Chơng I
ngân hàng thơng mạI và việc huy động
tiền gửi có kỳ hạn
1. Ngân hàng th ơng mại
Hệ thống Ngân hàng là hệ thống có hoạt động gần gũi nhất với ngời dân
và nền kinh tế. Trên thế giới, ở những nớc đã và đang phát triển hầu nh không
có công dân trởng thành nào mà lại không có quan hệ giao dịch với một ngân
hàng. Song không phải tự nhiên ngân hàng xuất hiện trong nền kinh tế. Ngân
hàng đã đi từ bớc cực kỳ thô sơ và chính nhu cầu phát triển của xã hội và nền
kinh tế đã là tác nhân thúc đẩy hoạt động ngân hàng không ngừng đợc cải thiện
nâng cao cả về thực hành lẫn lý thuyết để có đợc nh ngày hôm nay.
Cách tốt nhất để tìm hiểu sự liên đới của các ngân hàng thơng mại với đời
sống con ngời là tìm hiểu chính bản chất của hoạt động kinh doanh ngân hàng,
vì một ngân hàng thơng mại thực sự là một doanh nghiệp với đầy đủ ý nghĩa
của nó. Khác với các doanh nghiệp sáng tạo ra hàng hoá hữu hình nh lúa, gạo,
vải, xe ô tô, máy móc..., sản phẩm của một ngân hàng thơng mại là những dịch
vụ. Và dịch vụ cũng là phơng tiện chủ yếu mà ngân hàng cấp cho đời sống.
Dịch vụ đó là môi giới để ngời cho vay và ngời đi vay gặp nhau, hay nói cách
khác, môi giới để các nguồn tiền vốn, tài sản đang bỏ không đợc vận dụng một
cách có lợi, phục vụ cho nhu cầu vốn để tăng trởng cuả nền kinh tế.
Sau đây, chúng ta sẽ xem xét các hoạt động nghiệp vụ cơ bản của ngân
hàng thơng mại cũng nh chức năng, vai trò của nó trong nền kinh tế.
1.1. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thơng mại
Nói chung, các ngân hàng thu lợi nhuận bằng cách bán những tài sản nợ có
một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng tiền
thu đợc để mua tài sản có có đặc tính khác. Nh thế, các ngân hàng cung cấp một
dịch vụ chuyển một loại tài sản này thành một tài sản khác cho công chúng
bằng cách thực hiện trao đổi hai lần khế ớc nợ giữa ngời có vốn và ngời cần
vốn để kiếm lời. Theo cách này, thay thế cho quan hệ trực tiếp giữa ngời đi vay
và cho vay là hai trái quyền tài chính:
1
+ Ngời cho vay có trái quyền tài chính với các ngân hàng thơng mại
+ Các ngân hàng thơng mại có trái quyền tài chính đối với ngời đi vay.
Nói ngắn gọn, các ngân hàng thơng mại nhận tiền gửi từ các cá nhân và
các tổ chức, rồi dùng vốn đó để cho vay nhằm thu lợi nhuận tối đa. Vai trò nổi
bật của các ngân hàng thơng mại là chúng góp nhặt toàn bộ các nguồn vốn
nhàn rỗi rải rác trong toàn bộ nền kinh tế- xã hội (kể cả khu vực tài chính doanh
nghiệp) để cung ứng trở lại cho hoạt động của tài chính doanh nghiệp của các
cá nhân và một số hoạt động khác của chính phủ.
Từ những hoạt động chính của ngân hàng, ta hãy xem xét một vài nghiệp
vụ cơ bản của ngân hàng trong quá trình kinh doanh của nó.
1.1.1. Nghiệp vụ tạo lập vốn (nghiệp vụ nợ) của NHTM
Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống
quan trọng nhất của các NHTM. ở các nớc công nghiệp, với sự phát triển nhanh
của thị trờng tài chính đã có rất nhiều loại tài sản có lợi tức ổn định và thanh
khoản cao tài sản nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn hoạt động của
NHTM trở thành sự cạnh tranh khốc liệt. Trớc mắt các ngân hàng ở các nớc
phát triển luôn luôn xuất hiện vấn đề làm thế nào để có đủ vốn cho đầu t giữa
môi trờng cạnh tranh đầy kịch tính. NHTM phải cạnh tranh với các tổ chức tài
chính khác với các nghiệp vụ thị trờng trực tiếp và vơí bất cứ tổ chức nào khác
muốn thu hút một khối lợng vốn vào đó.
Cho đến thời gian gần đây, tài sản nợ của các NHTM trên khắp thế giới
vẫn tập trung vào 5 nhóm phổ biến:
1-Vốn chủ sở hữu
2- Tiền gửi không kỳ hạn
3- Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm
4- Các khoản vay trên thị trờng tiền tệ
5- Các khoản vay các ngân hàng khác hoặc ngân hàng trung ơng.
1.1.1.1. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là điều kiện hàng đầu để ngân hàng khởi nghiệp trớc khi
đợc phép khai trơng theo luật định. ở Việt Nam, để thành lập một NHTM, trớc
hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của ngân hàng nhà nớc. ở mỗi
ngân hàng, vốn pháp định đợc hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng
quyết định, nghĩa là nguồn vốn này có thể do nhà nớc cấp, hoặc có thể do huy
2
động trong xã hội. Ngoài vốn điều lệ, NHTM còn có các quỹ dự trữ bắt buộc
phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng, quỹ phát triển
kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, qũy phúc lợi... Tất cả
nguồn vốn này (vốn điều lệ, quỹ dự trữ , quỹ khác) đợc gọi là vốn tự có của
ngân hàng, chiếm tỷ trọng nhỏ, song lại rất quan trọng, vì nó cho thấy thực lực,
quy mô của ngân hàng, là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Vốn tự có gồm
3 chức năng chủ yếu: chức năng bảo vệ , chức năng hoạt động và chức năng
điều chỉnh.
1.1.1.2. Nghiệp vụ đi vay
Sau khi đã sử dụng hết vốn, song vẫn cha đáp ứng đợc nhu cầu vay của
khách hàng hoặc phải đáp ứng thanh toán và chi của khách hàng, các NHTM có
thể đi vay ở NHTW, ở các NHTM khác, vay ở thị trờng tiền tệ, vay các tổ chức
ngoài nớc... Vốn đi vay chỉ chiếm 1 tỷ lệ có thể chấp nhận đợc trong kết cấu
nguồn vốn, nhng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để bảo đảm cho ngân
hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thờng.
a) Vay của NHTW:
Qua 2 hình thức chính:
Tái chiết khấu ( hoặc chiết khấu ) hay tái cấp vốn
Thế chấp hay ứng trớc có bảo đảm hay không có bảo đảm. ở Việt
Nam, hiện nay NHNN cho các NHTM vay nh sau:
- Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn
- Chiết khấu hoặc tái chiết khấu trái phiếu kho bạc, khế ớc mà các ngân
hàng đã cho khách hàng nay cha đáo hạn, và các thơng phiếu.
- Cho vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng.
b) Vay ngắn hạn dự trữ tại NHTW:
Các NHTM vay mợn nh vậy gọi là vay mợn qua vốn liên bang hoặc vay
tiền trung ơng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Vì thế, ngoài qui định dự trữ
bắt buộc do NHTƯ áp đặt, tất cả các NHTM đều phải ký gửi những khoản tiền
mặt nhất định tại kho của NHTƯ, khoản này không sinh lời. Trong quá trình
hoạt động của mình, sự thiếu hụt dự trữ tại NHTƯ là điều thờng xảy ra với các
NHTM. Trong khi có một số NHTM thiếu dự trữ, thì nó cũng có một vài bộ
phận khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy định của NHTW, các
NHTM điện thoại hoặc liên lạc bằng computer vay lẫn nhau dự trữ trong một
ngày là chuyện bình thờng. Trong vòng 5 phút sau, ngân hàng thừa dự trữ trong
3
ngày hôm đó sẽ viết séc hoặc gửi điện tín đến chi nhánh NHTƯ tại địa phơng,
yêu cầu chuyển một phần tiền từ dự trữ của ngân hàng mình qua cho dự trữ của
ngân hàng xin vay.
c) Vay trên thị trờng tiền tệ:
ở các nớc công nghiệp phát triển, các NHTM phát hành các loại phiếu nợ
sau để vay tiền trên thị trờng tiền tệ:
+Chứng chỉ tiền gửi loại lớn (jumpo CDs)
+Vay ngắn hạn bằng cách phát hành RPs
d) Vay từ công ty mẹ:
Hình thức này áp dụng ở các nớc phát triển, khi mỗi công ty hoặc tập đoàn
kinh doanh có thể là chủ của từ một đến rất nhiều NHTM.
e) Vay từ các NHTM và các tổ chức tín dụng khác...
1.1.1.3. Nghiệp vụ ký thác (Tiền gửi)
Huy động vốn là hoạt động chủ yếu và thờng xuyên của NHTM, trong đó,
ngoài cách đi vay, ngân hàng còn thu thập các khoản ký thác từ các khách hàng
của mình. Đợc coi là ký thác, khi tiền mà ngân hàng nhận đợc của khách hàng
bất luận dới danh từ nào, dù phải trả lãi hay không trả lãi, với quyền sử dụng số
tiền đó cho hoạt động kinh doanh của mình và với bổn phận làm nghiệp vụ ngân
quỹ cho ngời ký gửi, nhất là phải trả trong giới hạn số tiền nhận đợc, tất cả
những lệnh trả tiền của ngời ký thác bằng séc, lệnh chuyển khoản, th tín
dụng...hay bất cứ cách nào khác, cũng thâu nhập vào khoản tiền ký thác mọi số
tiền mà ngân hàng thu hộ ngời ký gửi. Các khoản tiền gửi bao gồm:
a) Tiền gửi không kỳ hạn:
+Tiền gửi dùng séc: Việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thờng đợc
thực hiện bằng séc. Lý do chủ yếu khiến cho khách hàng mở tài khoản ngân
hàng là để đảm bảo thế năng của đồng vốn khi cần đến. Sự dễ dàng chuyển
nhợng cũng đợc xem là rất quan trọng. Séc còn là một phơng pháp tiết kiệm và
an toàn để chuyển dịch một số tiền lớn, xét từ quan điểm chi phí lu thông và
khả năng bị mất vì bị cớp giật. Khi các tấm séc đợc sử dụng, việc chuyển nhợng
đợc thực hiện thông qua việc bù trừ séc của các ngân hàng mà không bên nào,
ngời nhận hay ngời trả, phải suy nghĩ nhiều về vấn đề ấy. Ngời phát lệnh séc ít
phải lo lắng, ngay cả việc bị giả mạo, bởi vì ngân hàng phải chịu trách nhiệm
hoàn toàn trong trờng hợp một tấm séc giả đợc chi trả.
+Tiền gửi rút tiền tự động hay tiền gửi thông dụng (ordinary deposits): Đ-
ợc thực hiện qua máy rút tiền (cash dispensers), máy nhận rút và chuyển tiền
4
tự động (máy ATM). Đây là một hình thức tiền gửi hoàn toàn khác với các loại
tiền giấy bình thờng. Nó là tiền của ngày mai.
+Tài khoản ATS (automatic transfer service account): Tài khoản phối hợp
tài khoản tiết kiệm và tài khoản séc ở Mỹ.
+Tiền gửi có thông tri, tiền gửi hẹn rút: Là loại ký thác, không có quy định
một kỳ hạn nào nhng các bên có thoả thuận việc thông báo trớc (từ 8 đến 15
ngày).
+Ký thác đặc biệt khác...
ở Việt Nam, tiền gửi không kỳ hạn gồm:
+Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi đợc ký thác vào ngân hàng để thực
hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Đây là
một bộ phận tiền đang chờ thanh toán mà không phải là tiền để dành, do vậy
khách hàng gửi tiền không mất quyền sử dụng số tiền này. Họ có thể rút ra,
chuyển nhợng hoặc chi trả trong thanh toán bất kỳ lúc nào theo yêu cầu.
+Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi thể hiện khoản tiền tạm thời
nhàn rỗi của khách hàng, họ gửi tiền vào ngân hàng không mang tính chất để
thanh toán mà nhằm mục đích an toàn tài sản, khi cần khách hàng đến ngân
hàng rút tiền để chi tiêu.
b) Tiền gửi có kỳ hạn:
+Tiền gửi tiết kiệm.
+Tiền gửi có kỳ hạn khác.
1.1.1.4. Nguồn uỷ thác
Việc sở hữu tài sản dẫn đến nhu cầu về các dịch vụ quản lý tài sản và việc
quản lý tài sản cho ngời khác đợc thực hiện dới mọi hình thức và với cách sắp
xếp khác nhau là dịch vụ uỷ thác của NHTM. Những ngời sử dụng các dịch vụ
của phòng uỷ thác, bao gồm các cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức từ thiện
và các đơn vị chính quyền. Dịch vụ uỷ thác bao gồm: Thanh lý tài sản, điều
hành vật uỷ thác, phục vụ nh ngời bảo vệ và bảo quản các tài sản, thực hiện các
dịch vụ đại diện.
1.1.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn (nghiệp vụ có) của NHTM
Sau khi đã huy động đợc vốn, NHTM phải làm sao để hiệu quả hoá những
nguồn tài sản này. Cho vay hay đầu t sinh lợi từ tiền đã huy động đợc là lẽ sống
còn của NHTM. Vì cho vay hay đầu t vào các loại tài sản nào cũng đều là hoạt
5
động kiếm lợi nhuận. Khi ngân hàng đầu t tiền của nó vào một thơng vụ, hoặc
cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng vay, nó trở thành là chủ nợ, các đối tợng
kia là ngời vay nợ. Vì thế, các khoản đầu t trở thành tài sản có của ngân hàng.
Nó đầu t càng nhiều, càng sinh lãi nhiều từ vốn đã huy động. Song ngân hàng
cũng có rất nhiều cách để đầu t tiền của nó. Sự đa dạng của tài sản có chính là
phản ánh sự đa dạng trong loại hình đầu t của ngân hàng. Trên thế giới, tài sản
có của một NHTM bao gồm: dự trữ tiền mặt, đầu t vào chứng khoán, cho vay và
đầu t vào các loại tài sản khác.
1.1.2.1. Dự trữ tiền mặt
Đây là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng để
đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thờng xuyên của khách hàng. NHTM
phải duy trì một bộ phận vốn bằng tiền mặt để thực hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức
dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc vào quy mô hoạt động của ngân hàng, mối
quan hệ thanh toán bằng tiền mặt và chuyển khoản, thời vụ của ngân hàng
không sinh lãi. Tuy nhiên, ngân hàng buộc phải làm vậy để đảm bảo an toàn
cho những hoạt động kinh doanh khác của nó. Dự trữ tiền mặt đợc coi là khoản
đầu t cho sự an toàn. Hiện nay, NHTM các nớc trên thế giới chia dự trữ làm ba
phần:
a) Tiền mặt tại kho của ngân hàng:
Các NHTM bao giờ cũng giữ một khoản dự trữ tiền mặt nhất định tại kho
của mình vào mỗi ngày để đề phòng những chi trả bất ngờ cho dân vào đầu
ngày hôm sau. Năng lực quản lý tài sản có cao hay thấp, hiệu quả hay không
của các NHTM thể hiện ở chỗ nó tồn tại bao nhiêu dự trữ d thừa (ER) mỗi ngày.
b) Tiền mặt ký gửi tại NHTƯ:
Dự trữ tiền mặt ký gửi tại kho của NHTƯ bao gồm cả một bộ phận của dự
trữ bắt buộc. Các ngân hàng phải ký gửi một phần tiền mặt tại NHTƯ dới dạng
ký gửi không lãi (hoặc lãi rất thấp) nhằm phục vụ cho việc thanh toán bù trừ
hoặc chuyển nhợng liên ngân hàng những tờ séc mà nó và các ngân hàng khác
phát hành ra. Từ sau cuộc khủng hoảng 1929-1933, việc để lại dự trữ tiền mặt
theo quy định của NHTƯ đợc gọi là dự trữ bắt buộc.
c) Tiền mặt đang trên đờng thu hồi:
Đây là thuật ngữ chỉ hai khoản:
+ Tiền mặt đã đợc các đơn vị vay, các đơn vị có trách nhiệm trả nợ ký cam
kết thanh toán rồi và hiện đang thu về. Quá trình thu không quá 14 ngày;
6
+ Tiền mặt đợc thu lại do một tờ séc của ngân hàng phát ra không đợc
chấp nhận hoặc không thanh toán đợc và phải trả lại cho ngân hàng.
*Dự trữ của ngân hàng có thể chia thành hai loại sau:
1.Dự trữ sơ cấp: Tài sản thuộc loại dự trữ này bao gồm: Tiền mặt tại quỹ,
tiền gửi tại NHTƯ, tiền gửi tại các ngân hàng đại lý và các NHTM khác, ngân
quỹ đang trong quá trình thu nhận. Nh vậy, dự trữ sơ cấp là dự trữ tiền tệ bao
gồm tiền mặt và tiền gửi. Hai khoản mục tiền này thờng xuyên chuyển hoá lẫn
nhau, khi thừa tiền mặt có thể gửi vào NHTƯ hoặc các ngân hàng đại lý và ng-
ợc lại, khi thiếu tiền mặt có thể rút ra từ NHTƯ để bổ sung quỹ tiền mặt.
2.Dự trữ thứ cấp: Là khoản dự trữ bổ sung để đáp ứng nhu cầu chi trả
mang tính chất thời vụ và chu kỳ đợc dự kiến trớc và các nhu cầu đột xuất
không dự kiến trớc. Dự trữ thứ cấp không phải dự trữ dới hình thức tiền tệ, mà là
dự trữ dới hình thức các loại chứng khoán. Bao gồm: tín phiếu kho bạc, hối
phiếu chấp nhận thanh toán của ngân hàng, thơng phiếu thuộc thị trờng mở...
1.1.2.2. Đầu t vào chứng khoán
Chứng khoán là một phiếu nợ đợc in trên giấy dới hình thức của một
chứng từ. Chứng khoán gồm phiếu nợ (hay trái phiếu) và cổ phiếu. Các NHTM
thờng đầu t vào các chứng khoán chủ yếu sau:
a) Chứng khoán nhà nớc:
- Tiền của kho bạc.
- Trái phiếu kho bạc trung hạn.
- Trái phiếu kho bạc dài hạn.
- Trái phiếu của chính quyền địa phơng.
b) Các chứng khoán khác:
Gồm các chứng khoán do công ty phát ra và chứng khoán của nớc ngoài.
1.1.2.3. Nghiệp vụ cho vay
Cho vay của NHTM, nói rộng ra là tín dụng của NHTM, là một lĩnh vực
phức tạp và thờng xuyên cập nhật theo những biến chuyển của môi trờng kinh
tế. Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp nh:
bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc.
Đây là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có
lãi suất thu đợc từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí
kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí
rủi ro đầu t khác. Nghiệp vu tín dụng ngân hàng có thể chia thành các loại sau:
7
* Căn cứ vào thời gian cho vay:
- Cho vay ngắn hạn: thời gian nhỏ hơn hoặc bằng một năm. Mục đích
là để bù đắp cho nhu cầu về vốn lu động của khách hàng. Các NHTM có thể
cho khách hàng vay để lu thông phân phối sản phẩm, dự trữ hàng hoá...
- Cho vay trung hạn: là khoản cho vay có thời hạn 1<t<5 năm. Mục
đích là để sửa chữa lớn và quy mô vừa, để áp dụng các sáng kiến cải tiến kỹ
thuật, thay đổi sản phẩm cung cấp trên thị trờng...
- Cho vay dài hạn:t >5 năm, mục đích để đầu t xây dựng cơ bản, hiện
đại sản xuất sẵn có, phát triển sản xuất theo chiều rộng hoặc chiều sâu.
* Căn cứ vào tài sản thế chấp:
- Cho vay có tài sản thế chấp: NHTM căn cứ vào giá trị của tài sản đợc
khách hàng kê khai làm tài sản thế chấp, bảo đảm cho tiền vay.
+.Cho vay thế chấp: Tài sản thế chấp vẫn thuộc quyền sở hữu, quyền sử
dụng của khách hàng nhng không đợc quyền nhợng bán, cho thuê tài sản đó.
+.Cho vay cầm cố: Tài sản thế chấp thuộc quyền quản ký của ngân hàng.
Khách hàng không có quyền sử dụng nó trong thời gian vay.
- Cho vay không có tài sản thế chấp:
+.Cho vay tín chấp: căn cứ vào lòng tin của ngân hàng trực tiếp với ngời
vay tiền.
+.Cho vay bảo lãnh: dựa vào lòng tin của ngân hàng với ngời thứ ba đứng
ra bảo lãnh cho vay.
* Căn cứ vào quy mô vốn vay:
- Cho vay trong hạn mức:
NHTM sẽ cho vay theo một hợp đồng tín dụng mà nội dung chủ yếu là số
tiền nhất định mà ngân hàng có thể cho vay vô điều kiện trong một thời gian
xác định. Với cách này, khách hàng có thể chủ động sử dụng vốn vay. Mặt
khác, để tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, ngân hàng có thể cho vay luân
chuyển (cho vay dần).
` - Cho vay ngoài hạn mức:
+ Cho vay thoả thuận.
+ Cho vay chiết khấu.
Lãi suất cho vay có thể thoả thuận theo một khung dao động.
- Cho vay quá ngạch:
8
Đây là hình thức cho vay ngay cả khi khách hàng cha trả đợc nợ cũ. Theo
nguyên lý, đó là sự trợ giúp của ngân hàng với doanh nghiệp khi doanh nghiệp
gặp khó khăn, bị thiên tai, lũ lụt, bất khả kháng... và giúp ngân hàng có hi vọng
thu hồi lại nợ khó đòi trớc. ở Việt Nam, NHTM còn có hình thức cho vay ngoại
tệ, nội tệ...
1.1.3. Nghiệp vụ trung gian
Nghiệp vụ trung gian của NHTM bao gồm rất nhiều loại dịch vụ ngân
hàng khác nhau:
- Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác cùng ở một
ngân hàng hay ở hai ngân hàng khác nhau thông qua các công cụ nh séc, lệnh
chi, thẻ chi trả...
- Dịch vụ thu hộ và chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh
toán tại ngân hàng. Việc chi hộ ngân hàng chỉ tiến hành khi có lệnh của chủ tài
khoản.
- Dịch vụ chi lơng cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đến tháng, doanh
nghiệp chỉ cần gửi bảng lơng qua ngân hàng, theo đó, ngân hàng sẽ ghi nợ vào
tài khoản doanh nghiệp đó và chi lơng cho những ngời có tên trong danh sách
tiền lơng.
- Dịch vụ chuyển tiền từ địa phơng này sang địa phơng khác.
- Dịch vụ khấu trừ tự động cũng là dịch vụ với khách hàng là cá nhân.
Theo đó, nếu khách hàng cho phép, ngân hàng sẽ tự động ghi nợ tài khoản của
khách hàng để thanh toán các hoá đơn đòi tiền do các đơn vị dịch vụ gửi đến
nh: trả tiền điện, nớc, điện thoại, thuê nhà...Đây là những khoản chi thờng
xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian
và phiền toái khi đi thanh toán các khoản này.
Tóm lại, thực hiện nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho
các ngân hàng những khoản thu nhập khá quan trọng. Nó đã giúp các ngân hàng
phát triển toàn diện. Lợi nhuận của ngân hàng không chỉ ở đầu t cho vay, mà
gần phân nửa các dịch vụ trung gian, hơn nữa lại là lĩnh vực ít rủi ro.
Ngoài ra, NHTM còn có một số dịch vụ khác nữa nh : T vấn cho đầu t,
môi giới trong việc mua bán ngoại tệ, chứng khoán,bất động sản, quản lý hộ tài
sản, làm trung gian giải ngân, đánh giá,thẩm định các dự án...
9
1.2. Chức năng của NHTM
1.2.1. Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một trong những chức năng chủ yếu của các NHTM. Nó đợc
thực hiện thông qua một số hoạt động tín dụng và đầu t của các NHTM. Sức
mạnh của hệ thống NHTM nhằm tạo tiền mang ý nghĩa kinh tế cực kỳ to lớn.
Quá trình tạo tiền là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu
tiên nhận tiền gửỉ thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các
nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều ngân hàng. Muốn tạo ra tiền bút tệ
phải sử dụng cả hệ thống ngân hàng. Một ngân hàng đơn độc khó có khả năng
tạo tiền, hoặc việc tạo tiền chỉ diễn ra tạm thời trong một lúc nào đó. Một dây
chuyền hoàn chỉnh của quá trình tạo tiền phải gắn liền với một hệ thống NHTM
cùng với sự trợ lực của NHTƯ. Việc tạo tiền có thể làm cho các NHTM mất
khả năng chi trả tiền mặt và lúc đó, NHTƯ phải cho các NHTM vay để bù đắp
thiếu hụt thanh khoản.
1.2.2. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các ph ơng tiện
thanh toán
Việc đa ra cơ chế thanh toán, hay nói cách khác, sự vận động vốn là một
trong những chức năng quan trọng của NHTM. Đây là sự kế thừa và phát triển
chức năng ngân hàng là thủ quỹ của doanh nghiệp,tức là ngân hàng nhập tiền
vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Trong khi làm trung
gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lu thông tín dụng và độc
quyền quản lý công cụ đó (séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán...). Các ngân
hàng đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lu thông, đẩy nhanh tốc độ
luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lu thông hàng hoá. Ban đầu, ngân hàng sử
dụng tiền ngân hàng thay thế cho tiền vàng trong lu thông, sau đó, sử dụng các
công cụ lu thông tín dụng nh séc, thẻ thanh toán...thay thế cho tiền mặt nhằm
tiết kiệm chi phí lu thông, bảo quản, in, đếm, và hao mòn...Ngày nay, với phơng
pháp công nghệ hiện đại hơn, các NHTM từng bớc trang bị đầy đủ các máy vi
tính và phơng tiện kỹ thuật khác, tạo điều kiện thanh toán bù trừ đợc nhanh
chóng, đạt độ chính xác cao. ở các nớc phát triển, hình thức chuyển tiền bằng
điện tử, sử dụng thẻ tín dụng, thanh toán bằng cách nối mạng máy vi tính rất
phổ biến.
10
1.2.3. Chức năng trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trng của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tín dụng là hoạt động cầu
nối giữa cung và cầu về vốn trong xã hội. Để thực hiện chức năng này, NHTM
huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể
trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay. Mặt khác, trên cơ sở vốn đã
huy động đợc, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh,
tiêu dùng... của các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của
guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trởng kinh tế. Ngày nay, quan niệm
trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn. Sự phát triển của thị trờng tài chính
làm xuất hiện những khía cạnh khác của chức năng này. Ngân hàng có thể đứng
ra làm trung gian giữa công ty (khi phát hành cổ phiếu) với các nhà đầu t;
chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trờng chứng khoán; đảm nhận việc mua bán
trái phiếu công ty...Theo cách này, ngân hàng làm trung gian giữa ngời đầu t và
ngời cần vay vốn trên thị trờng. Các NHTM thực hiện chức năng này để kiếm
lời bằng việc đặt một lãi suất cao hơn cho các món vay so với món lãi mà họ
phải thanh toán cho ngời cho vay (ngờigửi tiền). Tác dụng của trung gian tài
chính là giảm thiểu những chi phí thông tin và chi phí giao dịch trong nền kinh
tế. Đây là một nguồn tài chính quan trọng hơn nhiều cho các công ty so với thị
trờng chứng khoán.
Chức năng trung gian tín dụng của các NHTM đợc hình thành từ rất sớm.
Ngày nay, NHTM, thông qua chức năng này, đã và đang thực hiện vai trò xã hội
của mình, làm cho sản phẩm trong nớc tăng lên, vốn đầu t mở rộng, từ đó góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
1.2.4. Chức năng làm dịch vụ tài chính và dịch vụ khác
Ngân hàng có những điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin,
quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp. Qua đó, ngân hàng có thể làm t vấn về
tài chính và đầu t cho các doanh nghiệp, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái
phiếu, bảo đảm đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Khi một doanh nghiệp
muốn phát hành chứng khoán, họ có thể nhờ ngân hàng cung cấp các dịch vụ
nh: lựa chọn loại chứng khoán phát hành, t vấn các vấn đề về lãi suất chứng
khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề về kỹ thuật khác... Ngoài ra, ngân
hàng có thể cung cấp các dịch vụ lu trữ và quản lý chứng khoán cho khách
11
hàng, hoặc có khi ngân hàng còn thực hiện việc mua, bán chứng khoán cho
khách hàng, thu hồi vốn chứng khoán đến hạn...Hơn thế nữa, ngân hàng còn có
thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác nh:
- Dịch vụ bảo quản an toàn vật có giá của khách hàng.
+ Dịch vụ cho thuê két sắt.
+ Dịch vụ bảo quản ký thác.
+ Dịch vụ trực tiếp bảo quản an toàn vật có giá.
- Dịch vụ cho thuê két ngân buổi tối.
- Dịch vụ tín thác và uỷ thác ngân hàng.
1.2.5. Chức năng tài trợ ngoại th ơng, mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc
tế
Mặc dù ngoại thơng đợc hình thành và bắt nguồn từ các hoạt động nội th-
ơng nhng có những sự khác nhau đáng kể và chính từ sự khác nhau đó, các
NHTM cần thiết cung ứng các dịch vụ ngân hàng quốc tế đối với các hoạt động
ngoại thơng. Sở dĩ có sự khác nhau ấy là do tồn tại ở mỗi nớc một hệ thống tiền
tệ riêng, không đồng nhất, và với năng lực tài chính của ngời mua và ngời ở các
nớc khác nhau cũng không giống nhau. Vì thế, nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
mang những đặc thù riêng so với các dịch vụ ngân hàng cung cấp trong nớc.
Ngân hàng có nhiều chọn lựa trong việc mở rộng hoạt động ở nớc ngoài: hoạt
động ngân hàng đại lý, văn phòng đại diện, mua lại các ngân hàng địa phơng...
Và một trong những chức năng quan trọng nhất do các ngân hàng thực hiện
trong việc tham gia vào nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là tài trợ xuất nhập khẩu
và nền thơng mại giữa các quốc gia. Hoạt động này đòi hỏi các phơng pháp tài
trợ khác nhau: ứng tiền trớc, tài khoản mở, uỷ thác, nhờ thu, và th tín dụng, tín
dụng chiết khấu hối phiếu, bảo lãnh, mua bán séc du lịch. Ngày nay, các
NHTM đã đi từ việc tài trợ các hợp đồng thơng mại riêng biệt đến cung cấp các
giải pháp tổng hợp đối với các nhu cầu thơng mại, bao gồm sự kết hợp cho vay
của ngân hàng với các nguồn bảo trợ từ các cơ quan xuất khẩu của chính phủ,
công ty thuê mua tài chính quốc tế và các nguồn tài trợ phi ngân hàng khác,
cùng với bảo hiểm rủi ro chính trị và kinh tế. Kinh doanh đối ngoại của ngân
hàng trở nên đa dạng, tinh vi hơn, đồ sộ hơn, thể hiện ở các hoạh động: kinh
doanh ngoại hối, chứng khoán, thanh toán quốc tế, tín dụng hợp vốn, đồng tài
trợ, hùn vốn, đại lý, uỷ thác...Tuy nhiên, hoạt động này cũng đòi hỏi ngân hàng
12
phải có năng lực tài chính vững mạnh, trình độ quản lý kinh doanh có uy tín, kỹ
thuật công nghệ ngân hàng hiện đại, đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn
cao.
1.3. Vai trò của NHTM
Vai trò của NHTM chính là sự vận dụng các chức năng của nó vào hoạt
động thực tiễn. Tuy nhiên, vai trò của NHTM thay đổi cùng với sự phát triển
kinh tế xã hội và phụ thuộc vào hoạt động chủ quan của các cơ quan quản lý.
1.3.1. Vai trò thực thi chính sách tiền tệ
Các NHTM là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của các công cụ chính
sách tiền tệ nh lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu thị trờng mở, hạn mức tín
dụng... Đồng thời các NHTM đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các
tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng và đến nền kinh tế.
Ngợc lại, qua NHTM tình hình sản lợng, gía cả, công việc làm, nhu cầu tiền
mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá của nền kinh tế đợc phản hồi về cho
NHTW để chính phủ và NHTW có những chính sách điều tiết thích hợp với tình
hình cụ thể. Vai trò điều tiết kinh tế vi mô của NHTM đợc thể hiện qua việc tiếp
nhận, thu hút khối lợng tiền mặt trong nền kinh tế vào NHTM, đồng thời cung
ứng tiền mặt theo nhu cầu. Quá trình này đã tạo ra mối quan hệ giữa lu thông
hàng hoá và lu thông tiền tệ trong từng khu vực. Nh vậy, với vai trò của mình,
NHTM đã xâm, nhập vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cá nhân,
và các lĩnh vực khác thông qua các nghiệp vụ tín dụng, tiền mặt, thanh toán
không dùng tiền mặt , các quan hệ về tham gia hùn vốn, t vấn... Từ đó, NHTM
giúp các hoạt động của các doanh nghiệp đợc tiến hành trôi chảy và ngày càng
phát triển.
1.3.2. Vai trò điều tiết vĩ mô thông qua chức năng tạo tiền của NHTM
Chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô, tham gia xây dựng chiến lợc phát triển
kinh tế xã hội, soạn thảo chính sách tiền tệ thuộc về NHTW. Điều hoà khối tiền
tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo tiền và sử dụng tiền trong hệ thống
ngân hàng hai cấp nhằm ổn định mức cung tiền tệ. Tiền ngân hàng (tiền ghi sổ,
bút tệ) là tiền do NHTM tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Tiền ngân hàng chiếm bộ phận lớn trong tổng khối lợng tiền tệ ngày nay ở các
nớc phát triển. Một nền kinh tế càng hiện đại, càng sử dụng nhiều hơn tiền do
NHTM tạo ra. ở Việt Nam, mức độ tiền tệ hoá của nền kinh tế cha cao, cha
13
phát triển thống nhất, chính sách tiền tệ nên hớng đến việc tạo lập các công cụ
tài chính, giấy tờ có giá sinh lời nhằm thúc đẩy gia tăng chu chuyển vốn, tạo
thuận lợi cho việc kiểm soát tổng lợng tiền mà không gây hiệu ứng lạm phát.
Nh vậy, bằng việc tạo tiền gắn với công cụ quản lý vĩ mô của NHTW trong khi
hoạt động kinh doanh, các NHTM đã thể hiện vai trò của mình trong việc góp
phần vào hoật động điều tiết vĩ mô của NHTW qua chính sách tiền tệ.
2. Huy động tiền gửi có kỳ hạn tạI NHTM
2.1. Khái niệm tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi đợc uỷ thác vào ngân hàng mà có thoả
thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Nh vậy, về nguyên
tắc, khách hàng gửi tiền chỉ đợc rút tiền ra khi đến hạn đã thoả thuận. Thực
chất, các loại tiền gửi có kỳ hạn này có dạng nh một khoản tiền vay của ngân
hàng nhng không thể hiện bằng một phiếu khoán. Nó là một ngoại lệ của qui
tắc khả dụng, bởi vì ngân hàng chỉ phải hoàn lại số tiền ký thác vào ngày đáo
hạn ghi trên hợp đồng. Khi chúng ta gửi tiền vào ngân hàng, theo tài khoản tiền
gửi có kỳ hạn, điều ngân hàng cần biết trớc tiên là chúng ta gửi tiền với thời
gian bao lâu, thông thờng định kỳ có thể là một tháng, ba tháng, sáu tháng, chín
tháng, một năm hoặc hơn nữa.
Tên gọi có kỳ hạn có nghĩa là khoản tiền đợc gửi sẽ có thời gian tối
thiểu theo thoả thuận giữa ngân hàng và thân chủ và không đợc rút ra trớc thời
hạn đã định nói trên. Nếu vì lý do đặc biệt phải rút tiền ra trớc hạn kỳ, các
NHTM có một trong ba cách xử lý:
1.Từ chối: Họ đã từng có quyền làm nh vậy trớc đây, bởi vì việc gửi tiền
của chúng ta là một hợp đồng cho vay với thời hạn đã thống nhất, khi chúng ta
đòi lại trớc thời hạn, điều đó sẽ gây thiệt hại cho công việc của ngân hàng. Tuy
nhiên, thông thờng ngân hàng áp dụng hai cách mềm dẻo hơn là:
2. Yêu cầu chúng ta phảI báo trớc, ít nhất một khoảng thời gian nào đó về
ý định rút tiền. Trớc những năm 80, khoảng thời gian tối thiểu phải báo trớc này
là 30 ngày
3. Với những yêu cầu rút tiền đột xuất nh vậy, khoản lãi suất mà ngân
hàng trả cho tiền gửi của chúng ta sẽ rất thấp, do chúng ta phải chịu lãi suất
phạt vì đã làm ảnh hởng đến kế hoạch của ngân hàng.
Xuất phát từ loại hình tiền có kỳ hạn, một khái niệm đợc hình thành đó là
thời gian đáo hạn hay đến hạn thanh toán của các loại chứng th tiền gửi.
14
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng tại tài khoản có kỳ hạn 3 tháng rồi nhận
một cuốn passbook (quyển sổ) do ngân hàng cấp, hoặc dùng tiền mua một trái
phiếu tiết kiệm (savings bond) cũng của chính ngân hàng đó phát ra với thời
hạn thanh toán sau 3 tháng. Hai việc làm này tính chất không khác nhau, ngoại
trừ một điểm là trái phiếu không đợc đổi lại thành tiền mặt nửa chừng nh
passbook; Vấn đề cơ bản ở đây là cả hai loại chứng th này đều có thời thanh
toán tiền mặt về nguyên tắc là đến ngày cuối cùng của tháng thứ ba. Đúng hơn,
khách hàng chỉ có thể và có quyền (theo hợp đồng) dùng các loại chứng th nói
trên để đổi trở lại thành tiền mặt vào ngày cuối cùng của tháng thứ ba. Ngày nói
trên là ngày đáo hạn. Khoảng thời gian hay kỳ hạn 3 tháng của chứng th đợc gọi
là thời gian đến hạn kể từ ngày chứng th đợc phát ra. Thời gian đến hạn của
các khoản gửi có kỳ hạn nh tiền tiết kiệm passbook và các loại trái phiếu khác
là tiêu chuẩn hay cơ sở để đánh giá khả năng thanh tiêu của các loại tài sản nói
trên. Khả năng thanh tiêu là khả năng chuyển đổi thành tiền mặt của các loại tài
sản mà chúng ta sở hữu. Với cách xác định nh thế, một khoản gửi có kỳ hạn
hoặc một trái phiếu có thời gian đến hạn 10 năm. Ngoài mức độ nhanh chóng,
tính chắc chắn trong việc chuyển trở lại thành tiền mặt cũng góp phần tạo ra khả
năng khả năng thanh tiêu. Tiền mặt đơng nhiên là tài sản có khả năng thanh tiêu
cao nhất.
Mặt khác, lãi suất mà ngân hàng trả cho tiền gửi có kỳ hạn (bao gồm cả
tiền gửi tiết kiệm) thờng là cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn. Lý do ở
đây là, khi chúng ta thống nhất với ngân hàng rằng sẽ gửi tiền trong khoảng thời
gian 3 tháng, có đến hơn 80% những thân chủ đã giữ đợc cam kết nói trên. Do
vậy, các NHTM hoàn toàn yên tâm sử dụng tiền gửi của chúng ta để cho vay
trong 2 tháng 29 ngày. Với khoản cho vay ổn định này, ngân hàng sẽ kiếm đợc
nhiều lợi nhuận hơn. Vì thế tiền thù lao nó trả cho chúng ta cũng phải cao hơn
để kích thích sự gửi tiền hơn nữa.
Tiền gửi có kỳ hạn thờng đợc hởng lãi suất cố định. Tuy nhiên, giữa các
loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau lãi suất đợc trả sẽ khác nhau lãi suất đợc trả
khác nhau. Tiền gửi có kỳ hạn với thời gian càng lâu, lãi suất sẽ càng lớn bởi vì
ngân hàng hoàn toàn có thể dùng tiền gửi này đem đầu t vào những dịch vụ
hoặc sản xuất có tính lâu dài hơn với lợi tức ổn định hơn. Theo điều tra về tình
hình lãi suất mà các NHTM trả cho các loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau ở Hoa
Kỳ năm 1996, cho thấy lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn chỉ ổn định ở mức cao
với những loại dài hạn, không ổn định với những loại ngắn hạn, vì tiền gửi ngắn
quá không khác nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn. Trong từng thời điểm một,
15
khoảng cách giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn cũng khá rộng. Sự khác biệt rõ
ràng ấy là chính sách của các NHTM trong việc kích thích các khoản gửi có kỳ
hạn với thời gian càng dài càng tốt.
Nhìn một cách khái quát trong khoảng thời gian từ năm 1960 đến năm
1996, ở các nớc phát triển, tiền gửi có kỳ hạn của nhân dân và vốn cổ phần của
các NHTM đều giảm liên tục, tuy có chậm. Ngợc lại, các loại tài sản nợ khác
lại tăng lên theo thời gian. Hiện tợng trên gợi ra đôi điều suy nghĩ, phán đoán.
Phải chăng các chủ NHTM đã và đang có khuynh hớng vay và sử dụng nhiều
hơn vốn của thị trờng tiền tệ để hoạt động kinh doanh. Bởi vì rất dễ hiểu là việc
hạn chế vốn cổ phần sẽ làm tăng nhanh lợi nhuận ròng (ROE) và việc giảm tỷ lệ
tiền gửi có kỳ hạn trong tài sản nợ là phơng thức quản lý đi từ thụ động với tình
huống sang chủ động thiết kế điều kiện kinh doanh. Nó phản ánh quan niệm
mới trong quản lý nợ của các NHTM song song với quá trình phát triển chung
của nền kinh tế và với thị trờng tiền tệ -tài chính nói riêng. Tuy nhiên, bức tranh
trên chỉ mô tả hoạt động tạo vốn của NHTM ở các nớc phát triển. Còn ở những
nớc đang phát triển, tình hình huy động tiền gửi có kỳ hạn ở các NHTM có
nhiều khác biệt.
Nghiệp vụ huy động tiền gửi ở các NHTM hiện đang rất phổ biến, nhất là
tiền gửi có kỳ hạn, bởi tính u việt về lãi suất và kỳ hạn của nó. Tuy nhiên, môi
trờng hoạt động của các NHTM ở các nớc khác nhau là khác biệt. Điều đó tạo
nên dấu ấn riêng của từng NHTM trong nghiệp vụ này.
2.2. phân loại tiền gửi có kỳ hạn
Vào những năm 80, tiền gửi không kỳ hạn là bộ phận lớn nhất trong cung
ứng tiền M1; 90%cung ứng tiền M1 ở Mỹ là séc và 10% là tiền mặt. Tuy nhiên,
cùng vào năm nói trên, tiền gửi có kỳ hạn lại nhiều gấp đôi tiền gửi không kỳ
hạn. Vào tháng giêng năm 1996, chỉ có 317 tỷ USD là tiền mặt trong tay nhân
dân đợc dùng để thanh toán trong khi có tới 811 tỷ là séc và 2559,8 tỷ USD là
tiền dới dạng tiền gửi có kỳ hạn. Nh vậy, tiền gửi có kỳ hạn ngày càng tăng tr-
ởng về qui mô và thu hút đợc sự quan tâm của dân chúng, một phần nhờ tính
hữu ích và sự đa dạng về chủng loại của nó. Có thể phân chia tiền gửi có kỳ hạn
theo các tiêu thức sau:
2.2.1. Căn cứ theo thời gian gửi tiền
2.2.1.1. Tiền gửi kỳ hạn loại ngắn hạn
Tiền gửi có kỳ hạn loại ngắn hạn là loại tiền gửi có kỳ hạn đợc phân chia
theo thời gian gửi tiền. Nhìn chung, loại tiền gửi này thờng có thời gian rất
16
ngắn, từ 1 ngày đến vài tuần, tối đa là 3 tháng. Đây là một hình thức huy động
tiền của NHTM dung để giải quyết những nhu cầu cấp bách về tiền mặt trong
ngắn hạn. Vì thế, các NHTM chỉ phát hành phiếu nợ với thời gian ngắn để huy
động tiền gửi của nhân dân, loại tiền gửi có kỳ hạn này đợc coi là tiền gửi ngắn
hạn, bao gồm các loại sau:
a) Tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn (Tiền gửi trong các quỹ tín dụng
của thị trờng tiền tệ):
Tiền gửi tiết kiệm loại này có kỳ hạn nhỏ từ 1 tháng, 2 tháng đến 3 tháng.
Lý do là những ngời gửi tiền vào tài khoản tiết kiệm loại này có một ít tiền mặt
tiết kiệm và có thể bất chợt rút ra ngay sau khi gửi chỉ vài ba hôm. Song họ lại
không muốn gửi khoản tiền mình có vào tài khoản thanh toán hay tài khoản
dùng séc, vì những tài khoản này cho lãi suất rất thấp, hoặc không đợc hởng lãi.
Vì thế, những ngời có tiền d thừa trong một thời gian ngắn vẫn muốn tận dụng
1tháng, 2tháng hay 3 tháng tiền của họ nhàn rỗi để kiếm lời, trong khi vẫn đảm
bảo có thể rút tiền mặt ra thanh toán ngay khi cần. ở các nớc phát triển, khoản
gửi này có lãi suất rất cao, thời gian gửi rất ngắn, từ 1 ngày đến vài ba tuần, số
lợng có thể rất nhỏ đến rất lớn. Tổng hợp các khoản tiền ngắn hạn này lại hình
thành nên những khoản vốn huy động khổng lồ. Ngời gửi có thể đợc phép viết
séc để thanh toán hoặc trao đổi trực tiếp với đối tác. Các đối tác kinh doanh này
có thể dùng phiếu nợ trên để mua, bán tiếp hoặc đem đến NHTM đổi thành tiền
mặt. ở Việt Nam, trong những năm gần đây, do nhu cầu cạnh tranh giữa các
ngân hàng, hầu hết các NHTM đều đa ra các hình thức tiền gửi tiết kiệm có thời
hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng với lãi suất cao hơn loại tiền gửi không kỳ hạn và
lãi suất tiết kiệm theo thời gian thực gửi ngắn từ 1 đến 29 ngày, từ 30 đến 59
ngày.
b) Chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn:
Đây là loại chứng th nh chứng th tiết kiệm (Saving certificates)- một loại
giấy chứng nhận tiền gửi có kỳ hạn (certificates of deposits- CDs). Theo qui
định của các NHTƯ ở các nớc đã phát triển, loại chứng chỉ này có giá trị không
lớn hơn 100.000 USD, gọi là các chứng chỉ có kỳ hạn loại nhỏ. Đó là những tờ
giấy chứng nhận có hai mặt (nh công trái ở Việt Nam) trên đó ghi rõ nơi phát
hành, ngày phát hành, đơn vị phát hành, số tiền mặt đã gửi vào, lãi suất (%),
ngày hoàn vốn và lãi hay ngày đáo hạn. Giống nh các loại tiền gửi có kỳ hạn
khác do NHTM phát ra, loại chứng th này có thể dùng để giao dịch, thế chấp
17
hoặc đem bán nh một loại tài sản, nhng không đợc rút tiền mặt ra trớc ngày đáo
hạn. Nếu nhất thiết phải rút ra trớc hạn, chúng ta phải chịu lãi suất phạt do
NHTM áp đặt.
ở các nớc đã phát triển, ngời ta phân chia chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn
thành loại lớn và loại nhỏ, nhằm tách những loại tiền khác nhau về mặt thanh
khoản. Tuy nhiên, ở các nớc đang phát triển, nh Việt Nam, thì không có sự phân
chia này, do thị trờng tiền tệ cha phát triển ở mức hoàn chỉnh. Các chứng chỉ
tiền gửi này nhìn chung thuộc loại tiền gửi kỳ hạn ngắn hạn do NHTM công bố
phát hành cho các đối tợng muốn gửi tiền vào ngân hàng.Và thay vì nhận một
cuốn sổ tiền gửi có kỳ hạn, họ sẽ nhận loại chứng th này. ở nớc ta, loại chứng
chỉ này gọi là tín phiếu, đợc ghi bằng những con số tuỳ theo mức thu nhập của
nhân dân. Thí dụ nh 500.000, 1.000.000, 2.500.000 hoặc 5.000.000 đồng. Mức
lãi suất đối với loại chứng chỉ tiền gửi có thể cố định hoặc giao động, tuỳ vào sự
lựa chọn của khách hàng. Với các chứng chỉ tiền gửi có mức lãi suất giao động,
khách hàng có thể gửi thêm tiền trớc ngày đáo hạn. Nhằm đáp ứng sự cạnh
tranh trong huy động vốn, các hình thức đặc biệt của chứng chỉ tiền gửi đã đợc
áp dụng. Thí dụ, các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhợng với mệnh giá lớn
đợc phát hành bởi nhiều NHTM lớn. Những ngời mua chứng khoán đã tạo một
thị trờng phụ cho các chứng chỉ tiền gửi này. Và nh thế, các NHTM có thể thu
hút vốn từ các nhà đầu t lớn. Chứng chỉ tiền gửi có thể thơng lợng này thờng đ-
ợc mua bởi các công ty, Các quĩ hu và các tổ chức chính quyền. Đây là những
công cụ ngắn hạn với thời gian đáo hạn trung bình 3 tháng và không quá 6
tháng, có mức lãi cao hơn mức lãi trái phiếu kho bạc cùng kỳ hạn 3 tháng.
Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhợng đợc phát hành dới hình thức vô danh ở
Mỹ và có thể đợc bán trên thị trờng chứng khoán thứ cấp, trớc ngày đáo hạn. ở
các nớc công nghiệp, thay cho việc giữ tiền mặt hoặc tiền séc không sinh ra
đồng lãi nào. Ngời ta dùng tiền để mua các chứng chỉ tiền gửi nói trên. Nó vừa
có khả năng mua bán nhất định nh séc hay tiền mặt, vừa sinh lãi ra mỗi ngày.
Đúng về phía ngân hàng, các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn không đổi thành tiền
mặt khi cha đến hạn, nên vốn huy động đợc giúp các ngân hàng chủ động trong
việc kinh doanh hơn so với tiền gửi có kỳ hạn có sổ passbook. Việc NHTM huy
động tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi nói trên phụ thuộc vào ba
yếu tố:
18
1. Mức độ chấp nhận của nhân dân đối với nó nh một phơng tiện thanh
toán trong lu thông.
2. Sự khuyến khích hay không của NHTƯ.
3.Hiệu quả của việc sử dụng đã huy động đợc. Cho đến nay, huy dộng vốn
bằng hình thức này thờng chiếm xấp xỉ 10% đến 15% tổng tài sản nợ của
NHTM.
c) Trái phiếu đôla - euro:
Đôla - euro là một loại chứng th thờng do các ngân hàng ngoại thơng,
ngân hàng xuất nhập khẩu phát ra. Loại phiếu nợ này cũng giống nh chứng chỉ
tiền gửi có kỳ hạn, cũng có hai mặt ghi chú rõ ràng tên ngân hàng đã phát hành
ra nó, nơi phát hành, ngày phát hành, lãi suất, ngày đến hạn và số tiền USD trên
bề mặt...Rất nhiều cá nhân, nhà kinh doanh, hộ gia đình và chính phủ trong và
ngoài nớc hiện nay sở hữu USD và họ muốn sinh lời từ tài khoản này. Tuy
nhiên, vì lý do nào đó, họ không muốn chuyển đổi USD thành dollars để hởng
lãi, và đến hạn cũng đợc hoàn trả bằng USD. Cũng giống nh CDs hay tín
phiếu .thời gian đáo hạn của loại trái phiếu này thờng rất ngắn, từ vài tuần đến
3 tháng. Trong các thị trờng tài chính lớn, loại trái phiếu này (nh tín phiếu ở
Việt Nam) đợc xem không khác gì USD. Do đó, các ngân hàng ngoại thơng rất
thích huy động loại tiền gửi có kỳ hạn này để có vốn cho các thơng vụ kinh
doanh với nớc ngoài. Tại Việt Nam, chỉ có ngân hàng ngoại thơng, ngân hàng
xuất nhập khẩu mới đợc phép huy động tiền gửi bằng loại trái phiếu EURO-
Dollars này.
2.2.1.2. Tiền gửi có kỳ hạn loại trung hạn
Việc phân chia tiền gửi có kỳ hạn thành ngắn hạn, trung hạn, và dài hạn
chỉ mang ý nghĩa tơng đối. ở mỗi NHTM, vào từng thời điểm khác nhau, ngời
ta có thể quan niệm tiền gửi kỳ hạn cũng khác nhau. Một cách khái quát, các
loại tiền gửi có kỳ hạn loại trung hạn có thời gian đáo hạn từ 6 tháng, 9 tháng,
và nhỏ hơn 12 tháng. Gồm các loại sau:
-Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn: 6 tháng, 9 tháng.
-Tiền gửi tiết kiệm theo thời gian thực gửi: từ 90-179 ngày, từ 180- 269
ngày, từ 270- 329 ngày, từ 330- 359 ngày.
Tiền gửi kỳ hạn loại trung hạn thờng là tiền gửi của các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế xã hội. Đó là các khoản khấu hao, quỹ khen thởng, phúc lợi, lợi
19
nhuận, thu nhập doanh nghiệp cha chi, các quỹ dự phòng rủi ro cha bù đắp. Mặt
khác, các cá nhân gửi tiền vào tài khoản này thờng có số tiền nhàn rỗi tơng đối
lâu và không có nhu cầu rút ra ngay. Vì thế, họ đem gửi vào ngân hàng, vừa để
hởng lãi vừa giữ đợc tiền một cách an toàn. Những ngời gửi tiền thờng nhận đợc
một cuốn sổ (passbook) để theo dõi tình hình tiền gửi của mình giống nh sổ tiết
kiệm ở Việt Nam. Khi có nhu cầu gửi thêm tiền hoặc rút bớt ra, hay chuyển đi
vào tài khoản khác, họ mang sổ đến ngân hàng hoặc các chi nhánh của ngân
hàng đó. Giá trị tiền gửi trên bề mặt của loại tiền gửi có kỳ hạn này cũng khá
lớn, lãi suất khá cao. Các chứng chỉ tiền gửi, các tín phiếu có kỳ hạn từ 6 tháng
đến 1 năm cũng thuộc loại này.
2.2.1.3. Tiền gửi có kỳ hạn loại dài hạn
Loại tiền gửi có kỳ hạn này có thời gian đáo hạn dài hơn so với hai loại
trên, thông thờng từ 1 năm trở lên đến 10 năm. Có thể chia thành các loại sau:
a) Tiền gửi tiết kiệm dài hạn:
Những ngời gửi tiền vào tài khoản tiết kiệm dài hạn là những ngời có tiền
tạm thời cha sử dụng hoặc là có tiền để dành cha cần chi tiêu ngay trong một
khoảng thời gian khá dài, từ một năm trở lên. Mục đích gửi tiền là nhằm tìm
kiếm lợi tức, vì loại tiền gửi kỳ hạn dài này thờng có lãi suất cao hơn các loại
tiền gửi có kỳ hạn khác. Đối với tiền gửi tiết kiệm dài hạn, các NHTM có thể
chia thành: tiền gửi tiết kiệm đợc thông báo và tiền gửi tiết kiệm có sổ.
Loại tiền gửi tiết kiệm có thông báo trớc nhiều thuận lợi hơn. Hàng tháng,
những ngời gửi tiền vào tài khoản tiết kiệm này, nhận đợc một báo có chi tiết về
tình hình phát sinh của các giá trị trong tài khoản của mình: những số tiền đã đ-
ợc rút ra, chuyển đi hay gửi thêm vào (nếu có), lãi suất phát sinh trong tháng,
tồn khoản vào cuối kỳ. Ngời gửi có thể rút tiền hoặc gửi thêm bằng bu điện.
Loại tiền gửi tiết kiệm có sổ, giống nh tiền gửi tiết kiệm loại trung hạn, ng-
ời gửi đợc nhận một cuốn passbook làm chứng th xác nhận việc gửi tiền vào
ngân hàng và phải trực tiếp mang đến ngân hàng khi có nhu cầu rút tiền hoặc
gửi thêm. Các tiền gửi tiết kiệm dài hạn thờng có thời gian đáo hạn từ 1 đến 3
năm. ở Việt Nam, các NHTM cũng có các loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dài
đợc tính theo thời gian thực gửi từ 360- 390 ngày.
b) Trái phiếu tiết kiệm:
20
Đây là loại hình tiền gửi có kỳ hạn bằng cách dùng tiền mặt để mua các
phiếu nợ tiết kiệm do kho bạc, chính phủ, chính quyền địa phơng hay công ty,
NHTM phát ra. Tuỳ theo mức độ phát triển phát triển của mỗi quốc gia, loại trái
phiếu tiết kiệm này rất đa dạng về tên gọi và chủng loại. Trớc hết, ngời ta gọi nó
là trái phiếu tiết kiệm với mục đích để phân biệt nó với các loại trái phiếu thông
thờng khác về mục tiêu phát hành và lãi suất. Mục tiêu phát hành của loại trái
phiếu này là nhằm vào huy động những đồng tiền để dành và tiết kiệm của nhân
dân, cho nên loại vốn này, sau khi huy động, phải đợc dùng vào việc có ích cho
xã hội và phải tuyệt đối an toàn. Tiếp theo là lãi suất. Lãi suất loại trái phiếu
này thờng cao hơn các loại trái phiếu đầu t khác nhằm thể hiện sự u đãi những
đồng tiền xuất phát từ sự dành dụm của nhân dân lao động. Thời gian đáo hạn
của loại trái phiếu này thờng là một năm trở lên đến hàng chục năm. Trái phiếu
tiết kiệm do NHTM phát hành đợc gọi chung là trái phiếu tiết kiệm. Trái phiếu
tiết kiệm do kho bạc phát ra gọi là trái phiếu tiết kiệm kho bạc. Trái phiếu tiết
kiệm do chính quyền Trung ơng hay địa phơng phát ra vì mục đích huy động
vốn cho công trình xây dựng cơ bản lâu hoàn vốn có thể gọi là trái phiếu đô thị
hay trái phiếu nhà nớc (công trái Việt Nam). Các phiếu nợ này, thông qua
NHTM, đợc đa đến với công chúng và ngời dân, vì mục tiêu sinh lời cũng nh ý
thức phát triển cộng đồng, đã bỏ khoản tiền d thừa của mình ra mua trái phiếu
tiết kiệm này. Đó là hình thức huy động tiền gửi có kỳ hạn lâu dài rất phổ biến
của NHTM hiện nay.
c) Trái phiếu euro-dollars loại lớn:
Loại trái phiếu này cũng giống nh loại phiếu nợ mà chúng ta đã đề cập ở
trên. chỉ khác nhau là thời gian đáo hạn của loại euro-dola này dài hạn hơn, từ
một năm trở lên, do đó, khả năng chuyển đổi trở lại thành tiền mặt của nó thấp
hơn trái phiếu euro-dola loại nhỏ. Tuy nhiên, loại phiếu nợ này khi dân chúng
mua cũng phải mua bằng USD và khi đến hạn cũng đợc các ngân hàng ngoại th-
ơng trả lãi bằng USD.
d) Các chứng chỉ tiền gửi có giá trị lớn:
Điểm khác biệt giữa chứng chỉ tiền gửi loại lớn và chứng chỉ loại nhỏ là:
Chứng th tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ không đợc chuyển thành tiền mặt khi cha
đến hạn, trong khi loại lớn thì có thể chuyển dễ dàng mà không phải chịu phạt.
ở các nớc phát triển, chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn loại lớn giá trị lớn hơn
100.000 USD đợc coi là công cụ huy động vốn dài hạn của NHTM vì thời gian
21
đáo hạn dài hơn , từ 6 tháng, 1 năm trở lên. Mức lãi trả cho các chứng chỉ tiền
gửi này đợc qui định bằng cách thoả thuận trực tiếp giữa ngân hàng và ngời sắp
ký thác. Nếu một NHTM có nhu cầu huy động thêm vốn, có thể đa ra mức lãi
suất cao hơn đối với các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn loại lớn. Mặt khác, để gia
tăng sức lôi cuốn thị trờng, hầu hết các CDs đợc phát ra cho ngời gửi bằng
phiếu trả ngay để họ khỏi phải chờ đợi cho đến ngày đáo hạn. ở các nớc công
nghiệp, một thị trờng thứ cấp vững mạnh bằng các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn
giá trị lớn, với một số nhà giao dịch đóng vai trò ngời tạo thị trờng, bảo đảm cho
sự chuyển nhợng dễ dàng các phiếu nợ này.
2.2.2. Căn cứ theo loạI khách hàng
Các NHTM huy động tiền gửi có kỳ hạn từ mọi tầng lớp dân c, những ngời
có tiền dành dụm, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các tổ chức tín dụng,
tổ chức tài chính, các NHTM khác...
2.2.2.1. Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
Mỗi doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình đều có
những chu kỳ sản xuất riêng biệt. Không phải liên tục ngày này sang ngày khác,
năm này qua năm khác, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, lu chuyển vốn
liên tục và liên tiếp đa sản phẩm ra thị trờng. Các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh cũng nh những ngời nông dân, có khi bận rộn cũng có khi nông nhàn, tuy
chu kỳ sản xuất của hai đối tợng này không giống nhau. Các doanh nghiệp khi
tiến hành hoạt động của mình, họ phải trích lập các quỹ nh :quỹ khấu hao, quỹ
khen thởng, các quỹ dự phòng rủi ro cha bù đắp, các khoản lợi nhuận cha chia,
thu nhập doanh nghiệp cha chi... Số tiền này trong một khoảng thời gian nhất
định đợc coi là d thừa và nhàn rỗi. Nếu họ đem số tiền này cất vào tủ chờ đến
ngày thanh toán, nó sẽ không đem lại lợi nhuận. Mặt khác, nếu các doanh
nghiệp đem số tiền nhàn rỗi tạm thời này gửi vào các NHTM dới dạng tiền gửi
có kỳ hạn khác nhau. Song thông thờng là các loại tiền gửi kỳ hạn ngắn và trung
hạn.
2.2.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, NHTM
Giống nh các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, và các
NHTM trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình cũng có các khoản tiền
nhàn rỗi tại một thời điểm xác định. Các NHTM, tổ chức tín dụng, tổ chức tài
chính, sau khi đã huy động đợc vốn mà không cho vay đợc, hoặc không có
22
nguồn cho vay hiệu quả, họ sẽ bù đắp việc phải trả lãi trên đồng vốn huy động
đợc, bằng cách đem số tiền đó gửi vào NHTM khác dới hình thức tiền gửi có kỳ
hạn. ở Việt Nam, loại tiền gửi có kỳ hạn hiện cũng đang khá phổ biến do các
NHTM ứ đọng vốn, không cho vay đợc.
2.2.2.3. Tiền gửi có kỳ hạn của dân c
Đây là loại huy động phổ biến ở các NHTM từ xa đến nay, các khoản tiền
tiết kiệm của dân chúng gửi với các nghiệp vụ của nó đã trở nên quen thuộc và
rộng rãi, hơn nữa, đời sống nhân dân đợc cải thiện, thu nhập dân c tơng đối ổn
định. Vì thế, việc đem khoản tiền cha sử dụng hoặc để dành của mình gửi vào
NHTM để lấy lãi đã không còn xa lạ với mọi tầng lớp dân c. Dân chúng gửi tiền
vào ngân hàng dới hình thức tiền gửi tiết kiệm là chủ yếu với các thời hạn khác
nhau tuỳ theo nhu cầu rút ra, có thể là ngắn, trung hoặc dài hạn.
2.2.3. Căn cứ theo ph ơng thức trả lãi
Tiền gửi có kỳ hạn ở NHTM rất linh hoạt và đa dạng về phơng thức trả lãi.
Với các mức lãi suất khác nhau, NHTM đã đặt trớc khách hàng của mình những
sự lựa chọn vô cùng phong phú. Ngời ta cần chọn ra một hình thức gửi tiền có
kỳ hạn phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh. Một điều rất phổ biến ở các NHTM
Việt Nam hiện nay là do sức ép cạnh tranh, các NHTM thu hút tiền gửi có kỳ
hạn bằng cách không phạt lãi suất đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn mà rút
trớc hạn. Nếu khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, song do
nhu cầu thanh toán mà rút ra trớc thời hạn, họ vẫn đợc hởng lãi suất, nhng là lãi
suất thấp hơn, lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn.
Đối với các loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn khác nhau, phơng thức trả lãi
thông dụng hiện nay là:
- Tiền gửi có kỳ hạn lĩnh lãi cuối kỳ
- Tiền gửi có kỳ hạn lĩnh lãi hàng quý
- Tiền gửi có kỳ hạn lĩnh lãi theo thời gian thực gửi.
Đối với các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn các trái phiếu tiết kiệm, tín phiếu,
kỳ phiếu ngắn hạn, phơng thức trả lãi phổ biến là:
+ Các phiếu nợ hởng lãi suất cố định
+ Các phiếu nợ hởng lãi suất thả nổi
+ Các phiếu nợ trả lãi đầu kỳ
+ Các phiếu nợ trả lãi cuối kỳ
23
+ Các phiếu nợ theo niên kim cố định
+ Các phiếu nợ trả lãi trớc
+ Các phiếu nợ trả gốc cộng lãi một lần
+ Các phiếu nợ trả gốc một lần, lãi từng kỳ.
2.2.4. Căn cứ theo mục đích gửi tiền
2.2.4.1. Tiền gửi có kỳ hạn nhằm mục tiêu an toàn
Các NHTM giờ đây đã trở thành nơi gửi tiền lý tởng và tuyệt đối an toàn
với mọi tầng lớp dân c, mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Thay vì giữ bên
mình một khoản tiền không nhỏ, vừa lo sợ mất cắp, vì h hỏng, hao mòn lại phải
vận chuyển... Các khách hàng quyết định gửi tiền của mình vào ngân hàng, vốn
mục đích chính là an toàn, sau là thu lợi nhuận.
2.2.4.2. Tiền gửi có kỳ hạn nhằm mục tiêu sinh lời
Đây là điểm khác biệt lớn giữa tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ
hạn. Trớc đây, tiền gửi không kỳ hạn không đợc hởng lãi. Hiện nay, tuy tiền gửi
không kỳ hạn có hởng lãi nhng lãi suất rất thấp. Vì thế, nếu khách hàng muốn
có một chút lợi nhuận trên số tiền d thừa của mình, họ sẽ gửi tiền vào tài khoản
tiền gửi có kỳ hạn.Tiền gửi có kỳ hạn càng dài, càng đợc hởng lãi suất cao hơn.
Mặt khác, NHTM còn đa ra các loại tiền gửi có kỳ hạn với lãi suất thoả thuận,
có thể cao hơn các loại chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn khác nhằm thu hút nguồn
vốn đầu t của nhân dân và nền kinh tế. Vì vậy để đảm bảo mục tiêu sinh lời lớn,
khách hàng cần cân nhắc các mức lãi suất cạnh tranh khác nhau, với các khoảng
thời gian đáo hạn phù hợp. Điều đó, đòi hỏi các NHTM phải đa ra các loại tiền
gửi có kỳ hạn rất linh hoạt đa dạng.
2.2.4.3. Tiền gửi có kỳ hạn nhằm mục tiêu thanh khoản
Dựa vào nhu cầu thanh toán của chính mình, các khách hàng sẽ xem xét
nên gửi vào ngân hàng theo loại tiền gửi có kỳ hạn nào, thời gian đáo hạn bao
lâu , có khả năng chuyển thành tiền mặt nh thế nào. Trớc đây , khi khách hàng
gửi tiền vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, muốn chuyển tiền sang tài khoản sử
dụng séc để chi tiêu cho công việc vào đó, anh ta phải đến ngân hàng làm thủ
tục. Trong trờng hợp tiền gửi có kỳ hạn cha đến hạn, anh ta phải chịu mất ít lãi
suất phạt, và bị khấu trừ vào lãi suất đợc hởng vì đã chuyển tiền trớc thời hạn
quy định. Ngày nay, các NHTM đa ra một loại tài khoản tiền gửi có kỳ hạn mới
là tài khoản NOW. Tài khoản NOW vừa là tài khoản tiết kiệm vì vẫn đợc hởng
24
lãi suất tiền gửi, vừa cho phép ngời gửi có thể rút ra hoặc chuyển tiền bất cứ lúc
nào mà không phải chịu lãi suất phạt. Do đó , gửi tiền vào tài khoản này vừa đợc
sự tiện lợi của tài khoản giao dịch : séc vừa đợc hởng lợi tức của tài khoản tiết
kiệm.
2.2.5. Căn cứ theo hình thức gửi tiền
2.2.5.1. Tiền gửi có kỳ hạn bằng Bản tệ
ở các quốc gia, các NHTM chủ yếu nhận tiền gửi có kỳ hạn của khách
hàng bằng đồng tiền của chính nớc mình. Các tiền gửi tài khoản thông thờng đ-
ợc huy động bằng đồng tiền bản địa, vì ngời dân sau khi chi tiêu đã đem số tiền
mà họ kiếm đợc nhng cha sử dụng đến để gửi vào ngân hàng. Do đó, việc huy
động tiền gửi có kỳ hạn bằng bản tệ tại các NHTM là điều phổ biến.
2.2.5.2. Tiền gửi có kỳ hạn bằng ngoại tệ
Các NHTM ở Việt Nam thờng xuyên huy động tiền gửi có kỳ hạn bằng
các loại ngoại tệ mạnh nhằm làm thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của nó với
các đối tác nớc ngoài với các nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu. Các ngoại tệ
huy động chủ yếu là các đồng tiền mạnh nh USD, GBP, DEM, AUD, và gần
đây là EURO. Do đó, việc gửi USD vào các NHTM dới hình thức tài khoản tiền
gửi có kỳ hạn là phổ biến. Gần đây, một số NHTM đã huy động tiền gửi có kỳ
hạn bằng EURO. Chỉ có các NH ngoạI thơng, ngân hàng xuất nhập khẩu ở Việt
Nam mới đợc quyền huy động tiền gửi có kỳ hạn bằng trái phiếu DOLLAS -
EURO, là hình thức huy động vốn rất thông dụng ở các nớc phát triển G10.
2.3. Một số yếu tố ảnh hởng đến việc huy động tiền
gửi có kỳ hạn tạI ngân hàng thơng mại
Mặc dù NHTƯ không có sự kiểm soát tuyệt đối trên mức tiền gửi có kỳ
hạn của các NHTM nhng NHTƯ có thể ảnh hởng đến số ký thác do họ đang
nắm giữ. Do tiền gửi có kỳ hạn đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động
sinh lợi, các ngân hàng buộc phải cạnh tranh rất gay gắt để giành giật chúng.
Các nhà ngân hàng nhiều khi phải suy nghĩ về các biện pháp để gia tăng các
khoản ký thác, và các cơ quan quảng cáo đợc thuê nhằm làm cho dịch vụ ngân
hàng trở nên hấp dẫn hơn đối với khách hàng trong tơng lai. Các ngân hàng đạt
ở trình độ cao tiến hành việc nghiên cứu thị trờng, trong các mối quan hệ phức
25