Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường Dịch Vọng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.39 KB, 104 trang )

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
ANCT An ninh chính trị
ANQG An ninh quốc gia
ANTT An ninh trật tự
BCA Bộ Công an
CATP Công an thành phố
CSND Cảnh sát nhân dân
MTTQ Mặt trận Tổ Quốc
PCCC Phòng cháy chữa cháy
QĐ Quyết định
QLNN Quản lý nhà nước
TTATGT Trật tự an toàn giao thông
TTATXH Trật tự an toàn xã hội
TTCC Trật tự công cộng
TTĐT Trật tự đô thị
TTGT Trật tự giao thông
TTXH Trật tự xã hội
UBND Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giữ vững An ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định của đất nước, đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch
và các loại tội phạm khác; giữ gìn Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc
những thành quả cách mạng, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới là một nhiệm
vụ trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [14, Tr 86-87].
Do vậy, Quản lý Nhà nước về An ninh quốc gia và Trật tự an toàn xã
hội là một hoạt động quan trọng, luôn luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm
đặc biệt. Chúng ta biết rằng, lực lượng Công an nhân dân là lực lượng nòng
cốt giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc Quản lý Nhà nước về Trật tự an
toàn xã hội. Thực tế những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo
về nghiệp vụ của Công an các cấp, cán bộ, chiến sĩ công an phường Dịch


Vọng đã làm tốt công tác quản lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn phường: tình hình an ninh chính trị được giữ vững , trật tự an toàn xã hội
luôn luôn được đảm bảo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được,
công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn còn có những thiếu sót, bộc lộ
những bất cập đã làm hạn chế chất lượng cũng như hiệu quả của công tác
quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội tại phường: công tác giữ gìn an
ninh trật tự chưa được thực hiện thường xuyên, sự quản lý về trật tự an toàn
xã hội chưa đạt được sự thống nhất, đồng thuận thực sự giữa các bộ phận,
ban, ngành liên quan, nên có những trường hợp vi phạm pháp luật không
được xử lý nghiêm túc, làm mất lòng tin của dân. Có những đồng chí nhận
thức về công tác này chưa đầy đủ, chưa đúng tầm , nên khi thực hiện các biện
pháp công tác còn đơn thuần, mang nặng tính chất hành chính, do đó công tác
xử lý chưa kiên quyết, triệt để, công minh với những trường hợp vi phạm
pháp luật trên địa bàn của phường. Mặt khác, Công an Phường cũng chưa huy
2
động được đông đảo và phát huy tối đa vai trò của quần chúng nhân dân trong
phường tham gia công tác đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn Trật tự an toàn
xã hội, mối quan hệ phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan đến trật
tự an ninh chưa được tiến hành một cách đồng bộ nên đã làm hạn chế hiệu
quả, hiệu lực Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội tại địa bàn phường
Dịch Vọng.
Với những đặc điểm chung của đất nước, tình hình cụ thể tại phường
Dịch Vọng, đề tài được tiến hành nghiên cứu, nhằm tổng kết, khắc phục
những khuyết điểm, phát huy những ưu điểm, tìm ra những giải pháp, đóng
góp kinh nghiệm để tăng cường công tác quản lý, giữ gìn TTATXH của cán
bộ chiến sĩ công an phường Dịch Vọng. Với lý do đó, tác giả chọn đề tài
“Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường Dịch
Vọng hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, lý luận Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội đã

được đề cập đến nhiều trong các giáo trình dành cho chuyên ngành pháp luật
như: Quản lý nhà nước về an ninh trật tự ( Chủ biên: Trần Viết Long và tập
thể tác giả Học Viện Cảnh Sát Nhân Dân, Hà Nội - 2007); Một số vấn đề lí
luận cơ bản quản lý nhà nước về An ninh trật tự (Lê Ngọc Thanh – Đại Học
Cảnh Sát Nhân dân, Hà Nội - 1996); Một số lí luận cơ bản về hoạt động
nghiệp vụ của lực lượng cảnh sát quản lý hành chính (Chủ biên: TS Vũ Văn
Hiền – Học Viện Cảnh Sát Nhân dân, Hà Nội - 2003); Kỹ năng giao tiếp của
cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (Chủ biên: PGS. TS Đinh Trọng
Hoàn – NXB Công An Nhân Dân - 2009); Cảnh sát quản lý hành chính về
trật tự xã hội (Chỉ đạo biên soạn: Đại tá Phạm Văn Đức – NXB Công An
Nhân dân, Hà Nội – 1998) Ngoài ra, cũng có không ít bài viết của các tác giả
trong và ngoài ngành đã đề cập đến vấn đề này. Những công trình trên chính
3
là cơ sở lý luận để tác giả kế thừa trong quá trình thực hiện nội dung của luận
văn này.
Trong phạm vi các khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ và luận án
tiến sĩ trước đây, cũng đã có nhiều nghiên cứu của các tác giả khác nhau liên
quan đến Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, có thể nói
rằng, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có
hệ thống về đề tài “Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn phường Dịch Vọng hiện nay”. Có thể nói, luận văn này là công trình
đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá đúng những ưu điểm và
hạn chế của công tác QLNN về TTATXH trên địa bàn phường Dịch Vọng
cùng với những nguyên nhân của thành công và hạn chế, luận văn xác định
phương hướng và đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác Quản lý
Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường, góp phần vào việc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giữ vững an ninh, trật tự tại địa phương.

3.2 Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như: khái niệm, đặc
điểm, nguyên tắc, nội dung Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội
Phân tích đánh giá đúng thực trạng công tác Quản lý Nhà nước về Trật
tự an toàn xã hội tại phường Dịch Vọng. Rút ra những ưu diểm, khuyết điểm,
xác định rõ nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế, thiếu xót đang đặt ra
đối với công tác này trên địa bàn phường Dịch Vọng.
4
Qua việc phân tích thực trạng, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm
tăng cường công tác Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
phường Dịch Vọng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động Quản lý Nhà nước của cán bộ,
chiến sĩ Công an phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội
nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu công tác Quản lý Nhà nước trên lĩnh
vực đảm bảo, giữ gìn Trật tự an toàn xã hội của lực lượng công an nhân dân
trên địa bàn phường Dịch Vọng trong thời gian từ 2006 đến nay.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương đường lối và quan điểm của Đảng và Nhà nước về trật tự an
toàn xã hội và công tác quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu được dựng để nghiên cứu cỏc công
trình khoa học đã được công bố, sách, giáo trình liên quan đến Quản lý Nhà
nước về Trật tự an toàn xã hội. Thu thập những tài liệu, báo cáo tổng kết và

khảo sát thực tế về tình hình trật tự an toàn xã hội và công tác quản lý Nhà
nước trên lĩnh vực này tại địa bàn phường Dịch Vọng.
Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử dụng để đánh giá,
nhận xét về những ưu điểm và hạn chế của công tác quản lý trật tự an toàn xã
hội của cán bộ, chiến sĩ công an phường Dịch Vọng.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của để tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn làm phong phú hơn những lý luận liên quan quản lý nhà nước
về Trật tự an toàn xã hội, từ đó giúp cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng
Công an nhân dân rút ra nhận thức chung về vấn đề này để từng bước nâng
cao hiệu quả công tác Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp cho cán bộ công an phường nói
chung và công an phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội nói riêng
rút ra được những kinh nghiệm trong khi thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn
phường mình quản lý, trên cơ sở đó có những giải pháp phù hợp để tăng
cường công tác QLNN về TTATXH ở địa phương. Đồng thời đây cũng là tài
liệu tham khảo hữu ích cho những người nghiên cứu về lĩnh vực này.
Ngòai ra, việc nghiên cứu đề tài giúp tác giả củng cố thêm hệ thống
nghiệp vụ lý luận Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội, nâng cao trình
độ lý luận và khả năng ứng dụng vào thực tiễn công tác, đáp ứng được yêu
cầu và đòi hỏi của xã hội trong thời kỳ mới.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo,
phần nội dung được kết cấu thành 3 chương và 7 tiết.
6
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN PHƯỜNG

1.1. Khái niệm và mục đích Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội
1.1.1. Khái niệm Trật tự an toàn xã hội
Trong một số tài liệu, từ điển, bài viết , thuật ngữ Trật tự an toàn xã hội
được hiểu một cách phổ biến nghĩa là chỉ sự hoạt động ổn định hài hòa của
các thành phần xã hội trong cơ cấu xã hội; trật tự xã hội nhằm duy trì sự phát
triển xã hội và cơ chế bảo đảm tính trật tự xã hội là các thiết chế xã hội. Trật
tự xã hội biểu hiện tính tổ chức của đời sống xã hội, tính chuẩn mực của các
hành động xã hội. Nhờ trật tự xã hội mà hệ thống xã hội đạt được sự ổn định,
cho phép nó hoạt động một cách có hiệu quả dưới sự tác động của các yếu tố
bên trong và bên ngoài. Cũng có tác giả tách thuật ngữ Trật tự an toàn thành
hai vấn đề riêng biệt là trật tự và an toàn để định nghĩa. Chẳng hạn: “Trật tự là
tình trạng ổn định, có thứ bậc trên dưới, trước sau An toàn là yên ổn trọn
vẹn, yên ổn hẳn, không sợ tai nạn.” (Nguyễn Lân: Từ điển Từ và Ngữ Hán -
Việt. Nxb Văn học. Hà Nội 2003, Tr 16, 704). Trật tự công cộng ( xã hội) còn
được hiểu là:
Trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy
tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công cộng mà mọi người phải tuân theo.
Trật tự công cộng là một mặt của Trật tự an toàn xã hội và có nội dung bao
gồm những quy định chung về trật tự, vệ sinh, văn hóa; sự tuân thủ những
quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa
nhận; tình trạng yên ổn, có trật tự, tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh
hoạt, nghỉ ngơi của mọi người [3, Tr 1183].
7
Như vậy, nói đến trật tự, an toàn xã hội là nói đến tình trạng (trạng thái)
ổn định , có trật tự, kỷ cương của xã hội. Trật tự, kỷ cương đó được xác lập
trên cơ sở các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành (được gọi là những
quy phạm pháp luật) và những giá trị xã hội, chuẩn mực đạo đức truyền thống
được mọi người trong xã hội thừa nhận, tôn trọng, tuân thủ và nhờ đó mà mọi
người có được cuộc sống yên ổn. Nói cách khác: Trật tự an toàn xã hội là
trạng thái xã hội có trật tự, kỷ cương, trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn

trên cơ sở các quy phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định.
Công tác đảm bảo Trật tự an toàn xã hội là giữ gìn trạng thái bình yên, an
toàn, có trật tư, kỷ cương của xã hội, là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu
tranh chống tội phạm, tệ nạn và các hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng
đến trạng thái đó.
Dưới góc độ đảm bảo an ninh, trật tự, khái niệm Trật tự, an toàn xã hội
được định nghĩa như sau:
Là trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi người được sống yên ổn trên
cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác
định. Đấu tranh giữ gìn Trật tự an toàn xã hội bao gồm: giữ gìn trật tự nơi
công cộng; đảm bảo trật tự an toàn giao thông; phòng ngừa tai nạn; bài trừ tệ
nạn xã hội; bảo vệ môi trường Bảo vệ Trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt và có
chức năng tham mưu, hướng dẫn và trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội
phạm, giữ gìn trật tự công cộng, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, tham gia
phòng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường [3, Tr 1182].
Dự đứng ở góc độ nghiên cứu nào, chúng ta cũng thấy có sự thống nhất
trong đánh giá về nội hàm của khái niệm Trật tự an toàn xã hội, điều đó được
thể hiện trên những dấu hiệu căn bản sau:
- Đó là một trạng thái trật tự, nề nếp, kỷ cương, bình yên của xã hội.
8
- Trạng thái này chỉ đạt tới độ vững chắc khi được thiết lập trên cơ sở sự
tự giác tuân thủ quy phạm pháp luật, đạo đức của mọi người trong xã hội
- Là kết quả tổng hợp của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm, tệ nạn xã hội; công tác quản lý, bảo vệ, gìn giữ trật tự, an toàn trên
nhiều llĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
- Công tác bảo đảm Trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân, trong đó lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt.
1.1.2. Khái niệm Quản lý nhà nước
Quản lý là một hoạt động có từ lâu đời trong xã hội. Nói đến hoạt động

quản lý trong xã hội là trực tiếp đề cập đến sự tác động, chỉ huy, điểu khiển
các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phát triển phù hợp
với quy luật, đạt tới mục đích đề ra và đúng với ý chí của chủ thể quản lý.
Như vậy, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý
đối với đối tượng quản lý bằng các hình thức và biện pháp nhằm đạt được
mục đích đã đề ra, trong đó, chủ thể quản lý là những cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền; đối tượng quản lý là các quá trình xã hội và hành vi của
con người có liên quan. Quá trình quản lý phụ thuộc vào các yếu tố chủ yếu
sau:
- Yếu tố con người
- Yếu tố chính trị
- Yếu tố tổ chức
- Yếu tố quyền uy
- Yếu tố thông tin.
Quản lý xã hội về thực chất là quản lý con người đang tham gia các
quan hệ xã hội, vì vậy, nó là hoạt động quản lý bao trùm, có nội dung, phương
pháp và phạm vi rộng lớn, trong đó, quản lý Nhà nước là hoạt động quản lý
9
quan trọng nhất, do tính chất, đặc điểm và vai trò, chức năng của tổ chức Nhà
nước trong toàn bộ kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Quản lý Nhà nước là hoạt động của hệ thống các cơ quan Nhà nước
trong việc tổ chức, điều hành, phối hợp các quá trình xã hội, các hoạt động
của tập thể, cá nhân nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định
dựa trên những quy phạm pháp luật, đạo đức xã hội và truyền thống dân tộc.
Chất lượng, hiệu quả của quản lý Nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau, trong đó nổi bật là những yếu tố sau:
- Tính hoàn chỉnh, đầy đủ, thống nhất chặt chẽ của các quy định trong
hệ thống pháp luật.
- Trình độ tổ chức thực hiện của các cơ quan Nhà nước với tư cách là
những chủ thể thực hiện quản lý trực tiếp.

- Mức độ phổ biến tuyên truyền và trình độ dân trí về văn hóa pháp
luật, văn hóa đời sống xã hội trong các tầng lớp dân cư, các đối tượng quản
lý.
- Phương thức, biện pháp huy động và phối hợp các lực lượng xã hội
để giải quyết các nhiệm vụ đề ra.
- Tính tự giác trong thực hiện nghĩa vụ, nhiệm vụ của đối tượng quản lý
Trên bình diện chủ thể quản lý Nhà nước, khái niệm Quản lý Nhà nước
có thể hiểu theo hai nghĩa như sau:
Theo nghĩa rộng: Quản lý Nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành
của cả bộ máy Nhà nước, bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực Nhà
nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu
này, ở Việt Nam, hoạt động Quản lý Nhà nước được đặt trong cơ chế "Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân lao động làm chủ”.
Theo nghĩa hẹp, Quản lý Nhà nước là quá trình tổ chức, điều hành của
hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước đối với các quá trình xã hội và
10
hành vi hoạt động của con người trên cơ sở các quy định, quy phạm pháp luật
nhằm đạt được những mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ Nhà nước đề ra. Đồng thời,
các cơ quan nhà nước nói chung còn thực hiện các hoạt động có tính chất
chấp hành, điều hành, tính chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng tổ chức
bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình. Chẳng hạn như ra quyết
định thành lập, chia tách, sát nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình,
đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc
nội bộ v.v. QLNN theo nghĩa hẹp này còn đồng nghĩa với khái niệm quản lí
hành chính nhà nước.
Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra nhận thức chung về Quản lý
Nhà nước như sau:
Quản lý Nhà nước là hoạt động của các chủ thể (chủ yếu là các cơ quan
nhà nước) trên cơ sở quy định của hệ thống pháp luật nhằm tổ chức và phối
hợp những cố gắng chung của toàn xã hội để giải quyết các nhiệm vụ xây

dựng và phát triển kinh tế - xã hội và các nhiệm vụ khác trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
1.1.3. Khái niệm Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội
Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội là bộ phận rất quan trọng
của Quản lý Nhà nước nói chung, của Quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự
nói riêng. Thực chất đó là sự tác động đồng bộ có mục đích của Nhà nước
thông qua hoạt động của một hệ thống các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã
hội được chức năng hóa trong lĩnh vực này (trên cơ sở quy định của pháp
luật) vào tất cả các yếu tố cấu thành nên Trật tự an toàn xã hội nhằm tạo nên
sự ổn định, an toàn cho đất nước trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, nhằm đạt tới các mục tiêu xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc XHCN.
11
Thực hiện Quản lý Nhà nước về Trật tự xã hội xã hội trước hết nhằm
đem lại sự bình yên trong hoạt động của các cơ quan, các tổ chức xã hội và
cá nhân, bảo vệ trật tự pháp luật và kỉ cương xã hội, bảo đảm thực hiện đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ công dân, đấu tranh có hiệu quả với tình trạng phạm
tội, với các vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội. Về thực chất, khái niệm Quản
lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội bao gồm những điểm chính yếu sau:
- Là sự tác động có tổ chức, có có hệ thống và bằng pháp luật vào tất
cả những yếu tố cấu thành nên Trật tự an toàn xã hội nhằm điều chỉnh có hiệu
lực, hiệu quả các quan hệ xã hội, tạo nên những cơ sở vững chắc đảm bảo cho
một nền Trật tự an toàn xã hội theo ý chí của Nhà nước.
- Là một dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước để điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người có liên
quan đến trật tự an toàn xã hội.
- Hệ thống các chủ thể quản lý rất rộng, trong đó chủ thể trực tiếp,
nòng cốt là lực lượng Công an nhân dân.
- Đối tượng Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội là tất cả các
cơ quan, tổ chức, nhóm người, cộng đồng người, các cá nhân tham gia các

mối quan hệ thuộc phạm trù trật tự an toàn xã hội.
Như vậy, có thể định nghĩa:
Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội là hoạt động chấp hành
và điều hành của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội được Nhà nước
ủy quyền, được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật nhằm
thực hiện trong cuộc sống hàng ngày các chức năng của Nhà nước trong lĩnh
vực Trật tự an toàn xã hội.
1.1.4. Mục đích của Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội
12
Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội, như đã phân tích, là một
bộ phận trong Quản lý Nhà nước về An ninh, trật tự, vì vậy, mục đích của
công tác này cũng phải được định hướng và nhằm góp phần thực hiện mục
đích chung. Theo đó, mục đích cuối cùng của Quản lý Nhà nước về An ninh
trật tự nói chung là bảo vệ vững chắc nền an ninh trật tự của Tổ quốc, bảo
đảm sự ổn định và bình yên của xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng
văn minh. Mục tiêu cụ thể của Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội là
nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ bảo vệ an toàn các cơ quan nhà nước, các tổ
chức, bảo vệ trật tự pháp luật và các kỷ cương xã hội, đấu tranh có hiệu quả
đối với tình trạng phạm tội, với các vi phạm pháp luật và các loại tệ nạn xã
hội, giữ cho xã hội luôn luôn ở trong trạng thái bình yên, trật tự, nề nếp kỷ
cương
Thực tiễn chứng minh rằng, nếu như quản lý trên lĩnh vực An ninh
chính trị nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam, bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ nhà nước XHCN, kịp thời phát hiện và
dập tắt mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch chống phá CNXH,
chống phá cách mạng Việt Nam, thì quản lý về Trật tự an toàn xã hội giành
ưu tiên cho mục tiêu đảm bảo cho các quá trình xã hội, các hoạt động trong
đời sống xã hội, đời sống cá nhân trong cộng đồng được diễn ra một cách
bình thường, an toàn trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các quy định của pháp

luật và các quy tắc của lối sống, đạo đức XHCN. Giữa An ninh quốc gia và
Trật tự an toàn xã hội có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau. An ninh
quốc gia được bảo vệ vững chắc mới tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để bảo vệ
tốt trật tự an toàn xã hội. Ngược lại, Trật tự an toàn xã hội được giữ vững sẽ
góp phần tích cực vào việc bảo vệ vững chắc An ninh quốc gia, tăng cường
lòng tin của quần chúng vào Đảng, Nhà nước, vào chế độ XHCN. Cần nhấn
13
mạnh rằng: Nếu tình hình Trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp, nghiêm
trọng kéo dài, không kiểm soát được sẽ gây ảnh hưởng rất xấu, thậm chí
chuyển hóa thành vấn đề chống đối chính trị, điều đó rõ ràng tác động tiêu
cực đến An ninh quốc gia.
Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên
giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn
sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn
cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tăng cường tuyên
truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ
bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho
mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao,
tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hòa bình”, bạo loạn
chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia. Tăng
cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng
khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân
vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc [16, Tr 233).
Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt
đối sự nghiệp Bảo vệ An ninh quốc gia và giữ gìn Trật tự an toàn xã hội, vì

vậy, Nghị quyết của Đảng là định hướng cho việc xác định mục đích công tác
Quản lý Nhà nước trên mọi lĩnh vực trong giai đoạn hiện nay, trong đó có
quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội.
14
Cụ thể, trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống, công tác quản lý Nhà
nước về Trật tự an toàn xã hội hiện nay có mục đích như sau:
Về chính trị: Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, sự
vững chắc của chế độ chính trị XHCN và tăng cường hiệu lực Quản lý của
Nhà nước đối với lĩnh vực Trật tự an toàn xã hội,
Về kinh tế - xã hội: Đảm bảo sự ổn định và phát triển các thành phần kinh
tế - xã hội theo định hướng XHCN, phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với
những hoạt động tội phạm và những vi phạm pháp luật trên lĩnh vực kinh tế
Về tư tưởng văn hóa: Bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng những giá trị trong truyền thống và bản sắc dân tộc, phát hiện kịp
thời và có những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với hoạt động
tội phạm, tệ nạn xã hội và những vi phạm pháp luật trên lĩnh vực này.
Về đối ngoại: Góp phần tích cực trong thực hiện chính sách đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng, củng cố và nâng cao
vị thế của Việt nam trên thế giới
Về an ninh quốc phòng: Xây dựng vững chắc nền An ninh nhân dân và
thế trận An ninh nhân dân gắn với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc
phòng toàn dân. xây dựng lực lượng Công an nhân dân và Quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy tinh nhuệ, hiện đại. Chống âm mưu của các thế lực thù
địch, phi chính trị hóa và chia rẽ lực lượng vũ trang.
1.2. Nguyên tắc và một số quan điểm cần quán triệt trong Quản lý
Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội
1.2.1. Nguyên tắc cơ bản trong Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn
xã hội
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, quan trọng nhất, chủ đạo và chi phối các

15
nguyên tắc khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, đấu tranh bảo vệ an
ninh trật tự là nhiệm vụ nặng nề, gian khổ, âm thầm, nhưng rất quan trọng,
quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, đến sự mất còn của dân tộc.
Một sự nghiệp như vậy phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng. Nếu thoát ly đường lối chính trị của Đảng thì không đạt được
kết quả. Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Thường
xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối
với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng
và an ninh.” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội 2001, tr. 119). Gần đây nhất, tại
Đại hội lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “ Bảo đảm sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an
ninh.” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội 2011, tr. 235).
Trong quá trình lãnh đạo công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn
xã hội, các cấp ủy Đảng cần phân định rõ chức năng lãnh đạo của mình với
chức năng quản lý của cơ quan Nhà nước, không được biến các tổ chức Đảng
thành các cơ quan hành chính, bao biện làm thay, nhưng cũng không khoán
trắng cho chính quyền, cho các cơ quan chuyên môn. Đảng lãnh đạo bằng
đường lối, chính sách, bằng công tác cán bộ và công tác tổ chức, bằng công
tác vận động quần chúng và công tác giám sát, kiểm tra hoạt động quản lý
Nhà nước trên lĩnh vực này.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Quá trình quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội đòi hỏi các chủ thể
phải dựa trên cơ sở hệ thống văn bản pháp luật nhà nước. Pháp luật thể chế
16
hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân. Do vậy,

tăng cường pháp chế trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội là hết
sức quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc. Trong hoạt động quản lý, không
cho phép các chủ thể thực hiện một cách chủ quan, tùy tiện mà phải làm theo
đúng pháp luật. Dựa vào pháp luật, cơ quan Nhà nước mới có thể tiến hành
giải quyết những vụ việc phức tạp xảy ra, phát hiện và xử lí người có hành vi
phạm tội, vi phạm về trật tự an toàn xã hội một cách chính xác, nghiêm minh.
Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã
hội đòi hỏi quá trình xây dựng các văn bản pháp luật về TTATXH phải kịp
thời, thống nhất và ổn định tương đối, đáp ứng được yêu cầu của công tác bảo
vệ an ninh trật tự đặt ra. Mặt khác, nguyên tắc này cũng đòi hỏi cần phải hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật, tổ chức tuyên truyền phổ biến, giáo dục ý thức pháp
luật cho công dân, phát hiện kịp thời và xử lí nghiêm minh các hành vi vi
phạm về TTATXH.
Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ
Đây là một nguyên tắc rất cần thiết và mang tính tất yếu khách quan
xuất phát từ đặc điểm quản lý về trật tự an toàn xã hội, từ mô hình tổ chức và
thực tiễn hoạt động quản lý an ninh, trật tự của lực lượng Công an Nhân dân.
Ở Trung ương, Bộ Công an thực hiện chức năng Quản lý Nhà nước về Trật tự
an toàn xã hội trên phạm vi cả nước. Ngoài việc xây dựng các chiến lược, kế
hoạch quản lý tầm vĩ mô, các lực lượng thuộc Bộ Công an còn phải trực tiếp
tiến hành các hoạt động quản lý, đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch,
hoạt động tội phạm, những hành vi vi phạm pháp luật. Công an các cấp được
tổ chức theo nguyên tắc song trùng trực thuộc: vừa chịu sự lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng, chính quyền cùng cấp, vừa chịu sự chỉ đạo về chuyên môn
nghiệp vụ của Công an cấp trên. Xuất phát từ tính chất, đặc điểm, đặc trưng
về chuyên môn nghiệp vụ của công tác công an, cũng như từ nguyên tắc song
17
trùng, nên trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội cần phải quán triệt
nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ,
trong đó quản lý theo ngành là chủ yếu.

1.2.2. Một số quan điểm cơ bản cần quán triệt trong Quản lý Nhà
nước về Trật tự an toàn xã hội
Quan điểm thứ nhất: Nắm vững và thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, Công an là lực lượng nòng cốt
Sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng là nhân tố quyết
định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nói chung và quản lý nhà nước về trật
tự an toàn xã hội nói riêng. Do đó công tác quản lý nhà nước về TTATXH
cần tuân thủ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và phục vụ cho
đường lối chính trị của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng.
Tăng cường quản lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội, phát huy mạnh
mẽ tác dụng của pháp chế làm nó trở thành vũ khí sắc bén để xây dựng và
quản lý trật tự xã hội XHCN là rất cần thiết, song chưa đủ. Điều cần phải
nhấn mạnh trong công tác quản lý là chất lượng, hiệu quả hoạt động của các
chủ thể quản lý, đặc biệt là hệ thống các cơ quan trong bộ máy Nhà nước các
cấp, các ngành. Cần thường xuyên quan tâm xây dựng những cơ quan chuyên
trách: Công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân. Phát
huy vai trò, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp
trong việc ban hành và đôn đốc tổ chức thực hiện những quy định về công tác
giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở địa phương, thực hiện quản lý Nhà nước bằng
hệ thống văn bản pháp luật và các quy phạm pháp luật.
Bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một Nhà nước của
dân, do dân, vì dân, sức mạnh của Nhà nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân
dân. Nhà nước vừa đại diện cho quyền lực nhân dân, vừa là một tổ chức để
người dân thể hiện quyền làm chủ xã hội của mình, tham gia ngày càng tích
18
cực, chủ động hơn những công việc tổ chức, quản lý của Nhà nước. Lĩnh vực
giữ gìn trật tự an toàn xã hội nằm trong sự nghiệp bảo vệ thành quả cách
mạng, trực tiếp có liên quan đến lợi ích thiết thân của người dân, vì vậy công
việc này vừa là sự nghiệp của toàn dân, vừa có sức thu hút mạnh mẽ sự quan
tâm của nhân dân và trên thực tế, nhân dân có đủ năng lực sẵn sàng tham gia

vào công tác này. Vấn đề là ở chỗ, cần tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện để
quần chúng thực hiện quyền làm chủ của mình như thế nào trong tham gia
vào công tác quản lý Nhà nước để đạt hiệu quả cao nhất. Đây cũng là biểu
hiện của việc thực hiện tốt quan điểm “lấy dân làm gốc” trong lĩnh vực quản
lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội
Lực lượng Công an nhân dân là chỗ dựa trực tiếp và thường xuyên cho
các ngành, các cấp và quần chúng trong công tác giữ gìn trật tự an toàn xã
hội. Công an nhân dân phải tập trung giải quyết những khâu cơ bản nhất và tổ
chức hướng dẫn các lực lượng khác trong công tác này. Chức năng quan trọng
nhất của lực lượng Công an nhân dân trong lĩnh vực quản lý nhà nước về trật
tự an toàn xã hội là phải làm tốt công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước các
cấp về những vấn đề có liên quan và đề xuất những biện pháp, phương thức
nhằm giữ gìn, đảm bảo an ninh, trật tự ở cả tầm vĩ mô quốc gia, cũng như ở
tầm vi mô địa phương, cơ sở, địa bàn phức tạp Ngoài ra Công an nhân dân
phải biết kết hợp tính tích cực cách mạng của quần chúng với nghiệp vụ của
các cơ quan chuyên môn.
Quan điểm thứ hai: Kết hợp giữa chủ động phòng ngừa và chủ động
liên tục tấn công
Đây là quan điểm chỉ đạo cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ An ninh quốc
gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Xuất phát từ mục
tiêu chiến lược là bảo vệ tuyệt đối an toàn cho cách mạng, không để các loại
tội phạm, tệ nạn xã hội hoạt động gây rối trật tự an toàn xã hội, do đó, phòng
19
ngừa, đấu tranh và trấn áp tội phạm phải được kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ
trợ nhau. Trong Nghị quyết số 08/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng CSVN (Khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã nhấn mạnh tư tưởng
chỉ đạo: Quán triệt tinh thần cách mạng tiến công, kết hợp chặt chẽ chủ động
tiến công với chủ động phòng ngừa, lấy chủ động phòng ngừa, giữ vững bên
trong là chính.
Đối tượng đấu tranh có nhiều hành động tinh vi, xảo quyệt, vì vậy để

chủ động bảo vệ an toàn cho cách mạng phải chủ động phòng ngừa. Điều này
thể hiện tính triệt để cách mạng (xóa bỏ mọi nguyên nhân, điều kiện nảy sinh
tội phạm) trong cuộc đấu tranh chống tội phạm. Chủ động phòng ngừa đòi hỏi
phải giữ yên bên trong (giữ yên nội bộ và giữ yên nội địa), phải kết hợp chặt
chẽ giữa phòng ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ. Chủ động phòng ngừa
trong cuộc đấu tranh bảo vệ trật tự an toàn xã hội phải chặt chẽ, tích cực và
thường xuyên, phải chủ động và liên tục tiến công.
Quan điểm thứ ba: Quán triệt tinh thần kiên quyết, thận trọng,
khách quan, toàn diện, nâng cao cảnh giác không để lọt kẻ phạm tội,
không làm oan người vô tội
Bản chất ưu việt của chế độ ta là tôn trọng quyền tự do dân chủ của
người dân, bảo vệ và phát huy được tính tích cực, tự giác của quần chúng trên
mọi lĩnh vực. Do đó, không thể ngụy biện cho rằng, vì mục đích bảo vệ Đảng,
Nhà nước mà tùy tiện dẫn đến làm oan người vô tội.
Khi giải quyết, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về Trật tự an
toàn xã hội, các cơ quan, tổ chức cần phải hết sức thận trọng, đảm bảo khách
quan, đúng đắn, chính xác trong quá trình tiến hành.
Bên cạnh đó công tác bảo vệ TTATXH phải kiên quyết, thận trọng đấu
tranh trấn áp với các thế lực thù địch, tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Tuy nhiên phải dựa trên chứng cứ, tài liệu đã thu thập và được kiểm tra xác
20
minh. Mỗi đối tượng khác nhau, có phương thức, thủ đoạn hoạt động khác
nhau, do đó phải đề cao cảnh giác, tiến hành việc phân loại rõ ràng, xây dựng
và thực hiện đúng các kế hoạch, đối sách phù hợp với mỗi loại đối tượng.
Những nhận xét, đánh giá, kết luận phải chính xác và quán triệt tinh thần kiên
quyết, thận trọng để không lọt kẻ phạm tội và cũng không làm oan người vô
tội
Quan điểm thứ tư: Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trấn áp kết
hợp với giáo dục cải tạo
Bản chất nhân đạo cách mạng của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực

bảo vệ thành quả cách mạng thể hiện rõ trong tư tưởng chỉ đạo việc xử lý các
vụ, việc xâm hại đến An ninh chính trị và Trật tự an toàn xã hội: nghiêm trị
kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, cải tạo.
Thực tiễn đấu tranh bảo vệ An ninh chính trị, giữ gìn Trật tự an toàn xã
hội cho thấy, tuy cùng là tội phạm, nhưng tính chất, động cơ, mục đích, vai
trò, mức độ phạm tội của từng loại đối tượng và mỗi cá nhân đối tượng có
khác nhau, do vậy trong xử lý, cần căn cứ vào pháp luật Nhà nước và tùy theo
mức độ phạm tội mà xử lý một cách nghiêm minh thấu tình, đạt lý, đảm bảo
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Chính sách khoan hồng được áp dụng giảm nhẹ hình phạt cho những
người phạm tội do ép buộc, bị lừa gạt, song đã nhận rõ lỗi lầm, thật thà hối
cải, quyết tâm sửa chữa, lập công chuộc tội Nghiêm trị và khoan hồng là
một thể thống nhất, không tách rời nhau. Tùy từng đối tượng cụ thể mà ta xử
lý đúng đắn thì mới tránh được sai lầm, lệch lạc.
Trấn áp tội phạm không phải là để tiêu diệt con người, hành hạ về thể
xác mà chủ yếu là áp dụng các biện pháp cưỡng bức cần thiết để không cho
họ tiếp tục hoạt động gây thiệt hại cho cách mạng và cải tạo họ trở thành
người có ích cho xã hội. Quá trình giáo dục, cải tạo để làm chuyển biến tiến
21
tới xóa bỏ ý thức phạm tội của người phạm tội là quá trình phải gay go, gian
khổ và lâu dài. Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trấn áp kết hợp với giáo
dục, cải tạo, lấy phòng ngừa xã hội đối với tội phạm là biện pháp cơ bản, đó
là những vấn đề quan trọng để góp phần làm giảm tội phạm, giữ gìn Trật tự
an toàn xã hội của đất nước.
Quan điểm thứ năm: Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc
với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Các thế lực thù địch luôn tìm cách phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH
của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Vì vậy chúng ta cần khẳng định
xây dựng Tổ quốc phải gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc. Đi đôi với việc xây dựng
nền kinh tế đất nước ngày càng lớn mạnh, phải không ngừng nâng cao cảnh

giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ tốt công cuộc xây dựng Tổ quốc. Đây
không chỉ là sự kế thừa bài học lịch sử, truyền thống dân tộc Việt Nam: dựng
nước đi đôi với giữ nước, mà còn là một yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống
đương đại, liên quan trực tiếp đến sự sống còn của chế độ và của dân tộc. Nội
dung bảo vệ phải được quán triệt trong suốt cả quá trình xây dựng đất nước
trên tất cả các lĩnh vực cũng như trong từng khâu, từng mặt, từng giai đoạn.
Sự kết hợp giữa phát triển sản xuất với bảo vệ sản xuất, giữa xây dựng kinh tế
với bảo vệ kinh tế, giữa xây dựng CNXH với bảo vệ Tổ quốc XHCN cần
được nhận thức đầy đủ và sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân. Phải kết hợp
chặt chẽ quốc phòng với an ninh, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân để
bảo vệ thành quả mà chúng ta xây dựng được. Đại hội lần thứ XI Đảng CSVN
đã nhấn mạnh:
Tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh cả về tiềm lực và thế
trận Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh
với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo [16, Tr. 234).
22
Quan điểm thứ sáu: Bảo vệ An ninh quốc gia phải kết hợp chặt chẽ
với giữ gìn trật tự an toàn xã hội
Đây là hai nội dung của một thể thống nhất trong chức năng quản lý
nền trật tự XHCN, trong đó An ninh quốc gia là nội dung cơ bản nhất. An
ninh quốc gia được bảo vệ vững chắc mới tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để
bảo vệ tốt Trật tự an toàn xã hội và ngược lại Trật tự an toàn xã hội được giữ
vững sẽ tạo điều kiện cho An ninh quốc gia càng được củng cố vững chắc,
hiệu lực Quản lý Nhà nước được tăng cường, quyền làm chủ của nhân dân
được bảo đảm, cuộc sống của mọi người được yên vui, hạnh phúc.
Quan điểm thứ bảy: Kết hợp chặt chẽ hai chức năng của Nhà nước
XHCN: Tổ chức, xây dựng với Bạo lực, trấn áp, trong đó nhấn mạnh tổ
chức, xây dựng là chủ yếu
Mục đích của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng là xây

dựng thành công xã hội mới XHCN ở Việt Nam với những đặc trưng cơ bản là:
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới [16, tr.70].
Một xã hội tốt đẹp như vậy là kết quả của quá trình phấn đấu dựng xây
không ngừng của cả dân tộc, đòi hỏi sự đầu tư cao độ cả về trí tuệ và sức
lực của toàn Đảng, toàn dân. Đảng CSVN nhận thức rất rõ ràng rằng, đây là
một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và
cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
23
xã hội. Quá trình đó nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen, mặt
khác quá trình đó sẽ tiếp tục phải đối diện và phải vượt qua những trở lực,
những sự phản kháng quyết liệt của các thế lực thù địch trong và ngoài nước
để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Quan điểm phải kết hợp giữa tổ chức, xây dựng với bạo lực trấn áp
trong Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn
phù hợp với học thuyết Mác-Lênin về bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước XHCN. Theo đó, sự xuất hiện, tồn tại của Nhà nước XHCN là hoàn
toàn cần thiết và phù hợp với đòi hỏi, yêu cầu của thời kỳ quá độ đi lên
CNXH. Tuy nhiên, Nhà nước XHCN có bản chất khác với những nhà nước
trước đây trong lịch sử. Nó không chỉ là cơ quan bạo lực trấn áp và cũng
không chủ yếu là bạo lực, trấn áp, Nhà nước này phải thực hiện công cuộc cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới XHCN. Vì vậy, Lênin cho rằng, Nhà nước
XHCN chỉ mang tính chất là “một nửa nhà nước”. Như vậy, theo lý luận mác-

xớt, Nhà nước XHCN có hai chức năng cơ bản là: thực hiện bạo lực trấn áp,
chuyên chính vô sản đối với mọi âm mưu, hành động chống phá thành quả
cách mạng và sự nghiệp xây dựng CNXH; Tổ chức xây dựng một xã hội mới
XHCN. Hai chức năng đó đều cần thiết, không thể thiếu và cùng thể hiện bản
chất của Nhà nước XHCN. Song, do tính chất, tác dụng của mỗi chức năng
đối với mục đích cuối cùng của cuộc cách mạng XHCN, nên chức năng tổ
chức xây dựng được xác định là chủ yếu.
Thực tế cũng đã chứng tỏ rằng, bạo lực trấn áp nhiều lắm cũng chỉ có
thể xóa bỏ cái cũ và tạo điều kiện cho sự ra đời cái mới, bảo vệ cái mới. Bản
thân sự xuất hiện, lớn mạnh của cái mới, đặc biệt trên lĩnh vực đời sống xã
hội, phụ thuộc trực tiếp và là kết quả của quá trình dựng xây, của công sức tổ
chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội của các chủ thể, trong đó đặc
24
biệt là vai trò của Nhà nước, với tư cách là bộ phận quan trọng nhất trong kiến
trúc thượng tầng của xã hội. Mặt khác, cơ sở của sức mạnh của bạo lực là
dựa trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh và dựa vào sức mạnh to lớn của
khối đoàn kết toàn dân tộc , tất cả điều đó, rốt cuộc lại phụ thuộc vào công
tác tổ chức và xây dựng nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
Đối với Việt Nam, Công an nhân dân cùng Quân đội nhân dân được
Hiến pháp, pháp luật xác định là lực lượng vũ trang của Đảng và Nhà nước, là
công cụ bạo lực chủ yếu trong đấu tranh bảo vệ An ninh quốc gia và giữ gìn
Trật tự an toàn xã hội. Quá trình đấu tranh với các thế lực thù địch, tội phạm
để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là quá trình kết hợp chặt chẽ
bạo lực trấn áp với tổ chức xây dựng. Sự kết hợp đó thể hiện ở mục đích đấu
tranh nhằm phục vụ cho công tác tổ chức xây dựng xã hội mới thành công,
mặt khác, theo chức năng, Công an nhân dân tiến hành công tác tham mưu
cho các cấp ủy Đảng, chính quyền trong việc xây dựng, tổ chức quản lý nền
An ninh quốc gia và Trật tự an toàn xã hội. Bản thân lực lượng Công an nhân
dân phải được tổ chức, xây dựng thành lực lượng vũ trang trong sạch, vững
mạnh, xứng đáng với vai trò nòng cốt, xung kích trong đấu tranh giữ gìn trật tự,

an toàn xã hội. Lực lượng Công an nhân dân cũng trực tiếp làm công tác tổ
chức xây dựng huấn luyện các lực lượng khác như: lực lượng chuyên trách,
bán chuyên trách, các tổ chức nhân dân tham gia lĩnh vực bảo vệ An ninh, trật
tự.
1.3. Nội dung, chức năng và nhiệm vụ Quản lý Nhà nước về Trật
tự an toàn xã hội của Công an Phường
1.3.1. Nội dung Quản lý Nhà nước về Trật tự an toàn xã hội của
Công an Phường
Quản lý Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm
25

×