhưng lại có vị trí vô cùng quan trọng- là thành viên gắn kết gia đình, là sự
nối dài cuộc đời của cha mẹ và là hạnh phúc, tương lai của gia đình và xã hội. Sự
nghiệp giáo dục trẻ em là một sự nghiệp lớn lao và hệ trọng. Với tầm nhìn xa trông


2
rộng “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cho rằng:
“Ngày nay các cháu là nhi đồng, ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của
thế giới”. Người đặt niềm tin vào lớp trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp
hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”
[4,tr. 32-33].

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng, Nhà nước đã có
nhiều chỉ thị, nghị quyết, chinh sách đề cập đến vấn đề này. Và thực tế Việt Nam là
quốc gia đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước
hành động quốc gia về quyền trẻ em. Ngay sau đó, chương trình hành động Quốc
gia vì trẻ em được thông qua và khẳng định dành ưu tiên cho trẻ em các quyền được
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, vui chơi giải trí và phát triển văn hóa.
Thực trạng hiện nay, công tác giáo dục gia đình đã được quan tâm nhiều hơn
trước, không chỉ ở nước ta mà còn ở phần lớn các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên,
trước tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong
xu hướng toàn cầu hóa hiện nay ở nước ta. Sự giao lưu mở cửa hội nhập đã đem đến
cho gia đình Việt Nam nhiều cơ hội: Gia đình Việt Nam có điều kiện phát triển kinh
tế, giao lưu hội nhập với các nền văn hóa tiên tiến, văn minh của các nước. Song,
bên cạnh những mặt tích cực đó, mặt trái của cơ chế thị trường cũng nảy sinh nhiều
vấn đề tác động đến đời sống gia đình Việt Nam, làm cho gia đình Việt Nam đang
đứng trước những khó khăn thử thách, sóng gió chưa từng có trong cách dạy con. Ở
một góc độ nào đó đã phá vỡ nền nếp gia phong đạo đức của gia đình truyền thống
Việt Nam. Tình trạng ly hôn, ly thân, sống thử, ngoại tình, quan hệ tình dục trước
hôn nhân và việc nạo phá thai trong giới trẻ gia tăng, để lại hậu quả nặng nề về
nhiều mặt đối với gia đình và xã hội. Nhiều giá trị văn hóa gia đình truyền thống tốt
đẹp của người Việt Nam đang có biểu hiện xuống cấp, phai nhạt. Nhiều tệ nạn như
ma túy, cờ bạc, rượu chè, mại dâm, HIV/AIDS đã và đang xâm nhập vào từng gia
đình. Mâu thuẫn xung đột giữa các thế hệ về phép ứng xử, lối sống đang đặt ra
những thách thức mới, cùng với nó là tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực học
đường cũng gia tăng mạnh mẽ đến mức báo động.


3
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng, dân số đông, trong đó chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp, trình độ dân trí chưa cao, không đồng đều và cũng chịu sự thay đổi
cùng với sự thay đổi của xã hội. Do đó công tác giáo dục trẻ em còn nhiều hạn chế,

nhất là ở gia đình nông thôn, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Tình trạng phó mặc
việc giáo dục con cho nhà trường, người giúp việc, hay tình trạng trẻ em phải nghe
và chứng kiến cảnh cha mẹ đánh nhau, chửi bậy, ly hôn, ly thân; Tình trạng cha mẹ
trẻ trước khi kết hôn không được trang bị kiến thức làm cha làm mẹ, kiến thức gìn
giữ hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con cái; Tình trạng cha mẹ không hiểu quyền
của trẻ, không tôn trọng trẻ, chửi mắng, đánh đập, áp đặt và dạy bảo con tùy tiện
còn tồn tại ở nhiều nơi. Một số bậc cha mẹ còn có quan niệm sai lầm rằng con cái là
sở hữu của họ không liên quan đến người ngoài, và họ là những người có toàn
quyền quyết định số phận con cái mình trong thời gian chúng lệ thuộc vào cha mẹ.
Do đó kéo theo nhiều sai lầm trong cách dạy con, nhất là khi trẻ không được như
mong muốn của họ. Tình trạng bạo lực học đường ở thanh thiếu niên và tình trạng
áp đặt, gò ép, giáo dục trẻ bằng bạo lực trong một số gia đình vẫn gia tăng. Tất cả
những điều đó đã ảnh hưởng đến quyền học tập, vui chơi giải trí và hạn chế sự phát
triển tự nhiên, lành mạnh của trẻ về thể lực và trí lực; làm cho khoảng cách thế hệ
và xung đột giữa các thành viên ngày càng trầm trọng; đồng thời tạo thêm gánh
nặng cho các môi trường giáo dục khác (nhà trường, xã hội) và gây ảnh hưởng xấu
đến truyền thống văn hóa, con người Việt Nam.
Có thể khẳng định cuộc sống gia đình ở Thái Bình hiện nay có rất nhiều biến
động, hầu như nhà nào cũng có “sóng”, bên cạnh những dấu cộng, dấu nhân quý giá
lại có biết bao nhiêu dấu trừ, dấu chia đầy nuối tiếc! Và người bị tổn thương nhất
không phải là bản thân cha mẹ trẻ, mà là những đứa con của họ. Vậy các bậc cha
mẹ trẻ ở Thái Bình phải làm gì để tiếp tục phát huy tác dụng của gia đình, giúp trẻ
có được cuộc sống tốt đẹp nhất, được phát triển toàn diện trong sự yêu thương và
trân trọng của người thân?
Chính vì nhiều lý do như trên, tôi chọn đề tài: “Phát huy vai trò của gia
đình trong việc giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái Bình hiện nay” với hy vọng đề tài này
sẽ góp thêm tiếng nói, tình cảm và hành động vào việc nâng cao nhận thức xã hội,


4

hỗ trợ các gia đình phát huy tốt hơn vai trò của mình trong việc giáo dục trẻ và dành
cho trẻ em những điều kiện tốt nhất để phát triển toàn diện.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Gia đình và giáo dục gia đình luôn là những chủ đề hấp dẫn nhiều cá nhân,
tập thể không chỉ trong giới nghiên cứu khoa học xã hội mà trong cả các cơ quan, tổ
chức có liên quan. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các chủ đề này, trong các
công trình ấy phải kể đến một số tác phẩm và công trình khoa học sau:
Tác phẩm “Nói chuyện về giáo dục Gia đình” của A. Ma-ca-ren-cô do Nxb
Kim Đồng, Hà Nội phát hành năm 1978. Với tâm huyết và năng lực vốn có, cùng
với kinh nghiệm của một nhà giáo dục Xô Viết nổi tiếng, A.Ma-ca-ren-cô đặc biệt
quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu. Ông cho rằng điều đó
không phải là khó như nhiều người lầm tưởng, tất cả các bậc cha mẹ đều có thể làm
được, vả lại đó là một công việc lý thú, mang lại niềm vui và hạnh phúc, nó không
khó khăn ghê ghớm như nhiều người lầm tưởng. Nếu tuổi trẻ không được gia đình
giáo dục ngay từ đầu, thì công việc cải tạo sẽ tốn hơn rất nhiều công sức không chỉ
của gia đình, mà xã hội phải quan tâm. Những nguyên lý giáo dục đó cũng như kinh
nghiệm thực tiễn của ông cho đến nay vẫn được đông đảo độc giả tìm đọc và trân
trọng.
“Khoa học giáo dục con em trong gia đình” của Ủy ban Thiếu niên nhi
đồng Trung ương, xuất bản năm 1979, do Đức Minh chủ biên. Cuốn sách này đã
giới thiệu một số quan điểm về giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh vai trò, đặc
điểm của giáo dục gia đình, cung cấp những cơ sở lý luận, những nội dung và yêu
cầu của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ.
“Dạy con nên người” của Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố Hà Nội, xuất bản
năm 1991. Tập thể tác giả ở đây đã cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết
cần thiết về gia đình, về trách nhiệm làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục con cái
nên người trên những mặt cơ bản về Đức, trí, thể , mỹ.
Sách “Chờ đến mẫu giáo thì đã muộn” của tác giả Ibuka Masaru, do nhà
xuất bản Văn học, phát hành tháng 10 năm 2013. Trong tác phẩm này, tác giả đã chỉ
ra bí quyết nuôi dạy con từ lúc lọt lòng của các bà mẹ Nhật, đồng thời là một trong



5
những tác phẩm về nuôi dạy trẻ được cha mẹ Nhật yêu thích nhất. Cuốn sách xuất
bản lần đầu năm 1971, sau này được biên soạn lại và tái bản vào năm 2008. Những
lý thuyết trong cuốn sách rất hữu ích cho các bậc làm cha, làm mẹ ở nước ta.
Sách “Kỷ luật không nước mắt” của Phan Thương, do Nhà xuất bản Văn
hóa- thông tin phát hành. Cuốn sách hướng dẫn các bậc làm cha những phương thức
kiềm chế cách hành xử theo cảm tính trong quá trình nuôi dạy con cái, đồng thời chỉ
cho cha mẹ cách giao tiếp lắng nghe con cái, nghệ thuật trách phạt để trẻ nhận ra lỗi
lầm và khích lệ được những năng lực tiềm ẩn của con, gạt bỏ đi những quan niệm
giáo dục sai lầm, lạc hậu.
Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác như: “Giáo dục đời sống
gia đình” của Nguyễn Đình Xuân - Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 1997; “Gia đình
và phụ nữ trong biến đổi văn hóa xã hội nông thôn” của Nguyễn Linh Khiếu - Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội. 2001; “ Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát
triển nhân cách trẻ em” của Lê Như Hoa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
2001;“Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới” của GS. Lê Thi- Nxb
Khoa hoc xã hội, Hà Nội.2003; “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của TS. Đỗ Thị Thạch - Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội. 2005;“ Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay” của Nuyễn Thị
Thọ, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2011; “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt
Nam” của Lê Ngọc Văn- Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2011; “ Gia đình và giáo
dục gia đình” của Nguyễn Thị Phương Thủy và Nguyễn Thị Thủy, Nxb Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội, 2014; vv.
Dưới góc độ chuyên ngành, cũng có một số luận văn, luận án nghiên cứu các
vấn đề về Gia đình, Giáo dục gia đình như: Luận văn Th.s của Phan Thanh Hùng:
“Sự biến đổi chức năng gia đình trong kinh tế thị trường hiện nay” Hà Nội.1996;
Luận án T.s của Đặng Thị Linh, “Vấn đề phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay -
Thực trạng và giải pháp” Hà Nội. 1997; Luận án T.s của Nghiêm Sỹ Liêm “Vai trò

của Gia đình Việt Nam hiện nay trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay”
Hà Nội. 2001; Luận án TS của Dương Thị Minh “Gia đình Việt Nam vai trò người
phụ nữ hiện nay” Hà Nội. 2003; và rất nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ có liên quan


6
của học viên trường Đại học Quốc gia Hà Nội do nhiều PGS.TS nổi tiếng, có trình
độ chuyên môn sâu rộng hướng dẫn như: Luận văn “Thực hiện và phát huy chức
năng giáo dục trẻ em của gia đình nông dân ở huyện Hoa Lư - tỉnh Ninh Bình hiện
nay” Hà nội. 2011; “Gia đình và vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em ở nước ta hiện nay” Hà nội. 2010; Luận văn “Vai trò giáo dục
của gia đình đối với trẻ em hư ở thành phố” Hà nội. 2011; “Vấn đề giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay” Hà Nội.2012;
“Quan niệm của Nho giáo về đạo đức gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc hoàn
thiện đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay” Hà Nội. 2014; “Những biến đổi của đạo
đức gia đình truyền thống trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay” Hà Nội. 2014; vv
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm rõ hơn mặt lý luận cũng
như thực tiễn về vai trò của gia đình trong việc giáo dục con người nói chung,
trẻ em nói riêng. Tuy nhiên căn cứ vào điều kiện thực tiễn ở tỉnh Thái Bình
hiện nay, vai trò giáo dục của gia đình còn nhiều hạn chế. Tôi thấy rằng việc
phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục trẻ em ở Thái Bình hiện nay là
một vấn đề bức xúc và cấp thiết, không trùng lặp với các luận văn, luận án sau
đại học hay các công trình nghiên cứu đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng việc giáo dục trẻ em của các gia đình ở tỉnh
Thái Bình hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy tốt
hơn vai trò của gia đình trong công tác giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái Bình hiện nay.
* Nhiệm vụ:


+ Luận văn trình bày những vấn đề lý luận về gia đình với tư cách là chủ thể
giáo dục trẻ em.
+ Phân tích những nội dung cơ bản của công tác giáo dục trẻ em trong gia
đình ở tỉnh Thái Bình giai đoạn hiện nay.
+ Làm rõ thực trạng giáo dục trẻ em trong các gia đình ở tỉnh Thái Bình giai
đoạn hiện nay.


7
+ Rút ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp,
kiến nghị để từ đó phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái
Bình giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo
dục trẻ em ở địa bàn tỉnh Thái Bình hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về gia đình, trẻ em và vai trò của
gia đình trong việc giáo dục trẻ em.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng
hợp, lôgic, lịch sử, so sánh, điều tra xã hội học.

6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về
việc phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục trẻ em ở tỉnh Thái Bình hiện
nay.
- Luận văn thành công sẽ cung cấp nguồn tư liệu để các cấp ủy chính quyền
các tổ chức xã hội, các gia đình ở Thái Bình tham khảo, từ đó làm tốt hơn công tác
giáo dục trẻ em.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương, 6 tiết.










8
CHƢƠNG 1
GIA ĐÌNH VỚI TƢ CÁCH LÀ CHỦ THỂ GIÁO DỤC TRẺ EM

1.1. Tầm quan trọng của giáo dục gia đình đối với trẻ em.
1.1.1. Gia đình và chức năng giáo dục của gia đình
*) Khái niệm gia đình:
Trong thời đại hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội với nhiều vấn đề
mới nảy sinh, trong đó vấn đề gia đình cũng có những biến đổi rất phức tạp. Những
chủ đề nghiên cứu về gia đình luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa
học không chỉ ở Việt nam mà cả trên thế giới. Vậy gia đình là gì? Để trả lời câu hỏi
này cho đến nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau, bởi đây là một phạm trù rộng,
không ngừng biến đổi dưới tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội.
Trong thời đại của mình, Các Mác cho rằng gia đình là tổ chức đặc biệt quan
trọng để duy trì nòi giống, các thành viên của gia đình có mối quan hệ tình cảm ruột
thịt với nhau. Điều này được thể hiện rõ qua quan niệm: “Hàng ngày tái tạo ra đời
sống của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở.

Đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [23, tr.41]
Tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc gắn gia đình trong mối quan hệ mật
thiết với xã hội, khẳng định: Gia đình là yếu tố tự nhiên cơ bản, một đơn vị kinh tế
xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại, cần được
giữ gìn và phát huy. Trên tinh thần đó UNESCO đã đưa ra định nghĩa như sau: Gia
đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách
chung với các thành viên trong gia đình, gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền
lợi về mọi mặt được pháp luật thừa nhận.
Tác giả Nguyễn quốc Tuấn dưới góc độ luật học xem xét gia đình là một tập
hợp dựa trên các quan hệ về hôn nhân, về huyết thống và về nuôi dưỡng, đã gắn bó
những con người có quan hệ với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ về tài sản và về
nhân thân, bởi sự cộng đồng về đạo đức và vật chất để tương trợ nhau, cùng làm
kinh tế chung và nuôi dạy con cái[59].


9
Trên bình diện tâm lý học, giáo sư Lê Thi- người đã dày công nghiên cứu về
đề tài gia đình cho rằng: “Khái niệm gia đình được dùng để chỉ một nhóm xã hội
hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, nảy sinh từ quan hệ
hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại).
Đồng thời, gia đình cũng có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng,
tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau về trách
nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc
có tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật Hôn
nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời, trong gia đình có những quy định rõ ràng
về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành
viên” [51,tr.42]
Như vậy, có thể thống kê rất nhiều định nghĩa về gia đình, bởi mỗi tác giả
đứng trên các bình diện nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa, trong văn bản của Liên
hiệp quốc cũng đã lưu ý rằng: Gia đình là một thể chế có tính toàn cầu nhưng lại có

những hình thức, vai trò khác nhau thay đổi từ nền văn minh này sang nền văn minh
khác, dân tộc này so với dân tộc kia. Do đó, không thể đưa ra một định nghĩa chung
có thể áp dụng cho toàn cầu [13,tr 5].
Tuy nhiên, từ những định nghĩa trên chúng ta có thể nhận thấy: có ba mối
quan hệ thường được nhắc tới khi đề cập đến gia đình đó là: quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên.
Quan hệ hôn nhân là sự liên kết giữa một nam và một nữ theo quy định của
pháp luật nhằm chung sống với nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc. Đây là quan
hệ cơ bản, đầu tiên cần phải có của mỗi gia đình, nó là tiền đề cho các mối quan hệ
khác. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang
tính giai cấp. Mỗi hình thái kinh tế- xã hội có các kiểu hôn nhân đặc trưng và các
giai cấp thống trị dùng luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý
chí và lợi của giai cấp mình.


10
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng trực hệ dòng máu, là
sự tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân. Nó chỉ phát triển tốt đẹp dựa
trên quan hệ tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp.
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa chủ thể nuôi dưỡng và đối tượng được
nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau không chỉ vì trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi được
họ hàng ủng hộ và pháp luật thừa nhận, bảo vệ mà cao hơn là tình thương yêu, đùm
bọc, sẻ chia những vui buồn trong cuộc sống.
Có lẽ, nghiên cứu về gia đình nói chung, định nghĩa gia đình nói riêng còn
nhiều vấn đề cần tìm hiểu thêm và còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học. Nhìn nhận gia đình từ phương diện chuyên ngành, tôi cho rằng: Gia đình
là một hình thức cộng đồng xã hội đặc thù, được hình thành, duy trì và củng cố chủ
yếu trên cơ sở các mối quan hệ cơ bản là hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng được
xã hội thừa nhận. Các thành viên của gia đình có những giá trị vật chất, tinh thần
chung, gắn bó với nhau bởi trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ nhằm mục tiêu cao

nhất là nuôi dưỡng các thành viên, xây dựng gia đình hạnh phúc, phát triển kinh tế
gia đình.
*) Chức năng giáo dục của gia đình
Gia đình có các chức năng cơ bản như: Chức năng tái sản xuất ra con người,
chức năng kinh tế, chức năng tiêu dùng, chức năng giáo dục, chức năng thỏa mãn
các nhu cầu tâm sinh lý tình cảm giữa các thành viên trong gia đình. Trong đó, chức
năng giáo dục có một vai trò đặc biệt quan trọng, liên quan mật thiết tới sự phát
triển bền vững của mọi quốc gia nói chung và sự phát triển toàn diện con người nói
riêng.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, con người là một thực thể xã hội mang bản chất
xã hội, đồng thời là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh học. Mặt tự nhiên và
mặt xã hội trong con người không tách rời, đối lập nhau, mà thống nhất biện chứng
và tác động qua lại lẫn nhau. Thực tế nghiên cứu về “người sói” cũng đã chứng
minh: Con người muốn trở thành con người cần phải có giáo dục. Từ nhỏ, con
người không được giáo dục, lớn lên không khác gì cây hoang, cỏ dại ở ngoài đồng


11
và nếu không được sống trong môi trường gia đình và xã hội thì cũng không khác
mấy các loài động vật, không thể trở thành con người theo đúng nghĩa.
Và từ kinh nghiệm thực tế cuộc sống, ông cha ta đã đúc kết rằng: “Con nhà
tông, không giống lông cũng giống cánh” và phải “Uốn cây từ thủa còn non, dạy
con từ thủa con còn trẻ thơ”. Do đó mà từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành, mỗi
thành viên nhỏ tuổi trong gia đình thường được ông bà, cha mẹ và người thân nuôi
dưỡng, truyền thụ những kinh nghiệm sống, những phẩm chất đạo đức để trở thành
công dân có ích của xã hội và là người con, người cháu hiếu thảo của gia đình. Giáo
dục gia đình không những có tác dụng mạnh mẽ, có ý nghĩa sâu sắc đối với tuổi thơ
mà còn có ảnh hưởng đối với cả cuộc đời của con người lúc trưởng thành cho đến
lúc tuổi già. Những phẩm chất đạo đức, tính cách cũng như những năng lực chuyên
biệt của bố mẹ thường ảnh hưởng rất lớn đối với con cái trong gia đình, nhất là khi

trẻ còn nhỏ. Điều này đã được nhà giáo dục học nổi tiếng A.Ma-ca-ren-cô khẳng
định: Những gì mà cha mẹ đã làm cho con trước 5 tuổi, đó là 90% kết quả của quá
trình giáo dục.
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả giáo dục tri thức và
kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý thức
cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song chủ yếu là
phương pháp nêu gương, thuyết phục và chịu ảnh hưởng không ít của tư tưởng, lối
sống, tâm lý, gia phong của truyền thống gia đình .
Giáo dục gia đình được thực hiện ở mọi chu trình sống của con người: Lúc
còn ẵm ngửa, giai đoạn tuổi thơ, khi trưởng thành, lúc già cả Ở từng chu trình ấy
có những nội dung và hình thức giáo dục cụ thể như: lời ru của mẹ, tấm gương sống
và làm việc của người thân, những nhắn nhủ của cha mẹ, giảng giải của ông bà,
Do đó, dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định,
nhưng có những nội dung và phương pháp lại được giáo dục gia đình mang lại hiệu
quả lớn không thể thay thế. Giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo dục. Vì vậy,
chủ thể giáo dục gia đình chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ông bà đối với con cháu.
Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung hoàn thiện thêm cho


12
giáo dục nhà trường và xã hội. Cho nên, dù giáo dục nhà trường và xã hội có phát
triển lên trình độ nào, giáo dục gia đình vẫn được coi là một thành tố của nền giáo
dục nói chung, phục vụ các lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại
nào khi xã hội còn giai cấp và phân chia giai cấp.
Trong điều kiện hiện nay, chất lượng giáo dục con người không ngừng được
nâng cao. Môi trường tạo ra chất lượng đó là gia đình, nhà trường và xã hội, nhưng
chủ yếu vẫn là gia đình- cái nôi nuôi dưỡng, phát triển nhân cách đạo đức, tình cảm
thẩm mĩ Tuy nhiên, với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và sự phát
triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, sự đa dạng và nhiều màu sắc của văn
hóa thì giáo dục gia đình cũng có nhiều thay đổi. Bên cạnh những bậc phụ huynh

vẫn quan tâm chăm sóc giáo dục con cái, trong xã hội vẫn còn xuất hiện thêm
những ông bố, bà mẹ chỉ lo làm kinh tế, phó mặc việc dạy bảo con cái mình cho nhà
trường và xã hội, thậm chí là phó mặc cho người giúp việc, buông lỏng giáo dục
đạo đức và cách ứng xử thiếu tình nghĩa đã gây ra cho trẻ nhiều hậu quả nghiêm
trọng. Có những gia đình đã dung túng cho tính tham lam, ích kỷ, ngang ngược của
con và để quan niệm tư lợi, lối sống thực dụng “đồng tiền lên trên hết” ngự trị trọng
mọi hoạt động của gia đình. Thậm chí có những gia đình cha mẹ sống buông thả, có
hành vi thất đức, buôn gian bán lận đã làm ảnh hưởng không tốt đến nhân cách và
việc giáo dục trẻ.
Ngày nay, với chức năng giáo dục, gia đình thực sự góp phần lớn lao vào việc
đào tạo thế hệ trẻ và xây dựng con người mới, duy trì và phát triển đạo đức, văn hóa
dân tộc. Do đó, để thực hiện chức năng giáo dục gia đình có hiệu quả, chúng ta phải
chú ý đến mối quan hệ không thể tách rời giữa gia đình- nhà trường và xã hội, tiến
tới mục tiêu giáo dục tư tưởng, tình cảm lành mạnh cho thế hệ trẻ, góp phần nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Hơn nữa, trong mỗi
gia đình ông bà, cha mẹ phải là tấm gương sáng cho con cháu noi theo, những
người lớn tuổi trong nhà cũng phải nâng cao hiểu biết về tâm sinh lý trẻ, về khoa
học công nghệ sao cho chất lượng giáo dục gia đình đạt hiệu quả tốt nhất.



13
1.1.2. Trẻ em trong gia đình và trong phát triển xã hội
1.1.2.1. Trẻ em
*) Khái niệm trẻ em
Từ xưa đến nay trẻ em luôn được coi là hạnh phúc của gia đình, là tương lai
của dân tộc. Đã có rất nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nghiên
cứu về trẻ em như các ngành tâm lý học, luật học, triết học, y học, xã hội học Và
đây cũng là đối tượng được nhiều tổ chức trong nước và quốc tế quan tâm.
Khái niệm trẻ em được quốc tế sử dụng thống nhất và đã được đề cập trong

Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ (năm 1924), Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền trẻ em
(năm 1959), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1968), Công ước quốc
tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (năm 1966), Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị (năm 1966), Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm
1989), Công ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc
(năm 1976), Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em (năm 1990).
Theo điều 1 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em: “Trẻ em được xác định là
người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
“Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm người trong xã hội thuộc một độ
tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người”. Trẻ em là những
người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần
được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp
lý trước cũng như sau khi ra đời[15, tr.3].
Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 ở nước ta quy
định: Trẻ em là “Công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”[20,tr. 1]. Đây là những người
chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và
kinh nghiệm sống còn nhiều hạn chế, thiếu những điều kiện để tự lập và khả năng
kìm chế chưa cao nên dễ bị kích động lôi kéo vào những hoạt động phưu lưu mạo
hiểm. Mọi suy nghĩ về cuộc sống của các em thiên về tình cảm, dễ xúc động, dễ
hành động cảm tính. Điều này đòi hỏi các bậc phụ huynh phải hết sức khéo léo, am


14
hiểu tâm lý của trẻ nhỏ, uốn nắn nhẹ nhàng sao cho có hiệu quả vì trẻ ở mỗi độ tuổi
lại có những đặc điểm không giống nhau.
*) Đặc điểm trẻ em:
- Đặc điểm về tâm lý của trẻ em:
Tâm lý (của con người) là toàn bộ sự phản ánh của hiện thực khách quan vào
ý thức con người, bao gồm nhận thức, tình cảm, ý chí, biểu hiện trong hoạt động
và cử chỉ của mỗi người. Tâm lý người bao giờ cũng là “cái riêng” của từng người,

nhưng “cái riêng” ấy từ “cái chung” của loài người, dân tộc, gia đình mà ra. Bằng
giáo dục, vui chơi, lao động và giao tiếp, gia đình và xã hội truyền đạt các tri thức
ấy từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi người lại có cách thức khác nhau để lĩnh hội
tri thức và biến nó thành vốn sống của riêng mình, đó chính là tâm lý của bản thân
mỗi người. Cuộc sống càng phức tạp, đa dạng, sinh động chừng nào thì tâm lý con
người càng phức tạp, đa dạng, sinh động chừng đó.
Căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý và cả sự trưởng thành cơ thể
của trẻ em, người ta chia ra một số giai đoạn chủ yếu sau:
Giai đoạn sơ sinh
Trẻ em từ khi sinh ra đến dưới 18 tháng tuổi. Giai đoạn này, trẻ nhỏ còn non
nớt và bỡ ngỡ với môi trường cuộc sống mới ngoài bụng mẹ. Khi còn dưới 18 tháng
tuổi, trẻ thể hiện mọi nhu cầu của mình bằng “tiếng khóc”, nếu muốn ăn, muốn thay
tã lót, muốn được nâng niu, âu yếm, muốn được bảo vệ khi cảm thấy nguy hiểm…
thì tiếng khóc là ngôn ngữ duy nhất của trẻ em. Nếu cha mẹ, người chăm sóc trẻ
quan tâm, đáp ứng lại các nhu cầu đó, trẻ yên tâm, tin tưởng vào người chăm sóc
mình. Khi trưởng thành niềm tin này phát triển thành niềm tin vào các mối quan hệ
xã hội và vì vậy, giao tiếp, quan hệ của trẻ em với những người xung quanh thuận
lợi, là cơ sở của các hành vi và cách ứng xử phù hợp, được xã hội chấp nhận.
Ngược lại, những trẻ em không được đáp ứng nhu cầu một cách phù hợp có thể
hình thành tâm lý không tin tưởng và lâu dài sẽ khó khăn trong niềm tin đối với các
mối quan hệ xã hội.



15
Giai đoạn nhà trẻ
Trẻ em từ 18 tháng tuổi đến dưới 36 tháng tuổi. Giai đoạn này, trẻ mới tập đi,
tập nói, ở trẻ bắt đầu hình thành cách hay bắt chước, thích khám phá mọi vật xung
quanh, muốn tỏ ra độc lập, muốn giải quyết vấn đề theo cách của mình. Trẻ ở giai
đoạn này có nhu cầu được bảo vệ và hướng dẫn về cái gì được, cái gì không được

một cách chu đáo. Các nhà tâm lý học gọi đây là giai đoạn của sự lựa chọn giữa độc
lập và tự ti. Nếu trẻ học được cách biết nghe lời chỉ dẫn, biết tuân theo kỷ luật
(trước hết là tập đi vệ sinh đúng chỗ quy định chẳng hạn) thì sau này trẻ sẽ phát
triển tính tự lập. Trong trường hợp người lớn không hướng dẫn, giảng giải cụ thể,
trẻ không hiểu và không biết kỷ luật, khi gặp các trường hợp nguy hiểm (bị bỏng do
nghịch nước sôi, đưa tay vào ổ điện…) thì sau này, trẻ em cảm thấy tự ti, không
mạnh dạn phát triển tính độc lập của mình.
Giai đoạn mẫu giáo
Trẻ em từ 36 tháng tuổi đến dưới 60 tháng tuổi. Trong độ tuổi này, trẻ em bắt
đầu hình thành năng lực tự chủ, có sự định hướng những hành vi công việc của
mình. Nếu cha mẹ cười hoặc giễu cợt, phê phán con trước những nỗ lực chưa thực
hiện được của nó thì trẻ sẽ luôn cảm thấy điều mình làm là có lỗi. Ngược lại, nếu
được cổ vũ, khích lệ thì trẻ rất sung sướng và nỗ lực hơn nữa. Tình cảm hồn nhiên,
dễ yêu, dễ hờn giận, muốn được tự chủ là một trong những nét tâm lý nổi bật của trẻ
giai đoạn này. Tương ứng với giai đoạn này là sự lựa chọn giữa mong muốn được
chủ động, sáng tạo và cảm giác có lỗi, xấu hổ và đang dần hình thành ý thức, tính
cách.
Giai đoạn nhi đồng - thiếu nhi
Trẻ em từ 6 tuổi đến 12 tuổi. Độ tuổi này trẻ rất háo hức và sẵn sàng học nhiều
điều mới. Tất cả các nước trên thế giới đều qui định đây là độ tuổi cho trẻ đến
trường phổ thông.
Lứa tuổi nhi đồng - thiếu nhi, trẻ em bắt đầu làm quen với những khái niệm
khoa học ở trường tiểu học. Các em học tuân theo những yêu cầu "lao động" học
tập. Cần quan tâm giáo dục tính chăm chỉ, cần cù cho trẻ để sau này trẻ có được


16
phẩm chất chăm chỉ, cần cù. Phẩm chất cần cù là điều kiện thiết yếu nuôi dưỡng
ham muốn học hỏi, lao động của người lớn, những kỹ xảo hành động đặc trưng cho
người lớn và chuẩn bị để nắm bắt vai trò của người lớn. Nhiều thí nghiệm tâm lý

cho thấy, các em tuổi nhi đồng - thiếu nhi được tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng
phong phú ở môi trường xung quanh giúp các em có khả năng nhận thức thế giới
sâu sắc thêm… Nếu trẻ không được khen về những kỹ năng đã đạt được của mình
thì các em sẽ có cảm giác kém cỏi, tự ti. Thái độ của người lớn, của môi trường giáo
dục sẽ đặt trẻ trước sự lựa chọn: cần cù, chăm chỉ, ham học hỏi hay tự ti.
Giai đoạn thanh thiếu niên
Trẻ em từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi. Trong giai đoạn này, trẻ ý thức về bản
thân, bắt đầu hình thành ý thức hệ. Đây là giai đoạn các em bước vào bậc trung học
cơ sở, hoạt động chủ đạo của các em là giao tiếp. Có thể nói đây là lứa tuổi quá độ
trong quá trình phát triển từ trẻ em thành người lớn. Sự phát triển cơ thể và sự chín
muồi giới tính nhanh chóng tạo ra cuộc "cách mạng tâm lý" trong các em. Điều đó
gây ra nỗi sợ hãi và sự căng thẳng, nhân cách lúc này bị giằng co giữa những xu thế
trái ngược nhau, khi hăng hái, lúc chán nản bi quan và có thể dẫn đến trầm lặng.
Trẻ em ở tuổi thanh thiếu niên rất tò mò, ham hiểu biết, rất thích cái mới và
khám phá cái mới của mình. Hoạt động trí tuệ của các em phát triển nhiều hơn
nhiều so với lứa tuổi trước nhờ sự phát triển tư duy trừu tượng, ghi nhớ và chú ý có
chủ định, trí tưởng tượng phong phú. Mặt khác, ở lứa tuổi này, hứng thú học tập và
hứng thú nghề nghiệp trong tương lai của các em được hình thành rõ nét. Trẻ em ở
tuổi thanh thiếu niên đã bộc lộ không chỉ những năng khiếu, mà còn cả những tài
năng.
Sự giao tiếp của thanh thiếu niên đã vượt ra khỏi phạm vi học tập, phạm vi nhà
trường. Trong quá trình mở rộng quan hệ giao tiếp, trẻ em ở tuổi thanh thiếu niên có
nhiều hoạt động tập thể phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức, nhờ đó
kiến tạo nên những quan hệ mới trong cuộc sống hàng ngày. Thanh thiếu niên có
những nhu cầu cần được người lớn tôn trọng, sự can thiệp thô bạo, áp đặt đối với
các em có thể dẫn đến sự phản kháng mạnh mẽ. Trẻ em ở tuổi thanh thiếu niên bắt


17
đầu có sự ý thức, tự nhìn nhận về bản thân mình, nếu có sự định hướng đúng thì các

em có thể có sự tự giáo dục. Ở độ tuổi này trẻ đã chú ý đánh giá hành vi, thái độ của
người lớn và có thái độ phê phán, xem xét, bình luận về các hành vi, thái độ của
người lớn.
Trong khi cần sự giúp đỡ của cha mẹ hơn bao giờ hết, các em lại muốn tỏ ra
độc lập hoàn toàn. Điều này đôi khi gây lúng túng cho người lớn. Để củng cố lòng
tự trọng cho các em, người lớn cần tôn trọng ước muốn không phụ thuộc của trẻ
đồng thời cần cho các em biết giới hạn của mọi hành vi nhằm giữ an toàn cho
chúng. Sự trung thực và bao dung của cha mẹ ở giai đoạn này là vô cùng cần thiết
để giúp cho trẻ độc lập trong suy nghĩ, có quan hệ tốt với người khác, hình thành
trong con người trẻ một con người có cá tính, một người lao động thực thụ, một
người bố hay người mẹ trong tương lai.
Nếu trẻ không được dạy dỗ đúng mực, thiếu tự chủ, trẻ dễ có những hành
động lệch lạc với chính mình hay với người khác và đó thường là nguy cơ đưa trẻ
tới những hành vi sai trái như: trộm cắp, quấy phá, chán học, bỏ học, uống rượu,
đánh bạc, sử dụng ma tuý
Đây cũng là giai đoạn trẻ đang phải tách ra độc lập khỏi gia đình, những người
thân một cách tự nhiên để chuẩn bị bước vào cuộc sống độc lập của một người
trưởng thành, thiết lập những quan hệ xã hội mới như quan hệ bạn bè khác giới.
Đây là giai đoạn rất khó khăn trong tâm lý của trẻ và để làm được điều này, trẻ
thường hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình. Những trẻ em có giai đoạn đầu đời thuận
lợi, có niềm tin vào các mối quan hệ xã hội thường giải quyết khó khăn của mình
bằng những cách tích cực như tìm đến thơ ca, văn nghệ, thể thao, thậm chí cả chính
trị và thường tìm thấy những người bạn cùng giới hoặc khác giới có cùng sở thích
để chia sẻ. Ngược lại, các em có khó khăn trong quan hệ xã hội thường khó khăn
trong tìm bạn để thay thế các mối quan hệ gia đình và thường có cách giải quyết
khó khăn của mình theo hướng tiêu cực.
- Đặc điểm về sự phát triển của trẻ em


18

Sự phát triển của trẻ em được hiểu là một quá trình biến đổi tổng thể, cải biến
toàn vẹn tổng thể sức mạnh thể chất, tinh thần và xã hội, cũng như các năng lực của
trẻ em có tính đến các lứa tuổi. Sự phát triển về thể chất biểu hiện sự tăng trưởng về
chiều cao, cân nặng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan, sự phối hợp các vận động.
Sự phát triển về mặt xã hội biểu hiện ở những biến đổi trong cách cư xử với những
người xung quanh, trong việc tích cực tham gia vào đời sống xã hội. Do đó, nói đến
sự phát triển của trẻ em cũng là nói đến sự phát triển toàn diện, hài hòa nhân cách
của trẻ em.
Sự phát triển nhân cách của trẻ em diễn ra theo thời gian, mang tính quy luật,
tính chu kỳ nhất định trong sự luân phiên các hình thái phản ánh các hoạt động chủ
đạo. Nhân cách của trẻ em chỉ có thể hình thành và phát triển trong hoạt động giao
lưu. Hoạt động cơ bản của trẻ em là vui chơi và học tập, thông qua học tập và vui
chơi trẻ em lĩnh hội được các giá trị văn hóa của loài người để biến thành những
thuộc tính, nhân cách của bản thân và nắm được các tri thức, kỹ năng, hình thành
thái độ và phát triển được những năng lực cần thiết để tham gia các loại lao động xã
hội, đặc biệt là lao động sản xuất.
- Đặc điểm về sự tham gia của trẻ em:
Trước hết, đó là việc trẻ em được tham gia ý kiến, bày tỏ suy nghĩ, nguyện
vọng của mình đối với người lớn trong những việc liên quan đến bản thân. Trẻ
muốn những ý kiến của mình được người lớn coi trọng, xem xét trong khi quyết
định những việc liên quan, nhằm đảm bảo những lợi ích tốt đẹp nhất cho các em.
Mặt khác đó còn là sự tham gia của trẻ em vào nhiều vấn đề của cuộc sống. Mức độ
tham gia tùy theo sự phát triển của trẻ em, như Bác Hồ đã căn dặn “tuổi nhỏ làm
việc nhỏ, tùy theo sức của mình”. Sự tham gia của các em được coi là nhóm quyền
cơ bản trong luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở nước ta (điều 8) cũng như
Công ước quốc tế về quyền trẻ em (điều 12,13,14,15,16).
Để thực hiện tốt quyền tham gia của trẻ em, các thành viên trong gia đình, nhà
trường và xã hội cần tạo điều kiện và khuyến khích trẻ em được biết về những vấn
đề có liên quan đến các em, khuyến khích và giúp đỡ các em có suy nghĩ độc lập,



19
phù hợp với những chuẩn mực giá trị đạo đức, mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình
đồng thời lắng nghe và tôn trọng ý kiến của các em.
1.1.2.2 Trẻ em trong gia đình và trong sự phát triển của xã hội
*) Trẻ em trong gia đình:
Trẻ em là sự nối dài cuộc đời của cha mẹ, là thành phần quan trọng cấu thành
gia đình. Mỗi đứa trẻ được sinh ra là kết quả tình yêu của cha mẹ, là hạnh phúc
tương lai của gia đình, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng chính là hai
trong ba quan hệ cơ bản tạo nên gia đình. Chính vì vậy trẻ em luôn là nguồn vui,
nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là người kế tục sự nghiệp của cha ông, dòng họ,
đồng thời là đối tượng cần được chăm sóc giáo dục đặc biệt của các thành viên, nhất
là từ các bậc cha mẹ. Phần lớn các bậc cha mẹ luôn coi con cái là niềm hy vọng lớn
lao, là tương lai của gia đình nếu chúng khôn lớn, khỏe mạnh, trưởng thành, giúp
ích được cho đời, hiếu thảo với ông bà cha mẹ và biết sống hòa thuận. Ngược lại, họ
thấy bất hạnh lớn nếu như con cái bị tật nguyền, và nhất là chúng hư đốn, bất hiếu,
ích kỷ, hại nước, hại dân. Họ sẵn sàng hy sinh cho con, dành tất cả những gì tốt nhất
có thể để cho con họ có một tương lai tốt đẹp hơn, bất kể cuộc sống hôn nhân của
bản thân có hạnh phúc hay không, với tinh thần “Cha mẹ nhận một đời bão tố để
cho con mãi được bình yên”. Nói như vậy để thấy rằng trong các tài sản của gia
đình, trẻ em luôn được coi là tài sản quý báu nhất, không gì có thể mua đổi được;
trong các tình cảm của mỗi bậc cha mẹ thì đây là tình cảm gần gũi sâu nặng nhất;
trong các trách nhiệm của gia đình thì đây là trách nhiệm trực tiếp nhất; trong các
hy vọng của cha mẹ thì đây là hy vọng lớn lao nhất.
- Trẻ em trong xã hội:
Trẻ em là lớp công dân đặc biệt, là lực lượng lao động và là chủ nhân tương
lai của đất nước. Giáo dục trẻ em không chỉ là trách nhiệm của gia đình mà còn là
trách nhiệm của Nhà nước và của toàn xã hội. Khẩu hiệu “Trẻ em hôm nay- thế giới
ngày mai” đã và đang trở thành phương châm hành động của nhiều quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt nam.

×