Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

giải pháp chống buôn lậu gia cẩm và sản phẩm gia cầm nhập lậu trên địa bàn tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 118 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





TẠ VĂN ĐỨC






GIẢI PHÁP CHỐNG BUÔN LẬU GIA CẨM VÀ SẢN PHẨM
GIA CẦM NHẬP LẬU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG






CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.34.04.10




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. TRẦN ĐÌNH THAO





HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn thạc sỹ “Giải pháp chống buôn lậu gia cầm và sản phẩm gia cầm
nhập lậu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi.
Tôi cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực
và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN



TẠ VĂN ĐỨC
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của
nhiều tập thể và cá nhân. Tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập
thể và cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Trước hết, với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm
ơn tới thầy giáo PGS. TS. Trần Đình Thao - người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Bộ môn Kế hoạch đầu tư; các
thầy cô giáo khoa Kinh tế và Phát triển Nông thôn, Ban quản lýđào tạo Học viện
Nông nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình học
tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo, cán bộ nhân viên Chi cục Quản lý thị
trường tỉnh Bắc Giang; các doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người dân đã tạo điều
kiện và hỗ trợ tôi trong quá trình thu thập phân tích số liệu.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới gia đình, đồng nghiệp và bạn
bè - những người đã luôn bên tôi, động viên, giúp đỡ tôi về vật chất cũng như tinh thần
trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


TẠ VĂN ĐỨC







Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page iv

MỤC LỤC
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
Danh mục bảng vii
Danh mục biểu đồ và sơ đồ viii
PHẦN I. MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1. Mục tiêu chung 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu 3
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4
2.1. Cơ sở lý luận 4
2.1.1. Một số khái niệm 4
2.1.2. Nguyên nhân xuất hiện buôn lậu 5
2.1.3 Các hình thức buôn lậu hàng hoá và buôn lậu gia cầm 6
2.1.4 Tác hại của buôn lậu và buôn lậu gia cầm 7
2.1.5. Hoạt động chống buôn lậu 12
2.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác chống buôn lậu của cơ quan
quản lý thị trường 17
2.1.7. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động chống buôn lậu hàng hóa 19
2.2. Cơ sở thực tiễn 19
2.2.1. Thực trang buôn lậu ở Việt Nam 19
2.2.2 Thực trạng buôn lậu ở một số quốc gia trên thế giới 24
PHẦN III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26

3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 26
3.1.1. Khái quát về tỉnh Bắc Giang 26
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

3.1.2. Giới thiệu về Chi cục quản lý thị trường tỉnh Bắc Giang 34
3.2. Phương pháp nghiên cứu 39
3.2.1. Khung nghiên cứu 39
3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu 40
3.2.3. Phương pháp xử lý số liệu 41
3.2.4. Phương pháp phân tích số liệu 41
PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 44
4.1. Thực trạng hoạt động buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 44
4.2. Thực trạng hoạt động chống buôn lậu gia cầm, sản phẩm gia cầm
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 51
4.2.1. Những thủ đoạn chủ yếu được các đối tượng buôn lậu sử dụng trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay 51
4.2.2 Các biện pháp nghiệp vụ được Chi cục quản lý thị trường Bắc Giang
áp dụng 55
4.3. Kết quả, hiệu quả công tác chống buôn lậu gia cầm, sản phẩm gia
cầm của Chi cục QLTT tỉnh Bắc Giang 60
4.3.1. Số vụ gia cầm, sản phẩm gia cầm bị xử phạt vi phạm hành chính 60
4.3.2. Kết quả phối hợp liên ngành 62
4.3.3. Số lượng, giá trị gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập lậu bị xử lý 63
4.3.4 Giá trị gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập lậu thu giữ và nộp NSNN 64
4.3.5. Đánh giá chung về hoạt động chống buôn lậu gia cầm, sản phẩm gia
cầm của Chi cục QLTT tỉnh Bắc Giang 65
4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chống buôn lậu gia cầm, sản
phẩm gia cầm nhập lậu tại Chi cục 72
4.4.1. Yếu tố khách quan 72

4.4.2. Yếu tố chủ quan 75
4.5. Một số giải pháp nâng cao hoạt động chống buôn lậu gia cầm, sản
phẩm gia cầm tại Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc Giang 81
4.5.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và nhà nước ta về công tác đấu
tranh chống buôn lậu 81
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi

4.5.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chống buôn lậu gia
cầm, sản phẩm gia cầm nhập lậu của Chi cục quản lý thị trường tỉnh
Bắc Giang 86
PHẦN V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 100
5.1. Kết luận 100
5.2. Kiến nghị 101
5.2.1. Đối với Chính phủ 101
5.2.2. Đối với các bộ, ngành cơ quan chức năng khác 104
5.2.3. Đối với UBND tỉnh 104
5.2.4. Đối với các doanh nghiệp trong nước 104
5.2.5. Đối với quần chúng 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 106


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang
3.1 Hệ thống giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 30
3.2: Nội dung và phương pháp thu thập thông tin thứ cấp 40

3.3 : Nội dung và phương pháp thu thập thông tin sơ cấp 41
4.1 Tình hình xử lý vi phạm trên địa bàn tỉnh giai đoạn (2011 – 2013) 46
4.2 : Kết quả xử lý tang vật trong các vụ vi phạm 48
4.3 : Tình hình vi phạm về hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
giai đoạn 2011 - 2013 51
4.4 : Tình hình vi phạm về lưu thông, kinh doanh hàng hóa trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang giai đoạn 2011 - 2013 52
4.5 : Tình hình vi phạm các quy định về hoạt động thương mại trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2011 - 2013 54
4.6: Kết quả xử lý vi phạm từng khu vực trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 57
4.7 : Tình hình xử lý vi phạm buôn lậu gia cầm, sản phẩm gia cầm trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2011 -2014 59
4.8: Kết quả xử lý vi phạm buôn lậu trong lực lượng liên ngành 62
4.9: Số lượng gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập lậu xử lý từ 2011-2014 64
4.10. Đánh giá của cán bộ thị trường về các khó khăn khách quan trong chống
buôn lậu 75
4.11. Đánh giá về nguồn nhân lực quản lý thị trường
76
4.12. Đánh giá về phương tiện phục vụ công tác chống buôn lậu của lực
lượng chức năng 78
4.1.3. Đánh giá của người dân về vai trò của người dân và doanh nghiệp trong
đấu tranh chống buôn lậu 79
4.14 : Ý kiến đề nghị khắc phục và bổ sung của các đối tượng điều tra 87
4.15 Số lượng tin cung cấp cho LLQLTT tỉnh Bắc Giang năm 2014 92


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii

DANH MỤC HÌNH BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ


STT Tên hình, biểu đồ và sơ đồ Trang
Hình 3.1 Bản đồ địa lý tỉnh Bắc Giang 26
Sơ đồ 3.1: Cơ cấu tổ chức của Chi cục QLTT tỉnh Bắc Giang 37
Sơ đồ 3.2: Khung phân tích đề tài 39
Biểu đồ 4.1: Số vụ xử lý vi phạm giai đoạn 2011 -2013 45
Biểu đồ 4.2: Tỷ lệ tiền xử lý vi phạm hành chính từ năm 2011-2013 47
Biểu 4.3 : Tỷ trọng các loại hình vi phạm từ năm 2011 - 2013 48
Biểu đồ 4.4 : Tình hình thực hiện xử lý các vi phạm trong lĩnh vực QLTT 49
Biểu đồ 4.5: Tình hình xử lý các vụ vi phạm trong buôn lậu gia cầm, sản phẩm
gia cầm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2011 - 2014 60
Biểu đồ 4.6: Tỷ trọng gia cầm sản phẩm gia cầm nhập lậu các năm 2011-2014 64
Biểu đồ 4.7: Tình hình xử lý Vi phạm hành chính trong buôn lậu gia cầm, sản
phẩm gia cầm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2011 - 2014 65
Đồ thị 4.8: Tần suất kiểm tra kiểm soát hoạt động chống buôn lậu đối với
các cơ sở sản xuất kinh doanh
66
Đồ thị 4.9: Sự tham gia của người dân trong công tác chống buôn lậu 97
Đồ thị 4.10: Phương thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật chống buôn lậu 98
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

PHẦN I
MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nhìn nhận một cách tổng thể khi xã hội ngày càng phát triển thì người tiêu
dùng ngày càng được thỏa mãn các nhu cầu của mình. Ở Việt Nam, thành quả
hơn 20 năm sự nghiệp đổi mới của Đảng đã chứng minh điều đó. Với sự chung
sức của toàn thể nhân dân cả nước thì đất nước Việt Nam ngày càng thay đổi rõ

rệt kinh tế phát triển, hệ thống cơ sở hạ tầng khang trang, hành lang pháp luật
thông thoáng… tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu, vận chuyển hàng hóa từ
đó góp phần làm đa dạng, phong phú các mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của
mọi tầng lớp dân cư. Bên cạnh mặt tích cực, thì không ít những mặt trái của nền
kinh tế cũng được bộc lộ ra. Người tiêu dùng đã và đang phải đối mặt với các
thách thức của nạn hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng…với hình thức lừa
đảo tinh vi và thủ đoạn hung hăng bất chấp pháp luật, thậm chí liều cả tính mạng
để chống đối lại cơ quan thẩm quyền chức năng.
Theo Báo cáo của Bộ Công thương năm 2013 các lực lượng chức năng đã
phạt hành chính 3,13 tỷ đồng đối với việc vận chuyển và kinh doanh gia cầm, sản
phẩm gia cầm nhập khẩu trái phép, kiểm tra, xử lý 1.849 vụ, phạt hành chính 3,13 tỷ
đồng; tịch thu 55,5 tấn gà lông, 201,5 tấn gà thịt, 2,8 triệu quả trứng, 73,9 tấn phụ
phẩm gia cầm (nội tạng, chân, cổ, cánh), 2,1 triệu con gà giống, 8,5 tấn và 34.797
con vịt con, 15,8 tấn chim, trị giá hàng tịch thu tiêu hủy là 3,63 tỷ đồng.
Đề giải quyết vấn nạn này cần phải có sự chung tay phối hợp của nhiều cơ
quan ban ngành. Với chức năng kiểm tra, kiểm soát hàng hóa lưu thông trên thị
trường, lực lượng Quản lý thị trường tỉnh Bắc Giang phối hợp với các cơ quan
chức năng liên ngành khác như: Công an tỉnh, Sở khoa học và công nghệ, Sở y
tế… nhằm chống tệ nạn buôn bán lậu, sản xuất và buôn bán hàng giả, chống gian
lận thương mại, vi phạm sở hữu trí tuệ, vệ sinh an toàn thực phẩm … và các hành
vi khác trong hoạt động thương mại, dịch vụ. Hoạt động của lực lượng quản lý
thị trường liên quan mật thiết đến việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, tạo
ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà sản
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

xuất kinh doanh chân chính.
Thực tế hiện nay, các đối tượng kinh doanh, vận chuyển, tiêu thụ gia cầm,
sản phẩm gia cầm ngày càng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi mới bằng nhiều loại
phương tiện khác nhau và phương thức hoạt động ngày càng khó kiểm soát. Với sự

làm việc tận tâm để làm tròn trách nhiệm với Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân
dân, các cán bộ, kiểm soát viên Chi cục quản lý thị trường đã không ngừng cố
gắng chống lại các hành vi gian lận trên nhắm bảo vệ người tiêu dùng là một
nhiệm vụ cấp thiết. Tuy nhiên hoạt động của lực lượng Quản lý thị trường tỉnh Bắc
Giang chưa đạt được kết quả cao, hàng lậu vẫn còn được bầy bán trên thị trường
vào những dịp lễ tết, gia cầm, sản phẩm gia cầm không đảm bảo vệ sinh vẫn được
lưu hành…
Xuất phát từ thực tế trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải pháp
chống buôn lậu gia cầm và sản phẩm gia cầm nhập lậu trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng tình hình chống buôn lậu gia
cầm và sản phẩm gia cầm nhập lậu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, từ đó đề xuất
giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của công tác chống buôn lậu gia cầm và
sản phẩm gia cầm nhập lậu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về hoạt
động chống buôn lậu gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập lậu.
- Đánh giá thực trạng và phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động
chống buôn lậu gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập lậu tại Chi cục QLTT tỉnh Bắc
Giang
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chống buôn
lậu gia cầm, sản phẩm gia cầm nhập lậu của Chi cục QLTT tỉnh Bắc Giang
trong thời gian tới.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hoạt động chống buôn lậu gia cầm,
sản phẩm gia cầm nhập lậu tại Chi cục QLTT tỉnh Bắc Giang. Do vậy, các chủ
thể liên quan tới quá trình thu thập số liệu thực hiện đề tài gồm:
- Các chủ thể có tham gia trực tiếp lưu thông gia cầm, sản phẩm gia cầm
nhập lậu qua địa bàn tỉnh Bắc Giang
- Các loại gia cầm, sản phẩm gia cầm lưu hành trên thị trường tỉnh Bắc
Giang
- Các chủ thể có liên quan, hoặc tham gia gián tiếp đến việc lưu hành gia
cầm, sản phẩm gia cầm qua địa bàn tỉnh Bắc Giang
- Các chính sách, Nghị định, thông tư, quyết định, quy chế… ảnh hưởng
đến việc chống buôn lậu gia cầm, sản phẩm gia cầm tại Chi cục QLTT tỉnh Bắc
Giang
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đánh giá thực trạng chống buôn lậu gia cầm, sản
phẩm gia cầm nhập lậu từ Trung Quốc và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến
hoạt động chống buôn lậu. Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
chống buôn lậu gia cầm, các sản phẩm gia cầm của Chi cục QLTT tỉnh Bắc
Giang.
- Phạm vi về thời gian
+ Số liệu thông tin thứ cấp được thu thập từ năm 2011 đến năm 2013
+ Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 3/2014 đến tháng 03/2015
- Phạm vi về không gian: Đề tài được thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1 Cơ sở lý luận

2.1.1 Một số khái niệm
- Khái niệm buôn lậu
Buôn lậu: là các hành vi vận chuyển, buôn bán trái phép qua biên giới những
loại hàng hóa Nhà nước cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu như: vũ khí, chất nổ, ngoại tệ,
cổ vật, đồ chơi kích thích bạo lực, văn hóa phẩm độc hại xấu đến môi sinh, môi trường;
đến người; động; thực vật; những vật phẩm thuộc do tích lịch sử, văn hóa. Buôn lậu là
các hành vi trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
(Hải quan, biên phòng) hoặc dùng các thủ đoạn gian dối để che mắt các cơ quan này để
vận chuyển hàng cấm; trốn; lậu thuế đối với việc buôn bán, vận chuyển hàng hóa qua
biên giới; dùng các thủ đoạn bí mật, bất hợp pháp trà trộn hàng lậu với các hàng hóa
khác vận chuyển qua cửa khẩu nhưng qua được mắt Hải quan (Điều 153, Bộ Luật Hình
Sự Của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Số 15/1999/QH10 Sửa đổi bổ
sung 2009/QH12 Ngày 19/6/2009).

Buôn lậu là hành vi lén lút đưa hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới rốn
tránh hoặc chống lại sự kiểm tra kiểm soát của Hải quan bằng cách không đi qua
cửa khẩu, hoặc tuy có đi qua cửa khẩu nhưng dùng thủ đoạn bí mật bất hợp pháp
như trà trộn hàng lậu trong các hàng hóa khác có làm thủ tục, cấu tạo chỗ bị mật
để giấu hàng lậu trong các hàng hóa trốn tránh, chống lại sự kiểm tra của Hải
quan, nhằm đạt được lợi ích cuối cùng là thu được lợi nhuận thặng dư siêu ngạch.
Hành vi buôn lậu có khi chỉ có giá trị nhỏ, nhưng hầu hết phải do những tổ chức
bất hợp pháp có đường dây bất hợp pháp qua biên giới, có khi xuyên quốc gia
thực hiện.
Buôn lậu là một trong những hình thức gian lận thương mại, đó là loại
hình gian lận thương mại đặc biệt nguy hiểm.
- Khái niệm về buôn lậu gia cầm và sản phẩm gia cầm
Gia cầm là tên gọi chung cho các loài động vật có hai chân, có lông vũ,
thuộc nhóm động vật có cánh được con người nuôi giữ, nhân giống nhằm mục
đích sản xuất trứng, lấy thịt hay lông vũ. Gia cầm là loài cho sản phẩm thịt làm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 5

thực phẩm cho con người phổ biến nhất thế giới, chiếm khoảng 30% sản phẩm
thịt trên toàn thế giới, đặc biệt là gà thịt (đứng đầu vẫn là thịt lợn 38%).
2.1.2 Nguyên nhân xuất hiện buôn lậu
Doanh số bán lẻ trên thị trường xã hội là chỉ tiêu phản ánh nhu cầu tiêu
dùng thực đã được thực hiện của toàn xã hội. Còn chỉ số giá cả, và theo đó là sự
biến động của nó là chỉ tiêu phản ánh tương quan giữa hai đại lượng hàng hoá và
sức mua. Nói cách khác đó là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ cung cầu về hàng
hoá. Hiểu được bản chất kinh tế của vấn đề này, các nhà sản xuất tìm cách tiết
kiệm chi phí, hạ giá thành trên cơ sở cải tiến mẫu mã hấp dẫn, phù hợp thị hiếu
sử dụng, nâng cao chất lượng sản phẩm, bán ra với giá thị trường chấp nhận,
nhằm quay vòng vốn nhanh, thu lợi nhuận cao. Để làm được những điều này
không phải là việc dễ dàng và lại nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện
nay. Một trong những hiện tượng cạnh tranh, kinh doanh để kiếm lời nhưng trái
pháp luật là lao vào "buôn lậu". Một số nhà kinh doanh thuộc các thành phần
kinh tế, dù ở mức độ khác nhau đã tìm đủ mọi cách luồn lách để thắng trong cuộc
chạy đua "một vốn bốn lời", chạy theo lối sống giàu sang nhưng lại không đủ khả
năng làm giàu hợp pháp mà kinh doanh một cách bất hợp pháp để kiếm lời nhanh
và dễ dàng. Lợi ích cá nhân của họ đặt lên quá cao mà không nghĩ đến lợi ích tập
thể, lợi ích quốc gia. Từ đó mà buôn lậu ngày càng nảy sinh và phát triển, hành vi
buôn lậu ngày càng tinh vi, diễn biến ngày càng phức tạp là điều bức xúc đối với
xã hội hiện nay.
Nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các vùng địa lý khác nhau và hàng hoá có
chất lượng cao, giá thấp hơn ở nơi này sẽ có xu hướng chuyển sang nơi khác có
hàng hoá với chất lượng thấp hơn, giá cao hơn. Đây cũng là quy luật cạnh tranh
trong lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên trong một số trường hợp để bảo vệ sản xuất
nội địa Nhà nước phải dùng đến hàng rào thuế quan (thậm chí thuế rất cao), gian
thương tìm mọi thủ đoạn để tàng trữ buôn bán, vận chuyển hàng hoá qua biên
giới, cũng như lợi dụng mọi khe hở để gian lận số lượng, chủng loại, đánh lẫn

hàng hoá … để trốn thuế kiếm lời bất chính. Một số loại hàng hoá nhà nước cấm
buôn bán vì lý do bảo vệ an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ sức
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

khỏe cộng đồng (ma túy, vũ khí, rác thải…), trên thực tế một số loại hàng hóa
cấm nhu cầu vẫn có nên giá cao, việc buôn bán trái phép những hàng hoá này
mang lại lợi nhuận rất cao lại càng thúc đẩy gian thương buôn bán để kiếm lời
bất chính. Hoặc có những loại hàng hoá buôn bán phải có phải được sự cho phép
của nhà nước (hàng hóa đã qua sử dụng, biệt dược,…) vẫn bị gian thương tìm
mọi cách để buôn bán kiếm lời.
Đối với mỗi quốc gia tuỳ thuộc quy định của pháp luật, chính sách quản lý
kinh tế, yêu cầu bảo hộ nền sản xuất nội địa và khả năng quản lý khác nhau thì
quy mô, tính chất, mức độ buôn lậu cũng khác nhau. Buôn lậu gắn bó rất chặt chẽ
với các tệ nạn tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội khác. Trong xu thế toàn
cầu hóa hiện nay thì những tệ nạn này không ngừng gia tăng và diễn biến ngày
càng phức tạp.
2.1.3 Các hình thức buôn lậu hàng hoá và buôn lậu gia cầm
Hiện nay các đối tượng ngày càng có nhiều thủ đoạn tinh vi hơn trong sản
xuất kinh doanh hàng lậu. Một số hình thức buôn lậu chủ yếu hiện nay là: Nhập
hàng hóa không qua con đường chính ngạch(nhập lậu), sản xuất hàng lậu mua
bán hàng nhập lậu trôi nổi trên thị trường kể cả hàng cấm. Song hành với hoạt
động buôn lậu này để hợp thức hóa hàng lậu thì gian lận hóa đơn chứng từ, khai
gian số lượng, xuất xứ sản phẩm…là những hành vi thường được sử dụng.
Các hình thức buôn lậu thông qua hóa đơn chứng từ:
+ Hóa đơn giả: là hành vi mua hóa đơn không do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành để hợp thức hóa hàng nhập lậu.
+ Hóa đơn thật nhưng hành vi mua bán sử dụng bất hợp pháp: mua bán hóa
đơn chưa ghi nội dung hoặc có ghi nội dung nhưng không có hàng hóa, dịch vụ kèm
theo hoặc không đúng mặt hàng; có chênh lệch về giá trị giữa các liên của hóa đơn,

mua bán hóa đơn của doanh nghiệp đã bỏ trốn sau ngày có thông báo…
+ Quay vòng hóa đơn: dùng hóa đơn hợp pháp để hợp thức hóa việc mua
bán hàng lậu cho những lần mua hàng tiếp theo mà những mặt hàng này có cùng
chủng loại với những mặt hàng trước đó.
+ Mua hàng trôi nổi bán hàng không xuất hóa đơn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7

2.1.4 Tác hại của buôn lậu và buôn lậu gia cầm
- Hậu quả đối với nền kinh tế:
Buôn lậu có tác hại rất lớn đối với nền kinh tế và những thành tựu của
công cuộc đổi mới mà đất nước đang tiến hành. Buôn lậu có nguy cơ kìm hãm
tốc độ phát triển của nền kinh tế, tạo thành một lực cản lớn đối với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hàng hoá nhập lậu là hàng gian lận, trốn thuế sẽ làm mất tính cân bằng
trong cạnh tranh thương mại giữa hàng nội và hàng ngoại, đồng thời làm thất thu
thuế xuất, nhập khẩu và các sắc thuế khác dẫn đến thất thu cho ngân sách nhà
nước. Thuế quan đánh trên hàng hoá xuất, nhập khẩu, nhằm mục đích làm tăng
giá của hàng nhập khẩu, bảo vệ và kích thích sản xuất nội địa. Vì vậy, hàng nhập
lậu - gian lận trốn thuế đã phá vỡ cạnh tranh lành mạnh giữa hàng nội và hàng
ngoại nhập. Hàng ngoại nhập lậu vào thị trường do trốn thuế nhập khẩu nên giá
rẻ hơn, chất lượng cao hơn hàng nội do có công nghệ sản xuất tiên tiến, thiết bị
khoa học hiện đại. Trong khi đó, những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước
vẫn phải nhập khẩu và chịu thuế một số nguyên vật liệu, trong quá trình sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm, họ còn phải nộp các khoản thuế khác như: thuế giá trị gia
tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp… Mặt khác, hệ thống công nghệ kỹ thuật trong
một số lĩnh vực sản xuất hiện vẫn còn đang lạc hậu, không đồng bộ, năng suất và
hiệu quả thấp, hàng hoá không phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, nên không đủ
sức cạnh tranh với hàng ngoại ngay trên chính thị trường của mình Theo quy
luật cung - cầu và giá trị hàng hoá trên thị trường thì cuộc cạnh tranh giữa hàng

nội và hàng nhập thì hàng nhập lậu do giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn, làm cho
hàng nội không tiêu thụ được trên thị trường dẫn đến đọng vốn, thiếu nợ vốn.
Điều này dễ làm cho các doanh nghiệp sản xuất đứng trước nguy cơ phá sản,
nhất là những doanh nghiệp và những ngành công nghiệp non trẻ, mới ra đời.
Đây thực sự là mối đe dọa đời sống của hàng nghìn công nhân trong các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước.
Cạnh tranh không lành mạnh giữa hàng nội và hàng nhập lậu không chỉ
gây thiệt hại cho người sản xuất, mà còn ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Hàng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

ngoại tràn ngập thị trường với giá rẻ tạo nên thị hiếu, tâm lý ưa dùng hàng ngoại.
Tuy hàng ngoại với giá rẻ hơn giá thành hàng nội là do trốn được thuế nhưng rất
bấp bênh vì không phải lúc nào nhập hàng cũng trốn được thuế. Mặt khác, các
hoạt động tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, gian thương mại của các lực
lượng chức năng sẽ làm cho nguồn hàng khan hiếm, vì vậy trong từng thời kỳ sẽ
nẩy sinh cơn sốt về giá, về hàng, làm đảo lộn sự ổn định giá cả trên thị trường.
Với cạnh tranh đó, kết cục tất yếu là hàng ngoại lấn át hàng nội địa, phá vỡ thế
bình ổn giá cả, sản xuất trong nước bị đình đốn. Nhập lậu hay xuất lậu cũng gây
thiệt hại như nhau về kinh tế, bởi nhập lậu ồ ạt biến nước ta thành thị trường tiêu
thụ hàng hoá của nước ngoài, đặc biệt là hàng dư thừa, ế ẩm. Còn xuất lậu hàng
hoá, đặc biệt là nguyên liệu, khoáng sản, nhiên liệu thô, các mặt hàng chiến lược,
hàng quốc cấm sẽ làm cho tài lực của đất nước cạn kiệt. Hậu quả rõ nhất làm mất
cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm chệch hướng phát triển của nền kinh tế.
Mặt khác, buôn lậu còn làm cho đất nước thất thu lớn về thuế xuất, nhập
khẩu và các sắc thuế khác gây ảnh hưởng đến quá trình cân đối thu - chi ngân
sách của Nhà nước, làm thất thoát ngoại tệ mạnh ra ngoài biên giới.
- Hậu quả về mặt văn hoá - xã hội:
Buôn lậu gây nên những hậu quả phức tạp và nặng nề về mặt văn hoá -
xã hội. Đây là một trong những yếu tố làm gia tăng giữa giàu và nghèo, tạo đà

cho việc thuê mướn, bóc lột sức lao động. Một số tư thương đánh mất khuynh
hướng tạo việc làm, chỉ mải mê làm giàu thông qua buôn lậu, gian lận thương
mại. Hiện tượng buôn lậu xuất hiện đã lôi kéo một lực lượng lao động khá lớn
tham gia vào đội quân “cửu vạn” mang vác hàng qua biên giới. Lực lượng đó
không chỉ bao gồm lao động tại chỗ, mà còn có cả lao động từ nơi khác đến làm
cho sản xuất bị buông lỏng, tình hình trật tự an toàn xã hội cũng bị biến động.
Thành phần lao động bị tiền thuê mướn cám dỗ, có cả trẻ em ở tuổi đến trường,
bỏ sản xuất, bỏ học hành làm “cửu vạn”. Đây là đội ngũ tiếp tay và bao che cho
buôn lậu, có những làng thuộc khu vực biên giới đường bộ người dân ở đây bỏ
cả sản xuất, coi việc mang vác, vận chuyển “thuê” hàng hoá nhập lậu là một
nghề để sinh sống.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9

Tệ nạn buôn lậu là nguyên nhân làm suy thoái đạo đức xã hội, ảnh hưởng
xấu đến thuần phong, mỹ tục và truyền thống văn hoá dân tộc. Những kẻ buôn
lậu không từ một thủ đoạn nào để thu được nhiều lợi nhuận bất chính, đồng tiền
bất chính đã làm hại những người đi buôn lậu, làm nẩy sinh các tệ nạn xã hội
như: cờ bạc, rượu chè… ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân cách con người, làm
cho đạo đức của nhiều kẻ bị tha hoá. Không chỉ có thế, buôn lậu bao giờ cũng
dẫn đến tiêu cực, tham nhũng dễ dẫn đến tha hoá một bộ phận cán bộ công chức
của Nhà nước. Thực tế cho thấy những ngành chức năng trong hoạt động chống
buôn lậu, gian thương mại trong điều hành, thực thi chính sách thương mại hoặc
liên quan đến hoạt động thương mại nếu không vững vàng sẽ bị lôi kéo, mua
chuộc và trở thành nô lệ của đồng tiền. Do bị lôi kéo bởi khoản lợi nhuận khổng
lồ, gian thương tìm mọi mánh khoé, mọi thủ đoạn để móc nối với một số cán bộ
Nhà nước bị tha hoá, biến chất. Do bị sự cám dỗ của đồng tiền mà họ đã lợi dụng
vị trí, quyền lực nhà nước giao cho để cấu kết với buôn lậu, tiếp tay và bao che
cho buôn lậu hình thành những đường dây phức tạp, khó phát hiện,
Hàng nhập lậu tuồn vào thị trường nội địa bất hợp pháp trong đó còn có

nhiều tài liệu phản động, văn hoá đồi trụy, thậm chí có cả vũ khí của những
phần tử thù địch từ nước ngoài chuyển về. Một bên là bọn buôn lậu hám lợi và
phi nghĩa, một bên là các thế lực thù địch luôn có ý đồ làm thay đổi bản sắc văn
hoá dân tộc, từ đó làm thay đổi bản chất của dân tộc được hình thành từ trong
quá trình đấu tranh chống lại áp bức bóc lột và phát triển sản xuất. Bọn buôn
lậu lợi dụng triệt để quá trình mở cửa để tăng cường chống phá ta trên mặt trận
văn hoá - xã hội bằng các thủ đoạn tuyên truyền lối sống thực dụng, coi trọng
đồng tiền, ấn hành các sản phẩm văn hoá, phủ nhận quá khứ của dân tộc, ca
ngợi lối sống hưởng thụ, chúng tuồn vào nước ta băng hình, tác phẩm văn hoá
đồi truỵ, phản động,…Cho nên những tác hại do buôn lậu gây ra không chỉ
thuần tuý về kinh tế, mà nó còn ảnh hưởng đến văn hoá - xã hội, xâm hại thuần
phong mỹ tục của đất nước.
- Hậu quả đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

Những hậu quả do buôn lậu gây ra đối với nền kinh tế và đối với nền văn
hoá xã hội đã dẫn đến những tác hại về mặt chính trị, gây khó khăn cho sự quản
lý Nhà nước. Hàng nhập lậu, gian lận trốn thuế làm cho thị trường hỗn loạn, đời
sống kinh tế của một bộ phận nhân dân gặp khó khăn, tệ nạn xã hội phát triển;
công bằng, văn minh xã hội không được thiết lập; nhà nước thất thu thuế nên
không cân đối được thu - chi ngân sách, một số quỹ phúc lợi bảo hiểm xã hội bị
giảm sút….
Buôn lậu và các chủ thể buôn lậu vì những khoản lợi nhuận khổng lồ đã
bất chấp pháp luật, bất chấp chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước với
những thủ đoạn tinh vi để thu lợi nhuận bất chính. Những khoản lợi nhuận này
tạo cho bọn buôn lậu giàu có và ăn chơi sa đoạ, phung phí, trong khi đại bộ phận
nhân dân làm ăn chân chính thì sống khó khăn và nghèo khổ. Chính sự bất công
đó đã làm nảy sinh tâm lý coi thường pháp luật, coi thường Nhà nước, kèm theo
khủng hoảng cả hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Một trong những hậu quả nữa của buôn lậu gây ra về mặt chính trị là tác
hại của nó đối với chủ quyền và an ninh quốc gia. Ngày nay, hoà bình, hợp tác để
phát triển đang trở thành xu hướng của thời đại, sức mạnh quân sự đang được
thay thế bằng sức mạnh kinh tế. Với ưu thế về kinh tế khoa học, kỹ thuật, các
nước tư bản phát triển đã và đang thực hiện chiến lược “biên giới mềm” đẩy thế
giới vào cuộc chiến tranh không có khói lửa - chiến tranh kinh tế. Kinh tế thị
trường là giải pháp hữu hiệu để tăng trưởng kinh tế, nên các nước chậm phát
triển đều có xu hướng phát triển kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ với nước
ngoài để thu hút vốn và khoa học kỹ thuật tiên tiến. Với chính sách mở cửa thì
cuộc chiến tranh giành thị trường nổ ra không kém phần gay go so với các hình
thức chiến tranh khác.
Chủ quyền lãnh thổ bị đe dọa với hình thức xâm lăng mới, đó là “diễn
biến hoà bình” và “chiến tranh biên giới mềm”, hàng hoá đến đâu là biên giới
đến đó - dần dần các nước chậm phát triển từng bước phụ thuộc vào kinh tế và
cuối cùng phải phụ thuộc vào chính trị. Trên thực tế, biên giới nhiều quốc gia vẫn
còn nguyên vẹn, bộ máy nhà nước vẫn do những cán bộ trong nước điều hành,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

nhưng thực chất độc lập, chủ quyền lãnh thổ bị mất. Vì vậy, bảo vệ an ninh biên
giới không chỉ là việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mà thực chất là bảo vệ các tiềm
năng - yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo vệ an ninh quốc gia góp phần bảo
vệ vững chắc nguồn nhân lực, vật lực, tài lực là phục vụ cho sự phát triển của nền
kinh tế và sự vững chắc của chế độ chính trị.
- Ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội:
Buôn lậu gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế, văn hoá
xã hội, chính trị, đây là những hậu quả trực tiếp dễ nhìn nhận. Một hậu quả khác
không kém phần nguy hại là hậu quả của buôn lậu dưới góc độ cả về vĩ mô và vi
mô. Nó làm cho cơ quan quản lý nhà nước không kiểm soát được tình hình xuất
nhập khẩu và liên doanh đầu tư với ngoài; công tác điều hành của cơ quan chức

năng gặp nhiều khó khăn và hoạt động kém hiệu quả.
Xét về góc độ quản lý vĩ mô, buôn lậu là một trong những nguyên nhân
làm hàng hoá nội địa bị đình trệ trong khâu phân phối và tiêu dùng, sản xuất
trong nước bị đình đốn. Nhiều doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa không cạnh
tranh nổi trên thị trường, nợ nần chồng chất dẫn đến phá sản, kéo theo sự gia tăng
của đội quân thất nghiệp. Buôn lậu còn là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp
dẫn đến dẫn đến các tệ nạn xã hội, đó là tham nhũng, tha hoá, rượu chè, cờ bạc,
trộm cắp…. Do đó, nó làm cho công tác quản lý của Nhà nước thêm khó khăn,
phức tạp. Mặt khác, buôn lậu trực tiếp dẫn đến thất thu về thuế xuất nhập khẩu và
các sắc thuế khác, đây là khoản thu lớn của ngân sách nhà nước. Điều này ảnh
hưởng đến các kế hoạch về kinh tế, tài chính khiến nhà nước mất cân đối về thu -
chi ngân sách. Buôn lậu còn phá vỡ sự bình ổn của thị trường, tạo nên cơn sốt về
hàng hoá và giá cả làm cho nhà nước không quản lý được hoạt động xuất nhập
khẩu; việc hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
bị sai lệch…
Những hậu quả của buôn lậu đối với quản lý vĩ mô đã trực tiếp và gián
tiếp ảnh hưởng đến quản lý vi mô. Hệ thống pháp luật của ta về quản lý hoạt
động xuất nhập khẩu còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, nếu không nói là chồng
chéo, mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, những chủ thể buôn lậu, gian đã lợi dụng kẽ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

hở, những quy định thiếu chặt chẽ của nhà nước để thực hiện hành vi buôn lậu
trốn thuế. Từ đó việc quản lý của cơ quan nhà nước ở cơ sở gặp nhiều khó khăn
do sự lũng đoạn thị trường của hàng ngoại nhập lậu. Giải pháp đấu tranh chống
buôn lậu, tăng cường hiệu lực kiểm tra, kiểm soát của các ngành chức năng vẫn
chưa được giải quyết tận gốc, buôn lậu đã làm cho một số cơ quan quản lý lúng
túng, bị động, khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội.
Cũng dưới góc độ quản lý, trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, hàng ngoại
nhập với lợi thế về giá cả rẻ hơn hàng nội do trốn được thuế, chất lượng tốt, mẫu

mã đẹp nên được tiêu thụ mạnh, tạo nên tâm lý ưa dùng hàng ngoại (như hàng
điện tử, gia dụng,…) trong nhân dân. Nhưng do nguồn hàng không ổn định, giá
cả không ổn định nên buôn lậu là nguyên nhân gây nên những cơn sốt về hàng,
về giá cả hàng hoá làm cho thị trường nội địa không thiết lập, lưu thông hàng hoá
bị rối loạn và gây ách tắc cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
- Ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng:
Hành vi buôn lậu có ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ, giống nòi của cộng
đồng thông qua việc đưa hàng giả, hàng nhái hoặc những loại hàng kém phẩm
chất, không đảm bảo các tiêu chuẩn theo quy định của nhà nước tuồn vào tiêu thụ
trong nội địa đặc biệt là các loại hàng hoá phải đảm bảo tiêu chuẩn về vệ sinh an
toàn thực phẩm, tiêu chuẩn về y tế, tiêu chuẩn chất lượng như: Tân dược, đồ chơi
trẻ em, mũ bảo hiểm, rượu, nước giải khát, thức ăn, gia súc, gia cầm…
Tóm lại những hậu quả và tác hại do buôn lậu gây nên đó là: Làm mất ổn
định giá cả thị trường, kìm hãm sản xuất trong nước, ảnh hưởng đến môi trường
đầu tư, gây thất thu cho ngân sách cho nhà nước, tạo nên sự cạnh tranh không
bình đẳng giữa hàng nội và hàng ngoại, là nguyên nhân phát sinh các tiêu cực
trong xã hội. Vì vậy tệ nạn buôn lậu phải được ngăn chặn một cách triệt để và là
nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó có lực lượng Quản lý thị trường.
2.1.5 Hoạt động chống buôn lậu
a) Hình thức, chế tài chống buôn lậu
Một số mức xử phạt vi phạm hàng chính trong buôn bán hàng lậu của
Việt Nam
(trích dẫn theo Nghị định số: 06/2008/NĐ-CP ngày 16/01/2008 của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại đã
được sửa đổi bổ sung một số điều tại Nghị định số: 112/2010 ngày 01/12/2010 của
chính phủ).
Điều 22. Xử phạt hành vi kinh doanh hàng hoá nhập lậu

1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với
hành vi kinh doanh hàng hoá nhập lậu có giá trị đến 5.000.000 đồng.
2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm
quy định tại khoản 1 Điều này có giá trị từ trên 5.000.000 đồng đến 10.000.000
đồng.
3. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm
quy định tại khoản 1 Điều này có giá trị từ trên 10.000.000 đồng đến 20.000.000
đồng.
4. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm
quy định tại khoản 1 Điều này có giá trị từ trên 20.000.000 đồng đến 30.000.000
đồng.
5. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm
quy định tại khoản 1 Điều này có giá trị từ trên 30.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng.
6. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm
quy định tại khoản 1 Điều này có giá trị từ trên 50.000.000 đồng đến 70.000.000
đồng.
7. Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi vi
phạm quy định tại khoản 1 Điều này có giá trị từ trên 70.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng.
8. Phạt tiền gấp hai lần mức tiền phạt quy định từ khoản 1 đến khoản 7
Điều này đối với một trong các trường hợp sau đây:
a) Hàng hoá nhập lậu thuộc danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu hoặc tạm
ngừng nhập khẩu;
b) Hành vi vi phạm là của cá nhân, tổ chức trực tiếp nhập khẩu hàng hoá đó.
9. Các mức phạt tiền quy định từ khoản 1 đến khoản 8 Điều này cũng được
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

áp dụng xử phạt đối với:

a) Chủ phương tiện vận tải hoặc người điều khiển phương tiện vận tải có
hành vi cố ý vận chuyển hàng hoá nhập lậu;
b) Chủ kho tàng, bến, bãi, nhà ở có hành vi cố ý chứa chấp, cất giấu hàng
hoá nhập lậu;
c) Cá nhân, tổ chức kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá có hành vi cố ý
giao nhận hàng hoá nhập lậu.
10. Trường hợp hàng hoá nhập lậu thuộc danh mục hàng hoá cấm kinh
doanh thì xử phạt theo quy định tại Điều 18 Nghị định này.
11. Hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc tiêu hủy hàng hoá, vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật
nuôi, cây trồng, môi trường, đồ chơi có hại cho giáo dục nhân cách và sức khoẻ trẻ
em, văn hoá phẩm độc hại đối với vi phạm quy định tại Điều này. Trường hợp
không thể áp dụng được biện pháp buộc tiêu huỷ hoặc cá nhân, tổ chức vi phạm
không thực hiện việc tiêu huỷ thì tịch thu để tiêu huỷ theo quy định;
b) Tịch thu hàng hoá nhập lậu đối với vi phạm quy định tại Điều này, trừ
trường hợp đã áp dụng biện pháp quy định tại điểm a khoản 11 Điều này;
c) Tịch thu phương tiện vận chuyển hàng hoá nhập lậu đối với vi phạm tại
điểm a và điểm c khoản 9 Điều này nếu thuộc một trong các trường hợp: hàng hoá
nhập lậu có giá trị từ trên 70.000.000 đồng; vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm; sử
dụng biển kiểm soát không phải của phương tiện vận chuyển đó hoặc biển kiểm
soát phương tiện không phải do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp; có
hành vi trốn tránh hoặc cản trở người thi hành công vụ, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 17 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và khoản 2 Điều 12 Nghị
định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
b) Cơ quan chống buôn lậu
* Phạm vi hoạt động và đối tượng chủ yếu của cơ quan quản lý thị trường
Phạm vi hoạt động của lực lượng quản lý thị trường rất rộng nó được thể
hiện trên nhiều lĩnh vực như sau:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 15

- Lĩnh vực thương mại: trong lĩnh vực này thì đó là các hoạt động thương
mại của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh trên thị trường, ví dụ: sản xuất,
mua bán hàng hóa, vận chuyển lưu thông hàng hóa trên thị trường…
- Lĩnh vực kế toán: là những hoạt động liên quan đến sổ kế toán của các
cơ sở sản xuất kinh doanh như mở sổ kế toán, ghi chép sổ kế toán…
- Lĩnh vực thuế: các hoạt động liên quan đến lĩnh vực này là việc chấp
hành các nghĩa vụ về thuế của các doanh nghiệp.
- Lĩnh vực văn hóa thông tin: là các hoạt động liên quan đến việc quảng
cáo, buôn bán những mặt hàng thuộc lĩnh vực văn hóa như băng đĩa, sách báo…
- Lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm: các hoạt động liên quan đến chất
lượng hàng hóa có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người tiêu dùng.
Qua một số phạm vi hoạt động như trên thì đối tượng chủ yếu của quản lý
thị trường chính là các hành vi vi phạm pháp luật thương mại trong phạm vi hoạt
động đã nêu ở trên trong đó chủ yếu là những vi phạm trong việc mua bán hàng
nhập lậu trên thị trường nội địa. Có thể nói đây là khu vực thường xảy ra gian lận
nhất thông qua những thủ đoạn khá tinh vi. Đặc biệt trong điều kiện ở Việt Nam
hiện nay nói chung và Bắc Giang nói riêng với công tác quản lý còn lỏng lẻo,
môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, đồng thời sự phối hợp giữa các lực lượng
chức năng trong việc đấu tranh chống hàng lậu còn nhiều bất cập…thì hoạt động
này lại càng có cơ hội phát triển. Nó gây ra nhiều hậu quả xấu đối với toàn bộ
nền kinh tế-chính trị và xã hội không những tác động lợi ích của người tiêu dùng
mà còn gây khó khăn cho những doanh nghiệp làm ăn chân chính. Do vậy gây
biến động thị trường cũng như ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Hiện nay, trong tiến trình hội nhập chủng loại hàng hóa nhập khẩu ở nước
ta ngày càng đa dạng và số lượng có xu hướng tăng rất nhanh. Do vậy công tác
quản lý thị trường ngày càng phức tạp.
Xuất phát từ những đặc điểm của hàng hóa nhập khẩu đã nêu ở trên đòi

hỏi các cơ quan nhà nước trong đó có lực lượng quản lý thị trường phải tăng
cường kiểm tra, giám sát hàng hóa nhập khẩu để hạn chế đến mức thấp nhất các
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16

tiêu cực của nó có thể gây ra cho nền kinh tế.
* Sự phối hợp hoạt động của cơ quan quản lý thị trường và các cơ quan hữu
quan trong hoạt động đấu tranh chống buôn lậu hàng hóa
Để việc kiểm tra, kiểm soát được thực hiện có hiệu quả đòi hỏi phải có sự
phối hợp đồng bộ giữa lực lượng quản lý thị trường và các cơ quan hữu quan có như
vậy mới hoàn thành tốt được nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ giao phó.
Ở thị trường nội địa hoạt động của lực lượng quản lý thị trường thường
được thực hiện với sự phối hợp của công an, thuế vụ và khi cần thiết cả với Hải
quan đảm nhiệm những nhiệm vụ sau:
- Theo dõi hoạt động của các cơ sở kinh doanh hàng hóa nhập khẩu, thi
hành những biện pháp nghiệp vụ để kiểm tra, kiểm soát, điều tra truy xét nhằm
phát hiện các đối tượng buôn bán, vận chuyển, chứa chấp, cất giấu hàng nhập
lậu, hàng cấm, hàng nhập khẩu không có hóa đơn chứng từ hợp pháp.
- Đối với các hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực mình phụ trách thì quản lý
thị thị trường sẽ trực tiếp xử lý theo thẩm quyền còn đối với những vi phạm
không thuộc thẩm quyền thì sẽ chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền giải
quyết, cụ thể:
- Phối hợp với cơ quan thuế: Thông qua việc kiểm tra, kiểm soát sổ sách
kế toán, hóa đơn chứng từ lực lượng quản lý thị trường bên cạnh việc phát hiện
và thu giữ hàng hóa vi phạm thì khi vi phạm liên quan đến lĩnh vực thuế thì quản
lý thị trường chuyển qua cơ quan thuế giải quyết theo thẩm quyền nhằm giúp cơ
quan thuế truy thu số tiền trốn lậu thuế.
- Phối hợp với Hải quan: đối với công tác đấu tranh phòng, chống buôn
lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, phương tiện vận tải xuất cảnh,
nhập cảnh, quá cảnh, trong phạm vi địa bàn hoạt động của Hải quan thì do Hải

quan chủ trì Quản lý thị trường phối hợp, còn đối với công tác đấu tranh phòng,
chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa liên quan đến xuất khẩu, nhập
khẩu (ngoài địa bàn hoạt động của Hải quan) thì Quản lý thị trường chủ trì Hải
quan phối hợp. Trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hóa qua biên giới; vận chuyển sản xuất, kinh doanh hàng hóa trái
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 17

phép liên quan đến xuất nhập khẩu thì mỗi bên chủ động có kế hoạch phòng
chống các hành vi nêu trên theo chức năng nhiệm vụ của mình.
- Phối hợp với công an các cấp: kiểm tra, kiểm soát ngăn chặn tình trạng
hàng nhập lậu qua biên giới tràn vào nội địa. Lực lượng quản lý thị trường phối
hợp với công an giao thông để dừng phương tiện, vận tải khi phát hiện trên xe
đang vận chuyển hàng lậu và ngược lại công an giao thông khi dừng phương tiện
vận tải do vi phạm luật giao thông nếu phát hiện hàng hóa không hợp pháp có thể
chuyển giao cho quản lý thị trường xử lý. Khi cơ quan quản lý thị trường kiểm
tra vụ việc có liên quan đến truy cứu trách nhiệm hình sự thì chuyển giao cơ quan
công an để xử lý.
Khi điều tra truy xét các đường dây buôn lậu, các ổ chứa chấp hàng lậu có
liên quan đến các địa phương nào thì phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức
năng ở địa phương đó.
Ngoài ra lực lượng quản lý thị trường còn phối hợp với các cơ quan y tế,
thú y, bảo vệ thực vật, kiểm lâm… khi kiểm tra bắt giữ những mặt hàng nhập lậu,
hàng cấm thuộc lĩnh vực hoạt động của những cơ quan này. Nhìn chung thì sự
phối hợp hoạt động giữa lực lượng quản lý thị trường và các cơ quan chức năng
trong công tác đấu tranh chống buôn lậu là rất đa dạng tùy theo từng tuyến đường
(đường sông, đường bộ, đường sắt, đường hàng không…) hoặc mặt hàng mà có
sự phối hợp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác.
2.1.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác chống buôn lậu của cơ quan quản lý thị
trường

* Vị trí địa lý
Việt Nam có đường biển dài hơn 3.200km trải dài từ Móng Cái đến mũi
Cà Mau với nhiều luồng, lạch, bãi ngang, đảo. Biên giới đường bộ dài hơn 3.700
km qua 24 tỉnh, thành phố và tiếp giáp với 3 nước Lào, Campuchia và đặc biệt là
Trung Quốc với nhiều đường mòn, lối mở và các cửa khẩu qua lại, giao thương
hàng hoá. Có thể nói địa hình nước ta thuận lợi cho hoạt động vận chuyển hàng
lậu, hàng giả và gian lận thương mại, đồng thời khó khăn cho công tác kiểm tra,
kiểm soát của các lực lượng chức năng.

×