Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con người ở thành phố cần thơ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.37 KB, 118 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





LÂM THỊ KHO



TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
VÀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở THÀNH PHỐ
CẦN THƠ HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC









Hà Nội - 2014



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





LÂM THỊ KHO



TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
VÀ PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở THÀNH PHỐ
CẦN THƠ HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 02 04



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lại Quốc Khánh







Hà Nội - 2014
1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lại Quốc Khánh. Thông tin
và số liệu được sử dụng trong luận văn là hoàn toàn trung thực, chính xác,
các trích dẫn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Lâm Thị Kho











2

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 3
2.1. Luận văn, luận án 3
2.2. Các sách chuyên khảo 4
2.3. Các bài báo đăng trên các tạp chí 6
2.4. Đánh giá tổng quan về các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận văn 8
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 9
6. Những đóng góp mới của đề tài 10
7. Ý nghĩa của luận văn 10
8. Kết cấu của luận văn 10
Chƣơng 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGUỒN LỰC CON NGƢỜI 11
1.1. Khái niệm con ngƣời, nguồn lực con ngƣời và phát huy nguồn lực
con ngƣời 11
1.1.1. Khái niệm con người 11
1.1.2. Khái niệm nguồn lực con người 14
1.1.3. Khái niệm phát huy nguồn lực con người 18
1.2. Nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nguồn lực con ngƣời 21
1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nguồn lực con người 21
1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của nguồn lực con người trong
sự nghiệp cách mạng 25
1.2.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng và phát huy nguồn lực
con người 33
3

Chƣơng 2. PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƢỜI Ở THÀNH PHỐ

CẦN THƠ HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 50
2.1 . Thực trạng phát huy nguồn lực con ngƣời ở thành phố Cần Thơ
giai đoạn (2005 - 2013) 50
2.1.1. Đặc điểm nguồn lực con người ở thành phố Cần Thơ 50
2.1.2. Những thành tựu và hạn chế trong phát huy nguồn lực con người ở
thành phố Cần Thơ từ năm 2005 đến 2013 54
2.1.2.1. Thành tựu 54
2.1.2.2. Hạn chế 59
2.1.3. Nguyên nhân của hạn chế và bài học kinh nghiệm phát huy nguồn lực
con người ở thành phố Cần Thơ 64
2.1.3.1. Nguyên nhân của hạn chế 64
2.1.3.2. Bài học kinh nghiệm 67
2.1.4. Những vấn đề đặt ra đối việc phát huy nguồn lực con người ở thành phố
Cần Thơ đến năm 2020 68
2.2 . Phƣơng hƣớng và những giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con ngƣời ở
thành phố Cần Thơ đến năm 2020 theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh 72
2.2.1. Phương hướng phát huy nguồn lực con người ở thành phố Cần Thơ đến
năm 2020 72
2.2.2. Những giải pháp phát huy nguồn lực con người ở thành phố Cần Thơ đến
năm 2020 75
KẾT LUẬN 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHỤ LỤC

4

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc phân theo thành thị và
nông thôn so với dân số 51

Bảng 2.2: Lao động từ 15 tuổi đã qua đào tạo năm 2013 53
Bảng 2.3: Giáo dục học cao đẳng, đại học giai đoạn 2005 - 2013 55
Bảng 2.4: Tỷ lệ thất nghiệp phân theo giới tính, thành thị và nông thôn 57
Bảng 2.5: Cân đối lao động xã hội năm 2013 70

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cả cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với sự
nghiệp giải phóng con người, chăm lo cho con người và tìm cách phát huy
mọi nguồn lực của con người để làm lợi cho chính họ. Người luôn tin vào sức
mạnh của con người, đánh giá về sức mạnh con người, Người khẳng định:
“Có dân là có tất cả”, cho nên bí quyết để đem lại cuộc sống tự do, ấm no,
hạnh phúc cho con người chính là “Đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi
cho dân”… Ở Hồ Chí Minh, con người và nguồn lực con người luôn được
nhắc đến như một mục tiêu thiêng liêng và cao cả của sự nghiệp cách mạng
mà suốt cuộc đời Người hằng theo đuổi. Tư tưởng coi phát huy nguồn lực con
người là nhân tố quyết định thành công của cách mạng luôn quán xuyến trong
tư duy, đường lối và phương pháp lãnh đạo cách mạng của Hồ chí Minh. Vì
vậy, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, đề cao, nêu bật vai trò của giáo dục đào
tạo trong tiến trình xây dựng phát huy nguồn nhân lực và coi đó là một chiến
lược lâu dài. “Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, Người luôn đặt niềm
tin vào thế hệ con người mai sau như đã từng viết thư nhắn gửi: “Non sông
Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính
là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [59, tr. 33].
Hiện nay, khi hội nhập kinh tế quốc tế trở thành xu thế tất yếu, nhân
loại đang bước sang nền kinh tế tri thức thì vai trò nguồn lực con người, nhất

là nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển chiếm vị trí đặc
biệt quan trọng. Thực tế cho thấy, sự nghiệp đổi mới nước ta đang đặt ra
những yêu cầu mới cho nguồn lực con người và việc phát huy nguồn lực con
người, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những
2

yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững đất nước” [23, tr. 41]; nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và phát triển nhân tài là nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu
tố quyết định đẩy mạnh phát triển ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng
nhất, bảo đảm cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [23, tr. 130].
Như vậy, con người thực sự là nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của
mọi tài nguyên, là nguồn lực nội sinh quan trọng quyết định thành công sự
nghiệp cách mạng.
Hòa vào xu thế chung của cả nước, thành phố Cần Thơ đang chuyển
đồi mô hình tăng trưởng theo hướng đào tạo, phát huy nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương và hội nhập kinh quốc
tế. Đại hội Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XII nêu phương hướng phát
triển thành phố giai đoạn 2010 - 2020: “Thực hiện tốt tiêu chí về con người
Cần Thơ trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch. Đào tạo, thu hút, sử
dụng nguồn nhân lực có chất lượng và hiệu quả, quan tâm đội ngũ cán bộ nữ,
trẻ, người dân tộc” [31].
Đào tạo và phát huy nguồn lực con người ở thành phố Cần Thơ trong
những năm qua đã giành được những thắng lợi đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được, việc đào tạo, phát huy nguồn lực con người ở Cần
Thơ còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng chung đến sự phát triển của thành phố.
Làm thế nào để phát huy nguồn lực con người, nguồn lực trí tuệ con người ở

Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay là vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng đòi
hỏi phải được nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống, nhằm tìm kiếm
những giải pháp kịp thời, phù hợp với thực tiễn. Qua nghiên cứu tác giả nhận
thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn lực con người có giá trị về lý luận và
3

thực tiễn quan trọng đối với việc phát huy nguồn lực con người ở Cần Thơ
hiện nay. Chính vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con người ở thành
phố Cần Thơ hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, phát huy nguồn lực con người và
vận dụng tư tưởng đó trong điều kiện hiện nay là một đề tài có ý nghĩa cả về
lý luận và thực tiễn, vì thế đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu
và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Các công trình nghiên cứu đề tài
nói trên rất phong phú, có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Ở
đây, chúng tôi lựa chọn cách phân loại theo loại hình tài liệu do mục tiêu, tính
chất và nhiệm vụ nghiên cứu của các loại hình này có những khác biệt nhất
định, vì thế kết quả nghiên cứu và hình thức thể hiện các kết quả đó cũng
khác nhau. Theo đó, có thể phân loại các công trình nói trên thành một số
nhóm, với các công trình tiêu biểu như sau:
2.1 Luận văn, luận án
Lê Quang Hoan (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc
phát huy nhân tố con người trong CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay, luận án
Tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [48].
Trong luận án này, tác giả đã làm rõ nguồn gốc, quá trình hình thành
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về con người; phân tích làm rõ quan niệm
của Hồ Chí Minh về con người và vai trò của con người trong tiến trình cách
mạng Việt Nam… Tác giả đã rất thành công trong việc phân tích sự vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, vai trò của con người trong sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Lê Thị Ngân (2004), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận
kinh tế tri thức ở Việt Nam, luận án tiến sỹ kinh tế chính trị xã hội chủ nghĩa,
4

Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [73]. Với đề tài này, tác giả Lê Thị
Ngân đã làm rõ khái niệm nguồn lực con người, những yêu cầu đặt ra đối với
việc phát triển nguồn lực con người và giải pháp phát huy nguồn lực con
người trong thời kỳ tiếp cận nền kinh tế tri thức ở nước ta.
2.2 Các sách chuyên khảo
Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá (Nghiên cứu xã hội học), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội [43].
Cuốn sách là sự chuyển tải nội dung của Chương trình khoa học công
nghệ cấp Nhà nước: “Con người Việt Nam - Mục tiêu và động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội”. Đây là một công trình được thực hiện một cách cẩn
trọng, có chất lượng, đem lại những thành tựu to lớn và quan trọng trong lĩnh
vực nghiên cứu về con người và phát huy nguồn lực con người. Trong cuốn
sách này, các tác giả đã phân tích khái quát truyền thống văn hoá dân tộc, đi
sâu làm rõ vấn đề phát huy và sử dụng đúng đắn vai trò động lực của con
người trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, các tác giả đặt vấn đề
chuẩn bị con người Việt Nam phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Lưu Ngọc Trịnh (1996), Chiến lược con người trong “Thần kỳ kinh tế
Nhật Bản”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [81].
Trong tác phẩm này, tác giả Lưu Ngọc Trịnh đã phân tích vai trò quyết
định của nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
trong nền kinh tế thị trường nói riêng. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu quá trình
phát huy và sử dụng nguồn lực con người trong công cuộc phát triển kinh tế
Nhật Bản, tổng kết những bài học của họ và đưa ra những gợi ý rất quan trọng

trong việc vận dụng những bài học của Nhật Bản để sử dụng, phát huy có hiệu
quả nguồn lực con người ở Việt Nam…
5

Nguyễn Văn Khánh (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt nam lịch sử, hiện
trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội sự thật [52]. Đây là công
trình nghiên cứu do tập thể nhiều tác giả như: Nguyễn Vũ Hảo, Lâm Bá Nam,
Hoàng Thu Hương, Lại Quốc Khánh và Nguyễn Văn Khánh làm chủ biên.
Công trình nghiên cứu gồm bốn chương trong đó nghiên cứu chuyên sâu về
những vấn đề lý luận, thực trạng nguồn lực trí tuệ và phát huy nguồn lực trí
tuệ Việt Nam trong sự nghiệp phát triển đất nước. Các tác giả đã nêu bật
những vấn đề lý luận chung về nguồn lực trí tuệ , những kinh nghiệm phát
huy nguồn lực trí tuệ của nước ta và một số nước trên thế giới đồng thời đề ra
những giải pháp thực tế cho xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam
phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước.
Nguyễn Văn Khánh (2010, chủ biên), Xây dựng và phát huy nguồn lực
trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội [53]. Nội dung cuốn sách bao gồm bốn phần chính tập trung
nghiên cứu những vấn đề về nguồn lực trí tuệ Việt Nam, phát triển, sử dụng
nguồn lực trí tuệ tiếp cận từ kinh nghiệm nước ngoài. Ở phần thứ ba các tác
giả đã làm nổi bật tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tào và sử dụng nhân tài, quan
điểm của Đảng, chính sách của nhà nước về phát triển nguồn lực trí tuệ,
những yếu tố ảnh hưởng đến phát huy nguồn lực trí tuệ ở Việt Nam. Những
kinh nghiệm của các nước như Trung Quốc, Nhật Bản về đạo tạo trọng dụng
nhân tài sẽ là tài liệu cần thiết cho tác giả trong nghiên cứu về giải pháp phát
huy nguồn lực con người trong giai đoạn hiện nay.
Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội [55]. Cuốn sách là công trình nghiên cứu sâu
về nguồn lực con người đặc biệt là nghiên cứu nguồn lực trí tuệ. Nội dung
chính gồm:

6

- Trí tuệ và nguồn lực trí tuệ; vai trò của nguồn lực trí tuệ và những
điều kiện chủ yếu phát huy nguồn lực trí tuệ trong sự phát triển xã hội nói
chung.
- Đặc điểm, thực trạng phát huy và xu hướng phát triển của nguồn lực
trí tuệ của con người Việt Nam hiện nay.
- Những phương hướng và giải pháp chủ yếu phát huy nguồn lực trí tuệ
Việt Nam trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
2.3 Các bài báo đăng trên các tạp chí
- Phạm Ngọc Anh với nhiều công trình bàn đến vấn đề này như:
“Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 2, 1995 [1]; “ Nguồn lực con người từ tư
tưởng Hồ Chí Minh đến quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam” đăng trên
website tutuonghochiminh.vn, bài đăng ngày 18- 10- 2012 [91] và “Quan
niệm Hồ Chí Minh về vai trò động lực của lợi ích”, đăng trên Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 4, 1999 [2]. Tác giả Phạm Ngọc Anh đã làm sáng tỏ một số quan
niệm của Hồ Chí Minh về nguồn lực con người, khẳng định vai trò quyết định
của nguồn lực con người; phân tích sâu sắc về lợi ích, nguồn động lực quan
trọng thúc đẩy người lao động phát huy tài năng, trí tuệ của mình, đồng thời
đưa ra các giải pháp, đặc biệt là chăm lo đến lợi ích của người lao động nhằm
phát huy nguồn lực con người trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con người cũng là những
nội dung quan trọng được đề cập nhiều trong một số bài viết sau đây:
- Nguyễn Trọng Chuẩn, : “Nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội”, Tạp chí Triết học, số 4, 1990 [9].
7


- Nguyễn Tuấn Dũng, : “Hồ Chí Minh về chiến lược con người trong
cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5, 2000 [18].
- Thành Duy, : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã
hội đối với con người”, Tạp chí lịch sử Đảng, số 12, 2005 [20].
- Hồ Sỹ Vịnh, : Con người Việt Nam - trí tuệ Việt Nam, tiềm năng và
thử thách, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 5, 2004 [90].
- Nguyễn Huy Quý, : Tìm hiểu cách thức phát huy nguồn lực nhân tài ở
các nước Đông Á, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 2, 04/2003 [76].
- Nguyễn Thị Xuân, : Kinh tế tri thức và vấn đề phát huy nguồn lực con
người Việt Nam cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Khoa
học xã hội, số 6, 2005 [92].
- Nguyễn Kim Quy, : Xây dựng nguồn lực con người trong giai đoạn
hiện nay, Tạp chí cộng sản, số 85, 2014 [75].
- Trần Hoàng Hiểu, : Xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
phục vụ mục tiêu phát triển bền vững ở thành phố Cần Thơ, Tạp chí cộng sản,
số 92, 2014 [49].
Trên đây là những thành tựu rất quan trọng mà các nhà khoa học đã đạt
được trong lĩnh vực nghiên cứu về con người, nguồn lực con người và phát
huy nguồn lực con người trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Những thành
tựu ấy là cơ sở quan trọng để giới khoa học cùng nghiên cứu sâu hơn về lĩnh
vực này.
Với tinh thần học hỏi, tác giả luận văn tiếp tục kế thừa, tiếp thu có chọn
lọc những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học và lấy đó làm những
gợi ý quan trọng để phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài:
“Tư tưởng hồ Chí Minh về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con
người ở thành phố Cần Thơ hiện nay”
8

2.4 Đánh giá tổng quan về các công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài luận văn

Nhìn tổng quan, đã có nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người, nguồn lực con người ở nhiều góc độ khác nhau.Tuy
nhiên, vẫn còn khá ít những công trình nghiên cứu chuyên sâu tư tưởng Hồ
Chí Minh về nguồn lực con người cũng như vận dụng tư tưởng đó trong việc
phát huy nguồn lực con người đặc biệt là nghiên cứu, vận dụng trên địa bàn
thành phố Cần Thơ.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn lực con người là một đề
tài mới chưa có nhiều công trình nghiên cứu, các sách chuyên khảo. Do đó,
việc tiếp tục đi vào nghiên cứu một cách căn bản, có chiều sâu vấn đề này là
hết sức cần thiết nhất là trong giai đoạn hiện nay khi cả nước đang chuyển đổi
mô hình tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Dù chưa có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về nguồn lực con người nhưng những nguồn tài liệu kể trên là hết sức quan
trọng và quý báu để tác giả luận văn có điều kiện kế thừa kết quả nghiên cứu
của những người đi trước để vận dụng vào việc phát huy nguồn lực con người
ở thành phố Cần Thơ hiện nay.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
nguồn lực con người, luận văn tập trung phân tích thực trạng phát huy nguồn
lực con người ở thành phố Cần Thơ giai đoạn hiện nay, chỉ ra những hạn chế,
tìm nguyên nhân để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả
nguồn lực con người ở Cần Thơ đến năm 2020 theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng hợp, khái quát và phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về nguồn lực con người.
9

- Phân tích thực trạng, những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của hạn
chế việc phát huy nguồn lực con người ở thành phố Cần Thơ hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nguồn lực con người
ở thành phố Cần Thơ đến năm 2020 theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tƣợng nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực
con người ở thành phố Cần Thơ hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- Phạm vi nghiên cứu:
Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung làm rõ những
nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn lực con người thông qua
việc khảo sát 15 tập trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập xuất bản năm 2011.
Luận văn cũng khảo sát thực trạng phát huy nguồn lực con người trên
địa bàn thành phố Cần Thơ giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2013 và đề xuất
những giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người ở Cần Thơ đến năm
2020 theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con người, đồng thời kế thừa
kết quả nghiên cứu một số công trình khoa học đã được công bố có liên quan
đến đề tài.
- Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong luận văn, tác giả đã sử dụng một số phương pháp chủ yếu như:
logíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, so sánh đối chiếu,
gắn lý luận với thực tiễn.
10

6. Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về nguồn lực con người; phân tích thực trạng phát huy nguồn lực

con người ở thành phố Cần Thơ, thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế
đồng thời đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm phát huy nguồn lực con người
ở thành phố Cần Thơ dến năm 2020 theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với những kết quả đạt được, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo trong việc giảng dạy và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt đối
với các công trình nghiên cứu thực tiễn phát huy nguồn lực con người ở thành
phố Cần Thơ.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung cơ
bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn lực con người, qua đó vận dụng
vào việc phát huy nguồn lực con người ở thành phố Cần Thơ hiện nay
- Luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với việc đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực cho thành phố Cần Thơ đến năm 2020 theo tư
tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục, danh mục các bảng, danh
mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2 chương, 4 tiết.
11

Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGUỒN LỰC CON NGƢỜI

1.1 Khái niệm con ngƣời, nguồn lực con ngƣời và phát huy nguồn
lực con ngƣời
1.1.1 Khái niệm con người
Suốt tiến trình phát triển lịch sử xã hội, con người không ngừng nhận
thức và cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân. Thông qua quá trình đó, con
người từng bước phát triển nhận thức về sự tồn tại, phát triển của chính mình.
Trong thời kỳ cổ đại, người ta cho rằng con người cũng như các sinh thể vật
chất khác đều do những nguyên tố cụ thể nào đó tạo ra như: nước, lửa, không

khí. Thời kỳ trung cổ người ta cho rằng, con người do một lực lượng siêu
nhiên nào đó tạo ra, chẳng hạn: đạo Thiên Chúa cho rằng con người do Chúa
sinh ra. Thời kỳ Phục hưng và Khai sáng được coi là bắt đầu một thời kỳ mới
trong việc khám phá bản chất con người. Quan niệm về con người thời kỳ này
thường gắn với con người cá nhân, khẳng định vai trò con người trong xã hội,
hướng con người tới sự giải phóng khỏi Thần học, khỏi sự áp bức và nô dịch
của giáo hội. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi phương pháp siêu hình máy móc
nên nhận thức về con người thời kỳ này còn nhiều hạn chế.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đem đến phương pháp khoa
học để làm sáng tỏ khái niệm “Con người”. Xuất phát từ thực tế sinh hoạt, lao
động sản xuất, chủ nghĩa Mác cho rằng “Bản chất con người không phải là
một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”[48, tr. 10]. Bản
chất của con người không phải trừu tượng mà rất hiện thực, không chỉ là tự
nhiên mà còn là lịch sử; con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh
học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con
người. Với ý thức của mình - điều khác biệt với con vật - con người không
12

thu mình, thụ động trước hoàn cảnh mà luôn hoạt động, lao động, suy nghĩ,
tìm tòi để cải tạo tự nhiên, làm tự nhiên phải biến đổi, phải phục vụ cho cuộc
sống của họ. Như thế, bằng lao động và thông qua lao động, giao tiếp, con
người đã làm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân, trở thành chủ nhân của
bản thân, của tự nhiên, xã hội. Con người không thể tồn tại được một khi tách
khỏi xã hội. Chỉ trong xã hội thông qua lao động và ngôn ngữ, con người mới
thỏa mãn được những nhu cầu trong cuộc sống và nâng cao được nhận thức
về mình một cách đầy đủ hơn để từ đó hoàn thiện bản thân về mọi mặt.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác -
Lênin, được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là gắn

mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Trong đó, vấn đề con người, chăm lo cho con người, phát huy nguồn lực con
người để hướng đến giải phóng con người một cách triệt để là vấn đề được đặt
lên hàng đầu, là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ tư tưởng, hành
động của Người.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan niệm về con người được xây dựng
trên nền tảng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử. Bản chất của con
người được Hồ Chí Minh quan niệm là tổng hòa của các quan hệ xã hội từ
hẹp đến rộng. Người từng khẳng định: “Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình,
anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả
loài người” [60, tr. 644]. Hồ Chí Minh không bao giờ xem xét con người một
cách trừu tượng mà luôn luôn xuất phát từ con người hiện thực, cụ thể trong
các quan hệ xã hội với nhiều bình diện, chiều cạnh khác nhau. Xuất phát từ
những luận điểm đúng đắn đó, trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân cả nước
tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Người luôn tin vào sức mạnh của con người, hết lòng thương yêu con người,
quý trọng con người, quan tâm bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người.
13

Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù
bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một
cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ
bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của chế độ phong kiến, đế quốc; là dân
tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là
những “người nô lệ mất nước” và “người cùng khổ”.
Tiếp thu quan điểm của Chủ Nghĩa Mác - Lênin cho rằng con người là
một chỉnh thể thống nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội, Hồ Chí Minh
luôn quan niệm con người là một hệ thống cấu trúc bao gồm tổng hoà nhiều
yếu tố hợp thành như: thể xác và tâm hồn, thể lực và trí tuệ, cái sinh vật và cái
xã hội… “Con người ai cũng có chỗ hay chỗ dở, ai cũng có tính tốt tính xấu,

có thiện có ác” [60, tr. 72], vấn đề là làm sao cho phần xấu mất dần đi, phần
tốt nảy nở như hoa mùa xuân; con người ta sinh ra, ai cũng lớn lên, già đi rồi
chết; người ta ai cũng muốn sung sướng, mạnh khoẻ… Cách quan niệm như
thế cho phép Hồ Chí Minh đạt tới cái nhìn toàn diện về con người; là cơ sở để
Người hiểu, cảm thông, lo lắng cho con người.
Sau khi giải phóng dân tộc, bước vào thời kỳ xây dựng xã hội mới, con
người được Hồ Chí Minh nói đến là con người toàn diện, con người mới “con
người xã hội chủ nghĩa”. Khi xã hội càng phát triển, năng suất lao động cao,
của cải dồi dào càng tạo điều kiện để chăm lo cho con người. Chính vì vậy,
mục tiêu sau khi đất nước độc lập là phấn đấu chăm lo cho con người có đời
sống vật chất đầy đủ, tinh thần ngày càng tốt. Bước vào thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã nêu quan điểm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa” [66]. Con người xã hội chủ
nghĩa là con người phát triển toàn diện, hài hòa được từng bước hình thành
trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa vừa
là chủ thể trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là sản phẩm của quá
14

trình đó. Bởi vì, không thể có con người xã hội chủ nghĩa với đầy đủ phẩm
chất của nó, khi mà chưa có xã hội xã hội chủ nghĩa và ngược lại.
Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của
“cái cá nhân” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng
giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; con người mới phát
triển toàn diện cả thể chất lẫn tinh thần, đó chính là những luận điểm cơ bản,
bao trùm trong tư tưởng, hành động vì con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát
từ những luận điểm đúng đắn đó, trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân cả
nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ
Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ
chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người
thông qua thực tiễn cách mạng của dân tộc đã trở thành một sức mạnh vật

chất to lớn, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng tất cả vì
con người.
1.1.2 Khái niệm nguồn lực con người
Trước khi bàn đến khái niệm nguồn lực con người cần tìm hiểu nội
hàm nguồn lực. Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học không
định nghĩa mục từ “nguồn lực”. Theo Collins English - English Dictionary,
khái niệm “Resource” (tương đương với từ “nguồn lực” trong tiếng Việt)
được xác định bao gồm hai hàm nghĩa. Thứ nhất, nguồn lực được hiểu là các
nguồn lực của một tổ chức hay một người là những nguyên vật liệu, tiền bạc
và những gì mà nó, anh ta có và có thể sử dụng để thực hiện các chức năng
một cách hợp thức. Thứ hai, nguồn lực được hiểu là các nguồn lực của một
quốc gia là những gì mà nó có và có thể sử dụng để gia tăng sự giàu có
của nó.
Như vậy, có thể hiểu nguồn lực là những gì mà một tổ chức hay cá
nhân sở hữu và có thể sử dụng để làm gia tăng giá trị (chẳng hạn như sự giàu
15

có) cho quốc gia, tổ chức hay cá nhân ấy. Với cách hiểu nguồn lực là nguồn
mang đến sức mạnh, sự giàu có, thịnh vượng cho một tổ chức, các nhân hay
một quốc gia, khái niệm nguồn lực có lúc được dùng thay thế nhau với khái
niệm vốn: “nguồn lực con người” - “vốn con người”, “nguồn lực trí tuệ” -
“vốn trí tuệ”,… Theo cách hiểu trên thì nguồn lực con người là khái niệm
dùng để chỉ con người với tư cách là cội nguồn đem đến sức mạnh, sự giàu
có, thịnh vượng cho một quốc gia. Như vậy nghiên cứu nguồn lực con người
là nghiên cứu con người trên phương diện là một nguồn lực của quốc gia.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn lực con người hay nguồn
nhân lực.
Theo tác giả Nguyễn Văn Phúc trong công trình “Khai thác và phát
triển tài nguyên nhân lực Việt Nam” [74], nguồn lực con người được hiểu là
tài nguyên con người hay vốn con người, tức xem xét nguồn lực con người

như một dạng tài nguyên đặc biệt. “Tài nguyên con người” là một loại tài
nguyên được hàm chứa trong con người. Đó chính là năng lực của con người,
với tư cách là những cá nhân cũng như con người nói chung, trong việc thực
hiện những hoạt động hữu ích cho xã hội và chính bản thân con người. Nguồn
lực con người được xem như một dạng tài nguyên tiềm tàng, có thể dùng để
tạo lập các lợi thế cạnh tranh cho các chủ thể sử dụng chúng. Tài nguyên con
người chỉ có thể chuyển hóa thành giá trị khi được khai thác và sử dụng để tạo
ra giá trị gia tăng cho xã hội và chủ sở hữu của tài nguyên này. Ở cấp độ cá
nhân, nguồn lực con người, tài nguyên người bao gồm khả năng tiềm tàng của
mỗi con người cụ thể trong việc thực hiện các hoạt động có ích cho xã hội.
Năng lực này là tổ hợp những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ và sức khỏe
mà mỗi người có thể sử dụng trong các hoạt động do họ thực hiện.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: xét trên bình diện quốc gia hay địa
phương nguồn lực con người, nguồn nhân lực được xác định là “tổng thể các
16

tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động
được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao
động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói
chung) bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao
động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
[15, tr. 269]. Theo cách hiểu này, nguồn lực con người là nguồn lao động sẵn
sàng tham gia lao động trong phạm vi quốc gia, vùng hay địa phương. Một
cách chung nhất, có thể hiểu nguồn lực con người là bộ phận dân số trong độ
tuổi nhất định theo qui định của pháp luật có khả năng tham gia lao động.
Nguồn lực con người là tổng hợp những năng lực cả về thể lực và trí lực của
nhóm người, một tổ chức, một địa phương hay một quốc gia.
Theo tác giả Nguyễn Hữu Dũng, nguồn lực con người được xem xét
dưới hai góc độ: năng lực xã hội và tính năng động xã hội [3, tr. 1-3]. Ở góc
độ thứ nhất, nguồn lực con người hay nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức

lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng tạo ra
mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Xem xét nguồn lực con người
dưới dạng tiềm năng giúp định hướng phát triển nguồn nhân lực để đảm bảo
không ngừng nâng cao năng lực xã hội của con người thông qua giáo dục, đào
tạo, chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại xem xét nguồn lực con
người dưới dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó, phải
chuyển nguồn lực sang trạng thái động, thành vốn con người, tức là nâng cao
tính năng động xã hội của con người thông qua các chính sách, thể chế và giải
pháp giải phóng triệt để tiềm năng con người. Con người với tiềm năng vô
tận, nếu được tự do phát triển, tự do sáng tạo và cống hiến, được trả đúng giá
trị lao động thì tiềm năng vô tận đó được khai thác, phát huy trở thành nguồn
vốn vô cùng to lớn. Vì vậy, nguồn lực con người được hiểu là “tổng hoà
trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội của con người(thể lực, trí lực,
17

nhân cách) và tính năng động xã hội của con người. Tính thống nhất đó được
thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người”[3, tr. 11].
Từ những quan niệm khác nhau của các tác giả, có thể hiểu nguồn lực
con người là tổng hợp những con người cụ thể có khả năng tham gia vào quá
trình lao động với các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực; tiềm năng lao động
của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ
năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách)và tính năng động xã hội của con
người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng, quốc gia. Tính thống nhất đó
được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người đáp
ứng yêu cầu phát triển.
Như vậy, khi nói đến “nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực”, có
thể khẳng định đó là tổng hoà các tiềm năng của con người, tổ chức xã hội có
thể khai thác và thu hút vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khái niệm
này bao gồm một số tiêu chí sau:
- Là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần,

sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất;
- Là tổng thể sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện
sức mạnh và sự tác động của con người trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội;
- Đó là sự kết hợp thể lực và trí tuệ, cho thấy khả năng sáng tạo, chất
lượng - hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người… Nó
còn là kinh nghiệm sống, đặc biệt là kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con
người, là nhu cầu và thói quen tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình,
của cộng đồng.
- Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo,
có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo
dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học - công nghệ hiện đại.
18

1.1.3 Khái niệm phát huy nguồn lực con người
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “ tài nguyên đặc
biệt”, một nguồn lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, việc
phát triển con người, phát triển nguồn lực con người trở thành vấn đề trung
tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là
yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc
gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược , là cơ sở chắc chắn
cho sự phát triển bền vững.
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có
nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát huy nguồn lực con người nhưng
chung quy lại khái niệm này được hiểu như sau:
Thứ nhất, phát huy nguồn lực con người được hiểu là việc sử dụng tiềm
năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển nguồn
nhân lực: là gia tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí
tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành
người lao động có những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được
những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai, phát huy nguồn lực con người được hiểu là quá trình nâng cao
năng lực của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân
bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ
thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế - xã hội.
Phát huy nguồn lực con người của một quốc gia: chính là sự biến đổi về
số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng,
kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ
cấu nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát, phát huy nguồn lực con người
chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến
bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người.
19

Như vậy, phát huy nguồn lực con người với nội hàm trên đây thực chất
là đề cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của
nguồn nhân lực của một quốc gia. Bước vào thời kỳ phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia đều quan tâm đến xây dựng, phát
huy nguồn lực con người nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một
người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng
với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn,
kỹ thuật nhất định (đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành
nghề). Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể nguồn nhân lực
của một quốc gia, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu
thành đặc biệt quan trọng, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về nguồn nhân
lực chất lượng cao không thể không đặt nó trong tổng thể vấn đề chất lượng
nguồn nhân lực nói chung của một quốc gia.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực phải đáp ứng được
yêu cầu của thị trường đó là: có kiến thức: chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ

năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác; có
thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc. Nguồn nhân lực
được gọi là chất lượng cao phải là những con người phát triển cả về trí lực và
thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo
đức, tình cảm trong sáng.
Từ những kết quả nghiên cứu cho thấy, phát huy nguồn lực con người
là khái niệm nói lên ba phương diện: Phát triển nguồn nhân lực, sử dụng
nguồn nhân lực và xây dựng môi trường cho nguồn nhân lực trong đó con
người là yếu tố cốt lõi, giữ vị trí trung tâm trong tiềm năng của nguồn lực
con người.

×