Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

tính tích cực và hạn chế trong tư tưởng duy vật của l feuerbach

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.04 KB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ








LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


TÍNH TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TRONG TƯ TƯỞNG
DUY VẬT CỦA L.FEUERBACH

Chuyên ngành: Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204








Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
TS. LÊ NGỌC TRIẾT NGUYỄN THỊ MỸ LINH
MSSV: 6106625







CẦN THƠ, 2013

1

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 2
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Đối tượng nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Kết cấu luận văn 3
NỘI DUNG 4
Chương 1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
CỔ ĐIỂN ĐỨC 4
1.1 Hoàn cảnh ra đời của triết học cổ điển Đức 4
1.2 Đặc điểm của triết học cổ điển Đức 6
1.3 Những nhà triết học tiêu biểu của triết học cổ điển Đức 14
Chương 2
TƯ TƯỞNG DUY VẬT TRONG TRIẾT HỌC FEUERBACH 29
2.1 Ludwig Feuerbach 29
2.2 Tư tưởng duy vật trong triết học của L.Feuerbach 43
2.3 Tính tích cực và hạn chế trong triết học của L.Feuerbach 55
2.3.1 Tích cực trong triết học của L.Feuerbach 55
2.3.2 Hạn chế trong triết học của L.Feuerbach 60

KẾT LUẬN 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67



2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Triết học Phương Tây phát triển vào khoảng thế kỷ VI trước CN, bắt đầu từ Hy
Lạp cổ đại. Từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết học cổ điển Đức là khoảng thời gian
kéo dài trên hai nghìn năm. Các trào lưu triết học trong khoảng thời gian này được chia
thành các giai đoạn phát triển với những đặc điểm riêng. Đặc biệt là triết học cổ điển
Đức (cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX) đã có ảnh hưởng lớn và là một trong ba tiền
đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Các nhà triết học cổ điển Đức đã có những đóng
góp to lớn trong việc nghiên cứu những vấn đề đã được nhân loại rất quan tâm trong
suốt nhiều thế kỷ và rút ra những kết luận quyết định đến sự phát triển của triết học sau
này. I.Kant, G.W.F.Hegel, L.Feuerbach là những đại biểu lớn của triết học cổ điển Đức
đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển triết học vào cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế
kỷ XIX.
Tiêu biểu trong các nhà triết học cổ điển Đức giai đoạn này là nhà triết học
L.Feuerbach. L.Feuerbach là nhà triết học thiên tài, ông thuộc trào lưu triết học cho
rằng vật chất có trước trong mối quan hệ ý thức, thế giới vật chất tồn tại độc lập và ở
bên ngoài ý thức (chủ nghĩa duy vật). L.Feuerbach đi vào lịch sử của nhân loại với tư
cách là người đại diện lỗi lạc của nền triết học cổ điển Đức, là một trong những nhà
duy vật lớn nhất của thời kỳ trước Marx. Chính K.Marx và F.Engels cũng đã chịu ảnh
hưởng của L.Feuerbach. F.Engels viết: “lúc bấy giờ ai nấy điều phấn khởi: tất cả chúng
tôi lập tức trở thành môn đồ của L.Feuerbach”. Cùng với triết học của I.Kant,
J.G.Fichte, F.W.J.Schelling và G.W.F.Hegel, triết học Feuerbach có vai trò quan trọng,
là một trong những tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Marx. Nghiên

cứu triết học của Feuerbach giúp em hiểu được hoàn cảnh ra đời và lịch sử phát triển
của triết học Marx, qua đó giúp em hiểu sâu hơn về triết học Marx-Lenin. Đó là lý do
mà tác giả chọn đề tài “Tính tích cực và hạn chế trong tư tưởng duy vật của
L.Feuerbach ” làm đề tài luận văn đại học của mình.

3

2. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này tập trung làm rõ vấn đề:
- Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
- L.Feuerbach và tư tưởng duy vật trong triết học L.Feuerbach.
- Tính tích cực và hạn chế trong tư tưởng duy vật của L.Feuerbach.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Trình bày quan điểm duy vật nhưng thiếu triệt để trong triết học của
L.Feuerbach. Qua đó giúp ta thấy được đóng góp to lớn của L.Feuerbach đối với triết
học nói chung và ảnh hưởng của triết học Feuerbach đối với sự ra đời của triết học
Marx qua những thành tựu của ông.
Nhiệm vụ:
- Một là, làm rõ về hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
- Hai là, tìm hiểu về tiểu sử của L.Feuerbach và tư tưởng duy vật trong triết học
của ông.
- Ba là, tìm hiểu tính tích cực và hạn chế trong tư tưởng duy vật của
L.Feuerbach, qua đó thấy được tính thiếu triệt để trong triết học của ông.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn kết hợp những phương pháp như lịch sử và
logic.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở bài, kết luận và danh mục tham khảo, nội dung luận văn bao

gồm 2 chương, 6 tiết với độ dài 62 trang.

4

NỘI DUNG
Chương 1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
CỔ ĐIỂN ĐỨC
1.1 Hoàn cảnh ra đời của triết học cổ điển Đức
Cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789-1794 kết liễu chế độ Quân chủ chuyên chế ở
Pháp, đã có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của nhiều nước trên thế giới trong đó có
nước Đức. Cuộc cách mạng này đã là một ánh chớp báo hiệu cho nước Đức phải cải
tạo theo con đường Tư bản chủ nghĩa: Thể hiện lý luận của sự tất yếu đó trên đất nước
Đức chính là các hệ thống triết học. Khái niệm “Triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ
triết học của nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu
từ hệ thống triết học của I.Kant, F.W.J.Schelling đến triết học duy tâm khách quan của
G.W.F.Hegel và triết học duy vật nhân bản của L.Feuerbach. Chỉ trong một thời kỳ
lịch sử khoảng một thế kỷ, triết học cổ điển Đức đã tạo những tiền đề lý luận hết
sức quan trọng cho sự ra đời của triết học Marx vào giữa thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức ra đời trong một điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước
Đức vào cuối XVIII đầu XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến lạc hậu cả về kinh tế
lẫn chính trị. Nông nghiệp thì bị đình đốn, công nghiệp không phát triển (năm 1822, cả
nước Đức mới chỉ có 2 máy hơi nước). Vào đầu thế kỷ XIX nước Đức với 300 công
quốc khác nhau, nhiều tiểu vương quốc tách biệt gây trở ngại cho sự phát triển của đất
nước. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như
Italia, Anh, Pháp…, đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có. Ở nước Pháp đã
tiến hành cuộc cách mạng tư sản, ở nước Anh thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp
làm rung chuyển cả châu Âu, đưa Châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Tấm gương của các nước Tây
Âu đã thức tỉnh tinh thần phản kháng cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những bộ

phận tiến bộ khác của xã hội Đức.

5

Lúc bấy giờ, giai cấp tư sản Đức vừa mới hình thành, nhưng vì giai cấp tư sản
Đức và những lực lượng tiến bộ khác nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời
nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách
mạng tư sản trong thực tiễn. Do đó giai cấp tư sản phải thỏa hiệp về chính trị đối với
giai cấp phong kiến; chưa có khả năng nắm chính quyền, lại sợ cách mạng đồng thời
nó lại quan tâm đến sự phát triển tư bản chủ nghĩa của đất nước. Điều đó được phản
ánh trong hệ tư tưởng của các nhà triết học Đức thời kỳ này. Họ không có khả năng
thực tế để dồn sức vào giải quyết những vấn đề chính trị thực tiễn, mà chủ yếu hướng
mọi người vào nghiên cứu các hệ thống triết học trừu tượng, thuần lý, tách rời đời sống
thực tiễn. Đặc biệt, triều đình vua Phổ vẫn ngoan cố tăng cường quyền lực để duy trì
chế độ phong kiến thối nát cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ
nghĩa. Mặc khác, do chiến tranh tiếp tục nổ ra làm cho đời sống nhân dân hết sức khó
khăn. Tình hình đó đã đưa nước Đức vào một tình trạng như F.Engels đã từng nói là
“Không một ai cảm thấy dễ chịu cả”.
Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị, nước Đức thời kì này đạt được sự phát triển
chưa từng có về triết học, văn hóa và nghệ thuật. Đây là quê hương của nhiều nhà tư
tưởng, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng thế giới như J.G.Herder, J.W.Goethe, I.Kant… Họ,
một mặt, tiếp thu những di sản tư tưởng và văn hóa Đức truyền thống, kế thừa các quan
niệm của Nicôlai Kudan, G.W.Leibniz…, mặt khác, được sự cổ vũ to lớn của tư tưởng
Khai sáng và văn hóa Pháp thế kỷ XVIII. Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794) là hậu
thuẫn thực tiễn thức tỉnh giai cấp tư sản Đức đấu tranh vì một trật tự xã hội mới ở Đức.
Thể hiện nguyện vọng đó của giai cấp tư sản, các tác phẩm của J.W.Goethe, I.Kant,
J.G.Fichte… đều toát lên một tinh thần phẫn nộ chống lại sự trì trệ và bất công của xã
hội Đức thời đó.
Trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở
các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt được nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện,

phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của A.L.Lavoisier, việc phát hiện ra tế bào của
A.V.Leeuwenhoek, định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của

6

M.V.Lomonosov, học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo… Bối cảnh chính trị -
xã hội và sự phát triển của khoa học ở Tây Âu và nước Đức lúc đó chứng tỏ sự hạn chế
và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất của các hiện
tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Chịu
ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp cũng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật
trên thế giới lúc bấy giờ đã tác động làm cho giai cấp tư sản Đức và những nhà tư
tưởng có cách nhìn mới về bản chất các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân
loại, cũng như cần có quan niệm mới về khả năng và vai trò của con người. Do đó Triết
học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó. Sự phát triển đó trở thành màn mở
đầu cho cuộc cách mạng chính trị sau này.
1.2 Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Để hiểu về đặc điểm của triết học cổ điển Đức trước nhất ta sẽ tìm hiểu về
những đặc điểm cần thiết chứa đựng trong các nguyên lý lý luận nhận thức của triết
học cổ điển Đức.
Thứ nhất, lý luận nhận thức của triết học cổ điển Đức được xây dựng trên nền
tảng của cả lập trường thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật. Trong đó là sự
đấu tranh không khoan nhượng của chủ nghĩa duy vật L.Feuerbach và chủ nghĩa duy
tâm G.W.F.Hegel trên nhiều bình diện. Trong tác phẩm Gia đình thần thánh, K.Marx
đã đánh giá cao vai trò của L.Feuerbach:
Những ai đã phát hiện ra bí mật của hệ thống – L.Feuerbach; ai đã xóa bỏ biện
chứng thần bí – L.Feuerbach; ai thay thế những quan niệm cũ rích và hướng vào bản
thân con người có ý nghĩa – L.Feuerbach. Nhờ vậy, quá trình phát triển lý luận nhận
thức của triết học cổ điển Đức không chỉ do các nhà triết học duy tâm kế thừa, phát
triển các quan niệm của họ về lý luận nhận thức, mà còn được đụng độ, va chạm với hệ
thống triết học duy vật nói chung và các nguyên lý nhận thức luận của L.Feuerbach nói

riêng. Nếu biện chứng duy tâm thông minh đưa lại cho loài người phương pháp biện
chứng cách mạng, thì đồng thời họ đã áp đặt vào nhận thức nhân loại một hệ thống triết
học hết sức bảo thủ và phản động. Từ việc giải quyết duy tâm mối quan hệ tồn tại và tư

7

duy, vật chất và ý thức đến trừu tượng hóa, thần thánh hóa bản chất nhận thức, quá
trình tiếp cận chân lý khách quan của nhận thức. Sự vận động có quy luật của khái
niệm các nhà triết học duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt là G.W.F.Hegel chỉ nhìn thấy sự
thuần túy của tư duy logic, không phát hiện ra đó là kết quả phản ánh hiện thực, thông
qua sự kết hợp biện chứng giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng. Các nhà triết
học duy tâm cổ điển Đức chỉ nhấn mạnh tiêu chuẩn logic của chân lý và họ đã lãng
quên đáng trách tiêu chuẩn thực tiễn của chân lý. Chính vì vậy mà họ đã cường điệu,
tôn sùng “Ý niệm tuyệt đối” trong nhận thức, họ rất hài lòng với sự hoàn thiện của chế
độ chính trị - xã hội Đức trong bối cảnh thế giới đang đón nhận sự phát triển của khoa
học, chịu ảnh hưởng to lớn của thực tiễn cách mạng của nhiều nước và sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa duy vật L.Feuerbach không chỉ thức tỉnh nhân loại về tính chất phản
khoa học và phản động về chính trị của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, mà còn xây tạo
nên một nền tảng duy vật cho quá trình nhận thức đúng đắn. Tuy cũng có lúc nào đó
L.Feuerbach đề cao lý trí của con người, nhưng nhìn tổng thể thì ông chưa vượt qua
được phương pháp siêu hình trong luận giải lý luận nhận thức, đặc biệt là sự tương tác
biện chứng giữa cảm giác và lý tính; giữa lý luận và thực tiễn. Đó là kết quả tất yếu do
mâu thuẫn giữa hệ thống triết học duy vật triệt để với phương pháp siêu hình trong tư
tưởng triết học L.Feuerbach.
Như vậy, tạo hóa cũng đã cho ta một sự điều chỉnh nào đó để chính các nhà triết
học duy vật và triết học duy tâm của triết học cổ điển Đức tạo nên những tiền đề cân
đối giúp K.Marx, F.Engels phát triển lý luận nhận thức lên một tầm cao mới về tính
khoa học và tính cách mạng, về giá trị người của nó.
Thứ hai, quá trình hình thành, phát triển của lý luận nhận thức trong triết học cổ

điển Đức có sự đan xen của phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Nếu tiếp cận cụ thể về I.Kant, J.G.Fichte, G.W.F.Hegel và L.Feuerbach sẽ cho
chúng ta những thông tin nhiều chiều về nội dung và phương pháp giải quyết vấn đề
nhận thức. “Vật tự nó” không thể nhận thức được, các kiến thức có được của loài người

8

là nhờ các hình thức “tiên nghiệm” của I.Kant; mối quan hệ giữa cái “Tôi tuyệt đối”
của J.G.Fichte; cái “Tuyệt đối” của F.W.J.Schelling; “Ý niệm tuyệt đối” của
G.W.F.Hegel, tuy có sự thống nhất nhưng cũng chứa đựng sự khác nhau trong phương
pháp lập luận, “cái bất biến” và “cái khả biến” trong quá trình nhận thức của con người
và loài người. Đa số trong các nhà triết học duy tâm vào thời đại đó ở Đức đều cố gắng
trừu tượng hóa điểm xuất phát của một cái gì đó từ hư vô. Từ cái hư vô ban đầu, có nhà
triết học không thừa nhận khả năng nhận thức của con người và nếu có thì cũng chỉ
được hồi tưởng lại trong giới hạn cho phép. Các nhà triết học cổ điển Đức theo lập
trường duy tâm ở một chừng mực nào đó đã tạo nên một lược đồ đã định cho nhận thức
của con người. Thiên tài như G.W.F.Hegel cũng đã để lại một sự “ngược đời” khi cho
rằng hệ thống khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật là kết quả của tư duy logic
thuần túy, nội dung đó không có gì liên hệ với giới tự nhiên, xã hội và hoạt động thực
tiễn của con người. Theo ông đó như là kết quả vận động về với “Ý niệm tuyệt đối” và
triết học tư biện của ông là chân lý tuyệt đối, là khoa học của mọi khoa học.
Việc xác định, phân loại “tư duy tự nó”, tức là tinh thần tuyệt đối tạo thành bản
chất của toàn bộ hiện thực và “tư duy cho nó”, tức là tư duy con người đã đưa
G.W.F.Hegel đến với quan điểm nước đôi trong xác định vấn đề xuất phát của lý luận
nhận thức. Mặc khác, ông đã đánh tráo vai trò thực tế giữa tồn tại và tư duy và cho
rằng ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là tính thứ nhất, giới tự nhiên là tính thứ hai,
do ý niệm tuyệt đối và tinh thần thế giới sinh ra và quyết định. Các lập luận đó không
chỉ phản ánh thế giới quan duy tâm chi phối đến việc giải quyết các vấn đề nhận thức,
mà nó còn chịu ảnh hưởng nặng nề của phương pháp siêu hình cực đoan.
Đối với L.Feuerbach, ông đã rất đúng khi phê phán quyết liệt người theo chủ

nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết. Trên lập trường duy vật kiên định,
L.Feuerbach nghi ngờ tính chất tư biện trong các nguyên lý về nhận thức luận của
G.W.F.Hegel. L.Feuerbach cho rằng đó cũng là một hạn chế cơ bản của hệ thống triết
học Hegel, trong đó nổi bật nhất là tính duy tâm khi giải quyết mối quan hệ giữa con

9

người và thế giới, tinh thần và vật chất, coi toàn bộ thế giới thực là hiện thân của tinh
thần tuyệt đối được như là lực lượng siêu nhiên.
Theo L.Feuerbach, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học về quan hệ giữa tinh
thần và vật chất trên cơ sở nhận thức của con người mới có thể phản ánh đúng đắn thực
tế. Các luận điểm về sự thống nhất không tách rời giữa thế giới và con người cùng
nhận thức của nó, sự thống nhất biện chứng giữa cơ thể con người và tư duy của nó mà
L.Feuerbach đã đề cập không chỉ có ý nghĩa chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không
thể biết, mà còn là một cống hiến mới trong lý luận nhận thức. Song bên cạnh những
cách nhìn nhận sự biện chứng giữa chủ thể và khách thể, giữa cơ thể và tư duy, giữa
nhận thức cảm tính và tư duy trừu tượng, L.Feuerbach vẫn chưa thể vượt qua giới hạn
tư duy siêu hình, máy móc, xa rời thực tiễn.
Thứ ba, lý luận nhận thức của triết học cổ điển Đức chịu sự chi phối rất mạnh
mẽ của hệ tư tưởng của giai cấp, đặc biệt là trong nhận thức các vấn đề xã hội.
Ai cũng hiểu rằng, hệ tư tưởng giai cấp là hệ thống những quan điểm và tư
tưởng về chính trị, luật pháp, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo, triết học; là bộ phận của kiến
trúc thượng tầng, phản ánh tồn tại xã hội mà trực tiếp là quan hệ kinh tế, giai cấp và vai
trò, sứ mệnh, nhiệm vụ lịch sử của giai cấp thống trị. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản và phong kiến quý tộc đã tác động mạnh mẽ đến triết
học cổ điển Đức nói chung và lý luận nhận thức của nó nói riêng.
Mâu thuẫn giữa hệ thống và phương pháp, giữa cách mạng và bảo thủ, giữa ý đồ
tốt đẹp trong xây dựng xã hội mới về sự hoàn thiện, vĩnh hằng của nhà nước Đức, đấu
tranh cách mạng tư sản long trời lở đất và sự rụt rè đấu tranh của họ; giữa tình thương
yêu con người vô tận và các giải pháp duy tâm, siêu hình trong giải phóng con người là

kết quả không thể tránh khỏi trong triết học cổ điển Đức, trước hết là hai đại diện tiêu
biểu là G.W.F.Hegel và L.Feuerbach. Về mặt nhận thức, không phải các nhà triết học
cổ điển Đức không hiểu được sự tất yếu của cuộc cách mạng tư sản và ảnh hưởng của
nó song do sự chi phối của lợi ích chính trị, kinh tế, văn hóa của giai cấp sự dao động
về chính trị của các ông đã không thể thực hiện được cuộc cách mạng trong triết học và

10

lý luận nhận thức. Công lao lịch sử của các nhà triết học cổ điển Đức, trong đó có vai
trò đặc biệt quan trọng của G.W.F.Hegel và L.Feuerbach đã đặt ra những tiền đề cho
K.Marx và F.Engels thực hiện cuộc cách mạng với đầy đủ ý nghĩa của nó trong triết
học nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Để đánh giá hết sự đóng góp của các nhà triết học cổ điển Đức vào sự phát triển
lý luận nhận thức trong tư tưởng triết học nhân loại và ý nghĩa của nó đối với triết học
mácxít, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu nghiêm túc, công phu. K.Marx đã khẳng định:
L.Feuerbach là địa ngục chuộc tội của thời đại chúng ta. Và F.Engels nhấn mạnh rằng,
G.W.F.Hegel không chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là nhà bác học có tri thức
bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực, ông thể hiện ra là một người vạch thời đại.
Do điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội hết sức đặc biệt của nước Đức cuối thế
kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng,
nhưng hình thức của nó thì cực kì “rối rắm” và có tính chất bảo thủ. Đây mà một đặc
điểm của triết học cổ điển Đức thời kì đó. Đăc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong hệ
thống triết học của Hegel. Triết học của ông bao chứa một nội dung cách mạng sâu sắc,
đó là phép biện chứng, nhưng hệ thống triết học của ông cực kì duy tâm, rối rấm và
kéo theo những kết luận chính trị phản tiến bộ.
Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể
hoạt động, là nền tảng và là điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học là một đặc điểm
của triết học cổ điển Đức. Trong đó thành tựu cơ bản là đã khẳng định: con người là
chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy và ý thức
của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế

giới; lịch sử phát triển của nhân loại là một quá trình phát triển biện chứng. Tuy nhiên,
họ đã thần thánh hóa sức mạnh và trí tuệ của con người tới mức con người là chúa tể
của tự nhiên. Tiếp theo tư tưởng biện chứng trong triết học thời cổ đại, triết học cổ điển
Đức xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học đối lập với
phương pháp tư duy siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Giả thuyết về sự hình thành vũ trụ của I.Kant và việc phát hiện ra những quy luật và

11

phạm trù cơ bản của phép biện chứng làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học
đã thật sự mang ý nghĩa cách mạng trong triết học. Như vậy, triết học cổ điển Đức
mang những đặc điểm như sau:
Một là, triết học cổ điển Đức thời kì này thể hiện khá rõ mâu thuẫn giữa cách
mạng về tư tưởng với bảo thủ cải lương về lập trường chính trị xã hội của các nhà triết
học. Điều này được thế hiện rõ trong nội dung quan điểm triết học của Hegel.
G.W.F.Hegel là nhà triết học duy tâm khách quan. Ông quan niệm mọi sự vật hiện
tượng xung quanh chúng ta chỉ là sản phẩm, là kết quả của sự sáng tạo của “ý niệm
tuyệt đối”. “Ý niệm tuyệt đối” là chân lý, là tinh thần đã phát triển đầy đủ hoàn chỉnh
không cần bổ sung, có sức mạnh vạn năng. Theo G.W.F.Hegel “Ý niệm tuyệt đối” hay
“Tinh thần thế giới” hay “Lý tính thế giới” chỉ là những tên gọi khác nhau của
“Thượng đế”. Quan niệm về nhà nước, về tự do của ông đều gắn liền với tôn giáo.
Trong các quan điểm xã hội, G.W.F.Hegel đứng trên lập trường của chủ nghĩa
Sô vanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là “hiện thân của
tinh thần vũ trụ mới”. Chế độ nhà nước Phổ đương thời được G.W.F.Hegel xem nó
như đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật. Ông là người tích cực bảo vệ chế
độ quân chủ chuyên chế Phổ, vì thế triết học của ông được Nhà nước Phổ lấy làm triết
học của nhà nước. F.Engels nhận xét: “Không một luận điểm triết học nào lại làm cho
các chính phủ thiển cận biết ơn và làm cho những người thuộc phái tự do cũng không
kém thiển cận nổi giận, bằng luận điểm nổi tiếng sau đây của G.W.F.Hegel: “Tất cả cái
gì là hiện thực, đều là hợp lý và tất cả cái gì là hợp lý, đều là hiện thực”.

Triết học Hegel chứa đựng một mâu thuẫn giữa hệ thống siêu hình học và
phương pháp biện chứng. Một mặt, trong logic G.W.F.Hegel chứng minh cho sự phát
triển không ngừng của ý niệm tuyệt đối; mặt khác, trong siêu hình học, ông coi triết
học của mình là đỉnh cao nhất của sự phát triển tư duy nhân loại, chế độ quân chủ Phổ
là hình thức nhà nước hoàn thiện nhất. Đó cũng chính là biểu hiện của mâu thuẫn giữa
mặt cách mạng trong phép biện chứng của ông với tính bảo thủ trong lập trường chính
trị và địa vị giai cấp của ông.

12

Hai là, trước đây triết học phương Tây chủ yếu bàn về những vấn đề thuộc bản
thể luận, nhận thức luận, thì triết học Đức bàn đến con người, coi con người vừa là kết
quả chung của quá trình hành động của mình vừa là chủ thể của quá trình ấy. Điều này
được thể hiện rõ trong nội dung quan điểm triết học của L.Feuerbach. L.Feuerbach nhà
triết học duy vật của triết học cổ điển Đức cũng lấy con người và xã hội con người làm
điểm xuất phát, khuynh hướng triết học như vậy được gọi là chủ nghĩa nhân bản
(humanism). Trên lập trường duy vật, với thái độ chống tôn giáo không khoan nhượng,
ông bác bỏ quan điểm của G.W.F.Hegel giáo về nguồn gốc siêu tự nhiên của con
người. L.Feuerbach cho rằng con người không phải nô lệ của Thượng đế hay tinh thần
tuyệt đối mà là sản phẩm của tự nhiên, là thể thống nhất giữa cơ thể và ý thức. Cơ thể
của con người được sinh từ những chất liệu tự nhiên. Ông nói: “Con người là cái mà
anh ta ăn vào”. “Thức ăn biến thành máu, máu biến thành tim và óc, chất liệu của tư
tưởng và thái độ”. Ý thức con người cũng không có nguồn gốc siêu tự nhiên mà là
thuộc tính của cơ thể vật chất. L.Feuerbach coi con người là đối tượng cao nhất của
triết học vì vậy chủ nghĩa duy vật của ông được coi là chủ nghĩa duy vật nhân bản.
Trong quá trình nghiên cứu con người L.Feuerbach quan niệm con người như một thực
thể sinh vật có cảm giác, biết tư duy, có ham muốn, có ước mơ, là một bộ phận của
giới tự nhiên. Tuy nhiên, con người trong triết học của L.Feuerbach là con người trừu
tượng. L.Feuerbach chỉ thấy con người như là những cơ thể sinh vật có ý thức, có tình
cảm; những cá nhân tách rời quan hệ xã hội và hoạt động thực tiễn. Mặc khác quan

điểm về con người của triết học cổ điển Đức vẫn là thành tựu mới đáng được khẳng
định.
Ba là, triết học cổ điển Đức có một cách nhìn mới biện chứng về thế giới hiện
thực. Nếu gạt bỏ yếu tố duy tâm thì cách nhìn này là một đóng góp lớn của nhân loại
và điều đó được thể hiện khá rõ trong quan niệm của I.Kant và cả Hegel.
I.Kant là nhà triết học mở đầu cho nền triết học cổ điển Đức. Ông nghiên cứu
trên nhiều lĩnh vực: Toán học, Logic học, Mỹ học. Triết học của ông chia làm hai thời
kì gắn liền với sự chuyển biến tư tưởng của ông. Thời kỳ trước phê phán (1746 – 1770)

13

thời kỳ này I.Kant đi sâu nghiên cứu khoa học tự nhiên, có hai phát minh quan trọng
thể hiện quan điểm duy vật biện chứng về thế giới. Thời kỳ sau gọi là thời kỳ phê phán
(từ 1770 trở đi) I.Kant chuyển sang nghiên cứu triết học và có nhiều đóng góp to lớn về
triết học vào kho tàng lịch sử triết học của thế giới. Song thời kì này quan điểm của
ông chứa đựng những yếu tố duy tâm bất khả tri về thế giới. Trong thời kì (1746 –
1770) I.Kant chú trọng nghiên cứu các vấn đề khoa học tự nhiên với hai phát minh nổi
tiếng thể hiện quan điểm biện chứng duy vật về thế giới: thứ nhất, ông là người đầu
tiên khám phá ra ảnh hưởng của lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng đối với các hiện
tượng thủy triều; thứ hai, trong tác phẩm “Lịch sử tự nhiên phổ thông và lý thuyết bầu
trời” viết năm 1775 của I.Kant đã nêu lên giả thuyết có giá trị về sự hình thành vũ trụ.
Ông cho rằng thế giới ngay từ đầu không phải đã có hiện trạng như ngày nay, mà là kết
quả của quá trình lịch sử lâu dài. Như vậy, theo quan niệm của I.Kant thì trái đất, bầu
trời cũng như toàn bộ vũ trụ có quá trình hình thành và vận động theo con đường tự
nhiên nhờ năng lực có sẵn của vật chất. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về thế
giới. Quan điểm duy vật nói trên của I.Kant có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa siêu hình và chủ nghĩa duy tâm. F.Engels cho rằng giả thuyết của
I.Kant về sự ra đời và cấu tạo của thái dương trong hệ vũ trụ đã mở một đột phá khẩu
vào quan niệm siêu hình về thế giới (kể cả trong khoa học lẫn triết học), để hình thành
thế giới quan duy vật biện chứng. Trong thời kỳ sau (từ năm 1770), I.Kant chuyên

nghiên cứu về các vấn đề triết học. Khi nghiên cứu lý luận về nhận thức, ông đã
chuyển từ chủ nghĩa duy vật tự phát sang chủ nghĩa duy tâm. Do đó, triết học của
I.Kant có tính chất nhị nguyên luận và đầy mâu thuẫn. Tuy nhiên những đóng góp của
ông vào nền triết học lẫn khoa học của thế giới là rất đáng trân trọng, đặc biệt là khi
ông đứng trên lập trường của người duy vật.
Ở quan điểm triết học của G.W.F.Hegel cũng chứa đựng những yếu tố biện
chứng duy tâm. Khi giải quyết những vấn đề cơ bản của triết học, G.W.F.Hegel chỉ lập
lại những điều mà các nhà duy tâm trước đó đã nói. Song, cái mới trong học thuyết của
ông chính là ở chổ ông xem xét tinh thần thế giới, ý niệm tuyệt đối là một quá trình tự

14

phát triển không ngừng, và ông là một nhà triết học hoàn chỉnh phép biện chứng duy
tâm, phép biện chứng của ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối với tính cách là cơ sở
đầu tiên và nguồn gốc của mọi tồn tại. Công lao của G.W.F.Hegel so với các bật tiền
bối của ông là ở chỗ đã phân tích một cách tổng hợp và biện chứng tất cả các phạm các
phạm trù quan trọng nhất của triết học và hình thành trên cơ sở duy tâm ba quy luật cơ
bản của tư duy: quy luật chuyển hóa từ lượng thành chất, quy luật thâm nhập lẫn nhau
của các mặc đối lập và quy luật phủ định của phủ định.
Lenin coi phép biện chứng của G.W.F.Hegel là một thành quả vĩ đại của triết
học cổ điển Đức. Chính nhờ có phép biện chứng đó mà triết học của G.W.F.Hegel
cũng như triết học của các nhà cổ điển Đức hồi cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX đã
trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Marx.
Với những lý do trên thì triết học cổ điển Đức được coi là giai đoạn phát triển
rực rỡ nhất của triết học phương Tây cận đại và là nguồn gốc lý luận trực tiếp cho sự ra
đời của triết học Marx sau này.
1.3 Những nhà triết học tiêu biểu của triết học cổ điển Đức
Tuy tồn tại chỉ trong thời gian khoảng một thế kỷ, nhưng triết học cổ điển Đức
đã xuất hiện nhiều nhà triết học nổi tiếng với những quan niệm mới có ảnh hưởng lớn
đến sự ra đời của triết học Marx.

- Immanuel Kant (1724-1804)
I.Kant sinh năm 1724 trong một gia đình quý tộc Phổ. Thời trẻ từng theo học
trường đại học Tổng hợp Kenixbéc. Sau khi tốt nghiệp ông được giữ lại và giảng dạy ở
đây. Ông quan tâm chủ yếu đến những vấn đề triết học và bỏ nhiều công sức để viết
các tác phẩm triết học; trong đó có những tác phẩm chủ yếu như: “Lịch sử tự nhiên đại
cương và thuyết bầu trời” (1755), “Phê phán lý tính thuần túy” (1781), “Phê phán lý
tính thực tiễn” (1788), “Phê phán khả năng suy diễn” (1790).
Triết học của I.Kant phát triển qua hai thời kỳ chính: thời kỳ từ năm 1746 đến
1770, gọi là “thời kỳ tiền phê phán” bộc lộ quan điểm duy vật gắn với khoa học tự
nhiên. Từ năm 1770 trở đi gọi là “thời kỳ phê phán” bộc lộ nhiều quan điểm triết học

15

khó hiểu. Vì vậy để nắm được nội dung triết học của ông, chúng ta nghiên cứu một số
vấn đề chủ yếu sau:
+ Quan niệm về thế giới
Quan niệm về thế giới của I.Kant được biểu hiện chủ yếu qua tác phẩm: “Lịch
sử tự nhiên đại cương và thuyết bầu trời”, “Phê phán lý tính thuần túy”. Xuất phát từ
luận điểm: “Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ cho các anh thấy thế giới ra đời từ vật chất
như thế nào”. Ông khái quát định luật vạn vật hấp dẫn của I.Newton và nghiên cứu bầu
trời, trái đất, đại dương; từ đó đưa ra quan niệm sau:
Tất cả các hành tinh, vũ trụ không phải ngay từ đầu đã có được trạng thái tồn tại
như hiện nay. Từ thời xa xưa nhất, cả thế giới đều nằm trong trạng thái hỗn độn. Nhờ
lực hấp dẫn mà các hạt vật chất khuếch tán khắp không gian đã dần dần tụ lại thành
đám mây lớn. Thông qua lực hút và lực đẩy, trong lòng đám mây xuất hiện những
luồng gió xoáy làm cho các hạt vật chất kết lại theo hình cầu. Do ma sát khi va chạm
nên chúng ở nhiệt độ cao. Vì lực hút chiếm ưu thế nên các hạt vật chất liên kết với
nhau tạo thành mặt trời và các hành tinh có độ nóng khác nhau tùy theo mức độ ma sát.
Nhưng vì khoảng không vũ trụ quá lớn và do có lực đẩy nên lực hấp dẫn không đủ sức
hút tất cả lượng vật chất của vũ trụ thành một khối, mà tạo thành nhiều hành tinh độc

lập với nhau. Do lực hấp dẫn tỉ lệ thuận với khối lượng, nên những hành tinh ở gần mặt
trời thì nặng hơn so với các hành tinh ở xa. Trái đất cũng hình thành như vậy. Lúc đầu
nhiệt độ rất cao, sau đó có sự tỏa nhiệt nên nhiệt độ bề mặt hạ thấp dần, đông cứng lại
tạo thành lớp bên ngoài. Nhiệt độ tiếp tục hạ thấp đến mức độ phù hợp thì các loại sinh
vật hình thành. Còn lớp ruột bên trong vẫn ở dạng nóng chảy. Như vậy, không chỉ mọi
sự vật mà cả toàn bộ vũ trụ nói chung đều nằm trong quá trình phát sinh, phát triển và
diệt vong như một quy luật “sắt đá của tự nhiên”.
Quan điểm duy vật trên được ông phát triển thêm trong khi bàn đến “vật tự nó”.
Ông cho rằng trong thế giới luôn tồn tại “vật tự nó” một cách khách quan độc lập bên
ngoài con người, chính nó tác động tới con người tạo ra kinh nghiệm cảm tính.

16

Quan niệm về thế giới của I.Kant chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật và hoàn
chỉnh hơn so với các giả thuyết về vũ trụ trước đó, nó đem lại cho con người một cách
nhìn mới – cách nhìn phát triển về thế giới; bước đầu xây dựng nền tảng cho quan niệm
phát triển biện chứng về tự nhiên.
+ Quan niệm về nhận thức
Quan niệm nhận thức của I.Kant được trình bày chủ yếu trong tác phẩm “Phê
phán lý tính thuần túy”, nhằm trả lời câu hỏi “Tôi có thể biết được cái gì”.
Theo I.Kant trước khi nhận thức phải xác định rõ đối tượng và nghiên cứu giới
hạn của tri thức con người. Ông khẳng định đối tượng nhận thức là các sự vật trong thế
giới và nó tồn tại khách quan. Nhưng do còn bị ảnh hưởng của quan niệm siêu hình nên
ông chia đối tượng nhận thức thành hai phần: Hiện tượng (phênomen) và “Vật tự nó”
(numen). Ở đây hiện tượng bao gồm hình vẻ bề ngoài, các thuộc tính bề ngoài của đối
tượng. Còn “Vật tự nó” bao gồm các mặt cơ bản, bản chất bên trong và các quy luật
vận động nội tại của đối tượng. Hiện tượng và “Vật tự nó” phân định tuyệt đối không
có mối liên hệ.
Về tri thức của loài người ông chia thành hai loại: “Tri thức kinh nghiệm cảm
tính” và “Tri thức tiên nghiệm”. “Tri thức kinh nghiệm cảm tính” chỉ nắm bắt được

những hiện tượng riêng biệt hỗn độn. “Tri thức tiên nghiệm” có sẵn trong ý thức của
mỗi người có khả năng sắp đặt lại tri thức kinh nghiệm theo một trình tự liên kết chặt
chẽ với nhau thành mối liên hệ có tính tất yếu, phổ quát. Như vậy, một mặt I.Kant thừa
nhận đối tượng nhận thức (các sự vật) tồn tại khách quan, mặt khác lại cho rằng quy
luật của thế giới là sản phẩm của ý thức con người. Đây là một biểu hiện của quan
điểm nhị nguyên luận. Ông cho rằng mục đích của con người là nhận thức “Vật tự nó”,
muốn thế phải trải qua quá trình phát triển lần lượt qua ba giai đoạn sau:
Giai đoạn trực quan cảm tính. Sự vật bên ngoài tác động vào giác quan của con
người một cách đơn lẻ, riêng biệt cho nên con người chỉ thu nhận được một mớ cảm
giác hỗn độn, kết quả đó chưa phản ánh đúng sự vật. Sau đó, nhờ có hai hình thức tiên
nghiệm là không gian và thời gian (là hai hình thức có sẵn từ trong ý thức) mà mớ cảm

17

giác được xếp đặt lại theo một trình tự trở thành tri giác. Những tri giác này còn mang
tính chủ quan và đơn lẻ chưa phổ quát vì nó phụ thuộc vào độ nhạy cảm của cơ quan
cảm giác ở mỗi con người. Trực quan cảm tính mới giúp con người hiểu những gì sự
vật biểu hiện ra bên ngoài, tức hiện tượng; chưa nhận biết được “Vật tự nó”.
Giai đoạn giác tính. Để khách quan hóa, phổ quát hóa kết quả trực quan cảm
tính thì phải chuyển lên giai đoạn giác tính. Giác tính là hoạt động của tư duy quy tụ
sự đa dạng của các tri giác cảm tính thông qua các khái niệm và phạm trù. Giác tính
biến các tri giác cá nhân thành các tri thức khách quan được mọi người dân công nhận.
Trong giai đoạn này con người thường phải sử dụng 12 phạm trù được chia thành bốn
nhóm: phạm trù lượng (thống nhất, nhiều vẻ, chỉnh thể); phạm trù chất (hiện thực, phủ
định, hạn chế); phạm trù quan hệ (phụ thuộc, độc lập, nhân, quả, tác động); phạm trù
trạng thái (khả năng, tồn tại, tất nhiên, ngẫu nhiên). Theo I.Kant nguồn gốc của phạm
trù là tiên nghiệm. Các phạm trù lúc đầu mới chỉ là các hình thức tư tưởng chưa có nội
dung. Vì thế các phạm trù phải được vận dụng vào kinh nghiệm cảm tính nhờ phép suy
diễn thông qua thời gian hình thành các lược đồ. Đây là những quy tắc hình thành trong
tư duy. Nhờ các lược đồ mà các lý luận khoa học được hình thành; từ đây mới có cơ sở

để sáng tạo ra các quy luật của tự nhiên. Ông kết luận: “Quy luật tự nhiên cần được tìm
trong chính chúng ta, nghĩa là trong giác tính của chúng ta”.
Như vậy, nguồn gốc của mọi tri thức con người xuất phát từ giác tính; chúng là
kết quả của phép suy diễn tiên nghiệm các phạm trù của giác tính vào kinh nghiệm cảm
tính. Kết quả của giác tính đã tạo ra cơ sở để nhận thức “vật tự nó”.
Giai đoạn lý tính. Theo I.Kant, lý tính là giai đoạn cao nhất trong quá trình nhận
thức. Nó không nghiên cứu các quan niệm cụ thể như giác tính mà chuyên nghiên cứu
các quy tắc, nguyên tắc liên kết giác tính thành các nguyên lý chung để nhận thức “vật
tự nó”. Trong quá trình giải quyết “Tôi có thể biết được cái gì?” I.Kant vừa bộc lộ quan
điểm nhị nguyên luận, vừa biểu hiện quan điểm của thuyết không thể biết. Một mặt
thừa nhận các sự vật tồn tại khách quan, mặt khác lại khẳng định các quy luật của thế
giới là sản phẩm của tư duy. Một mặt thừa nhận khả năng nhận thức của con người

18

không ngừng vươn lên, mặt khác lại khẳng định con người không thể nhận biết được
“Vật tự nó” tức bản chất, quy luật vận động bên trong của các sự vật.
+ Quan niệm về con người
Khác hẳn với các nhà triết học Anh, Pháp, I.Kant không chỉ bàn đến lĩnh vực
bản thể luận, nhận thức luận mà còn bàn đến con người với tính cách là một chủ thể
hoạt động. Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn” I.Kant đã đưa ra quan điểm
như sau: Con người là chủ thể hoạt động là nền tảng và là điểm xuất phát của mọi vấn
đề triết học. Con người vừa là chủ thể, đồng thời là kết quả quá trình hoạt động của
chính mình. Bản thân lịch sử là phương thức tồn tại của con người. Mỗi cá nhân hoàn
toàn làm chủ vận mệnh của mình và tự ý thức về mình. Bên cạnh quan điểm tiến bộ đó,
I.Kant cùng bộc lộ hạn chế ở chỗ, đề cao sự mạnh trí tuệ của con người tới mức cực
đoan: sáng tạo ra các quy luật của thế giới. Thần thánh hóa con người tới mức coi bản
thân thế giới tự nhiên phải hoạt động theo ý chí con người.
+ Quan niệm về chính trị - xã hội
Quan niệm về đạo đức: Để trả lời câu hỏi “Tôi cần phải làm gì?” I.Kant đã xây

dựng một số quan niệm về đạo đức, những quan niệm đó chưa đựng trong tác phẩm
“Phê phán lý tính thực tiễn”. Ông cho rằng, trong xã hội cần phải có các quy tắc đạo
đức. Các quy tắc đó không thể xuất phát từ yếu tố cảm tính nhất thời mà phải xuất phát
từ lý tính. “Lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý và chuẩn mực đạo
đức” bởi vì các khát vọng cảm tính chỉ đưa con người tới ích kỷ, phi đạo đức. I.Kant
đưa ra nguyên lý cơ bản của đạo đức, gọi là mệnh lệnh tuyệt đối. Mệnh lệnh đòi hỏi
mọi người sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình, tôn trọng người khác, sống theo
lẽ phải, tôn trọng sự thật, sống bình đẳng trong cộng đồng. Người này có quyền nào đó,
thì mọi người khác phải có quyền như thế, tạo điều kiện để họ thực hiện được quyền
đó. Ông còn cho rằng: Tự do là phạm trù trung tâm của đạo đức, là lý tưởng cao cả
nhất của nhân loại, là cái cao quý nhất trên trần gian.
Quan điểm đạo đức tuy có nhiều điểm không tưởng phi lịch sử, phi giai cấp,
thiếu cơ sở hiện thực nhưng chứa đựng nhiều tư tưởng nhân đạo sâu sắc vì nó góp phần

19

xóa bỏ quan niệm ích kỷ hẹp hòi, giải phóng tư tưởng con người không gông cùm của
ý thức hệ phong kiến.
Quan niệm về lịch sử: Ông cho rằng lịch sử là phương thức tồn tại của con
người như một chủ thể, trong đó bằng hoạt động của mình con người ngày càng phát
triển những khả năng và bản chất của mình. Bản thân lịch sử là một quá trình thống
nhất, phát triển theo quy luật nội tại của nó, chứ không phải do chúa trời hay lực lượng
siêu nhiên nào tạo. Vì thế, các cuộc xung đột giữa các giai cấp khác nhau là một điều
hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Quan điểm về lịch sử trên biểu
hiện I.Kant đang tiếp cận dần với tư tưởng biện chứng.
Quan niệm về nhà nước: Thừa nhận và phát triển tư tưởng về khế ước xã hội,
I.Kant cho rằng: Nhà nước là sự liên kết của mọi người trong khuôn khổ pháp luật
nhằm giám sát và bảo đảm bình đẳng cho mọi công dân. Nhà nước ra đời không phải là
ngẫu nhiên, mà do mâu thuẫn của xã hội nhằm giải quyết những đối kháng xã hội, điều
hòa sự phát triển của xã hội theo hướng ngày càng hoàn thiện. I.Kant mong muốn giải

quyết mâu thuẫn đó bằng hòa bình, ông muốn xóa bỏ chiến tranh vì theo ông, chiến
tranh phá hoại các chuẩn mực đạo đức của con người.
Mặc dù quan niệm về chính trị xã hội của I.Kant còn hạn chế ở chỗ chưa nhận
thấy nền tảng kinh tế làm nảy sinh các mặt khác nhau của xã hội, nhưng nó đã bao hàm
nhiều giá trị tư tưởng quý báu. Nó đặt nền móng cho quan điểm duy vật lịch sử sau
này.
+ Quan niệm về thẩm mỹ
Để trả lời câu hỏi “Tôi có thể hy vọng cái gì?” I.Kant xây dựng một số quan
niệm về thẩm mỹ. Những quan niệm đó được biểu hiện qua nội dung của tác phẩm
“Phê phán năng lực phán đoán”.
Ông quan niệm: Vươn lên cái đẹp là khát vọng của con người, chỉ có trong con
người mới có lý tưởng của cái đẹp. Con người tự tạo cho mình khả năng đánh giá và
thưởng thức cái đẹp. Cái đẹp là phạm trù trung tâm của thẩm mỹ học. Nhưng ông lại
cho rằng, quan niệm về cái đẹp cũng có mâu thuẫn. Một mặt cái đẹp mang tính phổ

20

quát tất yếu; mặt khác cái đẹp mang tính cá biệt bởi vì nó là kết quả thưởng thức của
từng cá nhân.
I.Kant là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất trong lịch sử triết học cổ điển
Đức, triết học của ông thật sự làm một cuộc đảo lộn cách mạng mà chính Hegel cũng
phải thừa nhận. Quan niệm của I.Kant đã tác động mạnh tiếp đến Hegel, và đã được
G.W.F.Hegel kế thừa phát triển thành nguyên lí gọi là phép biện chứng và nâng nó lên
thành quy luật phát triển của lịch sử thế giới. Sự vận động bao giờ cũng diễn ra từ Ý
thức (ngây thơ) qua Tự ý thức (phê phán, I.Kant) đến Tri thức tuyệt đối
(G.W.F.Hegel). Tuy triết học của ông còn mang tính chất nhị nguyên nhưng những
quan điểm triết học của ông thời ký “tiền phê phán” và thời kỳ “phê phán” đã đặt nền
tảng và là điểm xuất phát cho triết học Đức sau này.
- Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 - 1831)
G.W.F.Hegel sinh năm 1770 ở Stuttgart là con một công chức cao cấp. Hồi còn

trẻ theo học trường đại học Tubingue. Sau khi tốt nghiệp ông làm giáo sư dạy tư trong
các gia đình, làm hiệu trưởng trường trung học Nuremberg, rồi làm giáo sư trường đại
học Heldeberg. Trong quá trình giảng dạy ông để nhiều thời gian nghiên cứu và viết
các tác phẩm triết học như: “Hiện tượng học tinh thần” (1807), “Khoa học logic”
(1812-1814), “Bách khoa toàn thư các khoa học triết học” (1817),
G.W.F.Hegel là một nhà biện chứng lỗi lạc, nội dung triết học bao quát nhiều
lĩnh vực. Do vậy chúng ta không thể có điều kiện nghiên cứu tất cả mà chỉ nghiên cứu
một số vấn đề chủ yếu.
+ Quan niệm về thế giới
Quan niệm về thế giới của ông được thể hiện trong tác phẩm “Hiện tượng học
tinh thần” và “Lôgic học”. Theo G.W.F.Hegel thì đầu tiên có tinh thần tuyệt đối tồn tại,
bên trong chứa đựng các mặt đối lập; hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với
nhau làm cho nó luôn vận động phát triển khi đạt tới dạng hoàn thiện thì “Tha hóa”
(biến thành cái khác nó, nhưng chính là nó ở trạng thái khác và hình thức khác) biểu
hiện thành giới tự nhiên. Trong giới tự nhiên cũng chứa đựng các mặt đối lập chúng

21

vừa thống nhất và đấu tranh với nhau cho nên tạo ra động lực thúc đẩy giới tự nhiên
phát triển từ vô cơ đến hữu cơ rồi đến con người. Vì trong con người chứa đựng các
mặt đối lập cho nên, luôn nằm trong quá trình hoàn thiện, nhưng không phải là hoàn
thiện mặt thể xác mà hoàn thiện, phát triển về mặt tinh thần ý thức. Khi phát triển đến
mức độ hoàn thiện nhất con người không những nhận thức được thế giới tự nhiên, tự
nhận thức được mình mà nhận thức được tinh thần tuyệt đối biểu hiện qua hình thức
tôn giáo, nghệ thuật, triết học. Ở đây điểm khởi đầu là “tinh thần” điểm kết thúc của sự
phát triển cũng là “tinh thần”, chỉ có khác lúc đầu là “tinh thần thế giới”, còn điểm kết
thúc là “tinh thần tuyệt đối” tồn tại ở mỗi cá nhân con người. Do đó, triết học của
G.W.F.Hegel xét theo hệ thống là triết học duy tâm khách quan. Bởi vì, ông thừa nhận
tinh thần có trước, giới tự nhiên (vật chất) có sau phụ thuộc và phát sinh từ tinh thần
tuyệt đối.

G.W.F.Hegel còn cho rằng, khi các dạng tồn tại được “tinh thần tuyệt đối” tạo ra
thì không ngừng biến đổi theo các nguyên lý: Một là: mỗi dạng tồn tại không những
khác nhau mà còn làm “trung giới cho nhau” tức có liên hệ với nhau; Hai là: mỗi dạng
tồn tại đều trải qua quá trình vận động, phát triển; quá trình đó được thực hiện trên cơ
sở của ba nguyên tắc; thứ nhất, chất, và lượng quy định lẫn nhau. Những chuyển hóa
về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại; thứ hai, sự thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập với tư cách là nguồn gốc và động lực của sự phát triển tạo ra
sự chuyển hóa giữa nội dung với hình thức, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết
quả, khả năng và hình thức, v.v ; thứ ba, phủ định của phủ định với tính cách là sự
phát triển diễn theo hình thức xoắn ốc.
Những nguyên lý và nguyên tắc trên là nội dung chủ yếu của phép biện chứng
mà G.W.F.Hegel xây dựng. Phép biện chứng này tuy có hạn chế ở chỗ trình bày trên
cơ sở của quan điểm duy tâm nhưng nó đã phản ánh đầy đủ quá trình vận động và phát
triển chúng; trong nó đã chứa đựng hạt nhân hợp lý: không có cái gì nhất thành bất
biến, mọi cái luôn biến đổi. Đây là một giá trị luận chủ yếu của triết học Hegel.


22

+ Quan điểm về nhận thức
Quan điểm nhận thức của G.W.F.Hegel được trình bày trong tác phẩm “Hiện
tượng học tinh thần” và “Lôgic học”. Nếu như I.Kant cho rằng đối tượng nhận thức là
sự vật thì G.W.F.Hegel lại cho rằng đối tượng của nhận thức là nguyên nhân tạo thành
các dạng tồn tại tức “tinh thần tuyệt đối”. Trong “Lôgic học” ông khẳng định nhận thức
của con người là sự tự nhận thức “tinh thần tuyệt đối”.
Với quan điểm biện chứng G.W.F.Hegel cho rằng, nhận thức là một quá trình
phát triển, tự hoàn thiện; quá trình này gắn với lịch sử phát triển của xã hội. Trong thời
kỳ thượng cổ con người chỉ mới có ý thức cảm tính, người thượng cổ nhìn thế giới một
cách trực tiếp. Đến giữa thời kỳ chiếm hữu nô lệ theo ông, con người mới tự ý thức
được sự tồn tại của chính mình. Thời trung cổ, ý thức con người bước vào bất hạnh vì

chỉ biết tuân theo ý Chúa. Chỉ đến thời kỳ khoa học phát triển thì khả năng trí tuệ của
con người mới đạt tới trình độ lý tính, mới mang tính xã hội. Lúc đó con người sử dụng
khái niệm để tư duy do vậy mới nhận thức được “tinh thần tuyệt đối”.
Mặt khác ông còn cho rằng, sự phát triển của khả năng nhận thức cá nhân như là
sự lặp lại và thu gọn toàn bộ tiến trình lịch sử mà nhận thức con người đã trải qua.
+ Quan điểm về con người và chính trị xã hội
Quan điểm về con người và chính trị xã hội được G.W.F.Hegel trình bày trong
tác phẩm “Triết học về pháp quyền” và “Triết học lịch sử”. Khi bàn đến vấn đề con
người, ông không giống như các nhà triết học Anh và Pháp thế kỷ XVI – XVIII chia
tách con người thành hai phần mà ông qua niệm con người là chỉnh thể thống nhất.
Con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình,
chính qua quá trình hoạt động mà ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức và ý chí tự do của
con người mới phát triển. Do đó, con người mới hoàn thiện. Như vậy, ở đây
G.W.F.Hegel không bàn đến con người cụ thể mà bàn đến con người trừu tượng, lý
tính phi lịch sử.
Quan niệm con người trong triết học Hegel thường gắn với quan điểm về nhà
nước và pháp quyền. Theo ông “luận điểm khẳng định mọi người về bản tính vốn bình

23

đẳng là không đúng , cần phải nói ngược lại rằng con người về bản tính vốn bất bình
đẳng”. Từ đây dẫn tới quan điểm: mọi sự bất công trong xã hội là hiện tượng tất yếu
xuất phát từ bản tính con người. Vì thế trong xã hội thường xuyên xảy ra những mâu
thuẫn xung đột giữa các tầng lớp, đẳng cấp xã hội khác nhau. Chính từ đó nhà nước
xuất hiện. Theo G.W.F.Hegel, nhà nước ra đời nhằm dung hòa các mâu thuẫn giữa các
đẳng cấp nhằm định hướng sự phát triển của xã hội. Nhà nước không chỉ là cơ quan
hành pháp mà là tổng thể các quy chế, kỷ cương, chuẩn mực về mọi lĩnh vực đạo đức,
pháp quyền, văn hóa. Vì thế nhà nước tồn tại trên bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử.
Nhà nước theo ông là hiện thân của ý niệm tuyệt đối trong đời sống xã hội nó có
quá trình phát triển. Nhà nước Phổ là đỉnh cao của sự phát triển đó, vì nó là đại biểu

cho công lý, đạo đức; nhà nước đó sẽ tồn tại mãi. Bởi vì, “Cái gì hợp lý, thì sẽ hiện
thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”; ở đây, G.W.F.Hegel đã lập luận để bảo vệ sự tồn
tại của nhà nước phong kiến Phổ.
Khi bàn đến chiến tranh G.W.F.Hegel cho rằng, chiến tranh là một hiện tượng
vĩnh viễn và tất yếu trong lịch sử, nhờ có chiến tranh mà thể trạng đạo đức của dân tộc
được bảo tồn; chiến tranh bảo vệ các dân tộc tránh khỏi sự thối nát.
G.W.F.Hegel cho rằng, lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ
quan trong hoạt động của con người. Nhưng lịch sử không diễn ra theo ý muốn chủ
quan của con người mà phát triển theo xu hướng tất yếu trải qua các thời đại. Sự phát
triển tự do của con người là chuẩn mực, ưu việt của thời đại này so với thời đại khác.
Nhưng ông hiểu tự do một cách duy tâm: tự do cũng thể hiện trong sự hiểu biết và làm
theo ý Chúa.
Quan niệm của Hegel cũng tác động lớn đến L.Feuerbach. Là học trò của
G.W.F.Hegel, Feuerbach tin vào tôn giáo, các khái niệm của tinh thần tuyệt đối thống
trị thế giới hiện thực. Về sau, chịu ảnh hưởng của các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII, L.Feuerbach quay sang phê phán người thầy của mình và ngày càng ngả sang
lập trường duy vật. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng vai trò lịch sử của triết học Hegel rất
đáng được trân trọng. Ông đã xây dựng nên phép biện chứng và những vấn đề cốt lõi

24

nhất của phép biện chứng hiện đại đã được ông đề cập đến một cách bao quát và sâu
sắc. Vì vậy, ông được F.Engels đánh giá rất cao “Ông không chỉ là một thiên tài sáng
tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực ông xuất
hiện ra là một người vạch thời đại”.
- Ludwig Feuerbach (1804-1872)
Ông là nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức, sinh năm 1804 trong một
gia đình luật sư ở Đức. Ông theo học trường đại học tổng hợp Beclin, tham gia nhóm
Hegel trẻ. Về sau tách khỏi nhóm này trở thành người phê phán G.W.F.Hegel, xây
dựng hệ thống triết học, duy vật của mình. Ông viết nhiều tác phẩm triết học, trong đó

có những tác phẩm lớn như: “Phê phán triết học Hegel” (1839); “Bản chất của đạo đức
thiên chúa”, “Luận cương sơ bộ về cải cách triết học” (1842), “Những nguyên lý của
triết học tương lai” (1843), “Bản chất của tôn giáo”, v.v Học thuyết triết học của ông
thể hiện qua những nội dung chủ yếu sau:
+ Sự phê phán triết học Hegel
Sau khi G.W.F.Hegel mất thì lực lượng kế tục có sự phân chia thành hai phái,
phái Hegel già ủng hộ sự thống trị của “tinh thần tuyệt đối” đối với thế giới hiện thực;
phái Hegel trẻ coi sự thống trị đó là những xiềng xích trói buộc con người. Do chịu ảnh
hưởng của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII và sự phát triển khoa học đầu thế kỷ
XIX, L.Feuerbach đã nhận thấy những mặt rất hạn chs của cả hai phái và bắt đầu thực
hiện phê phán toàn bộ triết học Hegel. Theo ông, triết học Hegel mắc sai lầm ngay từ
khởi điểm xuất phát và cả trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất với tinh thần,
giữa con người với thế giới. Hạn chế cơ bản nhất của G.W.F.Hegel là ở chỗ dựa trên
lập trường của chủ nghĩa duy tâm để xây dựng học thuyết triết học. Cho nên triết học
Hegel không tạo ra được bức tranh trung thực về thế giới. Ông cho rằng muốn xây
dựng được một học thuyết triết học đúng đắn phải dựa trên lập trường duy vật. Ông
nhận xét “Triết học Hegel là chỗ ẩn náu cuối cùng, chỗ dựa hợp lý của thần học”.


×