Tải bản đầy đủ (.pdf) (215 trang)

Tự tạo việc làm của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 215 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN





HỒ THỊ DIỆU ÁNH





TỰ TẠO VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN






LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ






HÀ NỘI – 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN






HỒ THỊ DIỆU ÁNH


TỰ TẠO VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN



Chuyên ngành: Quản trị nhân lực (Kinh tế lao động)

Mã số:
62 34 04 04


LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ



Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. TRẦN XUÂN CẦU




HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN



Tác giả xin cam đoan đây là công trình khoa học độc lập của
mình. Những số liệu và nội dung được đưa ra trong luận án là trung
thực. Nội dung của luận án chưa từng được công bố ở cả trong và
ngoài nước.
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH, HỘP, SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TỰ TẠO
VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN 6
1.1. Tổng quan nghiên cứu 6
1.1.1. Các nghiên cứu về tự tạo việc làm 6
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm 11
1.2. Cơ sở lý luận tự tạo việc làm của lao động nông thôn 17
1.2.1. Việc làm, tạo việc làm, giải quyết việc làm và tự tạo việc làm 17
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm của lao động nông thôn 26
1.2.3. Khái niệm và đặc điểm lao động nông thôn 33
1.2.4. Hoạt động phi nông nghiệp 36
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 39
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 39
2.1.1. Vị trí địa lý, địa hình, tài nguyên thiên nhiên tỉnh Nghệ An 39
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế xã hội 41
2.1.3. Tình hình phát triển dân số 43
2.2. Các giả thuyết khoa học và khung phân tích 44
2.2.1. Các giả thuyết khoa học 44

2.2.2. Khung lý thuyết phân tích 44
2.2.3. Quy trình nghiên cứu 48
2.3. Các nguồn số liệu, tư liệu được sử dụng 49
2.3.1. Số liệu thứ cấp 49
2.3.2. Số liệu sơ cấp 50
2.4. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 54
2.4.1. Mục tiêu phân tích số liệu 54
2.4.2. Phương pháp phân tích 55
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 62
3.1 Thực trạng tự tạo việc làm của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ
An giai đoạn 2010 - 2013 62
3.1.1. Các hoạt động tự tạo việc làm của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh
Nghệ An 62
3.1.2. Kết quả hoạt động tự tạo việc làm của lao động nông thôn 65
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm của lao động nông thôn trên địa
bàn tỉnh Nghệ An. 69
3.2.1. Các yếu tố thuộc về cá nhân lao động nông thôn 69
3.2.1. Các yếu tố thuộc về hộ gia đình 78
3.2.3. Các yếu tố thuộc về cộng đồng 86
3.3. Đánh giá mức độ tác động bằng mô hình hồi quy Logistic 106
Chương 4: GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY TỰ TẠO VIỆC LÀM CỦA LAO
ĐỘNG NÔNG THÔN NGHỆ AN 115
4.1. Phương hướng phát triển kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An giai đoạn
2015-2025 115
4.2. Các quan điểm tự tạo việc làm của lao động nông thôn Nghệ An 118
4.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình tự tạo việc làm của lao động
nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An 120
4.3.1. Nhóm giải pháp khuyến khích cá nhân lao động nông thôn tự tạo việc làm120
4.3.2. Nhóm giải pháp phát huy động lực tự tạo việc làm của lao động nông thôn
từ hộ gia đình 121

4.3.3. Nhóm giải pháp phát huy sức mạnh cộng đồng thúc đẩy tự tạo việc làm của
lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An 125
KẾT LUẬN 134
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 136
TÀI LIỆU THAM KHẢO 137
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CN Công nghiệp
CNH - HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
ĐTĐT Đối tượng điều tra
ĐVT Đơn vị tính
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
HTX Hợp tác xã
ILO Tổ chức lao động quốc tế
LĐ – TB&XH Lao động - Thương binh và Xã hội
MTQG Môi trường quốc gia
NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NTM Nông thôn mới
PCCC Phòng cháy chữa cháy
SXKD Sản xuất kinh doanh
TDCM Trình độ chuyên môn
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
UBND Ủy ban nhân dân
XKLĐ Xuất khẩu lao động

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH, HỘP, SƠ ĐỒ


BẢNG:

Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu tổng hợp kinh tế Nghệ An giai đoạn 2010 - 2013 42
Bảng 2.2. Tình hình dân số và giới tính giai đoạn 2010 - 2013 43
Bảng 2.3: Tổng hợp các yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm trong các
nghiên cứu trước đây 45
Bảng 2.4. Phân bố của mẫu điều tra lao động nông thôn 52
Bảng 2.5. Phân bố (%) của đối tượng điều tra theo một số đặc điểm cơ bản 53
Bảng 2.6. Tóm tắt kiểm định (χ
2
) các mối liên hệ đến tự tạo việc làm
phi nông nghiệp 56
Bảng 2.7: Biến độc lập trong phân tích hồi quy nhị phân (Binary Logicstic)
các yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm phi nông nghiệp 59
Bảng 2.8: Tóm tắt nội dung phỏng vấn 61
Bảng 3.1. Kết quả giải quyết việc làm giai đoạn 2011- 2013 (6 tháng đầu
năm 2013) 65
Bảng 3.2. Các kết quả về lao động việc làm của tỉnh Nghệ An năm 2011,
2012, 2013 66
Bảng 3.3. Kết quả sau học nghề của lao động nông thôn Nghệ An giai đoạn
2010 - 2012 67
Bảng 3.4. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc phân theo vị thế 68
Bảng 3.5. Dân số và lao động nông thôn tỉnh Nghệ An 70
Bảng 3.6: Bảng phân bố (%) ĐTĐT theo các yếu tố thuộc về cá nhân lao
động nông thôn 71
Bảng 3.7. Bảng phân bố (%) ĐTĐT theo các yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo
việc thuộc về hộ gia đình 79
Bảng 3.8. Phân bố (%) ĐTĐT các yếu tố thuộc về cộng đồng 87
Bảng 3.9. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo 98
Bảng 3.10. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề trong chương trình NTM 99
Bảng 3.11. Tổng hợp các chỉ tiêu về tiếp cận điện năm 2011 101
Bảng 3.12. Tổng hợp các chỉ tiêu về đường giao thông 101

Bảng 3.13. Tổng hợp các chỉ tiêu về chợ nông thôn 102
Bảng 3.14. Các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khu vực nông thôn Nghệ An 105
Bảng 3.15. Các nguồn lực tài chính địa phương 105
Bảng 3.16: Kết quả kiểm định phương sai ANOVA 107
Bảng 3.17: Kết quả phân tích Hồi quy Binary logictics 110
BIỂU ĐỒ:
Biểu đồ 3.1. Phân bố phần trăm các nghề của lao động nông thôn 64
Biểu đồ 3.2. Phân bố % của đối tượng tự tạo việc làm phi nông nghiệp 69
Biểu đồ 3.3: Tiếp cận thông tin nông thôn Nghệ An 92
HÌNH:
Hình 2.1. Bản đồ địa lý tỉnh Nghệ An 40
HỘP:
Hộp 3.1: Trình độ chuyên môn ảnh hưởng tự tạo việc làm 75
Hộp 3.2. Yếu tố được đào tạo nghề tác động tự tạo việc làm 77
Hộp 3.3. Vốn tài chính bản thân tác động đến tự tạo việc làm 78
Hộp 3.4. Vai trò gia đình đối với tự tạo việc làm 82
Hộp 3.5. Yếu tố hộ gia đình tác động tự tạo việc làm của lao động nông thôn 86
Hộp 3.6. Hỗ trợ địa phương tác động đến tự tạo việc làm 97
Hộp 3.7: Khó khăn trong tiếp cận vốn 104
Hộp 4.1. Chia sẻ thông tin tác động đến tự tạo việc làm 125
SƠ ĐỒ:
Sơ đồ 2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu 47



1

MỞ ĐẦU

1. Giới thiệu luận án

Luận án được viết với tổng số trang là 135, trong đó số trang của từng chương,
từng phần được chia cụ thể như sau: (mở đầu: 5 trang, chương 1: 33 trang, chương
2: 23 trang, chương 3: 53 trang,chương 4: 19 trang ,kết luận: 2 trang). Luận án được
thực hiện thông qua quá trình tham khảo 73 tài liệu (gồm có 55 tài liệu tiếng Việt, 18 tài
liệu nước ngoài). Tổng số phụ lục của luận án là 79 trang (bao gồm 6 phụ lục). Luận án
được minh họa thông qua 25 bảng, 3 biểu đồ, 1 sơ đồ, 1 hình và 8 hộp trích dẫn.
Luận án được thực hiện có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn về tự tạo việc làm
của lao động nông thôn. Trong đó đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về tự tạo việc làm,
tập trung khai thác các yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm của lao động nông
thôn. Xây dựng các nhóm yếu tố ảnh hưởng tự tạo việc làm phi nông nghiệp của lao
động nông thôn theo ba cấp độ khác nhau (cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng). Các
kết quả phân tích đã cho thấy cách nhìn toàn diện về các yếu tố ảnh hưởng tự tạo
việc làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An
Luận án đo lường xác suất tự tạo việc làm phi nông nghiệp so với không tự tạo
việc làm phi nông nghiệp khi có sự tác động của các nhóm yếu tố bằng mô hình
Binary logictics. Từ đó luận án xác định mức độ tác động của các yếu tố đến khả
năng tự tạo việc làm phi nông nghiệp. Sau khi thực hiện các phân tích từ thực trạng
luận án đã xác định yếu tố thuộc về cá nhân sẽ góp phần làm thay đổi tư duy tự tạo
việc làm của lao động nông thôn. Tác động của các yếu tố thuộc về cá nhân (trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn, sức khỏe ) sẽ làm thay đổi khả năng tự tạo việc làm
phi nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Nâng cao vai trò hộ gia đình, mối quan
hệ cộng đồng và dòng họ sẽ góp phần làm thúc đẩy tự tạo việc làm phi nông nghiệp
của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Phát huy các yếu tố cộng đồng
bao gồm đổi mới cơ chế chính sách, đa dạng hóa các dịch vụ tài chính, nâng cao khả
năng chia sẻ thông tin từ các tổ chức đoàn thể địa phương sẽ tác động mạnh mẽ đến
tự tạo việc làm phi nông nghiệp của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Sau khi luận án được hình thành thì tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc
làm trên địa bàn tỉnh Nghệ An được làm rõ tạo tiền đề cho việc thúc đẩy tự tạo việc
làm của lao động nông thôn trong giai đoạn tới. Kết quả sẽ có ý nghĩa quan trọng đóng
góp vào xóa đói giảm nghèo địa phương giai đoạn 2015 – 2020 tầm nhìn 2030 dưới cả

giác độ mục tiêu phát triển kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội.

2

2. Lý do chọn đề tài
Nguồn nhân lực nông thôn là một bộ phận của nguồn nhân lực nói chung,
được phân bố ở nông thôn và làm việc trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên địa
bàn nông thôn, bao gồm: sản xuất nông, lâm, thủy sản, công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương mại, dịch vụ và các hoạt động phi nông nghiệp khác diễn ra ở nông
thôn. Vì vậy phát triển nguồn nhân lực nông thôn có thể hiểu là làm tăng giá trị con
người trên các mặt đạo đức học tập, lao động, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn và thể lực
làm cho con người có khả năng làm việc cao nhất, đóng góp có hiệu quả nhất vào
phát triển kinh tế, xã hội nông thôn. Lao động nông thôn là những người thuộc lực
lượng lao động và tham gia hoạt động trong hệ thống các ngành kinh tế nông thôn
như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ trong nông thôn. Việc làm nông thôn hiện nay có một số đặc
điểm cơ bản và ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tạo việc làm và tự tạo việc làm
ở nông thôn hiện nay.
“Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất số lượng
và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu
sản xuất và sức lao động đem lại thu nhập cho người lao động” [39, tr.20]. Hiện
nay, có nhiều quan điểm cho rằng, tạo việc làm cho lao động đặc biệt đối với lao
động nông thôn là yêu cầu mang tính “tất yếu” của các cấp chính quyền địa phương.
Theo đó, tạo việc làm được hiểu là quá trình chính quyền địa phương chủ động tạo
ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các
điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động. Cách tiếp
cận này rõ ràng đã chịu ảnh hưởng nhiều bởi cơ chế bao cấp và đã tạo ra một sức ỳ
lớn cho lao động nông thôn. Cụ thể, lao động nông thôn vẫn bị động trong tiếp cận
các công việc mà “hiển nhiên” họ phải có và nhiều lúc thiếu hẳn “động lực” cho
thực hiện để nâng cao hiệu quả công việc.

Vậy làm thế nào để giúp người lao động nông thôn có thể chủ động tìm kiếm
hoặc tạo ra các công việc có chất lượng hơn? Đây là một câu hỏi lớn và cần có lời
giải, nhất là trong giai đoạn hiện nay bởi vì để tạo việc làm đòi hỏi sự phối hợp của

3

nhiều cơ quan tổ chức cũng như cá nhân người lao động tạo thành cơ chế tạo việc
làm, cơ chế ba bên trong đó có sự tham gia của người lao động. Phát triển là quá trình
tăng trưởng kinh tế gắn với xóa đói, giảm nghèo, giảm thất nghiệp, giảm bất bình
đẳng xã hội. Chất lượng tăng trưởng và phát triển được đánh giá thông qua rất nhiều
tiêu chí khác nhau. Trong đó phải kể đến là giảm dần tỷ lệ thất nghiệp. Điều này đồng
nghĩa với việc tăng cơ hội, khả năng tìm kiếm việc làm của người lao động. Nhiều
nghiên cứu khác nhau cũng đã chỉ ra rằng, việc người lao động có việc làm và tăng
thu nhập sẽ góp phần quan trọng trong quá trình giảm nghèo đói (nhất là lao động
nông thôn). Như vậy, nỗ lực thúc đẩy tạo ra môi trường thuận lợi để lao động nông
thôn chủ động tiếp cận với việc làm, lao động nông thôn chủ động tự tạo ra việc làm
của chính mình, tự mình tìm được các nguồn thu nhập có chất lượng trở nên rất cần
thiết. Đây được xem là vấn đề mang tính lý luận và cần phải được nghiên cứu để tìm
ra lời giải. Lao động nông thôn tự tạo việc làm là hết sức cần thiết.
Nghệ An, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, chuyển mạnh sang nền kinh tế
thị trường, tỷ lệ hộ nông dân ở nông thôn liên tục giảm. Một bộ phận chuyển sang
làm dịch vụ, nghề thủ công, khai thác tài nguyên hoặc di cư vào các khu công
nghiệp tập trung như Bình Dương, Đồng Nai và các tỉnh khác. Tỷ lệ di cư của lao
động nông thôn Nghệ An chiếm tỷ lệ lớn trong khu vực. Thu nhập của người dân
còn thấp nhất là những hộ thuần nông. Do thói quen sản xuất nhỏ lẻ manh mún, đã
hạn chế rất lớn sức cạnh tranh thị trường. Khả năng tích luỹ kinh tế của nông dân ít
nên việc tái sản xuất, tái tạo nguồn tài nguyên gặp nhiều khó khăn.
Vấn đề lao động và việc làm ở nông thôn Nghệ An đang còn nhiều khó khăn,
phải tiếp tục giải quyết, đó là: tỷ lệ dân sống ở vùng nông thôn giảm rất chậm và
đang có hiện tượng một bộ phận dân cư không nhỏ tuy sống ở nông thôn, nhưng

không còn là nông dân vì không còn đất canh tác (do đất đai đã dành cho các dự án
phát triển khu công nghiệp, chế xuất), thậm chí không còn việc làm, phải đi làm
thuê, thu nhập rất thấp và không ổn định. Trong thời gian tới, dân số và lao động
Nghệ An tiếp tục tăng ổn định, hằng năm có hơn 30 nghìn người được bổ sung vào
lực lượng lao động. Dự báo mỗi năm số lao động cần giải quyết việc làm lên tới 3,4

4

vạn người và một bộ phận lao động nông nghiệp bị thu hồi đất, lao động thất nghiệp
ở khu vực thành thị có nhu cầu về việc làm đã tạo sức ép lớn cho công tác giải quyết
việc làm, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn diễn ra khá căng thẳng. Khả
năng đầu tư phát triển tạo việc làm tại chỗ mất cân đối so với tốc độ gia tăng lực
lượng lao động hàng năm. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng và ngành diễn ra
chậm, hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho người lao động để tạo việc làm mới hoặc tự tạo
việc làm còn hạn chế, nhất là hệ thống thông tin thị trường lao động.
Trong thực tế, do không tạo được việc làm ổn định tại địa phương nên tình
trạng lao động rời xa quê hương tìm kiếm công việc ở nhiều địa phương khác nhau
diễn ra tương đối phổ biến. Vấn đề tự tạo việc làm không nên coi là giải pháp tạm
thời khi thiếu việc làm, góp phần giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp, mà nên khuyến khích
đặc biệt lao động nông thôn để họ chủ động tạo được việc làm, tăng thu nhập góp
phần xóa đói giảm nghèo.
Từ những vấn đề đặt ra, nghiên cứu sinh cho rằng cần thiết phải lựa chọn đề
tài “Tự tạo việc làm của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An” để làm
luận án nghiên cứu của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm của lao động nông thôn
Nghệ An.
- Đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhóm yếu tố tác động tự tạo việc làm
của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

- Đề xuất quan điểm, giải pháp thúc đẩy tự tạo việc làm của lao động nông
thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
3.2.Câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất: Các yếu tố cá nhân tác động đến tự tạo việc làm bao gồm những
yếu tố nào? Mức độ tác động các yếu tố đó như thế nào?
Thứ hai: Hộ gia đình có vai trò gì đến tự tạo việc làm của lao động nông
thôn? Mức độ tác động các yếu tố đó như thế nào?

5

Thứ ba: Cộng đồng địa phương tác động như thế nào đến tự tạo việc làm của lao
động nông thôn? Mức độ ảnh hưởng đến tự tạo việc làm như thế nào?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng
- Đối tượng nghiên cứu: Tự tạo việc làm của lao động nông thôn
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Địa bàn nông thôn Nghệ An.
- Thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu tự tạo việc làm của lao động nông
thôn Nghệ An trong giai đoạn 2010 - 2014 và đề ra phương hướng, giải pháp cho
giai đoạn 2015 - 2020 tầm nhìn 2030.
- Nội dung: Luận án nghiên cứu các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo tạo việc
làm của lao động nông thôn thuộc các hoạt động phi nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ
An. Bao gồm 3 nhóm yếu tố cơ bản:
+ Các yếu tố thuộc về cá nhân lao động nông thôn
+ Các yếu tố thuộc về hộ gia đình
+ Các yếu tố thuộc về cộng đồng
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, luận
án được kết cấu gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận tự tạo việc làm lao

động nông thôn
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Chương 4: Giải pháp thúc đẩy tự tạo việc làm của lao động nông thôn
trên địa bàn tỉnh Nghệ An


6

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
CỦA TỰ TẠO VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN


1.1. Tổng quan nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu về tự tạo việc làm
Ở Việt Nam, thuật ngữ “tự tạo việc làm” thường xuất hiện khi đề cập tới
khuyến khích khởi sự các doanh nghiệp tư nhân hay đơn giản chỉ là một hoạt động
sản xuất kinh doanh buôn bán nhỏ nhằm kiếm sống - doanh nghiệp vi mô, hoặc
tạo lập các hoạt động kinh tế của hộ gia đình, trang trại gia đình. Các đối tượng
được khuyến khích hoặc hỗ trợ “tự tạo việc làm” trong các chính sách của nhà
nước hiện nay phần nhiều là thanh niên, phụ nữ, người nghèo, người mất việc làm,
người tàn tật.
Luận án của Ngô Quỳnh An (2012) đã đưa ra nhận định “về mặt lý luận, tự
tạo việc làm là quá trình người lao động tự tổ chức kết hợp sức lao động của bản
thân và những người khác với tư liệu sản xuất mà họ sở hữu hay tự bỏ chi phí đầu
tư nhằm đem lại thu nhập hợp pháp”. Trong thực tế, tự tạo việc làm của người lao
động là quá trình họ tự tạo ra, chịu trách nhiệm tổ chức và thực hiện các hoạt động
lao động đem lại nguồn thu nhập hợp pháp, mà với những hoạt động này người lao
động tự đầu tư chi phí và hưởng toàn bộ lợi nhuận thu được ứng với chi phí họ đầu

tư” [18, tr.13-16].
Mặc dù các thuật ngữ này đã được sử dụng khá phổ biến trong thực tế ở Việt
Nam, nhưng trong công trình của Ngô Quỳnh An lần đầu tiên các khái niệm sâu và
đầy đủ về “tự tạo việc làm” và “khả năng tự tạo việc làm” được xây dựng cùng với
các tiêu chí nghiên cứu và đánh giá cụ thể. Trong luận án của mình tác giả đã khắc
phục được hạn chế khi chỉ sử dụng cách tiếp cận vĩ mô hay vi mô trong nghiên cứu
bằng cách kết hợp cả hai cách tiếp cận này để có thể xem xét khá đầy đủ các yếu tố
ảnh hưởng tới khả năng tự tạo việc làm của thanh niên như: đặc điểm thị trường lao
động chung, đặc điểm lao động việc làm của thanh niên, cầu lao động thanh niên

7

(cách tiếp cận vĩ mô); và các yếu tố tác động tới cung và cầu lao động thanh niên
như vốn con người, vốn xã hội và các đặc điểm nhân khẩu học và gia đình khác
(cách tiếp cận vi mô).
Phân loại vấn đề tự tạo việc làm thành “làm công ăn lương” và “việc làm tự
tạo” (wage employment và self-employment) được đề cập trong nghiên cứu của Lê
Xuân Bá (2006). Cách phân loại việc làm này có ý nghĩa rất quan trọng khi chúng ta
xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động việc làm ở
nông thôn, cũng như khi đưa ra các giải pháp để khuyến khích chuyển dịch cơ cấu
lao động, nâng cao khả năng tự tạo việc làm do bản chất các hoạt động này là khác
nhau. Trong báo cáo cũng làm rõ vấn đề các hoạt động được xem như là “việc làm
tự tạo”, liên quan đến việc tự quản lý và sở hữu một cơ sở sản xuất các hàng hoá và
dịch vụ. Người mua loại lao động này không thể đưa ra các điều khoản trực tiếp về
sản phẩm. Ví dụ, những người có các xưởng sản xuất, cửa hàng cửa hiệu…họ chỉ có
trách nhiệm đối với các kết quả với chính bản thân họ [14, tr.13-15].
Lý thuyết kinh tế học hiện đại của Mankiw, hành vi người sản xuất hay quyết
định của các doanh nghiệp khi gia nhập hoặc rời bỏ thị trường được dựa trên cơ sở
so sánh giữa tổng doanh thu và tổng chi phí dự tính, nếu tổng doanh thu lớn hơn
tổng chi phí bỏ ra trong dài hạn, một người sẽ quyết định khởi sự công việc của

riêng mình. Lý thuyết này mang tính chất mô tả các quyết định tĩnh, không giải
thích rõ ràng về quá trình tự tạo việc làm [62].
Nghiên cứu về mô hình thặng dư lao động - David Ricardo đã đưa ra giả định “
việc lợi tức nông nghiệp giảm dần theo thời gian sẽ tạo ra “thặng dư lao động” và
người ta có thể rút thặng dư lao động ra khỏi nông nghiệp, chuyển sang công nghiệp
mà không làm thay đổi tổng sản lượng nông nghiệp cũng như tăng tiền lương ở hai
khu vực”. Với kết luận này cho thấy thặng dư lao động là yếu tố thúc đẩy sự chuyển
dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp [3,tr.35].
Tự tạo việc làm tác động cho sự phát triển là vấn đề được xem xét ở nông
thôn Trung Quốc. Công trình nghiên cứu của nhóm tác giả Sandeep Mohapatra,
Scott Rozelle, Rachael Goodhue (2009) đã đánh giá vai trò của các quá trình tự tạo

8

việc làm ở nông thôn của Trung Quốc. Sự gia tăng của công việc tự thúc đẩy kinh
doanh và là một dấu hiệu của sự phát triển. Sử dụng dữ liệu về lịch sử thị trường lao
động trong 20 năm của một mẫu đại diện quốc gia của các cá nhân, cung cấp bằng
chứng mô tả rằng tự tạo việc làm ở nông thôn Trung Quốc, không giống như ở một
số nơi khác, là một dấu hiệu của sự phát triển. Sử dụng mô hình Markov trong phân
tích tự tạo việc làm ở nông thôn Trung Quốc [72].
Vấn đề tự tạo việc làm của người lao động tác động đến ổn định quốc gia,
được khẳng định trong công trình nghiên cứu của nhóm tác giả Sana El Harbia,
Gilles Grolleaub. Công trình nghiên cứu này nhận thấy tự tạo việc làm ảnh hưởng
sự phát triển của cá nhân ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thay vì xem xét những
ảnh hưởng hạnh phúc ở mức độ cá nhân, công trình nghiên cứu đánh giá tự tạo việc
làm hiệu ứng lây lan và ảnh hưởng hạnh phúc trong nước của cá nhân. Sử dụng
bảng điều khiển phân tích dữ liệu cho 15 nước OECD trong khoảng thời gian 18
năm, nghiên cứu điều tra thực nghiệm các quốc gia với mức độ cao hơn của công
việc tự làm hạnh phúc hơn [71].
Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh (DFID) đưa ra khung sinh kế

bền vững (Khung sinh kế bền vững (Sustainable Livelihoods Framework) (2001),
để xác định và thiết kế các hoạt động hỗ trợ của mình. Theo khung này, các hộ gia
đình, cá nhân đều có phương thức kiếm sống (chiến lược sinh kế) dựa vào những
nguồn lực sinh kế sẵn có (5 loại nguồn lực) trong một bối cảnh chính sách và thể
chế nhất định ở địa phương. Những nhân tố này cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố
bên ngoài và các tác động mang tính thời vụ. Sự lựa chọn về chiến lược sinh kế của
các hộ gia đình dựa trên những nguồn lực sinh kế hiện tại là kết quả của sự tương
tác giữa các nhóm yếu tố này [37, tr.20].
Mô hình tạo việc làm của Hàn Quốc, khi cư dân nông thôn giảm đi, lao động
nông thôn già đi cộng với chi phí SXNN ngày càng tăng và khoảng cách thu nhập
nông thôn - thành thị ngày càng nới rộng, nhu cầu phát triển nông thôn đứng trước
thách thức vô cùng lớn. Hàn Quốc giải bài toán này bằng giải pháp phát triển du
lịch làng - du lịch nông thôn, kéo gần thành thị với cuộc sống nông thôn. Đây là

9

một trong những kinh nghiệm đối với sự phát triển nông thôn Việt Nam. Nghiên
cứu được thực hiện bởi Lee Sang Mu, Cố vấn đặc biệt của Chính phủ về Nông-
lâm- ngư nghiệp, “Phát triển nông thôn - Từ điểm nhìn Hàn Quốc: Phong trào
Saemaul Undon” [11].
Vấn đề nghiên cứu về tạo việc làm được nhiều nghiên cứu nước ngoài quan
tâm trong đó có một số nghiên cứu có điều kiện tương tự phù hợp với Việt Nam
như công trình “Tourism and agricultural development in thailand”, của nhóm tác
giả Timothy J. Forsyth, University of London, UK Cho thấy việc thông qua du lịch
cộng đồng nông nghiệp là một trong các biện pháp tạo việc làm phù hợp. Nghiên
cứu thực hiện trong một nổi bật "đồi bộ lạc" ngôi làng ở miền bắc Thái Lan chỉ ra
rằng du lịch cộng đồng nông nghiệp là mô hình cần thiết giải quyết việc làm hộ gia
đình. Tuy nhiên, hộ gia đình đã thông qua du lịch tăng tần số canh tác bằng cách
thuê lao động nông nghiệp và phân chia đất trong phạm vi gia đình để tối đa hóa
việc sử dụng đất [70].

Lý thuyết “Lực đẩy” đưa ra giả thuyết rằng, những người tự tạo việc làm
không phải có phẩm chất gì khác với những người làm công mà chỉ là phản ứng tạm
thời của họ với hoàn cảnh khó tìm kiếm việc làm trong thời kỳ suy giảm kinh tế.
Đối lập với lý thuyết “lực đẩy” là lý thuyết “lực hút”, với giả thuyết cho rằng những
người khởi sự doanh nghiệp là những người có phẩm chất và kiến thức kỹ năng đặc
biệt nào đó thúc đẩy họ lựa chọn và theo đuổi tự tạo việc làm [18, tr.33].
Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu chú ý tới một mô hình khác
về các yếu tố tác động tới quyết định sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Mô hình này
cho rằng hộ gia đình quyết định tham gia vào hoạt động phi nông nghiệp là do hai
nhóm yếu tố khác nhau “kéo” và “đẩy” lao động vào hoạt động phi nông nghiệp.
Reardon (1997) đưa ra các nhân tố “đẩy” sau đây: (1) tăng trưởng dân số, (2) tăng
sự khan hiếm của đất có thể sản xuất, (3) giảm khả năng tiếp cận với đất phì nhiêu,
(4) giảm độ màu mỡ và năng suất của đất, (5) giảm các nguồn lực tự nhiên cơ bản,
(6) giảm doanh thu đối với nông nghiệp, (7) tăng nhu cầu tiền trong cuộc sống, (8)
các sự kiện và các cú sốc xảy ra, (9) thiếu khả năng tiếp cận đối với các thị trường

10

đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, (10) thiếu vắng các thị trường tài chính nông
thôn. Hơn nữa, ông cũng gợi ý các nhân tố “kéo” sau đây: (1) doanh thu cao hơn
của lao động phi nông nghiệp, (2) doanh thu cao hơn khi đầu tư vào lĩnh vực phi
nông nghiệp, (3) rủi ro thấp hơn của khu vực phi nông nghiệp so với khu vực nông
nghiệp, (4) tạo ra tiền mặt để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của gia đình và (5) nhiều
cơ hội đầu tư. Tóm lại, nhân tố “kéo” đưa ra những sự hấp dẫn của khu vực phi
nông nghiệp đối với người nông dân. Nhân tố đẩy liên quan đến áp lực hoặc các hạn
chế của khu vực nông nghiệp buộc nông dân tìm kiếm thu nhập khác nếu họ muốn
cải thiện các điều kiện sống của mình [14].
Quan hệ “kéo” và “đẩy” đưa ra một khung khổ tương đối toàn diện cho việc
xác định sự tham gia của hộ nông dân vào các hoạt động phi nông nghiệp. Tuy
nhiên công cụ này chỉ phân tích cung lao động của hộ. Về mặt thực tiễn, hai hộ gia

đình có các điều kiện giống nhau nhưng ở hai vùng địa lý khác nhau có thể có các
phản ứng khác nhau. Nói cách khác, các đặc điểm của vùng cũng ảnh hưởng đến sự
tham gia hoạt động phi nông nghiệp của hộ nông dân. Thêm vào đó còn có những
yếu tố của chính bản thân người lao động. Điều này giải thích tạo sao hai người có
cùng điều kiện như nhau nhưng lại chọn cách phản ứng khác nhau khi tham gia vào
hoạt động phi nông nghiệp.
Cũng như mô hình về mối liên kết giữa hai khu vực, một điểm khá quan trọng
trong quan hệ “kéo” và “đẩy” là sự giao thoa giữa hai nhóm yếu tố. Thực tế, có
những yếu tố khó có thể ghép vào quan hệ “kéo” hay “đẩy”. Bởi vì, ở một quy mô
nhất định nó là yếu tố "kéo", nhưng ở một quy mô khác nó lại là yếu tố “đẩy” [18].
Tiếp cận Khung sinh kế bền vững của DIFD ở góc độ các nguồn lực tạo ra
sinh kế cũng chính các các nguồn vốn để thực hiện quá trình tự tạo việc làm. Xét ở
góc độ tương đối thì quá trình tự tạo việc làm cũng là quá trình xây dựng sinh kế.
Khung sinh kế là một công cụ được xây dựng nhằm xem xét một cách toàn diện tất
cả các yếu tố khác nhau ảnh hưởng như thế nào đến sinh kế của con người, đặc biệt
là các cơ hội hình thành nên chiến lược sinh kế của con người. Đây là cách tiếp cận
toàn diện nhằm xây dựng các lợi thế hay chiến lược đặt con người làm trung tâm

11

trong quá trình phân tích. Khả năng tiếp cận các nguồn lực của con người là yếu tố
trọng tâm của quá trình tự tạo việc làm [59].
Dự án Xây dựng sinh kế nâng cao đời sống của lao động nữ vùng ven biển
tỉnh Nghệ An của Ban Quản lý dự án Hỗ trợ chương trình ngành thủy sản Nghệ An
năm 2010. Dự án đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế của lao động nữ
vùng ven biển Nghệ An, điều tra khảo sát, phân tích các nghề nghiệp với lao động
nữ vùng ven biển Nghệ An. Dự án thực hiện các chương trình hỗ trợ thực tế cho lao
động nữ vùng ven biển, nhằm tìm giải pháp phù hợp nhất nâng cao đời sống lao
động nữ. Ngoài ra một số nhà nghiên cứu cũng đã tìm hiểu đưa ra nhận định về thực
trạng và giải pháp về việc làm cho các địa phương Nghệ An [5].

Nghiên cứu của Đoàn Minh Duệ (2009) về vấn đề đói nghèo ở một số huyện
Miền Tây Nghệ An- Thực trạng và giải pháp đến năm 2010, đã phân tích thực trạng
đói nghèo của các huyện Miền Tây Nghệ An, góp thêm cách tiếp cận để xem xét
đánh giá thực trạng đói nghèo cũng như cung cấp luận cứ khoa học giúp các ngành
các cấp ở Nghệ an đưa ra các giải pháp xóa đói giảm nghèo, trong đó có vấn đề tạo
việc làm [10].
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm
- Các yếu tố cá nhân
Nghiên cứu về sự tác động của trình độ chuyên môn đến khả năng tạo việc
làm Luận án Tiến sỹ của Trần Thị Thu (2003) đã chỉ ra công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đặt ra nhiều thách thức yêu cầu về kỹ năng lao động đòi hỏi người lao động
phải có trình độ chuyên môn lành nghề cao, thời gian làm việc dài, và những khó
khăn do ảnh hưởng tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, đòi hỏi lao động
phải có tay nghề mới có cơ hội có việc làm [33].
Vai trò vốn con người tác động tới tăng trưởng kinh tế được đề cập trong
nghiên cứu của Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung (2008), số năm đi học là một
trong những thước đo biểu hiện vốn con người. Trong nghiên cứu tác giả đã sử
dụng mô hình hồi quy với thước đo vốn con người (số năm đi học bình quân, chi
phí giáo dục hay thu nhập). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng sử dụng thước đo vốn
con người dựa trên chi phí và thu nhập chưa phù hợp với thực tế Việt Nam. Kết quả

12

nghiên cứu nhận định tỉnh nào có mức vốn con người cao hơn thì sẽ có mức GDP
cao hơn trong điều kiện các yếu tố khác không đổi [36].
Nghiên cứu của Thái Phúc Thành (2014) bổ sung rõ hơn về vai trò của vốn
con người đến việc hình thành sinh kế, tạo việc làm giảm nghèo. Vốn con người có
vai trò quyết định chiến lược sinh kế, các hoạt động sinh kế, điều phối tài sản sinh
kế khác trong các hoạt động sinh kế, điều chỉnh các thích ứng với tác động từ bên
ngoài nhằm tạo ra duy trì kết quả sinh kế [29].

Báo cáo của Ngân hàng phát triển châu Á nhận định rằng dù Việt Nam là một
ví dụ điển hình và phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, vốn con người được
hiểu là trình độ giáo dục và sức khỏe của mỗi cá nhân, hai yếu tố được thừa nhận
một cách rộng rãi là loại tài sản sản xuất của người nghèo và là kết quả của một quá
trình đầu tư dài hạn. Đầu tư vào vốn con người vì thế rất quan trọng trong việc phá
vỡ vòng luẩn quẩn của đói nghèo, các tác giả của báo cáo cho rằng : người nghèo
nghèo vì họ thiếu vốn con người, người nghèo thiếu vốn con người vì họ nghèo.
James (1998) [69] sử dụng số liệu điều tra mức sống dân cư Việt Nam giai đoạn
1992-1993 đã kết luận giả thuyết các nhân tố làm tăng chi phí cơ hội khi lựa chọn tự
tạo việc làm bao gồm: kinh nghiệm làm việc, trình độ học vấn từ lớp 9 trở lên, chi phí
cơ hội sẽ tăng cho đến 44 tuổi; Trong khi đó các nhân tố làm giảm chi phí cơ hội lựa
chọn tự tạo việc làm ở Việt Nam gồm thất nghiệp, tuổi quá trẻ vừa tốt nghiệp, học vấn
dưới lớp 9, là phụ nữ. Truyền thống gia đình có nhiều thành viên tự tạo việc làm thì xác
suất lựa chọn tự tạo việc làm cũng cao hơn hoàn toàn không do chi phí cơ hội thấp mà
là do yếu tố sở thích, truyền thống gia đình. Vấn đề này có những nét tương đồng với
nghiên cứu của Đ.T.Q.Trang (2007) [58] đã tìm thấy những bằng chứng ở Việt Nam
những người có số năm đi học càng ít có xu hướng lựa chọn tự tạo việc làm nhiều hơn,
vì chủ yếu tự tạo việc làm ở Việt Nam là trong khu vực phi chính thức.
Ngô Quỳnh An (2012) cho rằng khu vực tự tạo việc làm chủ yếu thu hút
những lao động thanh niên chưa qua đào tạo, trong lĩnh vực nông nghiệp và dưới
hình thức tự tạo của bản thân, chỉ có một số rất ít có thể “khởi sự doanh nghiệp”.
Các phát hiện này đã xác định muốn khu vực tự tạo việc làm của thanh niên thực sự
trở thành động lực của phát triển và tăng trưởng kinh tế cần thay đổi quan niệm cho

13

rằng “tự tạo việc làm: chỉ là cứu cánh trong trường hợp thất nghiệp và thiếu việc
làm [18]. Tăng cường khuyến khích lựa chọn tự tạo việc làm cho thanh niên phải
được tiến hành đồng bộ với việc đào tạo chuyên môn kỹ thuật, hỗ trợ kiến thức, kỹ
năng, vốn, thị trường cho thanh niên.

Lê Xuân Bá (2009) đã đưa ra một số phân tích đối với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của lao động nông thôn Việt Nam trong đó có xét đến đối tượng tự
làm, khẳng định trình độ giáo dục cũng có ảnh hưởng đến khả năng chuyển dịch
của lao động. Ở mức độ vĩ mô, chất lượng của lực lượng lao động nông thôn có tác
động tương đối lớn đến tốc độ chuyển dịch. Xu hướng chung là trình độ giáo dục
của lao động càng cao thì khả năng chuyển dịch của lao động càng lớn [14].
Phân tích về yếu tố giới nghiên cứu của Trần Thị Thu (1999) [35] khẳng
định nguyên nhân đưa phụ nữ đến với tự tạo việc làm khu vực phi chính thức ở Việt
Nam là do vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc nuôi sống gia đình, quản lý tài
chính gia đình, chăm sóc gia đình và nội trợ, phụ nữ khó kiếm việc làm, mất việc
làm do giảm biên chế khi cơ cấu kinh tế thay đổi. Vấn đề này được đề cập trong
nghiên cứu của Linda Yueh (2009) cho rằng sự khác biệt giới tính cũng là một yếu
tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm [64].
Lê Xuân Bá (2009) đưa ra những nhận định trong khoảng 10 năm qua và
trong hầu hết các loại chuyển dịch lao động được xem xét, yếu tố giới cũng có ảnh
hưởng đến khả năng chuyển dịch. Tác động của yếu tố này như sau: i) Nam giới
dường như có nhiều khả năng chuyển dịch lao động hơn nữ giới trong thời gian qua
và đối với hầu hết các loại hình chuyển dịch; ii) Đối với loại hình chuyển dịch lao
động nông nghiệp – phi nông nghiệp khả năng chuyển dịch của nam giới lớn hơn ở
thời kỳ 1993-1998 nhưng biểu hiện lại không rõ trong thời kỳ 2001-2004; iii) Nam
giới có xác suất chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang tiểu thủ công nghiệp và
công nghiệp nông thôn lớn hơn ở thời kỳ 1993-1998 trong khi đó vai trò đó lại
thuộc về nữ giới ở giai đoạn sau 2001-2004; iv) Ngược lại, nữ giới lại có khả năng
chuyển dịch từ SXNN sang dịch vụ cao hơn trong thời kỳ 1993-1998. Trong thời kỳ
2001-2004 khả năng chuyển dịch lớn hơn
lại thuộc về nam giới; v) Đối với loại hình

14

chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang làm thuê, nam giới luôn luôn có khả

năng chuyển dịch cao hơn ở cả hai thời kỳ. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, xu
hướng chung là tuổi của lao động càng trẻ thì khả năng chuyển dịch lao động càng
cao hơn. Tuy nhiên, điều này không phải là luôn luôn đúng trong mọi trường hợp: i)
Yếu tố này có ý nghĩa hơn ở vùng đồng bằng so với miền núi khi xem xét chuyển
dịch lao động nông nghiệp – phi nông nghiệp; ii) Tác động của độ tuổi lao động đến
việc chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các hoạt động dịch vụ và tự làm có
ý nghĩa không cao [14].
Vốn tài chính là một vấn đề được quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu đến
khả năng tự tạo việc làm. Các nhà nghiên cứu khác nhau như Evan (1989), Kidd
(1993), Bernhardt (1994) đã tìm được ảnh hưởng đáng kể của vốn tài chính tới khả
năng tự tạo việc làm. Họ cho rằng vốn là rào cản chủ yếu của tự tạo việc làm. Một
số nghiên cứu cho rằng vốn được coi là nhân tố tạo động lực hơn là rào cản.
Nghiên cứu của Đỗ Thị Quỳnh Trang (2007) cho rằng nguồn thu nhập bên ngoài
càng cao, khả năng lựa chọn tự tạo việc làm càng thấp (nguồn thu nhập bên ngoài
bao gồm các khoản tiền do người thân gửi, đầu tư vào thị trường bất động sản và
thị trường tài chính [58].
Trần Thu Hồng Ngọc (2009) đã kiểm định các yếu tố đến khả năng có việc
làm phi nông nghiệp lao động nam khu vực huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long đã đưa
ra một số nhận định về sức khỏe, học nghề, vốn sản xuất và việc làm tiểu thủ công
nghiệp có ảnh hưởng đến khả năng có việc làm của lao động nam. Thực tế cho thấy
khi người lao động nam chọn việc làm tiểu thủ công nghiệp để làm việc cố định thì
khả năng có được việc làm của họ giảm, việc có sức khỏe tốt, tham gia học nghề có
vốn để sản xuất thì xác suất có việc làm của họ càng cao. Các yếu tố tuổi, trình độ
học vấn các cấp thông tin việc làm và diện tích đất canh tác không ảnh hưởng đến
xác suất có việc làm của lao động nam [38].
- Các yếu tố thuộc về hộ gia đình
Theo Dewit (1993) nền tảng gia đình là quan trọng trong việc quyết định lựa
chọn giữa tự tạo việc làm và làm công. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh tới tác
động của nghề nghiệp và học vấn của cha mẹ tới khuynh hướng tự tạo việc làm. Các


15

nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng đáng kể của nghề nghiệp của người cha tới sự lựa
chọn nghề nghiệp của con cái. Một người có nhiều khả năng trở thành tự tạo việc
làm nếu cha anh ta cũng tự tạo việc làm . Cũng theo Dewit một người có xu hướng
chấp nhận rủi ro để có được lợi ích cao hơn nếu bạn đời của họ cũng làm việc và có
thu nhập ổn định [57].
Dự án FSPS chương trình hỗ trợ ngành thủy sản của Sở nông nghiệp nông
thôn Nghệ An (2010) đã khẳng định nguồn lực cho phát triển kinh tế và thực hiện
các hoạt động sinh kế của lao động nữ ven biển tỉnh Nghệ An còn nhiều hạn chế
như trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn lao động thấp, phụ nữ vất vả sinh nhiều
con chăm lo gánh vác gia đình thay nam giới đi biển, thiếu đất nông nghiệp để canh
tác. Nghề nghiệp chủ yếu của lao động nữ tại các xã ven biển liên quan nhiều đến
các nghề đi biển. Sinh kế của lao động nữ phụ thuộc chủ yếu vào nghề biển và phụ
thuộc vào người chồng [5].
Đỗ Thị Quỳnh Trang (2007) nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã tìm thấy bằng
chứng cho rằng, mặc dù đối với nam giới thì tình trạng hôn nhân và số con không
ảnh hưởng đến lựa chọn tự tạo việc làm của họ, đối với phụ nữ, số con của họ làm
tăng khả năng lựa chọn tự làm [58].
Ở Việt Nam, nghiên cứu của James(1998) đã khẳng định nếu gia đình có
tỷ lệ số người tự tạo việc làm cao thì cơ hội lựa chọn tự tạo việc làm của các
thành viên khác cũng cao hơn [69]. Linda Yueh (2009) cũng đã đưa ra ý kiến
tương tự khi nghiên cứu tự tạo việc làm của nông thôn Trung Quốc, một người
quyết định khởi sự doanh nghiệp khi có bạn bè hay người thân trong gia đình đang
kinh doanh [64].
Ngô Quỳnh An (2012) đã khẳng định vai trò của gia đình là quan trọng nhất
trong việc hỗ trợ khuyến khích thanh niên tự tạo việc làm. Gia đình cung cấp các
tiềm lực tài chính, truyền thống tự tạo việc làm đến vai trò của hộ gia đình các thành
viên nữ trong hộ gia đình đều có mối quan hệ tỷ lệ thuận với khả năng tự tạo việc
làm của thanh niên Việt Nam [18].


16

- Các yếu tố thuộc về cộng đồng
Ngô Quỳnh An(2012) khẳng định vai trò của gia đình đối với tự tạo việc làm
của thanh niên, tuy nhiên với các dữ liệu phân tích định tính mà tác giả thu thập
được, có khá nhiều trường hợp thanh niên gặp phải sự phản đối từ gia đình hoặc
hoàn cảnh gia đình khó khăn không thể hỗ trợ nhưng họ vẫn lựa chọn con đường tự
tạo việc làm. Điều này cho thấy bên cạnh gia đình, người thân, mạng lưới vốn xã
hội giao tiếp rộng hơn được hình thành thông qua quá trình tham gia các câu lạc bộ,
hiệp hội nghề, hội thảo, tọa đàm, diễn đàn cũng như vốn xã hội liên kết có được từ
sự hỗ trợ của Chính phủ, các tổ chức trong và ngoài nước đã phát huy tác dụng giúp
thanh niên tự tạo việc làm [18].
Phân tích quá trình tự tạo việc làm, điều tra mối quan hệ giữa các mạng tự
tạo việc làm và xã hội ở đô thị Trung Quốc. Vấn đề này được đề cập trong nghiên
cứu của Linda Yueh (2009) đã xác định có một mạng xã hội có thể giúp cung cấp
khả năng tự làm chủ và mạng lưới tín dụng, và hỗ trợ trong điều hướng một môi
trường không chắc chắn thể chế cho phép và giấy phép thường đòi hỏi mối quan hệ
giữa các cá nhân để tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí thông tin thực thi bằng
cách giao dịch với những người được biết đến. Như vậy, sở hữu những đặc điểm
khác sản xuất và khả năng quan sát liên tục bao gồm cả thái độ đối với rủi ro nếu có
thể, các mạng xã hội dự kiến sẽ tác động đến khả năng tự làm chủ [64].
Nghiên cứu của Lê Xuân Bá và cộng sự (2009) xác định mặc dù sự chủ động
của các cấp chính quyền địa phương có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao
động nông thôn, không nên coi chuyển dịch cơ cấu lao động nói chung và cơ cấu lao
động nông thôn nói riêng là một chỉ tiêu đánh giá năng lực hoạt động của các cấp
chính quyền hay một mục tiêu cứng nhắc nhất thiết phải đạt được trong một khoảng
thời gian nhất định do bản thân các yếu tố tác động đến quá trình này còn phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố khác nằm ngoài sự hoạt động của các cấp chính quyền địa
phương như đã được phân tích. Tuy nhiên, các cấp chính quyền địa phương có thể ra

các chính sách để tạo các điều kiện thuận lợi cho người lao động có thể dễ dàng
chuyển dịch lao động, chuyển đổi ngành nghề ngay trong địa phương mình hoặc di
chuyển đi làm việc ở các địa phương khác, tự tạo việc làm tại địa phương [14].

17

Với ý nghĩa tác động quan trọng của cơ sở hạ tầng của địa phương đến khả
năng và tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, cần có các chính sách tăng
cường việc nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng cơ sở nông thôn trên cơ sở có qui hoạch
một cách khoa học khu vực nông thôn. Tuy nhiên, tính bền vững của các cơ sở hạ
tầng cần rất được quan tâm. Mặc dù có tác động gián tiếp đến chuyển dịch cơ cấu
lao động, yếu tố “kéo’ này rất quan trọng làm cho thị trường hàng hoá nông thôn
phát triển, giảm dần khoảng cách với khu vực thành thị và tạo mối liên kết chặt chẽ
hơn với khu vực thành thị.
Phạm Quý Thọ (2000) trong đề tài “Ảnh hưởng của di dân từ nông thôn ra
thành thị và việc làm của dân cư trong giai đoạn CNH, HĐH” đã phân tích quy mô
di dân từ nông thôn ra thành thị (Hà Nội), ảnh hưởng của di dân nông thôn đến việc
làm và mức sống, chỉ ra hiện trạng hoạt động kinh tế và việc làm của lao động di
cư, mức sống của người di dân từ nông thôn ra Hà Nội; đồng thời đã đề xuất một số
biện pháp để điều tiết di dân nông thôn thành thị nhằm tạo việc làm và nâng cao
mức sống như quy hoạch và mở rộng phát triển kinh tế xã hội Hà Nội, hình thành
và phát triển các hình thức dịch vụ, hoàn thiện chính sách quản lý nhân khẩu [26].
1.2. Cơ sở lý luận tự tạo việc làm của lao động nông thôn
1.2.1. Việc làm, tạo việc làm, giải quyết việc làm và tự tạo việc làm
1.2.1.1. Việc làm
Điều 13, Chương II (Việc làm) Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: " Việc làm là hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập mà
không bị pháp luật cấm” [27, tr.35]. Khái niệm này cũng được vận dụng trong các
cuộc điều tra mẫu về thực trạng lao động và việc làm hàng năm của Việt Nam và
được cụ thể hoá thành ba dạng hoạt động sau:

- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc bằng
hiện vật cho công việc đó.
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm: sản xuất nông
nghiệp trên đất do chính thành viên được quyền sử dụng; hoặc hoạt động kinh tế phi
nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần.

×