Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi trên địa bàn huyện việt yên, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 104 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM








THÂN THỊ THU HOA




QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP
ĐÃ THU HỒI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VIỆT YÊN,
TỈNH BẮC GIANG



LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ





HÀ NỘI, NĂM 2015



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM







THÂN THỊ THU HOA


QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP
ĐÃ THU HỒI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VIỆT YÊN,
TỈNH BẮC GIANG



CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ : 60.34.01.10

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHẠM BẢO DƯƠNG


HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii


LỜI CAM ĐOAN

- Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
- Tôi xin cam đoan rằng mọi sự cộng tác, giúp đỡ cho việc thực hiện luận
văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 15 tháng 07 năm 2015
Tác giả luận văn



Thân Thị Thu Hoa

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm
giúp đỡ tận tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước tiên, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu Học viện
Nông nghiệp Việt Nam, Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Bộ môn Kinh tế
nông nghiệp và chính sách đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến thày giáo PGS.TS. Phạm
Bảo Dương đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi
thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn UBND huyện Việt Yên, Phòng tài nguyên

và môi trường huyện Việt Yên, UBND các xã Hồng Thái, Hoàng Ninh, Quang
Châu đã tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tư liệu khách quan giúp tôi hoàn
thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và người thân
đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện về mọi mặt cho tôi trong quá trình thực hiện
đề tài nghiên cứu.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 07 năm 2015
Tác giả luận văn


Thân Thị Thu Hoa

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

MỤC LỤC
Lời cam đoan 1
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
Danh mục chữ viết tắt vii
Danh mục bảng viii
Danh mục biểu đồ ix
PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1 Mục tiêu chung 2
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 2
1.3 Câu hỏi nghiên cứu 2
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3

1.4.1 Đối tượng nghiên cứu 3
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu 3
PHẦN II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4
2.1 Cơ sở lý luận 4
2.1.1 Khái niệm về đất nông nghiệp, đất nông nghiệp đã thu hồi 4
2.1.2 Sự cần thiết của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi 5
2.1.3 Nội dung nghiên cứu công tác Quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã
thu hồi 8
2.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về đất đã thu hồi 12
2.2 Cơ sở thực tiễn 14
2.2.1 Kinh nghiệm của một số nước về quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp đã
thu hồi 14
2.2.2 Kinh nghiệm quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi ở Việt Nam 16
PHẦN III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
3.1 Đặc điểm địa bàn huyện Việt Yên 19
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 19
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

3.1.2 Điều kiện kinh tế-xã hội 20
3.2 Phương pháp nghiên cứu 25
3.2.1 Phương pháp tiếp cận 25
3.2.2 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 25
3.2.3 Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu, thông tin 26
3.2.4 Phương pháp xử lý và tổng hợp thông tin 27
3.2.5 Phương pháp phân tích thông tin 27
3.3 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 28
PHẦN IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 29
4.1 Thực trạng quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi trên địa bàn
huyện Việt Yên 29

4.1.1 Khái quát chung 29
4.1.2 Ban hành văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp đã thu
hồi và tổ chức thực hiện văn bản 34
4.1.3 Công tác khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính,
bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp đã thu hồi 37
4.1.4 Hoạt động quản lý quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp đã thu hồi 40
4.1.5 Hoạt động chuyển mục đích sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nông nghiệp đã thu hồi 44
4.1.6 Công tác quản lý và sử dụng nguồn thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
nông nghiệp đã thu hồi 49
4.1.7 Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất nông
nghiệp đã thu hồi và xử lý vi phạm 51
4.2 Yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi 55
4.2.1 Yếu tố chính sách sử dụng đất và quy hoạch sử dụng đất của huyện 55
4.2.2 Công tác tổ chức và nhân lực thực hiện quản lý đất đai 58
4.2.3 Những vấn đề khó khăn liên quan đến công tác thanh tra, kiểm tra 62
4.2.4 Công tác tuyên truyền, hướng dẫn và công bố các chính sách liên quan 63
4.2.5 Sự tác động của người dân trong vấn đề quản lý nhà nước về đất đai 64
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi

4.3 Các giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp đã
thu hồi 66
4.3.1 Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan 66
4.3.2 Xây dựng và chuẩn hoá hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin địa chính hợp lý 67
4.3.3 Đẩy mạnh công tác khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ
địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất, bản đồ quy hoạch sử dụng đất 67
4.3.4 Tăng cường công tác lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên
địa bàn 67
4.3.5 Kiểm soát chặt chẽ công tác quản lý tài chính về đất đai 69

4.3.6 Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về quản lý đất đai 69
PHẦN V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 71
5.1 Kết luận 71
5.2 Kiến nghị 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
PHỤ LỤC 88
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BĐS Bất động sản
BQ Bình quân
BT Bồi thường
CC Cơ cấu
CNH Công nghiệp hóa
ĐNN Đất nông nghiệp
ĐNNĐTH Đất nông nghiệp đã thu hồi
GPMB Giải phóng mặt bằng
HĐH Hiện đại hóa
QL Quản lý
QLNN Quản lý nhà nước
THĐ Thu hồi đất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii

DANH MỤC BẢNG

Số bảng Tên bảng Trang



3.1 Biến động đất đai, dân số và kết quả sản xuất kinh doanh của
huyện Việt Yên (2011-2013) 21
3.2 Tình hình cơ sở vật chất của huyện năm 2011-2013 23
4.1 Kết quả triển khai thực hiện các dự án 31
4.2 Diện tích đất sử dụng trong Cụm KCN 32
4.3 Diện tích đất sử dụng trong TM - DV 32
4.4 Diện tích đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp 33
4.5 Đánh giá sự phù hợp của hệ thống chính sách quản lý đất nông
nghiệp đã thu hồi 36
4.6 Tổng hợp tình hình thực hiện nhiệm vụ đo đạc bản đồ địa chính 38
4.7 Tổng hợp tình hình giao đất, cho thuê đất nông nghiệp 45
4.8 Công tác thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã
thu hồi 46
4.9 Tổng hợp kết quả cấp GCNQSD đất đã cấp cho tổ chức từ 01/01/2011
đến 15/8/2014 48
4.10 Tổng hợp tình hình thu và sử dụng nguồn thu tiền sử dụng đất nông
nghiệp đã thu hồi 50
4.11 Diện tích đất trồng lúa cần chuyển mục đích trên địa bàn các xã, thị trấn 57
4.12 Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý đất đai của huyện Việt Yên 59
4.13 Đánh giá của CBQLĐĐ về kỹ năng nghiệp vụ 62



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ix

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Số biểu đồ Tên biểu đồ Trang



4.1 Cơ cấu đất đai của huyện Việt Yên 29
4.2 Đánh giá về công tác lập bản đồ quy hoạch sử dụng đất 39
4.3 Mức độ hài lòng với công việc của CBQLĐĐ 60
















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước chúng ta đang trong thời kì phát triển mạnh về kinh tế, cho nên
nhu cầu của Nhà nước về đất đai là rất lớn cho các dự án đầu tư trong nước cũng

như cho các khu công nghiệp, khu kinh tế và khu công nghệ cao.
Đi cùng với quá trình đó là kế hoạch đât nông nghiệp đã thu hồi để xây
dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp phục vụ cho việc đưa những tiến bộ
của nhân loại vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động.
Huyện Việt Yên được tỉnh Bắc Giang chọn là địa bàn phát triển các khu
công nghiệp, dịch vụ tập trung của tỉnh, với tính chất như vậy nên cơ cấu đất đai
của huyện trong những năm qua có nhiều biến động. Diện tích đất nông nghiệp
ngày càng bị thu hẹp để nhường cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, nhiều hộ
nông dân không còn đất để canh tác. Đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội nói chung cũng như ngành nông nghiệp của huyện nói riêng, đất nông nghiệp
năm 2014 trên địa bàn huyện có 10.625,51 ha. Diện tích đất trồng lúa bị thu hồi,
chuyển mục đích sang đất phi nông nghiệp các năm 2011, 2012, 2013 là: 79,86
ha. Diện tích đất trồng lúa bị thu hồi, chuyển mục đích sang đất phi nông nghiệp,
năm 2014 (tính đến tháng 10 năm 2014) của huyện là 27,70 ha. Theo Quy hoạch
sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2011 - 2015) của
huyện Việt Yên đã được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt tại Quyết định số
147/QĐ-UBND ngày 26/4/2013. Trong giai đoạn 2011-2015, kế hoạch chuyển
mục đích từ đất trồng lúa chuyển sang phi nông nghiệp là 449,19 ha.
Diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi được chuyển mục đích sử dụng với
43 dự án, với tổng diện tích là 229.484,70 m
2
. Trong đó có các dự án trọng điểm
như: Dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 1A, đường dây 500 Kv, Cải tạo nâng cấp
đường vào chùa Bổ Đà Tuy nhiên quá trình triển khai lập và tổ chức thực hiện
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp đã thu hồi còn nhiều hạn chế bất
cập. Việc tổ chức thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất sau thu hồi được
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

phê duyệt còn thiếu đồng bộ, thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát dẫn đến tình trạng

“quy hoạch treo”. Công tác quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, còn một số hạn
chế; một số địa phương chưa chủ động xử lý những vướng mắc, phát sinh, giải
quyết kiến nghị, khiếu nại của các tổ chức làm cho việc bồi thường, giải phóng
mặt bằng chậm, ảnh hưởng đến đời sống và việc làm của người dân.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: ‘‘Quản lý Nhà
nước về đất nông nghiệp đã thu hồi trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc
Giang” để thấy được thực trạng công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp
đã thu hồi trên địa bàn huyện từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi trên địa bàn huyện Việt
Yên, tỉnh Bắc Giang.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Phân tích tình hình thực hiện công tác quản lý Nhà nước về đất nông
nghiệp đã thu hồi trên địa bàn huyện, từ đó đề xuất một số giải pháp để hoàn
thiện công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi tại huyện Việt
Yên, tỉnh Bắc Giang.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
(1) Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý Nhà nước
về đất nông nghiệp đã thu hồi;
(2) Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi
trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang;
(3) Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới công tác quản lý Nhà nước về đất
nông nghiệp đã thu hồi trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang;
(4) Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện công tác quản lý Nhà
nước về đất nông nghiệp đã thu hồi trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
(1) Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh
Bắc Giang như thế nào?
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3


(2) Công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi trên địa bàn
huyện gặp những điều kiện thuận lợi và khó khăn gì?
(3) Các yếu tố nào ảnh hưởng tới công tác quản lý Nhà nước về đất nông
nghiệp đã thu hồi trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang?
(4) Nhằm góp phần hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về đất nông
nghiệp đã thu hồi trên địa bàn huyện cần các giải pháp nào?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi trên địa bàn
huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung
Công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi trong một số
KCN và cụm CN trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Các giải pháp đề xuất về công tác quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp
đã thu hồi trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
- Phạm vi không gian
Đề tài được tiến hành trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Một
số nội dung chuyên sâu sẽ khảo sát đại diện một số xã có diện tích đất nông
nghiệp đã thu hồi. Các xã chọn: Hồng Thái, Quang Châu và Hoàng Ninh.
- Phạm vi về thời gian
Các dữ liệu phục vụ đánh giá tình hình thực hiện công tác quản lý Nhà
nước về đất nông nghiệp đã thu hồi được thu thập từ năm 2011-2014
Các dữ liệu phục vụ cho khảo sát ở các xã đại diện thu thập trong năm 2014.
Các giải pháp đề xuất đến năm 2020.






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái niệm về đất nông nghiệp, đất nông nghiệp đã thu hồi
Cho đến ngày nay, khi con người nhờ có KH-KT mà đời sống ngày một
cải thiện và chất lượng ngày một nâng cao nhưng cuộc sống con người vẫn
không thể tách rời khỏi ĐNN. Dọc theo quá trình phát triển ta có thể thấy mục
đích đầu tiên của con người đối với đất đai để sản xuất nông nghiệp; và bây giờ
có thêm rất nhiều ngành sản xuất mới ra đời, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương mại dịch vụ. Cho đến nay, con người vẫn không rời bỏ được nền
sản xuất nông nghiệp đã tồn tại từ rất lâu đời. Như vậy, một nguồn đất trong tổng
quỹ đất của loài người là phục vụ cho mục đích trồng trọt, chăn nuôi, nuôi
trồng quỹ đất đó được gọi là ĐNN.
“ĐNN là đất được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp như: Trồng
trọt, chăn nuôi, làm muối, nuôi trồng thuỷ sản hoặc sử dụng để nghiên cứu thí
nghiệm về nông nghiệp” (Luật đất đai năm 2003).
Đất đai khi được sử dụng vào mục đích nông nghiệp thì được gọi là ruộng
đất. Con người tác động vào ĐNN tạo ra của cải, vật chất cho đời sống. ĐNN -
ruộng đất là đối tượng lao động đồng thời là tư liệu lao động của con người. Lúc
đầu, con người canh tác chỉ để đáp ứng nhu cầu của bản thân, gia đình nền kinh
tế “tự cung tự cấp”. Xã hội phát triển quá trình chuyên môn hoá diễn ra, nông
phẩm không đơn giản chỉ để phục vụ cho bản thân người sản xuất nữa. Nông
phẩm là một mặt hàng quan trọng trên thị trường, mang lại nhiều lợi ích kinh tế
cho người sử dụng đất và cho toàn xã hội. Vì vậy, đất đai sử dụng vào sản xuất
nông nghiệp - ruộng đất chiếm vị thế đáng kể đối với sự phát triển của nền sản

xuất xã hội loài người (Chu Văn Thỉnh, 1999).
Đất nông nghiệp đã thu hồi là đất được Nhà nước ra quyết định thu hồi
nhằm chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp,
thương mại dịch vụ.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

2.1.2
Sự cần thiết của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi
Ở bất cứ quốc gia nào, đất đai là tài sản mà thiên nhiên ban tặng cho cả
cộng đồng dân cư, được chính người dân khai thác để hưởng lợi, sinh sống; đồng
thời cần được Nhà nước thống nhất quản lý theo chuẩn mực chung là pháp luật.
Mỗi chủ thể đều có phần quyền định đoạt, trong đó Nhà nước giữ quyền định
đoạt cao nhất. Đó là quan niệm cần có về chế độ sở hữu toàn dân mà ta đang kiên
trì (Chu Văn Thỉnh, 1999).
Như chúng ta đã biết bản chất của công tác quản lý nhà nước là sự tác
động một cách có tổ chức, hệ thống nhằm mục đích điều chỉnh các hành vi của
con người, tổ chức, cá nhân bằng quyền lực của nhà nước để hướng ý chí và
mục đích của họ theo mục đích chung của toàn xã hội.
Nhà nước tác động lên các đối tượng thông qua công việc thiết lập các
quan hệ xã hội, quan hệ giữa con người với con người, giữa các tập thể với nhau,
quan hệ giữa các cá nhân với tập thể các mối quan hệ tồn tại trong xã hội là rất
nhiều, tất cả các mối quan hệ đó đều cần phải được điều chỉnh để lợi ích của
người này không làm xâm phạm lợi ích của người khác, đảm bảo được lợi ích
của đất nước.
Trước hết nhà nước vừa là một cơ cấu có tổ chức bao gồm một hệ thống,
các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Những tác động của nhà nước lên các
đối tượng quản lý là các tác động có tổ chức chứ không phải tác động một cách
đơn lẻ đến một cá nhân, chủ thể đơn giản trong xã hội. Mà sự tác động đó đặt
trong hệ thống tổng hòa các mối quan hệ của xã hội bao hàm toàn bộ các cá

nhân, tổ chức, thành phần kinh tế. Tính tổ chức đó đặt ra vấn đề là làm sao hình
thành nên các tổ chức, bộ máy quản lý với cơ cấu và cơ chế hoạt động thích hợp.
Mặt khác, các tổ chức, bộ máy đó hoạt động như thế nào? Sự phối hợp hoạt
động. phân chia quyền hạn, trách nhiệm giữa các cá nhân, tổ chức như thế nào?
Để bộ máy nhà nước quản lý mang lại hiệu quả tối ưu, đạt được mục tiêu đã đề
ra. Đó là một vấn đề lớn đối với công tác tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước (Lê
Chi Bá và các cộng sự, 2010).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

Nhà nước còn tạo lập nên bộ máy sức mạnh về pháp luật, an ninh, bộ máy
áp chế để thực hiện công tác quản lý của mình đưa cá nhân, tổ chức vào đúng
quỹ đạo, hoạt động trong khuôn khổ phục vụ lợi ích cá nhân mà lợi ích đó không
gây ảnh hưởng xấu đến xã hội. Sự tồn tại của bộ máy áp chế trong cơ cấu các cơ
quan chức năng quản lý là một tất yếu khách quan, đó là điều kiện cần thiết để
thực hiện nhiệm vụ quản lý trong những trường hợp cần thiết.
Quản lý nhà nước còn được thể hiện ở quan hệ chủ thể và khách thể và đối
tượng quản lý. Chủ thể của sự quản lý nhà nước là bộ máy hành chính từ trung
ương đến địa phương, tỉnh, thành, phường, xã,…và toàn bộ các cán bộ công nhân
viên chức của nhà nước làm việc trong công tác quản lý Nhà nước Khách thể
quản lý là các công dân, tổ chức, các thành phần kinh tế, xã hội Đối tượng của
công tác quản lý nhà nước là các quá trình kinh tế, các hoạt động, các mối quan
hệ có liên quan. Riêng trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai chủ thể quản
lý nhà nước về đất đai (cụ thể ở đây là đất nông nghiệp) thì nhà nước đóng vai trò
là chủ thể quản lý, khách thể của sự quản lý là các cá nhận, tổ chức, doanh nhân,
doanh nghiệp sử dụng đất nông nghiệp, có liên quan đến đất nông nghiệp Và
đối tượng của công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp là những mối quan
hệ phát sinh, những vướng mắc, vấn đề có liên quan đến đất nông nghiệp xảy ra
trong xã hội.
Cụ thể trong công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi,

Nhà nước có các vai trò và nhiệm vụ quan trọng sau:
- Nhà nước quản lý toàn bộ quỹ đất đai (đất nông nghiệp đã thu hồi) trên
phạm vi cả nước. Như đã nói ở trên nhà nước là người đại diện chủ sở hữu đất
nông nghiệp đã thu hồi của cả nước. Đồng thời nhà nước là chủ thể quản lý của
công tác quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã thu hồi, chính vì vậy nhà nước
phải thống nhất quản lý đất đai (đất nông nghiệp đã thu hồi) trên phạm vi cả
nước. Mục đích của việc này là mang lại lợi ích chung cho xã hội đảm bảo sử
dụng đất (đất nông nghiệp đã thu hồi) hợp lý và hiệu quả cao nhất, có tầm nhìn
xa vì mục đích chung của cộng đồng. Song song với nó Nhà nước luôn có các
chế tài để đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm của mình và của người sử dụng đất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7

nông nghiệp đã thu hồi nói riêng và đất đai nói chung. Người sử dụng đất nông
nghiệp đã thu hồi phải tuân thủ các quy định đã đặt.
Nếu không chấp hành các quy định đó thì người sử dụng đất đã vi phạm
pháp luật có thể bị phạt, thu hồi đất, tịch thu tài sản Nhà nước thực hiện công
tác quản lý qua những nhiệm vụ sau:
- Nhà nước thông qua quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế
để định hướng cho quá trình sử dụng đất. Nhà nước là người có các quyền tuyệt
đối với đất đai: định đoạt, chiếm hữu Do đó, nhà nước có quyền quyết định mục
đích sử dụng, thời gian sử dụng của đất đai (đất nông nghiệp đã thu hồi). Trước
hết nhà nước xác định tính chất, hiện trạng, đặc tính của đất đai (đất nông nghiệp
đã thu hồi) từ đó xác định được mục đích sử dụng của các loại đất ở từng vùng,
địa phương, nhu cầu sử dụng đất của các ngành, các lĩnh vực sao cho phù hợp.
Qua quy hoạch kế hoách sử dụng đất đã đước thông qua nhà nước đã điều tiết các
quỹ đất trong nền kinh tế, nhà nước quyết định mục đích sử dụng đất của vùng,
địa phương Người sử dụng đất tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước
đã được thông qua. Mô hình chung mục đích sử dụng, cơ cấu sử dụng, diện tích
của các loại đất phân bổ được thực hiện bởi người dân nhưng người xác định là

Nhà nước. Do đó, nhà nước có được chiến lược phát triển lâu dài, bền vững cho
đất nước (Nguyễn Khắc Thái Sơn, 2007).
- Công tác kiểm kê, đánh giá phân hạng đất nông nghiệp là một việc làm
không thể thiếu được của công tác quản lý nhà nước về đất đai (đất nông nghiệp
đã thu hồi). Hàng năm nhà nước phải nắm bắt được cụ thể diện tích, chất lượng,
mục đích sử dụng, tình trạng sử dụng của các loại đất nói chung và của đất nông
nghiệp đã thu hồi nói riêng, có như thế mới có thể tạo lập được quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất nông nghiệp đã thu hồi phù hợp, lâu dài, tính dự báo cáo Để
có được điều đó đòi hỏi công tác kiểm kê đánh giá phân hạng đất nông nghiệp
phải được thực hiện triệt để, theo đúng luật, đúng kế hoạch đề ra. Công tác này
không những giúp cho công tác lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
(đất nông nghiệp đã thu hồi) mà nó còn đóng góp rất lớn cho công tác quản lý tài
chính về đất nông nghiệp đã thu hồi của nhà nước ta. Tạo một nguồn thu quan
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

trọng cho ngân sách, phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước về đất nông nghiệp
đã thu hồi. Nhà nước tính thuế đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất,
tiền đền bù dựa trên khung giá đất nông nghiệp, đất nông nghiệp được chia ra
nhiều loại mỗi loại có một khung giá khác nhau. Để phân chia được đất nông
nghiệp thì công tác đầu tiên là phân hạng, đo đạc, đánh giá đất. Qua đây ta có thể
thấy vai trò lớn của công tác đo đạc, phân hạng, đánh giá đất đai (Nguyễn Khắc
Thái Sơn, 2007).
-Đất đai là tài sản quý giá của bất kỳ một quốc gia nào. Giá trị của đất đai
ngày càng lớn trên thị trường cạnh tranh, mối quan hệ đất đai ngày càng phức tạp
hơn. Con người đã nhìn nhận thấy được tính quan trọng của đất đai đối với đời
sống của mình. Chính vì vậy, các tranh chấp, mâu thuận, khiếu kiện trong các
quan hệ đất đai thường nổ ra mạnh mẽ. Trong công tác quản lý nhà nước về đất
nông nghiệp đã thu hồi, cán bộ, công nhân viên chức có thể lợi dụng quyền hạn
và trách nhiệm, công cụ nhà nước để vụ lợi cho cá nhân, lợi ích của người này

làm xâm hại quyền lợi, lợi ích của người khác. Chế tài Nhà nước ban hành ra để
điều chỉnh, tác động vào mối quan hệ đất nông nghiệp, đảm bảo công bằng. Công
tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện, xử lý vi phạm trong lĩnh vực đất nông nghiệp
đã thu hồi là rất cần thiết để phát hiện, xử lý sớm các vi phạm (Nguyễn Khắc
Thái Sơn, 2007).
Trong xã hội nước ta, một thời đất đai được xem như “vô giá” đơn giản là
vì đất đai không được mua bán trên thị trường. Ngày nay, đất đai là một tài sản
có giá trị lớn, được phép mua đi bán lại. Những mâu thuận trong mua bán, cạnh
tranh, đất đai nổ ra thường xuyên. Ngoài ra còn có nhiều loại hình khác như: thế
chấp đất đai, cho thuê đất đai, Nhiều mối quan hệ nảy sinh nhiều vấn đề phát
sinh càn phải điều chỉnh. Để giảm thiểu những tác tại có thể, công tác thanh tra,
kiểm tra phải đặt lên hàng đầu.
2.1.3 Nội dung nghiên cứu công tác Quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã
thu hồi
Theo luật đất đai 2013 nội dung của công tác QLNN về đất đai nói chung
gồm có 13 nội dung. Tuy nhiên, đối với ĐNN đã thu hồi là một bộ phận của tổng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9

quỹ đất đai, nó mang những đặc thù riêng biệt, chính vì vậy mà nội dung của
công tác quản lý của Nhà nước về ĐNN đã thu hồi cũng có nhiều khác biệt. Công
tác QLNN về ĐNN đã thu hồi có thể khái quát ở các nội dung sau:
2.1.3.1 Ban hành văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp đã thu
hồi và tổ chức thực hiện văn bản
Để đảm bảo được vai trò quản lý của mình, bất kỳ một Nhà nước nào
cũng thực thi một chế tài phù hợp. Những chế tài này là tiền đề, hành lang cho
lĩnh vực áp dụng. Không có một quốc gia nào có thể có được hiệu quản quản lý
mà không cần đến chế tài. Ngay cả ở nước ta, hệ thống văn bản điều chỉnh các
mối quan hệ đất đai nói chung và ĐNN nói riêng rất đa dạng. Đó là những công
cụ để Nhà nước thực hiện được quyền quản lý của mình.

2.1.3.2 Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp, lập bản đồ hiện
trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp đã thu hồi
Đất nông nghiệp có nhiều loại, tính chất, vùng miền khác nhau chúng
được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau Để có một cơ chế quản lý phù hợp,
có được định hướng, quy hoạch và kế hoạch phù hợp với địa phương, tỉnh, thành
phố, cả nước. Việc đầu tiên bắt buộc Nhà nước phải nắm được các thông tin về
đất nông nghiệp như: Diện tích, loại đất tình hình sử dụng, phân bố, mục đích sử
dụng, Những thông tin này sẽ đóng góp rất lớn cho công tác QLNN về đất đai
nói chung và ĐNN đã thu hồi nói riêng
Đối với ĐNN đã thu hồi, để quản lý được ĐNN đã thu hồi một cách có hệ
thống Nhà nước cũng cần những thông tin về ĐNN đã thu hồi: diện tích, tình
trạng sử dụng, mục đích sử dụng (trồng cây ngắn ngày, dài ngày ). Từ những
thông tin về ĐNN người quản lý có được kế hoạch sử dụng hợp lý và cho ra
những quyết định sử dụng đứng đắn, phải thu thập tiếp những thông tin về ĐNN
để biết được tình hình ĐNN đang diễn biến như thế nào từ đó có những điều
chỉnh, sửa đổi kế hoạch, quy hoạch, pháp luật đất đai Chính vì vậy, Nhà nước
phải tiến hành khảo sát đo đạc đánh giá, phân hạng ĐNN, lập bản đồ hiện trạng
và bản đồ quy hoạch sử dụng ĐNN.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

2.1.3.3 Lập, quản lý và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp
đã thu hồi
Bất kể quốc gia nào cũng cần có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói
chung và ĐNN nói riêng. Đứng trên cương vị là cơ quan QLNN về đất đai nói
chung và ĐNN nói riêng. Nhà nước là người tiến hành lập quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất cho các vùng, lãnh thổ, ngành. Xét trên phạm vi quy hoạch thì quy
hoạch, kế hoạch sử dụng ĐNN có thể được lập cho một huyện, thành phố, vùng,
cả nước. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được quy định rất rõ và cụ
thể trong luật Đất đai 2003 từ Điều 21 đến Điều 30.

Kế hoạch sử dụng ĐNN được lập theo kỳ kế hoạch, và phải dựa trên
QHSDĐ đã được ban hành, phù hợp với sự phát triển khoa học công nghệ. Trong
quá trình thực hiện kế hoạch sử dụng đất nếu cần phải đánh giá và điều chỉnh cho
phù hợp với phương hướng phát triển KT-XH của địa phương thì phải tiến hành
chỉnh sửa sao cho phù hợp.
2.1.3.4 Công tác chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã thu hồi
Khi sử dụng ĐNN người sử dụng ĐNN được quyền chuyển đổi mục đích
sử dụng đất khi thấy cần thiết, Nhà nước quy định ở trong luật Đất đai năm 2003.
Đây là một biện pháp QLNN về đất nông nghiệp, tạo điều kiện cho người sử
dụng ĐNN có điều kiện linh hoạt trong cách sử dụng, nâng cao hiệu quả của đất
nông nghiệp, đồng thời, Nhà nước cũng phải nắm được những biến động của
ĐNN, nắm bắt được tình hình đất nông nghiệp trong cả nước, chính vì vậy công
tác QLNN về ĐNN sẽ thuận lợi, hiệu quả hơn rất nhiều.
2.1.3.5 Công tác đăng ký và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông
nghiệp đã thu hồi
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý xác nhận mối
quan hệ giữa người sử dụng đất và Nhà nước, công nhận quyền sử dụng hợp
pháp của người sử dụng đất, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng đất hợp pháp”.
Các cá nhân tổ chức, hộ gia đình sử dụng đất hợp pháp được Nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối với ĐNN người dân làm hồ sơ đăng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

ký với cơ quan Nhà nước có chức năng có thẩm quyền, người được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất được phép toàn quyền sử dụng đất, trên mặt pháp
lý họ là người chủ duy nhất được thừa nhận quyền sở hữu và được trao, bảo vệ
những quyền, lợi ích chính đáng bởi pháp luật Nhà nước.
Nói chung những quy định về việc đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng ĐNN được quy định rất chi tiết và đầy đủ trong luật Đất đai năm 2003.

Việc đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ĐNN là một công tác được
Nhà nước ta chú ý và được triển khai khá sớm ở nước ta, kết quả mang lại đã
được công nhận.
2.1.3.6 Quản lý tài chính đối với đất nông nghiệp đã thu hồi
Công cụ tài chính là một trong những biện pháp của Nhà nước ban hành ra
nhằm phân phối lại lợi ích của các bên thân gia trong các mối quan hệ liên quan
đến đất nông nghiệp. Việc thực thi công cụ tài chính trong quản lý sử dụng ĐNN
phải đảm bảo được các yêu cầu mà Nhà nước đặt ra để phục vụ cho công tác
quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Việc thu tài chính đất đai nói chung và ĐNN đã thu hồi nói riêng phải tuân
theo quy định của pháp luật. Việc thu tiền sử dụng đất phải căn cứ vào diện tích,
thời hạn sử dụng đất, khung giá đất tương ứng, tuân theo các văn bản hướng dẫn
như: thông tư 117/2004/TT-BTC (ngày 07/12/2004), nghị định 198/2004/NĐ-
CP. Nghị định 74/NĐ-CP ngày 25/10/1993 quy định chi tiết thi hành luật thuế sử
dụng ĐNN.
2.1.3.7 Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của người dân sử
dụng đất nông nghiệp và của cơ quan Quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đã
thu hồi
Thanh tra việc QLNN về đất nông nghiệp của UBND các cấp, Thanh tra
việc chấp hành pháp luật về đất nông nghiệp của người dân, tổ chức, cá nhân.
Việc thanh tra đất đai đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm,
nghiệp vụ và lực lượng thanh tra đủ lớn, Mục đích của công tác thanh tra là
mang lại những thông tin nhanh và chính xác về tình hình sử dụng đất đai phát
hiện sớm những trường hợp vi phạm để xử lý kịp thời, Mặt khác thanh tra đội
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

ngũ thực hiện công tác QLNN để phát hiện hành vi gian lận, tham ô, thanh lọc bộ
máy, hạn chế, triệt tiêu hành động có hại cho lợi ích xã hội, tư lợi cá nhân.
2.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về đất đã thu hồi

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về đât nông nghiệp đã
thu hồi. Trong nghiên cứu này, có một số nhân tố chủ yếu sau:
- Công tác quy hoạch, thu hồi, đền bù và giải phóng mặt bằng của
chính quyền địa phương
Khi tiến hành quy hoạch KCN, nếu có sự tham gia đóng góp của người
dân địa phương thì sẽ phù hợp với tình hình thực tế của địa phương hơn vì hơn ai
hết, người dân địa phương sẽ là người nắm rõ tường tận mọi vấn đề tốt, xấu trên
địa phương của họ, đặc biệt là trên những mảnh đất họ đang sản xuất. Vì vậy,
khâu lập quy hoạch khu công nghiệp càng có nhiều người dân địa phương tham
gia thì sẽ hạn chế được nhiều hơn những điều không tốt xảy đến, nói cách khác
sẽ hạn chế được rủi ro cho họ (Chu Văn Thỉnh, 1999)

Khâu thu hồi, đền bù và giải phóng mặt bằng cũng là nhân tố làm ảnh
hưởng tới rủi ro của hộ nông dân bị thu hồi đất. Bởi vì: hình thức đền bù đất như
thế nào? Quá trình đền bù được tiến hành ra sao? Nhanh hay chậm? một lần hay
nhiều lần? đều ảnh hưởng tới việc sử dụng tiền đền bù của hộ và như thế sẽ ảnh
hưởng tới rủi ro sử dụng tiền của hộ và ảnh hưởng tới việc làm của hộ.
Quá trình giải phóng mặt bằng tiến hành nhanh hay chậm? sẽ ảnh hưởng
nhiều tới việc làm của lao động của hộ mất đất, vì: quá trình giải phóng mặt bằng
diễn ra nhanh chóng, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp sẽ sớm có đất để tiến
hành xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
sẽ sớm đi vào hoạt động. Điều này, đồng nghĩa với việc lao động của hộ sẽ sớm
được vào các doanh nghiệp làm, giảm thời gian phải chờ đợi doanh nghiệp từ đó
giảm được rủi ro về việc làm do phải chờ đợi doanh nghiệp (Chu Văn Thỉnh, 1999)
-
Công tác thẩm định, giám sát hoạt động quản lý đất đai của chính
quyền địa phương
Trước khi đồng ý cho doanh nghiệp vào KCN hoạt động, chính quyền địa
phương sẽ tiến hành thẩm định tính khả thi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 13

doanh nghiệp. Khâu thẩm định nếu tốt sẽ lựa chọn được đúng vị trí phát triển KCN
phù hợp, hạn chế tình trạng mất đất nông nghiệp tràn lan. Nếu khâu thẩm định chưa
tốt, sẽ có ảnh hưởng ngược lại, làm tăng rủi ro cho lao động của hộ. Sau khi thẩm
định, khâu giám sát hoạt động đền bù, giải phóng mặt bằng có vai trò rất lớn trong
việc phát hiện các khâu sai phạm trong quản lý đất đai, từ đó có những can thiệp kịp
thời nhằm hạn chế tình trạng kiện cáo kéo dài (Nguyễn Khắc Thái Sơn, 2007).
-
Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong quản lý đất đai
Nhìn chung, trong những năm qua, hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý sử
dụng đất đai đã có những chuyển biến tích cực. Cơ chế, chính sách về quản lý sử
dụng đất ngày càng hoàn thiện và chặt chẽ hơn. Tuy vậy, vẫn còn nhiều những vi
phạm về quản lý sử dụng đất đai. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên là do các
cơ quan chuyên môn thực hiện việc giải quyết hồ sơ, thủ tục về đất đai chậm so
với thời gian quy định, gây lãng phí về thời gian, về kinh tế cũng như cơ hội đầu
tư cho các doanh nghiệp. Thủ tục giao đất chưa đúng quy định như thiếu ký hiệu
thửa đất, thiếu biên bản bàn giao mốc giới, chậm cập nhật ngày biến động địa
giới hành chính, chưa điều chỉnh kịp thời hệ thống bản đồ địa chính. Tỷ lệ cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các quận, huyện phần lớn còn chậm, gây
không ít khó khăn cho công tác quản lý và giải quyết những vấn đề phát sinh của
người dân trong quá trình sử dụng đất (Chu Văn Thỉnh, 1999).
Do đó, việc thanh tra, kiểm tra, giám sát là một hoạt động rất quan trọng
và cần thiết trong việc quản lý đất đai.Trên cơ sở thanh tra, kiểm tra, những sai
phạm đã được phát hiện cũng như chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới
những sai phạm trên, ngành thanh tra đã đưa ra những kiến nghị nhằm chấn
chỉnh, xử lý kịp thời, nghiêm minh để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác
quản lý nhà nước về đất đai.
-
Các công tác tuyên truyền ở địa phương

Các hoạt động tuyên truyền ở địa phương, đặc biệt là công tác tuyên
truyền về quy hoạch, giải phóng mặt bằng, giá đền bù… có ảnh hưởng lớn tới
nhận thức của người dân trong hoạt động quản lý đất đai. Nếu các công tác đó tốt
sẽ góp phần ổn định tình hình, phản ánh kịp thời các tâm tư nguyện vọng của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

người dân với chính quyền địa phương. Nếu công tác tuyên truyền mà chưa tốt sẽ
có ảnh hưởng ngược lại (Nguyễn Khắc Thái Sơn, 2007).
-
Cán bộ quản lý nhà nước: Trình độ cán bộ, chất lượng cán bộ quản lý
đất nông nghiệp. Mỗi chế độ chính trị được thiết lập thì có một số bộ máy quản
lý khác nhau. Cơ cấu tổ chức, phân công chức năng, quyền hạn của bộ máy quản
lý đó cũng khác nhau, phù hợp với từng điều kiện cụ thể.
Năng lực và kết quả hoạt động quản lý đất nông nghiệp đã thu hồi phụ
thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của đội ngũ
CBQLĐĐ. Để đánh giá năng lực CBQLĐĐ đã thu hồi, xem xét về trình độ kỹ
năng nghiệp vụ của chính bản thân CBQLĐĐ trên các khía cạnh như: i) Nắm hệ
thống pháp luật đất nông nghiệp và pháp luật khác có liên quan đến quản lý, sử
dụng đất; ii) Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; iii) Giao đất, cho thuê đất, thu hồi
đất và bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư; iv) Đăng ký đất nông nghiệp,
lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận; v) Kiểm kê và thống kê đất nông
nghiệp; vi) Công tác giải quyết tranh chấp đất nông nghiệp, thanh tra, kiểm tra và
giải quyết khiếu nại tố cáo (Nguyễn Khắc Thái Sơn, 2007).

2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm của một số nước về quản lý Nhà nước về đất nông nghiệp
đã thu hồi
- Kinh nghiệm ở Singapore
Singapore là một quốc đảo bao gồm một đảo chính và 63 đảo nhỏ xung

quanh, với diện tích chỉ gần 700 km
2
. Thời kỳ mới giành được độc lập (năm
1965), đô thị Singapore còn hết sức ngổn ngang, quá trình đô thị hóa cũng phát
sinh nhiều “căn bệnh đô thị” như dân số tăng nhanh, tắc nghẽn giao thông, ngập
nước, thiếu nhà ở… Nhưng chỉ sau hơn 30 năm thực hiện đô thị hóa, đất nước
này đã trở thành một trong những đô thị hiện đại bậc nhất thế giới. Một trong
những yếu tố góp phần vào thành tựu vượt bậc ấy của Singapore là công tác quản
lý và quy hoạch đất đai (Lê Chi Bá và các cộng sự, 2010).
Ở Singapore không có tình trạng quy hoạch "treo".
Các bước tiến hành quy hoạch của Singapore gồm 3 bước:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

- Quy hoạch chiến lược (còn gọi là quy hoạch ý niệm): Các ý tưởng quy
hoạch giai đoạn này tính toán cho dài hạn tới 30- 40 năm sau. Năm 1971,
Singapore hoàn thành bản quy hoạch chiến lược đầu tiên, sau 10 năm được hiệu
chỉnh, xét duyệt một lần. Nội dung quy hoạch giai đoạn này dựa trên các ý tưởng
về cơ cấu kinh tế, phân vùng và bố trí cơ cấu sử dụng đất hợp lý, ưu tiên đất đai
cho phát triển kinh tế, hình thành các trục giao thông chủ đạo, các khu công
nghiệp, cảng biển, sân bay, các khu chung cư cho nhân dân và đề ra các chương
trình hành động cho từng giai đoạn.
- Quy hoạch tổng thể: Căn cứ vào quy hoạch chiến lược, các ý tưởng quy
hoạch giai đoạn này tính toán cho 10-15 năm sau. Nội dung quy hoạch giai đoạn
này quy định chi tiết từng ô phố, từng khu đất bao gồm diện tích, mật độ xây
dựng, mục đích sử dụng đất… và công khai cho mọi người biết để thu hút đầu tư
và hướng dẫn người dân thực hiện theo quy hoạch
- Quy hoạch triển khai chi tiết: Giai đoạn này do các chủ đầu tư dự án trên
các khu đất được giao quản lý thực hiện. Căn cứ vào quy hoạch tổng thể và yêu
cầu sử dụng đất, chủ đầu tư phối hợp với các tổ chức tư vấn quy hoạch chi tiết trình

các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt về những thông số kỹ thuật cơ bản như mật độ
xây dựng, chiều cao, lộ giới, kích thước cơ bản của công trình, khoảng cách giữa các
tòa nhà, cảnh quan cây xanh… trước khi tiến hành xây dựng.
Đất đai ở Singapore hầu hết do Nhà nước quản lý. Các dự án phần lớn đều
được Chính phủ cho thuê đất có thời hạn từ 50-90 năm. Việc giải toả, thu hồi đất do
Nhà nước thực hiện và được áp dụng các hình thức chủ yếu như giải toả tự nguyện
và giải toả bắt buộc, giá cả đền bù tương đương theo giá thị trường do các công ty
định giá, trường hợp không thoả thuận được thì toà án xử lý. Ngoài ra, còn có hình
thức Nhà nước thoả thuận mua lại đất của người dân theo giá thị trường, hoặc thực
hiện đền bù bổ sung không chính thức nhằm bù đắp những giá trị khác chưa được
tính toán để thực hiện các dự án theo quy hoạch ( Nguyễn Kim Sơn, 2000).
- Ở Đức, điển hình là thành phố Berlin, hệ thống quy hoạch sử dụng đất đã
được xây dựng từ rất sớm. Chỉ vài năm sau khi có sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ
đất nước, năm 1994, hệ thống quy hoạch sử dụng đất được xây dựng với bản đồ tỉ lệ

×