Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

nghiên cứu bệnh héo rũ gốc mốc trắng (sclerotium rolfsii sacc ) gây hại trên một số cây trồng cạn tại hà nội và vùng phụ cận năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.34 MB, 86 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





VŨ TRẦN CHIẾN



NGHIÊN CỨU BỆNH HÉO RŨ GỐC MỐC TRẮNG
(SCLEROTIUM ROLFSII SACC.) GÂY HẠI TRÊN MỘT SỐ
CÂY TRỒNG CẠN TẠI HÀ NỘI VÀ VÙNG PHỤ CẬN
NĂM 2014



CHUYÊN NGÀNH: BẢO VỆ THỰC VẬT
MÃ SỐ: 60.62.01.12


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN NGUYỄN HÀ



HÀ NỘI – 2015

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page i



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, chưa từng được sử dụng cho
một báo cáo luận văn nào và chưa từng được sử dụng bảo vệ học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã dược cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn



Vũ Trần Chiến



























Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trần Nguyễn Hà – Học viện Nông
nghiệp Việt Nam, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực
hiện đề tài c&ũng như trong quá trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tôi c&ũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khoa Nông Học – Học Viện
Nông nghiệp Việt Nam.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện mọi mặt cho
tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn !


Hà Nội, Ngày tháng năm
Tác giả luận văn






Vũ Trần Chiến












Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page iii

MỤC LỤC


Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng vi
Danh mục hình viii
MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề
1
1.2. Mục đích và yêu cầu
2
1.2.1. Mục đích

2
1.2.2. Yêu cầu
2
Chương 1 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 3
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
3
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
8
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
2.1. Địa điểm nghiên cứu
18
2.2. Thời gian nghiên cứu
18
2.3. Vật liệu nghiên cứu
18
2.4. Nội dung
18
2.5. Phương pháp nghiên cứu
19
2.5.1. Phương pháp điều tra ngoài đồng ruộng
19
2.5.2. Phương pháp phân lập nấm bệnh
19
2.5.3. Chuẩn bị môi trường
19
2.5.4. Nghiên cứu sự phát triển của nấm Sclerotium rolfsii trên các môi
trường dinh dưỡng khác nhau
20
2.5.5. Nghiên cứu sự phát triển của nấm Sclerotium rolfsii tại các ngưỡng
nhiệt độ khác nhau

20

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page iv

2.5.6. Nghiên cứu khả năng gây bệnh của các nguồn nấm phân lập từ các
ký chủ khác nhau
21
2.5.7. Phương pháp đánh giá khả năng bảo tồn của hạch nấm Sclerotium
rolfsii trong các điều kiện khác nhau
21
2.5.8. Khảo sát một số biện pháp phòng trừ nấm Sclerotium rolfsii bằng
chế phẩm sinh học và thuốc hóa học
21
2.5.9. Chỉ tiêu theo dõi, đánh giá và xử lý số liệu
23
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 24
3.1. Điều tra tình hình bệnh héo rũ gốc mốc trắng trên một số cây trồng cạn
vùng Hà Nội và phụ cận vụ thu đông 2014
24
3.2. Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, sinh học của nấm Sclerotium
rolfsii được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm
36
3.2.1. Đặc điểm hình thái nấm Sclerotium rolfsii Sacc nuôi cấy trên môi
trường PDA.
36
3.2.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy đến sự phát triển
của các isolates nấm Sclerotium rolfsii Sacc
37
3.2.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ nuôi cấy đến sự phát triển của
các isolates nấm Sclerotium rolfsii Sacc

42
3.2.4. Nghiên cứu khả năng gây bệnh của các nguồn nấm phân lập từ các
ký chủ khác nhau
45
3.2.5. Nghiên cứu khả năng bảo tồn hạch nấm S. rolfsii trong điều kiện đất
ngập nước
49
3.3. Khảo sát một số biện pháp phòng trừ nấm S. rolfsii bằng chế phẩm sinh
học và thuốc hóa học
54
3.3.1. Khảo sát hiệu quả của chế phẩm Ketomium trong việc phòng trừ
nấm S. rolfsii trong điều kiện chậu vại
54
3.3.2. Khảo sát hiệu quả của chế phẩm Ketomium xử lý hạt giống trong
việc phòng trừ nấm S. rolfsii trong điều kiện chậu vại
56
3.3.3. Khảo sát hiệu quả của chế phẩm Ketomium ở các liều lượng khác
nhau trong việc phòng trừ nấm S. rolfsii trong điều kiện chậu vại
57

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page v

3.3.4. Khảo sát hiệu lực phòng trừ bệnh héo rũ gốc mốc trắng hại đậu tương,
cà chua, dưa chuột trên đồng ruộng bằng các chế phẩm hóa học
59
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 64
1. Kết luận
64
2. Đề nghị
65

TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
PHỤ LỤC 69


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page vi

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

3.1 Tính phổ biến của nấm Sclerotium rolfsii trên một số cây trồng tại hà
Nội và phụ cận vụ thu đông 2014 27
3.2 Diễn biến bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây hại trên cà chua vụ thu
đông 2014 28
3.3 Diễn biến bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây hại trên đậu trạch tại Thanh
Đa – Phúc Thọ vụ thu đông 2014 29
3.4 Diễn biến bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây hại trên dưa chuột tại Ngọc
Tảo – Phúc Thọ và Song Phương – Hoài Đức vụ thu đông 2014 31
3.5 Diễn biến bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây hại cà chua trên các chân
đất khác nhau tại Đồng Tháp – Đan Phượng vụ thu đông 2014 32
3.6 Diễn biến bệnh héo rũ gốc mốc trắng hại đậu tương trên các công thức
luân canh khác nhau tại Thanh Đa – Phúc Thọ vụ thu đông 2014 34
3.7 Ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy đến sự phát triển tản nấm của
các isolates nấm S. rolfsii 38
3.8 Ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy đến sự hình thành hạch nấm của
các isolates nấm S. rolfsii 39
3.9 Ảnh hưởng của nhiệt độ nuôi cấy đến sự phát triển tản nấm của các
isolates nấm S. rolfsii 42
3.10 Ảnh hưởng của nhiệt độ nuôi cấy đến sự hình thành hạch nấm của các
isolates nấm S. rolfsii 44

3.11 Kết quả lây nhiễm chéo nấm S. rolfsii trên một số cây trồng cạn 46
3.12 Ảnh hưởng của điều kiện ngập nước đến khả năng nảy mầm của hạch
nấm S. rolfsii phân lập từ đậu tương 50
3.13 Ảnh hưởng của điều kiện ngập nước đến khả năng nảy mầm của hạch
nấm S. rolfsii phân lập từ cà chua 51
3.14 Ảnh hưởng của điều kiện ngập nước đến khả năng nảy mầm của hạch
nấm S. rolfsii phân lập từ dưa chuột 52

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page vii

3.15 Hiệu quả phòng trừ của chế phẩm Ketomium đối với nấm S. rolfsii
gây hại trên cà chua 54
3.16 Hiệu quả phòng trừ của chế phẩm Ketomium đối với nấm S. rolfsii
gây hại trên đậu tương 56
3.17 Hiệu quả phòng trừ của chế phẩm Ketomium đối với nấm S. rolfsii
gây hại trên dưa chuột 58
3.18 Khảo sát hiệu lực phòng trừ bệnh héo rũ gốc mốc trắng hại đậu tương
trên đồng ruộng bằng các chế phẩm hóa học 59
3.19 Khảo sát hiệu lực phòng trừ bệnh héo rũ gốc mốc trắng hại cà chua
trên đồng ruộng bằng các chế phẩm hóa học 61
3.20 Khảo sát hiệu lực phòng trừ bệnh héo rũ gốc mốc trắng hại dưa chuột
trên đồng ruộng bằng các chế phẩm hóa học 62



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page viii

DANH MỤC HÌNH

STT Tên hình Trang


3.1 Triệu chứng héo rũ gốc mốc trắng trên đậu tương 25

3.2 Triệu chứng héo rũ gốc mốc trắng trên đậu tương 25

3.3 Triệu chứng héo rũ gốc mốc trắng trên lạc 26

3.4 Nấm Sclerotium rolfsii trên cây cà chua 26

3.5 Hạch nấm Sclerotium rolfsii trong đất 27

3.6 Diễn biến bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây hại trên cà chua tại Thanh
Đa và Song Phương vụ thu đông 2014 28

3.7 Diễn biến bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây hại trên đậu trạch tại Thanh
Đa – Phúc Thọ vụ thu đông 2014 30

3.8 Diễn biến bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây hại trên dưa chuột tại Ngọc
Tảo – Phúc Thọ và Song Phương – Hoài Đức vụ thu đông 2014 31

3.9 Diễn biến bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây hại cà chua trên các chân đất
khác nhau tại Đồng Tháp – Đan Phượng vụ thu đông 2014 33

3.10 Diễn biến bệnh héo rũ gốc mốc trắng hại đậu tương trên các công thức
luân canh khác nhau tại Thanh Đa – Phúc Thọ vụ thu đông 2014 35

3.11 Tản nấm S. rolfsii Sacc trên môi trường PDA 36

3.12 Hạch nấm S. rolfsii Sacc 37


3.13 Nấm S. rolfsii nuối cấy trên 3 môi trường 41

3.14 Kết quả lây nhiễm chéo nấm S. rolfsii trên một số cây trồng cạn 46

3.19 Ảnh hưởng của điều kiện ngập nước đến khả năng nảy mầm của hạch
nấm S. rolfsii phân lập từ đậu tương 50

3.20 Ảnh hưởng của điều kiện ngập nước đến khả năng nảy mầm của hạch
nấm S. rolfsii phân lập từ cà chua 52

3.21 Ảnh hưởng của điều kiện ngập nước đến khả năng nảy mầm của hạch
nấm S. rolfsii phân lập từ dưa chuột 53

3.22 Hiệu quả phòng trừ của chế phẩm Ketomium đối với nấm S. rolfsii
gây hại trên cà chua 55


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page ix

3.23 Hiệu quả phòng trừ của chế phẩm Ketomium đối với nấm S. rolfsii
gây hại trên đậu tương 57

3.24 Hiệu quả phòng trừ của chế phẩm Ketomium đối với nấm S. rolfsii
gây hại trên dưa chuột 58

3.25 Hiệu lực của các chế phẩm hóa học đối với bệnh héo rũ gốc mốc trắng
hại đậu tương 60

3.26 Hiệu lực của các chế phẩm hóa học đối với bệnh héo rũ gốc mốc trắng
hại cà chua 61


3.27 Hiệu lực của các chế phẩm hóa học đối với bệnh héo rũ gốc mốc trắng
hại dưa chuột 62


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 1

MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho sự phát triển của
cây trồng trong đó có các loại cây trồng cạn. Tuy nhiên đây cũng là điều kiện thuận
lợi cho các loại dịch hại phát triển trên đồng ruộng, đặc biệt là các loài nấm bệnh.
Trong đó nấm Sclerotium rolfsii gây bệnh héo rũ gốc mốc trắng, làm giảm năng
suất của các cây trồng thuộc họ cà, đậu đỗ, bầu bí
Nguồn bệnh của nấm tồn tại chủ yếu trong đất, trong tàn dư thực vật, cây ký
chủ và trong các vật liệu giống nhiễm bệnh dưới dạng sợi nấm, hạch nấm. Hạch
nấm tồn tại từ năm này qua năm khác ở tầng đất bề mặt và là nguồn gây bệnh phổ
biến cho các cây trồng vụ sau. Việc điều tra nghiên cứu tình hình bệnh héo rũ gốc
mốc trắng hại một số cây trồng cạn, mức độ phổ biến và tác hại cũng như nghiên
cứu những biện pháp phòng trừ bệnh là hết sức cần thiết.
Bệnh héo rũ gốc mốc trắng không những làm giảm năng suất, phẩm chất
cây trồng mà còn làm tăng chi phí sản xuất. Do vậy, hàng loạt các biện pháp bảo vệ
thực vật đã được áp dụng như: Biện pháp canh tác, biện pháp chọn giống chống
chịu…. . Đặc biệt, biện pháp hoá học là biện pháp phòng trừ bệnh hại đang được áp
dụng phổ biến trong sản xuất nông nghiệp nước ta hiện nay đã gây ra hàng loạt vấn
đề như : để lại dư lượng thuốc lớn lưu tồn trong nông sản, làm ô nhiễm không khí,
nguồn nước, đất đai, làm giảm nguồn vi sinh vật có ích trong đất, gây ô nhiễm môi
trường sinh thái
Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn nêu trên , chúng tôi tiến hành thực

hiện đề tài : “Nghiên cứu bệnh héo rũ gốc mốc trắng (Sclerotium rolfsii Sacc.)
gây hại trên một số cây trồng cạn tại Hà Nội và vùng phụ cận năm 2014”.






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 2

1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Tìm hiểu mức độ gây hại của nấm Sclerotium rolfsii trên một số cây
trồng cạn tại Hà Nội và một số vùng phụ cận vụ thu đông năm 2014. Nghiên cứu
một số đặc điểm hình thái và sinh học của nấm Sclerotium rolfsii và khảo sát một số
biện pháp phòng trừ.
1.2.2. Yêu cầu
- Điều tra tình hình bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây hại trên một số cây
trồng cạn tại Hà Nội và vùng phụ cận vụ thu đông năm 2014.
- Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, sinh học của nấm Sclerotium
rolfsii được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm.
- Đánh giá khả năng bảo tồn của hạch nấm trong các điều kiện khác nhau.
- Nghiên cứu phạm vi ký chủ của nấm Sclerotium rolfsii trên một số cây
trồng cạn.
- Đánh giá khả năng phòng trừ bệnh héo rũ gốc mốc trắng bằng chế phẩm
sinh học Ketomium vả một số thuốc hóa học.
















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 3

Chương 1
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Nấm Sclerotium rolfsii Sacc. gây bệnh héo rũ gốc mốc trắng trên nhiều loại
cây trồng thuộc nhiều họ thực vật ở khắp các vùng sinh thái nông nghiệp trên thế
giới. Ví dụ như cà chua, khoai tây, lạc, đậu tương, dưa chuột,… thường bị nấm
Sclerotium rolfsii gây hại nặng.
Sclerotium rolfsii là một loài nấm đa thực có nguồn gốc trong đất. Nấm
này được biết đến như là một trong những tác nhân gây mất mùa trong nhiều thế
kỷ và được mô tả lần đầu tiên bởi Peter Henry Rolfs vào năm 1892 khi nghiên
cứu bệnh tàn lụi cà chua (tomato blight) tại Florida-My. Cho đến nay đã có hơn
2000 báo cáo xác nhận sự xuất hiện và gây hại của Sclerotium rolfsii trên toàn
thế giới (Elizabeth, 2008).
Trên thế giới đã nghiên cứu, xác định được phạm vi ký chủ của nấm hạch
Sclerotium rolfsii Sacc. với ít nhất 500 loại cây trồng thuộc 100 họ thực vật. Những
cây ký chủ mẫn cảm nhất với bệnh gồm: họ cà (cà chua, khoai tây, cà pháo, ), họ

hoa thập tự (cải bắp, súp lơ trắng, súp lơ xanh, cải dầu), họ đậu đỗ (đậu tương, lạc,
đậu xanh, đậu lăng), họ bầu bí (dưa chuột, dưa hấu, bí đao, bí ngô, bầu ngô). Thiệt
hại lớn nhất do nấm Sclerotium rolfsii gây ra trên toàn thế giới là ở cây lạc.
(Stephen, 2000).
Triệu chứng bệnh do Sclerotium rolfsii gây ra trên các cây ký chủ khác nhau
không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên có thể thấy nấm Sclerotium rolfsii chủ yếu
tấn công vào phần gốc thân cây tiếp giáp với mặt đất (Elizabeth, 2008).
Giai đoạn cây con nấm thường xâm nhập vào bộ phận cổ rễ, gốc thân sát mặt
đất tạo thành vết bệnh màu nâu đen, trên vết bệnh mọc ra lớp nấm trắng xốp như
bông bao quanh gốc và lan ra mặt đất xung quanh làm mô cây thối mục, cây khô
chết (Gulshan L. &CTV 1992).
Sợi nấm màu trắng phát triển đâm tia trên bề mặt vết bệnh, rồi lan cả xuống
mặt đất xung quanh gốc thân. Sau đó các sợi nấm đan kết với nhau hình thành hạch

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 4

nấm. Sợi nấm đa bào, không màu, phân nhánh, có mấu lồi. Bệnh lan truyền do quá
trình làm đất và do tồn dư bệnh trong đất, hoặc cây con bị nhiễm bệnh từ giai đoạn
vườn ươm. Sự xâm nhiễm của nấm Sclerotium rolfsii vào mô cây ký chủ xảy ra rất
dễ dàng do nấm tiết ra các enzyme và acid oxalic làm mềm yếu và giết chết mô cây
ký chủ (Smith and Lee, 1986).
Nấm Sclerotium rolfsii giai đoạn sinh sản hữu tính có tên là Athrium
rolfsii. Sợi nấm màu trắng, đa bào phát triển mạnh trên bề mặt mô bệnh. Từ sợi
nấm hình thành các hạch nấm, khi còn non hạch màu trắng về sau chuyển thành
màu nâu hoặc màu nâu đậm, đường kính hạch nấm biến động từ 1-2mm. Hạch
nấm có thể tồn tại từ năm này sang năm khác ở tầng đất mặt, tầng đất canh tác
(Gulshah và cộng sự, 1992).
Cây trồng khi bị nấm Sclerotium rolfsii xâm nhiễm thường tại chỗ gốc thân
sát mặt đất bị teo thắt tạo vết bệnh màu nâu hoặc màu đen. Trên vết bệnh có mọc ra
một lớp nấm trắng xốp như bông bao quanh gốc và lan ra mặt đất (Gulshah L và

cộng sự, 1992).
Theo Carter (1993), nấm Sclerotium rolfsii thuộc loại vi sinh vật hảo khí,
thích hợp phát triển trong điều kiện có nhiệt độ và ẩm độ cao.
Kết quả nghiên cứu của Elizabeth thuộc đại học NC State (Hoa Kỳ) cho rằng
có ít nhất hai loại sợi nấm của nấm S. rolfsii: dạng sợi thô, thẳng, tế bào lớn (kích
thước tế bào 2 - 9µm x 150 - 250µm) có hai mấu liên kết tại mỗi vách ngăn nhưng
có thể vẫn biểu hiện sự phân nhánh tại mỗi mấu nối. Sự phân nhánh thường cho sợi
nấm mảnh (đường kính sợi nấm chỉ khoảng 1,5 -2,5µm) và có xu hướng phát triển
không bình thường, thiếu mấu liên kết nối. Dạng sợi mảnh thường được thấy thâm
nhập vào giá thể.
Hạch có hai kiểu nảy mầm: hoặc là các sợi nấm lần lượt phát triển vươn ra
khỏi bề mặt hạch phát triển không tập trung, hoặc là một loạt các sợi nấm phát triển
phá vỡ hạch gọi là sự nảy mầm đồng loạt. Số lượng sợi nấm và năng lượng cần cho
sự lây nhiễm do kiểu nảy mầm của hạch quyết định. Sự sinh trưởng của sợi nấm lần
lượt từ hạch để lây nhiễm vào mô ký chủ cần có nguồn dinh dưỡng vô cơ vì sợi nấm
sinh trưởng thưa thớt, không tập trung. Tuy nhiên, hạch nảy mầm đồng loạt thì

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 5

không cần bất cứ một nguồn dinh dưỡng ngoại sinh nào.
Hạch nấm và sợi nấm chính là nguồn bệnh ban đầu trên đồng ruộng. Trên tàn
dư cây trồng, nấm bệnh tồn tại như một dạng nấm hoại sinh, thậm chí trên cả tàn dư
của những cây không phải là ký chủ của nấm. Hạch nấm tồn tại từ năm này sang
năm khác ở lớp đất mặt nhưng không tồn tại được ở những lớp đất bị ngập sâu.
Điều kiện độ ẩm đất cao là môi trường thuận lợi cho nấm này tồn tại và phát triển. ở
trong đất tỷ lệ sống sót của hạch nấm từ 56-73% sau 8-10 tháng (Baute et al., 1981).
Một số chủng nấm Sclerotium rolfsii có khả năng hình thành bào tử đảm khi
nuôi cấy trong phòng thí nghiệm, giai đoạn đảm có tên là Corticium rolfsii Curzi.
Giai đoạn này hiếm khi bắt gặp trên đồng ruộng. Bào tử đảm thường được hình
thành ở bên cạnh vết bệnh và trong điều kiện không có ánh sáng mặt trời. Chúng có

thể được tạo ra với số lượng lớn và phát tán vào không khí (Stephen el al., 1992).
Nấm Sclerotium rolfsii có thể sống sót và phát triển mạnh mẽ trong phạm vi
môi trường rất rộng. nấm có thể sinh trưởng trong phạm vi pH rộng, nhất là trong
đất có tính acid. Nấm sinh trưởng thuận lợi nhất trong khoảng pH từ 3 - 5, hạch có
thể nảy mầm trong điều kiện pH từ 2 - 5. Khi pH > 7 sẽ kìm hãm sự nảy mầm của
hạch. Nhiệt độ thích hợp nhất từ 25
0
C - 35
0
C, ít hoặc ngừng phát triển ở nhiệt độ
dưới 10
0
C hoặc trên 40
0
C. ở nhiệt độ thích hợp nhất cho sự sinh trưởng sợi nấm thì
khả năng hình thành hạch cũng lớn nhất. Sợi nấm bị tiêu diệt ở 0
0
C, nhưng hạch có
thể sống sót ở -10
0
C. Sợi nấm phát triển thuận lợi nhất cần có độ ẩm cao. Khi độ ẩm
dưới bão hòa thì hạch nấm không thể nảy mầm (Stephen, 2000).
Năm 2000, Rangeshwaran & Prasad đã tiến hành thí nghiệm lây bệnh nhân
tạo bằng hạch nấm S. rolfsii trên cây cà chua ở giai đoạn quả xanh, quả chín. Sau đó
quan sát thời gian và tỷ lệ nhiễm bệnh ở các ngưỡng nhiệt độ 20
o
C, 25
o
C, 30
o

C; kết
quả là cà chua ở giai đoạn quả chín có tỷ lệ bệnh cao hơn và thời gian bị thối thân
nhanh hơn cà chua ở giai đoạn quả xanh, nhiệt độ thích hợp nhất cho bệnh sinh
trưởng phát triển là 25
o
C - 30
o
C.
Theo Okabe (2000), ở Nhật bản đã xác định nấm S. rolfsii có 5 nhóm là: 1, 2,
3, 4, 5. Trong đó nhóm 1 rất phổ biến, gây hại ở các vùng địa lý có nhiệt độ cao từ
28
o
C - 30
o
C. Bệnh xuất hiện ở phần rễ gốc và thân sát mặt đất, vết bệnh màu nâu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 6

đen. Trên vết bệnh có lớp mốc trắng giống như bông phủ kín bề mặt đôi khi lan cả
ra mặt đất, cây bị héo, từ lớp nấm hình thành các hạch nấm.
Bằng những phân tích HPLC, Harlton lai các isolate nấm S.rolfsii thu thập từ
khắp các vùng khác nhau của ấn Độ, tác giả đã xác định được sự đa dạng di truyền
của các isolate. Chúng khác nhau ở thành phần và liều lượng các acid: gallic, oxalic,
ferulic, indol-3-acetic acid, chlorogennic, cinnamic. Trong quá trình hình thành
hạch có sự tiết dịch (hạch tiết dịch sau 7 - 10 ngày cấy) và phân tích thành phần
dịch chiết này cộng với việc lai các isolate, kết quả cho thấy các cặp lai nếu cùng
isolate thì chúng sinh trưởng đan xen vào nhau, nếu không cùng isolate thì chúng
tạo thành dải phân cách giữa hai isolate. Tuy nhiên có ít hạch được hình thành sau
đó tại vùng phân giải của một số cặp isolate nhưng không đạt được kích thước đầy
đủ như đối với hạch được hình thành ở bên trong vùng phân giải. ở Mỹ, sự đa dạng

di truyền được phân thành hai chủng Sclerotium rolfsii và Sclerotium delphinii
Nấm Sclerotium rolfsii có khả năng gây hại ở hầu hết các nước trồng lạc trên
thế giới và làm giảm năng suất từ 10-25%, ở những vùng bị nhiễm nặng, mức độ
thiệt hại lên đến 80% . Vào năm 1959, ngành nông nghiệp My ước tính mất khoảng
10-20 triệu USD liên quan đến Sclerotium rolfsii gây hại ở các vùng trồng lạc phía
nam, khiến cho năng suất lạc giảm từ 1-6% (Elizabeth, 2008).
Với phạm vi ký chủ rộng, khả năng phát triển nhanh, có khả năng sản sinh
hạch nấm chống chịu điều kiện môi trường khắc nghiệt, đã góp phần làm gia
tăng thiệt hại kinh tế. Trên phạm vi toàn cầu nói chung cũng như ở Bắc Carolina
nói riêng, thiệt hại do nấm S. rolfsii gây ra trên cây lạc là lớn nhất. Theo tính
toán thống kê của Bộ Nông nghiệp liên bang Hoa Kỳ, riêng năm 1959, thiệt hại
do nấm S. rolfsii gây ra trên lạc ở đồng bằng duyên hải miền trung khoảng 10 -
20 triệu đôla Mỹ, thiệt hại năng suất trên các cánh đồng dao động từ 1% - 60%.
(Agrios, 2001).
Nhiều nghiên cứu về nấm S.rolfsii cho thấy nấm này có khả năng sinh ra một
lượng lớn acid oxalic. Độc tố này xâm nhập làm biến đổi màu trên hạt và gây nên
những vết đốm chết hoại trên lá ở giai đoạn đầu phát triển bệnh. (Kokalis, 1984).
Ở vùng Georgia Mỹ thiệt hại do bệnh này gây ra hàng năm ước tính lên tới

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 7

43 triệu USD. Ở Nepan bệnh héo rũ trắng gốc là bệnh hại rất nguy hiểm, nguồn nấm
tồn tại trong đất từ năm này sang năm khác và gây thiệt hại nhiều loại cây trồng cạn
ở vùng này.
Thiệt hại về năng suất của cây trồng còn cao hơn khi nấm Sclerotium rolfsii
cùng gây hại với tuyến trùng nốt sưng Meloidogyne sp. Những nghiên cứu về mối
quan hệ giữa nấm Sclerotium rolfsii với tuyến trùng nốt sưng Meloidogyne
incognita và biện pháp phòng trừ chúng cũng được nhiều tác giả đề cập tới. Phổ ký
chủ của nấm Sclerotium rolfsii được mở rộng thêm khi có mặt tuyến trùng cùng tấn
công, xâm nhiễm và gây hại. Sản xuất đỗ xanh gặp nhiều khó khăn do sự gây hại

của tuyến trùng Meloidogyne javannica và nấm Sclerotium rolfsii.
Việc phòng trừ nấm S. rolfsii phải có sự kết hợp biện pháp canh tác, biện
pháp sinh học và biện pháp hoá học với nhau. Về biện pháp canh tác như: cày đất
sâu 20cm và lật úp, lạc vụ hè bị nhiễm bệnh ít hơn trên ruộng trồng hành vụ đông.
Rõ ràng, hành đã tiết dịch làm giảm sự lây nhiễm nấm trong đất. Phơi đất hoặc dùng
sức nóng của mặt trời có liên quan chặt chẽ với các biện pháp phòng trừ nấm S.
rolfsii. Hạch nấm vẫn có thể sinh trưởng được trong ống nghiệm sau 12 tiếng để ở
45
0
C, nhưng bị chết sau 4 - 6h ở nhiệt độ 50
0
C và chỉ sống sót trong 3h tại nhiệt độ
55
0
C. Che phủ đất bằng nilon trong suốt vụ trồng làm tăng nhiệt độ đất và hạch sẽ
bị tiêu diệt khi đủ thời gian cần thiết. Hầu hết những khu đồng được thử nghiệm đều
cho thấy hạch bị rã ra khi ở độ sâu không quá 1cm, nhưng để trừ hạch triệt để cần
vùi sâu hơn (Stephen và cộng sự, 2000).
Xử lý đất trước khi xâm nhiễm nấm Sclerotium rolfsii 2 ngày bằng nấm
Trichoderma harzianum cho hiệu quả phòng trừ: 67,1%, bang hạt xoan: 62,4%,
bằng cây H.suaveolens: 60,8%, thuốc Captan: 60,4%, gừng: 57,4% (Okereke V.C
and Wokocha, 2006)
Sử dụng các thuốc trừ nâm hoá học như Captan, Calixin, các thuôc hoá
học khác có hoạt chất là methyl bromide và chloropicrin để phòng trừ nấm
Sclerotium rolfsii nhưng hiệu quả thấp và ảnh hưởng đến môi trường (Okereke
and Wokocha, 2006).
Nấm S.rolfsii có khả năng sinh trưởng và hình thành hạch ở hầu hết các loại

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 8


đất, pH và nguồn dinh dưỡng khác nhau. Nhưng nấm sinh trưởng kém thuận lợi trên
đất thịt nhiều mùn có pH = 7,96. (Rodriguez-Kabana va CTV,1987)
Nấm Chaetomium là một trong những nhóm nấm lớn nhất trong hệ vi sinh
vật đất. Chúng phân bố rất rộng rãi trong tự nhiên. Sự phân bố của Chaetomium
trong đất cũng tuân theo những quy luật chung của mọi vi sinh vật đất khác. Số
lượng của nấm Chaetomium chủ yếu nằm trong các tầng đất dưới. Đặc biệt ở tầng
đất sâu 25-30 cm số lượng của Chaetomium có nhiều nhất.
Nấm Chaetomium được tìm thấy ở các nước ôn đới như Đức, Nhật bản, một
số vùng ôn đới của Trung quốc, đến tận các vùng có khí hậu nhiệt đói như: Thái lan,
Philippine, Việt nam Nấm Chaetomium có khả năng sản sinh ra một lượng cơ chất
ergosterol do vậy chúng vẫn có thể sinh trưởng phát triển tốt và tạo ra nhiều khuẩn
lạc trong điều kiện khô hạn. Chính ergosterol đã cải tạo đất làm cho đất thêm màu
mỡ, tăng độ phì của đất, kích thích sự phát triển của cây. Tuy nhiên Chaetomium
phát triển và có khả năng canh tranh manh hơn so với nấm bệnh khi trong điều kiện
đất có nhiều mùn hơn. (Soytong và cs. 1989).
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Bệnh héo rũ trắng gốc còn gọi là bệnh héo gốc mốc trắng, bệnh thối trắng do
nấm Sclerotium rolfsii Sacc. gây ra, nấm gây hại không những trên cà chua mà còn
ký sinh phá hại trên hàng trăm loài cây trồng khác bao gồm nhiều loài cây có giá trị
kinh tế quan trọng như khoai tây, đậu tương, lạc, ớt, đậu đỗ, bầu bí, hoa, cây cảnh
(Đỗ Tấn Dũng, 2001).
Nấm tồn tại trong đất và tàn dư cây bệnh, lan truyền do quá trình làm đất,
cây giống nhiễm bệnh từ vườn ươm. Nấm xâm nhập vào gốc cây con, cây trưởng
thành, sử dụng chất hữu cơ làm nguồn dinh dưỡng, sản sinh ra axit oxalic và men
làm phân hủy mô cây chủ. Trên ruộng sản xuất bệnh thường xuất hiện nhiều sau khi
trồng khoảng 50 ngày (khi cây có quả). (Nguyễn Văn Viên và Đỗ Tấn Dũng,2003)
Bệnh héo rũ gốc mốc trắng là một trong những loại bệnh hại phổ biến, phát
sinh gây hại trên nhiều loại cây trồng cạn khác nhau, ở các giai đoạn sinh trưởng
khác nhau của cây. Tác hại chủ yếu của bệnh là gây nên hiện tượng héo rũ, chết cây
và làm ảnh hưởng không nhỏ đến sinh trưởng phát triển của cây và đến năng suất.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 9

bệnh héo rũ gốc mốc trắng phát sinh gây hại trên nhiều loại cây trồng cạn khác nhau
ở vùng Hà Nội và phụ cận. Nhìn chung bệnh thường xuất hiện trên đồng ruộng từ
sau trồng 16-23 ngày trở đi, bênh có xu hướng tăng dần vào giai đoạn cây bắt đầu ra
hoa – hình thành quả. Tỷ lệ bệnh héo rũ gốc mốc trắng trên các laoij cây trồng điều
tra thường đạt cao nhất vào thời điểm sau trồng 58-72 ngày. Kết quả điều tra mức
độ nhiễm bệnh trên các cây cà chua, lạc, đậu tương, đậu xanh, đậu trạch, dưa chuột
có tỷ lệ bệnh cao nhất tương ứng là: 6,9%; 11,6%; 14,8%; 7,2%; 8,4% và 3,9%. (Đỗ
Tấn Dũng, 2006)
Theo Nguyễn Kim Vân và cộng sự (2002), bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây ra
bởi nấm Sclerotium rolfsii trên cây lạc, cà chua, đậu tương, bầu bí, ngô…là một
trong những bệnh hại nguy hiểm trên cây trông cạn ở miền Bắc Việt Nam. Đặc biệt,
trong điều kiện thời tiết nắng nóng và ẩm ướt. Bệnh hại tất cả các bộ phận trên mặt
đất của cây như: Thân, lá, hoa, quả…cũng như các bộ phận dưới mặt đất như: rễ,
củ…. Trường hợp bệnh nặng, cây sẽ chết héo rất nhanh. Trên gốc cây và phần đất
xung quanh gốc thường hình thành rất nhiều hạch nấm nhỏ, màu trắng khi non và
màu nâu khi già.
Kết quả điều tra trên cây cà chua vùng Hà nội và phụ cận trong nhiều năm
qua cho thấy bệnh héo rũ gốc mốc trắng là rất phổ biến, các vùng trồng cà chua bị
nhiễm bệnh này như: Đông Anh, Gia Lâm, Từ Liêm (Hà Nội); Văn Giang, Khoái
Châu, Yên Mỹ (Hưng Yên); An Hải, Tiên Lãng (Hải Phòng); Việt Yên, Thị xã Bắc
Giang, Lục Nam (Bắc Giang); Võ Cường - Thị xã Bắc Ninh (Bắc Ninh). Bệnh héo
rũ gốc mốc trắng thường xuất hiện sau trồng 2 - 3 tuần trong vụ hè thu, giai đoạn
cây ra hoa đến khi thu hoạch quả (cà chua sớm, vụ muộn), có năm còn hại cà chua
chính vụ khi thời tiết ấm và nhiệt độ mùa đông cao (vụ đông xuân năm 2003). Bệnh
héo rũ gốc mốc trắng xuất hiện trên giống cà chua Pháp là 42,3%; các giống khác tỷ
lệ bệnh là 16% - 35%. Tỷ lệ bệnh héo rũ gốc mốc trắng ở các vùng trồng cà chua
ngoại thành Hà Nội chiếm cao nhất trên đất vàn cao (31,6% - 51,5%), trên đất vàn

và vàn thấp nhẹ hơn (Ngô Thị Xuyên, 2004).
Với điều kiện thời tiết ấm, nóng, độ ẩm cao rất thuận lợi cho bệnh phát triển.
Nấm S. rolfsii có thể sống sót qua nhiều năm nhờ có hạch nấm tồn tại trong đất hoặc

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 10

trên tàn dư cây bệnh. Nấm sinh trưởng thuận lợi nhất ở 30
0
C, kém phát triển khi
nhiệt độ dưới 15
0
C hoặc trên 37
0
C. Những hợp chất dễ bay hơi được sản sinh bởi
các mô già cỗi của cây ký chủ sẽ kích thích hạch nảy mầm. Nấm sau đó có thể xâm
nhiễm trực tiếp vào mô cây ký chủ, sản sinh enzyme cellulolytic và enzyme
pectinolytic và cả acid oxalic. Nấm có thể phát tán nhờ các nông cụ, dụng cụ làm
đất hoặc dòng nước chảy hoặc lây nhiễm ngay từ giai đoạn cây con đưa từ vườn
ươm ra trồng ngoài đồng ruộng. Cách thức gieo hạt cũng có thể có tác động đến sự
phân bố của bệnh ngay trong một khu đồng.
Nấm có thể tồn tại trong đất và tàn dư cây bệnh dưới dạng hạch nấm và sợi
nấm. Bệnh truyền lan do quá trình làm đất hoặc vật liệu giống nhiễm bệnh. Bệnh
phát sinh gây hại ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng nhưng mức độ khác nhau. Bệnh
phá hại ở tất cả các thời vụ gieo trồng nhưng thời kỳ gây hại nặng vào các tháng 4, 5
trong vụ xuân và tháng 8, 9, 10 trong vụ mùa trên hầu hết các giống cà chua, đậu
tương, lạc, đang trồng ngoài sản xuất đều có thể bị nhiễm bệnh, mức độ tác hại của
bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố sinh thái như: điều kiện ngoại cảnh, thành phần cơ
giới đất, chế độ chăm sóc, chế độ canh tác, phân bón (Đỗ Tấn Dũng, 2001).
Bệnh héo rũ gốc mốc trắng thường phát sinh vào hai thời kỳ trong năm: thời
kỳ thứ nhất khoảng 11/4 - 1/6 bệnh hại cà chua xuân hè cuối vụ, thời kỳ thứ 2

khoảng 9/9 - 8/11 bệnh hại cà chua vụ đông sớm, đặc biệt bệnh thường phát triển
mạnh trong khoảng từ 9/9 đến cuối tháng 9 vào giai đoạn cà chua đang ra hoa đến
hình thành quả non (Nguyễn Văn Viên, 1999).
Bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây ra bởi nấm Sclerotium rolfsii trên cây lạc, cà
chua, đậu tương, bầu bí, ngô là một trong những bệnh hại nguy hiểm trên cây
trồng cạn ở miền Bắc Việt Nam. Đặc biệt trong điều kiện nắng nóng và ẩm ướt.
Bệnh hại tất cả các bộ phận trên mặt đất của cây như: rễ, củ Trường hợp bị bệnh
nặng, cây sẽ chết héo rất nhanh. Trên gốc cây và phần đất xung quanh gốc thường
hình thành rất nhiều hạch nấm nhỏ, màu trắng khi non và màu nâu khi già (Nguyễn
Kim vân ,2002)
Vết bệnh xuất hiện trên gốc cây sát mặt đất, lúc đầu vết bệnh nhỏ, màu nâu
tươi, hơi lõm, sau đó vết bệnh lan rộng có thể dài tới 2-4 cm, bao quanh gốc cây và

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 11

lan xuống cổ rễ dưới mặt đất. Mô bị bệnh bị phân hủy dần. Lá phía dưới gốc bị
vàng trước , sau đó đến các lá phía trên. Ban ngày vào buổi trưa hoặc chiều khi
nhiệt độ cao, hoặc những ngày trời nắng to cây biểu hiện héo rũ, buổi chiều tối, đêm
và sáng sớm cây lại phục hồi tươi trở lại. Trên vết bệnh ở gốc xuất hiện lớp nấm
trắng, sợi nấm đâm tia lan dần ra mặt đất xung quanh gốc cây tạo thành một đám
nấm màu trắng xốp như bông, sau đó từ sợi nấm hình thành các hạch nấm, lúc đầu
hạch nấm màu trắng, sau màu vàng, cuối cùng có màu nâu đậm. Cây con bị bệnh
chết nhanh hơn cây trưởng thành. Rễ cây bị bệnh dần dần hóa nâu, thối mục, cây
chết khô, thân màu nâu. (Nguyễn Văn Viên và Đỗ Tấn Dũng,2003)
Theo Nguyễn Thị Mai Chi, Nguyễn Xuân Hồng, Nguyễn thị Chinh (2005)
[20], bệnh gây chết cây con ngay từ giai đoạn đầu, nhưng giai đoạn hại nghiêm
trọng nhất là vào thời kỳ cuối vào chắc và thu hoạch. Triệu chứng điển hình của
bệnh là chết héo cây và thối quả, hạt. Bệnh thường gặp và gây hại nặng tại các chân
đất trũng, không thoát nước hay gặp điều kiện thời tiết mưa ẩm kéo dài, tỷ lệ bệnh
trung bình từ 5-20%, trong quá trình điều tra đã ghi nhận trường hợp tỷ lệ bệnh lên

tới hơn 60%, ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng suất quả.
Cây bị héo rũ, xanh hoặc hơi vàng. Cổ rễ và đoạn thân ngầm bị bệnh có vết
màu nâu, thối mục, khô xác, nhổ cây dễ bị đứt gốc, trên gốc thân cây bệnh mọc lớp
nấm trắng đâm tia lan rộng ra mặt đất, hình thành nhiều hạch nấm hình tròn như hạt
cải màu trắng, về sau có màu nâu hạt chè. (Vũ triệu Mân, 2007).
Triệu chứng đặc trưng của bệnh trên các cây trồng cạn đó là vết bệnh xuất hiện
trên gốc, thân cây sát mặt đất, lúc đầu vết bệnh nhỏ, có màu nâu tươi, hơi lõm, sau đó
vết bệnh lan rộng có thể dài tới 2-4 cm bao quanh gốc cây và lan xuống cổ rễ dưới mặt
đất (Đỗ Tấn Dũng, 2001). Mô bệnh bị thối hỏng. Lá phía dưới héo khô, vàng, sau toàn
bộ cây héo rũ chết (Lê Lương Tề, 2001). Cây bị bệnh gốc, thân hóa nâu và mục rã ở
phần tiếp cận với mặt đất làm cây chết héo. Nấm còn gây hại trên quả phần tiếp giáp
với mặt đất (Lê Lương Tề, 2007). Trên vết bệnh ở gốc, thân xuất hiện lớp nấm trắng,
sợi nấm đâm tia lan dần ra mặt đất xung quanh tạo thành một đám trắng xốp như bông,
từ đó hình thành nên các hạch nấm, lúc đầu hạch nấm có màu trắng, sau màu vàng,
cuối cùng có màu nâu đậm (Nguyễn Văn Viên và Vũ Triệu Mân, 1998).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 12

Sợi nấm Sclerotium trực tiếp xâm nhập qua biểu bì, qua vết thương mà phát
triển thành đám sợi trắng ở cổ rễ, gốc thân làm mô bệnh thối mục, cây khô chết.
Nấm phá hại tia củ lạc trong đất làm tóp thối củ, hạt mốc mất sức nảy mầm hoặc khi
gieo mầm mọc yếu, cây sẽ bị bệnh. Trên đồng ruộng những loại nấm trên đều nhờ
nước tưới, mưa gió mà truyền lan.
Bệnh phát sinh, phát triển trong điều kiện nhiệt độ tương đối cao, ẩm ướt,
cây sinh trưởng kém. Trên đất trồng độc canh, đất cát thô bệnh tương đối nặng hơn.
Bệnh xuất hiện trong suốt quá trình sinh trưởng của cây nhưng ở mỗi giai đoạn sinh
trưởng mức độ bệnh khác nhau, các loại bênh héo rũ phá hại cũng khác nhau. (Vũ
triệu Mân, 2007).
Nấm Sclerotium rolfsii là loại nấm đa thực, phát sinh phát triển thuận lợi
trong điều kiện nhiệt độ thích hợp nhất là: 25

0
C - 30
0
C, ẩm độ tương đối cao và độ
pH từ 6,0 - 7,0. Tản nấm phát triển mạnh, sợi nấm đa bào, không màu, hạch nấm
được hình thành trên bộ phận bị hại, có dạng hình cầu nhỏ như hạt cải, màu vàng
nâu đến nâu đen (Đỗ Tấn Dũng, 2001).
Loài Sclerotium rolfsii là nấm đảm và sợi nấm trắng nhỏ, hạch nấm được tạo
ra do cỏc sợi nấm đan kết với nhau, có đường kính dao động trong khoảng 0,5 - 1,5
mm. Nấm S. rolfsii có thể dễ dàng sinh trưởng phát triển trên môi trường PDA
(khoai tây, dextrose, agar) ở nhiệt độ 25
0
C - 35
0
C.
Trong điều kiện phòng thí nghiệm, trên môi trường PDA, PGA ở nhiệt độ 25
– 30
0
C, nấm phát triển mạnh, tản nấm trắng xốp như bông, sợi nấm màu trắng, đa
bào, phân nhánh nhiều, phát triển theo kiểu đâm tia. Sau khi cấy 7 – 10 ngày nấm
hình thành nhiều hạch, hạch nấm có dạng hình cầu đường kính 0.4 – 1.4 mm
(Nguyễn Văn Viên và Đỗ Tấn Dũng,2003)
Trên các cây trồng cạn như cây lạc bệnh héo rũ gốc mốc trắng thường có xu
hướng tăng từ khi cây ra hoa đến khi làm quả. Trong khi đó ở giai đoạn này bệnh lở
cổ rễ, héo rũ gốc mốc đen, héo vàng, tái xanh lại có xu hướng giảm. Tỷ lệ bệnh héo
rũ gốc mốc trắng trên một số vùng sinh thái khác nhau là khác nhau: đất đồi 1 vụ lạc
có tỷ lệ bệnh là 3.7%, đất cát là 6.31%, đất nội đồng là 3.24% (Lê Như Cương, 2004).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 13


Khi cây cà chua bị bệnh héo rũ gốc mốc trắng ở giai đoạn vườn ươm hoặc từ
khi trồng đến giai đoạn ra chùm hoa đầu nở thì cây sẽ bị chết héo. Nếu cây nhiễm
bệnh muộn ở giai đoạn chớm ra quả lứa đầu, sau trồng 60 - 70 ngày thì cây cũng bị
héo rũ, quả chín ép không sử dụng được. Còn nếu cây bị nhiễm muộn vào giai đoạn
quả non thì cây thường chết héo, năng suất có thể giảm 61,6% so với cây khỏe
(Nguyễn Văn Viên, 1999).
Bệnh chết héo lạc do nấm S. rolfsii gây ra là một trong những bệnh phổ biến
và là một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất. ở vùng Đông Nam Bộ,
trước khi thu hoạch tỷ lệ bệnh có nơi lên đến 8% - 10%. ở miền Bắc Việt Nam đ6
phát hiện có những ruộng cục bộ tỷ lệ bệnh héo rũ gốc mốc trắng lên tới 20% -
25% (Nguyễn Thị Ly, Phan Bích Thủy, 1991).
Ngô Quốc Luật và CTV (2005) nghiên cứu nấm S. rolfsii hại cây bạch truật
và nghiên cứu một số biện pháp phòng trừ đặc biệt chú ý đến biện pháp sinh học sử
dụng nấm đối kháng T. viride. Đây là một trong ba bệnh hại quan trọng trên cây
bạch truật. Tỷ lệ bệnh tăng cao khi nhiệt độ 29
0
C - 30
0
C, hại chủ yếu ở phần rễ và
thân. Kết quả khảo sát hiệu lực của một số thuốc hoá học trong việc phòng trừ nấm
cho thấy thuốc Ridomil 68WP có hiệu lực cao (>90%). Tác giả cũng cho biết bệnh
bắt đầu gây hại vào thời kỳ phát triển củ (tháng 4), gây hại mạnh vào tháng 5 - 6 khi
chuẩn bị thu hoạch.
Các tác giả Nguyễn Văn Viên và Vũ Triệu Mân (1998) khi nghiên cứu bệnh
chết héo cây cà chua do nấm S. rolfsii Sacc., tác giả có nhận xét: ở cà chua vụ đông
sớm (tỷ lệ cây bị bệnh từ 10,5% - 14,5%, cá biệt có ruộng lên tới 20%) và vụ đông
xuân bị bệnh nặng hơn vụ đông chính vụ (9% - 14,5%). Vụ đông xuân, bệnh xuất
hiện vào cuối tháng tư, đầu tháng 5 khi 1, 2 chùm quả đã được thu hoạch; cây héo,
chết làm quả non không sử dụng được hoặc chín ép, chất lượng kém. Một số thuốc
được thử nghiệm đánh giá hiệu lực phòng trừ đối với nấm S. rolfsii như: oxy clorua

đồng (5%), Mirage (0,2%), Pencozeb (1%), Carbendas (2%) đều có khả năng ức
chế sự phát triển của nấm S. rolfsii. Đối với sử dụng nấm đối kháng T. viride với
nồng độ 10
9


bào tử/gam thì tác giả cũng cho biết cùng xử lý T. viride và lây nhiễm
nấm S. rolfsii, xử lý T.viride trước một ngày sau đó lây S. rolfsii cho hiệu quả
phòng chống bệnh tốt hơn ở các công thức khác.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 14

Bệnh héo rũ gốc mốc trắng bắt đầu xuất hiện trên cà chua vụ xuân hè giai
đoạn nụ - hoa nở, đến tháng 5 đầu tháng 6 là giai đoạn quả non - thu hoạch cuối vụ
với nhiệt độ trung bình 28
0
C, ẩm độ không khí 74% - 84% là thời kỳ bệnh phát triển
mạnh nhất, với tỷ lệ bệnh lên tới 16%. ở 30
0
C trong điều kiện invitro, nấm có tốc độ
sinh trưởng cao nhất trên 3 mm/ngày. Kích thước trung bình của hạch nấm có sự
khác nhau chút ít ở các mức nhiệt độ nhưng nhìn chung có kích thước trung bình từ
0,8 - 1,5 mm là loại hạch nấm tương đối nhỏ. Bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây hại
nhiều trong điều kiện nhiệt độ cao từ 25
0
C - 30
0
C. Bệnh gây hại nặng hơn ở những
chân ruộng chỉ luân canh với cây trồng cạn trên các chân ruộng đất thịt nhẹ, cát pha.
nếu luân canh cà chua với 2 vụ lúa thì hạn chế được bệnh hoặc dùng thuốc Rovral

50WP 2kg/ha và Mirage 50 WP nồng độ 0,2% phun từ 2 đến 3 lần có hiệu lực
phòng trừ đạt 62% - 68%. Hoặc phun chế phẩm sinh học Trichoderma (hàm lượng 2
x 10
9
bào tử/gam) với lượng dùng 10gam pha trong 1 lít nước phun cho 1m
2
cà chua
(phun vào gốc cây trên mặt đất hoặc bón vào đất khi trồng) (Lê Lương Tề, 2001).
Nấm bệnh tồn tại trong đất và tàn dư cây bệnh, lan truyền do quá trình làm
đất, cây trồng nhiễm bệnh từ vườn ươm (Nguyễn Văn Viên, Đỗ Tấn Dũng, 2003),
do đó việc phòng trừ bệnh gặp rất nhiều khó khăn. Cũng theo hai tác giả này biện
pháp phòng trừ bệnh có hiệu quả đó là cần kết hợp nhiều biện pháp: ruộng cà chua
phải được tiêu nước tốt, thực hiện việc luân canh cây cà chua với cây trồng không
phải là ký chủ của nấm, phơi ải đất trồng, bón phân cân đối, có thể xử lý đất vườn
ươm bằng thuốc TMTD, nhổ bỏ cây bệnh ra khỏi ruộng rồi chôn hoặc đốt, làm giàn
cho cà chua.
Để phòng trừ bệnh do nấm Sclerotium rolfsii gây ra có hiệu quả, có thể áp
dụng các biện pháp như: cày lật đất sâu khoảng 10-15 cm trước khi trồng để vùi sâu
hạch nấm; luân canh các cây trồng dễ nhiễm bệnh với các cây trồng không phải là
ký chủ của bệnh như: mía, khoai lang, khoai sọ dọn sạch cỏ dại và sử dụng các
loại thuốc trừ nấm đặc hiệu (Nguyễn Kim vân và CS, 2002)
Biện pháp sử dụng thuốc hoá học để phòng trừ bệnh HRGMT thường có
hiệu quả thấp vì nấm bệnh tồn tại chủ yếu trong đất, xâm nhiễm gây hại ở bộ phận
rễ, cổ rễ, thân sát mặt đất. Tuy nhiên, trong những trường hợp cần thiết người ta có

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 15

thể dùng một số thuốc để phun phòng nhằm hạn chế sự lan truyền và tác hại của
bệnh (Rovral, Pencozeb, Mancozeb) (Đỗ Tấn Dũng,2001).
Dù sử dụng biện pháp hoá học, hoặc luân canh cũng không tiêu diệt được tận

gốc nguồn bệnh trên đồng ruộng. Sử dụng thuốc hoá học chưa đem lại hiệu quả cao
trong công tác phòng chống bệnh do loài nấm gây ra, biện pháp luân canh cây trồng
cũng có hiệu quả nhất định song không tiêu diệt được hoàn toàn mầm bệnh có trong
đất. Mặt khác việc sử dụng thuốc hoá học tràn lan đã gây ô nhiễm môi trường sống,
ảnh hưởng đến sức khỏe của con người cũng như cuộc sống của sinh vật có ích
khác. Để hạn chế nhược điểm của biện pháp hoá học người ta đã tiến hành tìm hiểu
biện pháp sinh học để bảo vệ cây trồng . Trong đó việc sử dụng các chế phẩm sinh
học nấm đối kháng để phòng trừ một số bệnh nấm có nguồn gốc trong đất hại cây
trồng là một hướng đi tích cực có nhiều ưu điểm mang tính khả thi.
Một trong các vi sinh vật đối kháng được nghiên cứu nhiều để trừ bệnh hại
cây là nấm đối kháng Trichoderma. Các loài nấm thuộc giống Trichoderma có tính
đối kháng với nhiều loài nấm gây bệnh cho cây có trong đất như Alternaria,
Botrytis, Fusarium, Pythium, Rhizoctonia, Sclerotinia, Collectotrichum, … Nấm
Trichoderma được nghiên cứu ở Liên Xô cũ, Anh, Pháp, Hungari, Nhật bản, Hoa
Kỳ … Mặc dù được nghiên cứu nhiều, nhưng nấm trichoderma chưa thể sử dụng
rông rãi như tác nhân sinh học để trừ nấm gây bệnh cây có trong đất. (Phạm văn
Lầm, 1995).
Việc sử dụng nấm đối kháng T. viride ở nồng độ thích hợp còn có tác dụng
kích thích sự nảy mầm của hạt giống, tăng cường sự sinh trưởng phát triển của cây
và làm tăng đáng kể năng suất cây trồng (Trần Thị Thuần, 1998).
Trên môi trường PGA nấm T. viride có hiệu quả ức chế nấm S. rolfsii tới
74,54% sau 2 ngày và đến ngày thứ 3 đã ức chế hoàn toàn sự phát triển của nấm S.
rolfsii (Lê Lương Tề, 2001).
Khi có mặt nấm T. viride thì nấm có khả năng cạnh tranh, chiếm chỗ, ức chế và
tiêu diệt nấm S. rolfsii. Mặt khác khi nấm S. rolfsii có mặt trước thì hiệu lực của nấm T.
viride giảm đi nhiều so với nấm T. viride có mặt trước, (Đỗ Tấn Dũng, 2001).

×