Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh đắk nông)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 112 trang )


I HC QUC GIA H NI







PHM





TRANH TụNG TRONG XéT Xử
THEO LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(TRÊN CƠ Sở Số LIệU THựC TIễN ĐịA BàN TỉNH ĐắK NÔNG)































- 2015

I HC QUC GIA H NI







PHM





TRANH TụNG TRONG XéT Xử
THEO LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(TRÊN CƠ Sở Số LIệU THựC TIễN ĐịA BàN TỉNH ĐắK NÔNG)



Chuyờn nga

nh:
















M s: 60 38 01 40


























: PGS. TS.














- 2015


L

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công
bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chín xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa luật xem xét để
cho tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN



Phm



MC LC


Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
M U 1
 : MT S V   N V TRANH TNG
 V  8
1.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH TỐ TỤNG TRANH TỤNG 8
1.1.1. Sự ra đời của mô hình tố tụng tranh tụng 8
1.1.2. Khái niệm mô hình tố tụng tranh tụng 10
1.1.3. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng 11
1.2. VAI TRÒ CỦA TRANH TỤNG TRONG QUÁ TRÌNH XÉT
XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 17
1.2.1. Xét xử là biểu hiện tập trung, tiêu biểu nhất quyết định hiệu quả
của tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án 18
1.2.2. Điều khiển tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên thông qua vai
trò của Hội đồng xét xử 22
1.2.3. Ra các phán quyết về tội phạm và người phạm tội dựa trên kết
quả tranh tụng tại tòa 25
1.3. TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI 27
1.3.1. Tố tụng tranh tụng tại một số nước theo hệ thống Common law 27
1.3.2. Áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự - Điểm cơ bản
trong quá trình cải cách tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới 32


 :  NH C  T  C TIN

TRANH T A BNH
 38
2.1. QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRANH TỤNG TRONG
XÉT XỬ 38
2.1.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh tụng trong xét xử
trước 2003 38
2.1.2. Qui định của Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về tranh tụng
trong xét xử 43
2.2. THỰC TIỄN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ TẠI TỈNH
ĐẮK NÔNG 50
2.2.1. Một số đặc điểm tình hình kinh tế - Xã hội và tổ chức bộ máy
của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông 50
2.2.2. Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông 53
2.2.3. Những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, xã hội, tổ chức ảnh
hưởng đến chất lượng tranh tụng trong xét xử 54
2.2.4. Tình hình xét xử từ năm 2010 – 2014 trên địa bàn Tỉnh Đắk Nông 56
2.2.5. Tình hình tham gia tranh tụng của luật sư tại phiên tòa ở Đắc Nông 60
2.2.6. Một số phiên toà điển hình của việc xét xử theo hướng tranh
tụng tại Đắk Nông 62
2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ 66
: NG GI
U QU TRANH T
V  70
3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 70
3.1.1. Bất cập qui định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử 70



3.1.2. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự hiệu quả
chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng tại phiên tòa 78
3.1.3. Yêu cầu triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về chiến
lược cải cách tư pháp và Hiến pháp 2013 82
3.2. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VỀ BẢO ĐẢM TRANH
TỤNG TRONG XÉT XỬ 83
3.2.1. “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” phải được qui định là
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự 83
3.2.2. Bổ sung, hoàn thiện các qui định hỗ trợ cho việc “ bảo đảm
tranh tụng trong xét xử” 84
3.2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa 90
KT LUN 98
DANH MU THAM KHO 101



DANH MC T VIT TT

BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQTHTTHS: Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
HSPT: Hình sự phúc thẩm
HSST: Hình sự sơ thẩm
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân Tối cao
THTT: Tiến hành tố tụng
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao





DANH MNG

S hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Thống kê số liệu Cán bộ Công chức TAND tỉnh Đắk
Nông tính đến ngày 10/07/2014
54
Bảng 2.2:
Số vụ án được xét xử
56
Bảng 2.3:
Số bị cáo được xét xử
57
Bảng 2.4:
Các đối tượng là người chưa thành niên và bị truy tố đến
khung hình phạt đến tử hình
60
Bảng 2.5:
Số vụ, việc do cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu
61
Bảng 2.6:
Số lượng tham gia của luật sư tại phiên tòa
61








1


p thit c 
Trong những năm gần đây tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta nói
chung cũng như tình hình vi phạm ở trên địa bàn tỉnh Đắk Nông xảy ra ngày
càng nghiêm trọng, có chiều hướng gia tăng nhanh cụ thể trong 10 đại án mà
cả nước quan tâm trong thời gian qua thì tỉnh Đắk Nông có một vụ và đã đưa
ra xét xử từ ngày 18/3/2014 đến ngày 20/3/2014. Việc gia tăng tội phạm đã
làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hóa; hiện đại hóa đất
nước. Các cơ quan Tư pháp như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đã nỗ lực
phấn đấu giải quyết tốt công việc của mình mà Đảng, Nhà nước và nhân dân
giao phó để góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh, chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian qua vẫn còn những trường hợp làm
oan người vô tội, các cơ quan Tư pháp phải bồi thường và công khai xin lỗi.
Hậu quả để lại cho người bị oan rất nặng nề sau khi được minh oan họ đã
trắng tay, gia đình ly tán, người thân đầy mặc cảm với xã hội, con cái không
còn giám đến trường học vì bị bạn bè khinh rẻ, kinh tế của gia đình sụt giảm
nghiêm trọng có những trường hợp đã khánh kiệt về tài sản; hay họ từ những
người thành đạt và được trọng vọng trong xã hội nhưng sau thời gian bị tạm
giam và kết án oan thì bị người thân và xã hội xa lánh. Trong khi đó người
thực hiện hành vi tội phạm đích thực thì vẫn cứ nhởn nhơ ở ngoài xã hội và
chưa bị pháp luật trừng trị Điều đó tạo dư luận không tốt trong xã hội khiến
nhân dân giảm lòng tin vào sự công bằng trong xã hội mà Đảng, Nhà nước và

toàn thể nhân dân ta đang hướng tới.
Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc xét xử và ra các
bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật có ý nghĩa quyết định và góp
phần phát huy được vai trò tích cực là một bộ phận cấu thành không thể thiếu


2
trong hệ thống các biện pháp tác động của Nhà nước và xã hội đến tội phạm.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển toàn diện của đất nước trên các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và qua thực tiễn áp dụng, nhiều quy định về
tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng của
BLTTHS năm 2003 vẫn còn một số bất cập và hạn chế như: chưa đưa ra định
nghĩa pháp lý của khái niệm tranh tụng tại phiên tòa, những quy định cụ thể
của tranh tụng tại phiên tòa đồng thời cần bổ sung quy định của BLTTHS
sự với nội dung tăng cường việc tranh tụng tại phiên tòa v.v
Một số tồn tại và hạn chế nêu trên đã gây ra những vướng mắc, lúng
túng và có không ít trường hợp áp dụng còn chưa thống nhất các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp nhất
là về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự. Mặt khác, trong thực tiễn khi xét
xử các vụ án Hình sự do chưa đánh giá hết vai trò, chức năng, công dụng
của việc tranh tụng tại phiên tòa, nên các Tòa án; những người tham gia tố
tụng còn ít quan tâm.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020;
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra yêu cầu "Nâng cao chất lượng hoạt động
của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét

xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp" và Nghị quyết số
37/2012/HQ13 ngày 23/11/2012 của Quốc Hội cũng yêu cầu Tòa án nhân dân
tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa;
đảm bảo việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật.


3
Hiện nay, khoa học luật tố tụng hình sự trong và ngoài nước đã có
nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tòa, nhưng chủ
yếu chỉ đề cập một cách tổng thể và có hệ thống những khía cạnh lý luận
chung nhất về tranh tụng mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về về tranh tụng tại trong xét xử dưới
góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng.
Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng, lấy lại niềm
tin của người dân vào tòa án và nền công lý xã hội chủ nghĩa. Việc tiếp tục
nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp
dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa
lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần
thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài "Tranh tụng trong xét xử theo Luật t tụng
Hình sự Việt Nam (trên cơ sở s liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)"
làm luận văn thạc sĩ luật học.
u c 
Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến
vấn đề tranh tụng tại phiên tòa trong tố tụng Hình sự như:
Ở Việt Nam, khoa học luật tố tụng hình sự là một trong những ngành
khoa học pháp lý phát triển nhất so với các ngành khoa học pháp lý khác, do
đó, xét riêng về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự, cho thấy có các công
trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:

TSKH Lê Cảm và TS Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên "Cải cách tư
pháp ở Việt Nam trong gia đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà nội, 2004. Tống Anh Hào "Về tranh tụng tại phiên
tòa Hình sự" trong tạp chí Tòa án số 5/2003; Hồ Nguyễn Quân "Một số giải


4
pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa" trong tạp chí Tòa
án số 1/2014; PGS-TS Trần Văn Độ "Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa"
Trong tạp chí khoa học pháp lý số 4/2004; Hồ Nguyễn Quân "Một số giải
pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa Hình sự" trong Tạp chí
Tòa án số 01/2004. Nguyễn Thị Tuyết "Kiểm sát viên tham gia tranh tụng
tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp" trong tạp chí Tòa án
số 04/2010; v.v
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã
có một số công trình nghiên cứu cơ bản về các giải pháp nâng cao chất lượng
về tranh tụng tại phiên tòa hình sự còn đối với việc nghiên cứu một cách toàn
diện về tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam thì chưa
có công trình nào đề cập đến.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài "Tranh tụng trong xét xử theo Luật t tụng
Hình sự Việt Nam (trên cơ sở s liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)" là
đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mhim v u ca lu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về
tranh tụng trong xét xử dưới khía cạnh lập pháp tố tụng hình sự và áp dụng
chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
các quy định về tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam,
cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tranh tụng trong

xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trong thực tiễn áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và


5
ngoài nước về tranh tụng trong xét xử, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một
số vấn đề chung về tranh tụng trong xét xử theo Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam như: Khái niệm tranh tụng, đặc điểm của mô hình tranh tụng; ưu điểm
và hạn chế của mô hình tranh tụng; Khái niệm tranh tụng trong xét xử vụ án
Hình sự, nội dung, đặc điểm của tranh tụng trong xét xử Hình sự.
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam về tranh tụng trong xét xử ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng tám
năm 1945 cho đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về trang tụng trong xét xử của Bộ
luật Tố tụng hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những tồn tại, hạn
chế của các quy định về tranh tụng trong xét xử trong luật Tố tụng Hình sự
Việt Nam cần khắc phục;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tranh tụng
trong xét xử vụ án hình sự theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam trên địa bàn
tỉnh Đắk Nông, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh
việc áp dụng và những nguyên nhân của nó;
- Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định
về Tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và
nâng cao hiệu quả việc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh tranh
tụng tại phiên tòa theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam, kết hợp với việc
nghiên cứu đánh giá tình hình tranh tụng tại phiên tòa trong thực tiễn xét xử

các vụ án Hình sự của các Tòa án nhân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp
tỉnh thuộc tỉnh Đắk Nông và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả
tranh tụng tại phiên tòa Hình sự trong thực tiễn.


6
Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một
số nước trong khi nghiên cứu tranh tụng trong xét xử.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc tranh tụng tại các
phiên tòa Hình sự trong 05 năm (2010-2014) thuộc Tòa án nhân dân hai cấp
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
u
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về vấn đề cải cách tư pháp.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh để tổng hợp các tri thức khoa
học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Nhm ma lu
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ luật học về tranh tụng trong xét xử, mà trong đó giải
quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới tranh
tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ
bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về Tranh tụng
trong xét xử để xây dựng nên khái niệm tranh tụng, tranh tụng trong xét xử vụ

án Hình sự đảm bảo tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm
cơ bản của tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong mối tương quan với
một số thủ tục khác;
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành


7
và phát triển của tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong pháp luật hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh tình hình thực hiện việc
tranh tụng tại các phiên tòa hình sự của Tòa án các cấp thuộc tỉnh Đắk Nông;
những tồn tại, hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực hiện việc tranh
tụng tại phiên tòa cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất
các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng và nâng cao hiệu quả
của việc thực hiện tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan Viện kiểm
sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn
cứ và đúng pháp luật.
6. Kt cu ca lu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn tranh tụng trong xét xử.

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự.


8
Chương 1



1.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH TỐ TỤNG TRANH TỤNG
1.1.1. a 
Mô hình tố tụng hình sự của một Quốc gia được thể hiện trong Luật Tố
tụng hình sự của Quốc gia đó phản ánh cách thức giải quyết vụ án hình sự, từ
việc xác định, chứng minh tội phạm đến phán quyết về tội phạm và trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Mô hình tố tụng hình sự phụ thuộc vào
cơ sở kinh tế- chính trị- xã hội và nền pháp luật cũng như năng lực của các cơ
quan tiến hành tố tụng mỗi Quốc gia. Đối với những nước theo hệ thống pháp
luật Common Law thì việc tìm đến sự thật khách quan của vụ án được coi là
mục tiêu tối quan trọng và các Cơ quan tiến hành tố tụng có địa vị tích cực,
chủ động trong quá trình tìm kiếm sự thật đó. Tuy cũng hướng đến mục tiêu
tìm đến sự thật khách quan nhưng các nước theo dòng pháp luật Civil Law lại
đặc biệt coi trọng đến quyền con người và địa vị bình đẳng giữa các bên trong
quá trình tố tụng.
Khi nghiên cứu về luật so sánh cho mô hình tố tụng tranh tụng được
tìm thấy ở các nước thuộc hệ thống Common law, trong phần trình bày của
mình tại Nhà pháp luật Việt – Pháp, bà Elisabeth Pelsez cho rằng mô hình tố
tụng đầu tiên trong lịch sử phát triển của xã hội là tố tụng tranh tụng. Bà nhấn
mạnh rằng các nhà nghiên cứu lịch sử pháp luật đều nhận định tố tụng tranh
tụng đã được áp dụng tại Hy Lạp cổ đại và được đưa tới La Mã với tên gọi
“thủ tục hỏi đáp liên tục”. Anh quốc luôn được xem là quê hương của hệ

thống Common law cho nên khi nghiên cứu đến tố tụng tranh tụng người ta
không thể không xem xét pháp luật của Anh quốc. Phillip L. Reichel cho rằng


9
hệ thống tranh tụng thường được coi là cái thay thế cho sự trả thù cá nhân.
Quả thực, cho đến thế kỷ XIII ở Anh quốc những người bị xâm hại về tài sản,
về thân thể chưa nhận được sự bảo hộ của pháp luật, họ chưa nhận được sự
che chở của toà án và phải tự trả thù. Sau này để chấm dứt một nền công lý
thô bạo, giải quyết các mâu thuẫn theo con đường “nợ máu phải trả bằng
máu” thì vào khoảng năm 1252 đã xuất hiện một cái gọi là writ of trespass (tố
quyền về sự vi phạm) ở Anh quốc và cũng từ đó người buộc tội đã chuyển từ
cá nhân sang nhà nước và giữa họ xử sự với nhau theo kiểu tranh cãi và người
ta gọi quy trình xét xử đó là tranh tụng hay đối tụng [10, tr.3]. Theo PGS. TS
Phạm Hồng Hải thì lịch sử tố tụng hình sự trên thế giới đã từng chứng kiến
bốn loại hình tố tụng khác nhau. Ban đầu là tố tụng hình sự tố cáo ở nhà nước
nô lệ, sau đó được thay thế bằng kiểu tố tụng hình sự xét hỏi ở nhà nước
phong kiến. Vào thế kỷ 17,18 ở Châu Âu các nhà tư tưởng nổi tiếng đã tác
động rất lớn tới quá trình dân chủ hoá nền tư pháp nói chung và tố tụng hình
sự nói riêng, do đó kiểu tố tụng xét hỏi đã được chuyển sang kiểu tố tụng xét
hỏi- tranh tụng và cuối cùng là tố tụng hình sự tranh tụng. Cũng theo PGS.TS
Phạm Hồng Hải, mầm mống của tố tụng hình sự tranh tụng đã xuất hiện ở
một số quốc gia trong khoảng từ thế kỷ X đến XIII khi ở các nơi đó tồn tại
một phong tục gọi là “quyết đấu”. Đây là phong tục rất thịnh hành thời cổ xưa
khi người buộc tội và người bị buộc tội phải “thi đấu” với nhau (kể cả bằng sức
mạnh) và chân lý được coi là thuộc về người chiến thắng. Ý tưởng có thể coi là
“hoang dã” này đã ảnh hưởng tới cách thức tổ chức và thủ tục tố tụng hình sự
và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng ngày càng được hoàn thiện [18]. Có thể
nói rằng, trong lịch sử phát triển tố tụng hình sự, ở hầu hết các nước đều bắt
đầu từ mô hình đối tụng. Trong hệ thống đối tụng thời sơ khai, xét xử hình sự

do nguyên đơn khởi xướng và thẩm phán không tự động điều tra hay xét xử
một vụ án nào vì tất cả các vụ kiện đều được coi là tranh chấp giữa những


10
người tranh tụng. Trong quá trình xét xử, cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ
ngang bằng nhau, hai bên tranh tụng trước toà và thẩm phán sẽ xem xét và
quyết định xem ai thắng kiện. Và dần dần khi xã hội phát triển đến một chừng
mực nào đó và nhà nước buộc phải phát huy vai trò của mình thì kể cả khi
không cần có sự khởi xướng của nguyên đơn, nhà nước vẫn có thể truy tố một
kẻ nào đó ra trước toà và giữa họ sẽ diễn ra một quá trình tranh luận để đi tìm
sự thật khách quan của vụ án, đó chính là hình ảnh của hệ tố tụng tranh tụng
ngày nay. Như vậy, để có được mô hình tố tụng hình sự tranh tụng như hiện
nay, lịch sử của tố tụng hình sự đã phải trải qua một thời gian khá dài với rất
nhiều thử thách, thăng trầm và người ta vẫn đang bàn luận về ưu, nhược điểm
của hệ tố tụng này nhưng đa số điều thừa nhận tính ưu việt của mô hình tố
tụng tranh tụng so với các mô hình tố tụng hình sự khác.

Trên thế giới, hiện đang tồn tại nhiều loại mô hình tố tụng khác nhau,
trong đó có hai mô hình tố tụng chính là: Mô hình tố tụng thẩm vấn (xét hỏi)
và mô hình tố tụng tranh tụng. Mô hình tố tụng hình sự là khái niệm khoa học
với những tiêu chí nhất định để xác định Luật tố tụng hình sự một quốc gia
thuộc mô hình tố tụng hình sự nào. Những tiêu chí đó bao gồm: Thứ nhất, về
mục tiêu và phương pháp tố tụng sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án.
Các mô hình tố tụng đều có chung một mục đích là tìm ra sự thật khách quan
của vụ án. Tuy nhiên, mô hình tố tụng thẩm vấn chủ yếu áp dụng phương
pháp xét hỏi một chiều để tìm ra chân lý. Còn mô hình tố tụng tranh tụng lại
áp dụng phương pháp đối đáp hai chiều, một cách bình đẳng để tìm ra bên có
lý hơn; Thứ hai, về vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng.
Đối với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, địa vị của người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo hoàn toàn bình đẳng đối với bên buộc tội. Còn ở mô hình tố tụng
thẩm vấn, các cơ quan tiến hành tố tụng giữ vị trí chủ động, tích cực, quyết


11
định trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; Thứ ba, về vấn đề chứng cứ và
chứng minh tội phạm: Trong khi mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn quy định
chỉ có Cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền thu thập chứng cứ và lập hồ sơ
vụ án thì ở mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, bên gỡ tội cũng có quyền thu
thập chứng cứ và lập một hồ sơ hình sự riêng của mình. Tại phiên tòa, Luật sư
trong mô hình tố tụng tranh tụng có quyền bình đẳng với bên Công tố, được
triệu tập nhân chứng, đối đáp, xét hỏi những người có liên quan. Điều này
không có ở mô hình tố tụng thẩm vấn.
Trên cơ sở các tiêu chí này, mô hình tố tụng tranh tụng có những đặc
điểm sau: a.Trong tố tụng tranh tụng quá trình giải quyết vụ án hình sự được
coi là quá trình giải quyết tranh chấp; b. Hình thành các bên (bên buộc tội,
bên gỡ tội) bình đẳng trong việc thu thập chứng cứ, chứng minh trong quá
trình giải quyết vụ án, có quyền nghĩa vụ tố tụng ngang nhau; c. Các chức
năng cơ bản của TTHS được phân định rõ ràng tương ứng với các chủ thể
buộc tội, chủ thể gỡ tội và chủ thể xét xử; d. Không mong đợi sự hợp tác của
bị can, bị cáo trong quá trình chứng minh, họ được quyền giữ im lặng; e. Tố
tụng tranh tụng mang tính chất công khai và mở ra cơ hội cho các bên buộc
tội và bên gỡ tội.
Từ những đặc điểm nêu trên có thể đưa ra khái niệm về mô hình tố tụng
tranh tụng như sau: Tố tụng tranh tụng là mô hình tố tụng hình sự mà ở đó
xuất hiện bên buộc tội và bên gỡ tội có địa vị pháp lý ngang bằng nhau trong
quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án và toà án sẽ ra phán quyết
dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên toà.
1.1.3. g
1.1.3.1. Ưu điểm

Ưu điểm của mô hình tố tụng tranh tụng thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Mô hình tố tụng tranh tụng có một quy trình tố tụng công bằng, nhất


12
là trong giai đoạn xét xử với vai trò bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào
chữa. Cả hai chủ thể này đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trong suốt quá
trình tố tụng. Ở giai đoạn tiền xét xử, họ có quyền như nhau trong việc điều
tra, thu thập chứng cứ. Ở giai đoạn xét xử, chứng cứ của họ đều được đưa ra
để thẩm tra trước Tòa. Từ góc độ tố tụng, họ đều có quyền tác động như nhau
tới phiên xét xử, có quyền lựa chọn nhân chứng để thẩm tra Tố tụng tranh
tụng được biết đến khi tính ưu việt của nó là không chỉ đề cao quyền con
người mà còn phát huy tối đa tinh thần dân chủ. Tại các nước theo hệ tranh
tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng không bao giờ đứng trên và có ưu thế trội
hơn bên gỡ tội mà giữa họ có một vị thế ngang bằng nhau, nhà nước và công
dân đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng. Mô hình tố tụng tranh tụng đề cao
dân chủ, công dân mà cụ thể là bị cáo cũng có quyền điều tra, thu thập chứng
cứ để gỡ tội cho mình giống như là hoạt động của một công tố viên thu thập
chứng cứ để buộc tội họ. Tại phiên toà xét xử, công tố viên và luật sư bào
chữa tranh cãi với nhau một cách dân chủ cả về nội dung và hình thức. Đây
chính là ưu điểm nổi bật của hệ tranh tụng so với hệ thẩm vấn – nơi mà phiên
toà thường diễn ra một chiều theo hướng dành toàn bộ ưu thế cho viện công
tố khi kết tội bị cáo.
Với đặc điểm là toà án chỉ đóng vai trò trung gian như một trọng tài,
thẩm phán ở các nước theo hệ tranh tụng không được tiếp cận với hồ sơ vụ
án và không tham gia thẩm vấn. Do các bên được tự do trong việc thu thập
và xuất trình chứng cứ, tự do trong việc thẩm vấn và tranh tụng tại phiên toà
nên tố tụng tranh tụng đảm bảo được tính vô tư khách quan khi đưa ra phán
quyết [39, tr.26]. Người ta cũng cho rằng phán quyết mà các vị thẩm phán
của mô hình tố tụng tranh tụng đưa ra là một phán quyết rất công bằng. Xin

nói cho rõ thêm đây được xem là phán quyết công bằng nhưng không hẳn là
phán quyết đem lại công lý, bởi công bằng không có nghĩa là công lý. Công


13
bằng là ở chỗ phán quyết của toà án dựa trên kết quả cuộc tranh luận giữa bên
buộc tội và bên gỡ tội – mà cả hai bên này đều được pháp luật trao cho những
cơ hội ngang nhau để bảo vệ luận điểm, lý lẽ của mình nên một phán quyết có
lợi hơn cho bên giành chiến thắng chính là một phần thưởng xứng đáng giành
cho người nỗ lực, tích cực, chủ động và tài giỏi hơn.
Sự công bằng còn đem lại những tác động tích cực tới chất lượng của
quá trình giải quyết vụ án. Do Luật sư có thể tham gia đầy đủ vào quá trình tố
tụng nên Tòa án có thêm được một nguồn thông tin để khám phá sự thật khách
quan của vụ án. Thay vì chỉ xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ hình sự của
bên buộc tội (đối với mô hình tố tụng thẩm vấn) thì Tòa án trong mô hình tố
tụng tranh tụng được tiếp cận cả chứng cứ phong phú của cả bên buộc tội và
bên gỡ tội. Sự va đập của hai luồng chứng cứ này có thể tìm ra sự thật khách
quan một cách chính xác hơn, chất lượng tố tụng vì thế cũng nâng cao hơn.
- Tôn trọng và bảo đảm quyền con người hơn trong quá trình tố tụng so
với các mô hình tố tụng hình sự khác
Tố tụng hình sự là hoạt động khá nhạy cảm và cũng rất dễ động chạm
đến quyền con người, nhưng đã từ rất lâu nay, trong lịch sử phát triển cuả
mình, tố tụng tranh tụng chưa bao giờ bị coi là xem nhẹ quyền con người. Với
nguyên tắc suy đoán vô tội “thà bỏ sót còn hơn bắt nhầm” các cơ quan tiến
hành tố tụng luôn đặt quyền hiến định, quyền con người lên trên hết. Đơn cử
như ở Anh khi muốn hỏi cung bị can thì sự có mặt của luật sư được coi là bắt
buộc và ở tất cả các nước theo hệ tranh tụng, khi một nghi phạm bị bắt giữ,
anh ta sẽ nhận được thông báo về quyền và nghĩa vụ của mình và rằng anh ta
có quyền im lặng bất hợp tác với cảnh sát và có quyền đòi hỏi sự có mặt của
luật sư. Hoặc tại Mỹ, luật TTHS qui định, sau khi tiến hành bắt một ai đó,

cảnh sát phải lập chứng cứ hay có một tuyên bố có tính chất thề thốt. Bị can
nhất thiết phải được thông báo chính xác về các trách nhiệm và tất cả các


14
quyền hiến định, cũng như các bảo đảm, trong đó quan trọng nhất là một số
quyền mà quyết định Miranda của toà án Warren đã tuyên năm 1966. ở một
vài tiểu bang của Mỹ còn đòi hỏi phải thông báo cho bị can về các quyền
được ghi trong đạo luật về nhân quyền như: quyền được xét xử nhanh chóng
và quyền được đối chất với người làm chứng chống lại bị can [10, tr.5-6]. Tại
phiên toà, bị cáo có quyền tự bào chữa cho mình hoặc thông qua luật sư bào
chữa để thực hiện việc tranh cãi với công tố viên và không ai bị coi là có tội
khi chưa có một phán quyết của toà án.
Với sự công bằng của quy trình tố tụng, mô hình tố tụng tranh tụng thể
hiện ở mức độ cao hơn sự tôn trọng các quyền con người, quyền cơ bản của
công dân. Vai trò của Luật sư giúp giảm đi sự lạm quyền của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Điều này hết sức quan trọng bởi vì quá trình tố tụng hình sự là
một quá trình hết sức nhạy cảm mà ở đó quyền cơ bản của công dân rất dễ bị
vi phạm. Cũng chính vì vậy, các học giả có nhận định chung là trong mô hình
tố tụng tranh tụng, quyền được suy đoán vụ tội của người dân được tôn trọng
hơn so với mụ hình tố tụng hình sự khác.
- Mô hình tố tụng tranh tụng hạn chế tối đa việc làm oan người vô tội
Xuất phát từ tính chất dân chủ, khách quan, công bằng mô hình tố tụng
tranh tụng luôn mở ra cơ hội cho các bên và kết quả tranh tụng tại toà án là
căn cứ để tòa án ra phán quyết nên nó hạn chế đến mức tối đa các trường hợp
kết án oan người không phạm tội. Hệ quả này bắt nguồn từ việc tố tụng tranh
tụng đề cao quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo và không có sự phân biệt đối
xử giữa công tố viên và luật sư. Mặt khác, giai đoạn điều tra chỉ thực sự bắt
đầu khi phiên toà tuyên bố khai mạc nên các bên còn rất nhiều cơ hội để bảo
vệ quan điểm của mình đặc biệt là cơ hội sẽ rất rộng mở đối với bên bị buộc

tội. Hồ sơ của cơ quan điều tra, bản luận tội của viện công tố chỉ được xem là
một trong những bằng chứng sẽ được kiểm định tại phiên toà. Nếu bản luận


15
tội tại tòa, viện công tố không cứng cỏi, lời lẽ không thuyết phục, bằng chứng
không phù hợp với thực tế hay họ làm việc kém nỗ lực, tích cực hơn luật sư
bào chữa của bị cáo thì cáo trạng của họ rất dễ bị đổ. Không giống như cáo
trạng của viện công tố ở các nước theo mô hình tố tụng thẩm vấn, cáo trạng
của viện công tố ở các nước theo mô hình tranh tụng rất dễ phạm phải sai lầm
do mục đích mà họ đặt ra là phải tìm mọi chứng cứ buộc tội một bị cáo trước
toà nên không tránh khỏi có một cái nhìn thiếu thiện chí đối với bị cáo. Chính
vì lẽ đó mà luật sư bào chữa phải tìm đủ mọi chứng cứ để minh oan cho thân
chủ của mình và chắc chắn là trong trường hợp này các luật sư sẽ hạn chế đến
mức tối đa các trường hợp làm oan người vô tội.
Nói như vậy không có nghĩa là ở mô hình tố tụng tranh tụng không có
các vụ án oan mà chỉ ít xảy ra hơn do phiên tòa diễn ra dân chủ, khách quan,
nếu có oan uổng thì hầu hết đều là do những sai lầm không thể cứu vãn hoặc
do bị cáo không có tiền để thuê luật sư giỏi. Ở một số nước như Anh, Mỹ
các luật sư thường rất có trách nhiệm với công việc của mình, có những vụ án
kéo dài hàng chục năm trời mới được minh oan; tuy thời gian có trôi qua
nhưng các luật sư vẫn quyết tâm làm rõ chân tướng của sự việc, để mặc dù
không thể cứu vãn được phán quyết của một phiên toà thì cũng có thể trả lại
sự trong sạch cho thân chủ và khiến cho các cơ quan tư pháp phải nghiêm
khắc nhìn nhận lại những sai lầm của mình trong quá khứ.
1.1.3.1. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm thì mô hình tố tụng tranh tụng có những hạn
chế sau:
- Dễ bỏ lọt tội phạm
Như trên đã trình bày, một trong những ưu điểm của mô hình tố tụng

tranh tụng là hạn chế đến mức tối đa việc kết án oan người vô tội nhưng mặt
trái của ưu điểm này lại là một nhược điểm rất lớn của nó là việc dễ bỏ lọt tội


16
phạm. Cáo trạng do viện công tố thiết lập để truy tố một kẻ nào đó không bao
giờ được bảo vệ một cách dễ dàng tại mỗi phiên toà cho nên nếu như cáo
trạng đó truy tố kẻ phạm tội là chính xác thì cũng có nhiều khi các cơ quan tư
pháp phải bó tay nhìn kẻ phạm tội nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.
- Mô hình tố tụng tốn kém
Người ta thường nói “một nền tư pháp mạnh là một nền tư pháp tốn
kém”, với đòi hỏi nội tại của mô hình tố tụng tranh tụng nó tốn kém không chỉ
về sức lực, tiền bạc mà còn cả về thời gian. Do khi mở phiên tòa mới bắt đầu
là giai đoạn điều tra nên kể từ khi phiên toà khai mạc cho đến khi kết thúc,
các bên đều sẽ phải bỏ ra không ít thời gian và công sức để tham dự phiên tòa.
Sự tốn kém về thời gian sẽ kéo theo rất nhiều sự tốn kém khác của các bên
trong tiến trình xét xử vụ án. Hệ tố tụng tranh tụng không chỉ rút của ngân
sách nhà nước một khoản chi phí không nhỏ mà còn là một hệ tố tụng –
không phải là chỗ dựa cho người nghèo. Bởi ở hệ tố tụng này, mỗi một vụ án
hình sự hầu như đều có luật sư tham gia và chi phí thuê luật sư ở các nước
này rất đắt đỏ vì thế sẽ là một bất lợi rất lớn cho người nghèo không có tiền
thuê luật sư giỏi.
- Vai trò của thẩm phán và hội thẩm ít được phát huy
Do người có nhiệm vụ xét xử tham gia một cách thụ động vào phiên tòa
và lại là người không chuyên nghiệp, không có kiến thức pháp luật (Bồi thẩm
đoàn) nên vô hình chung gây ra phản tác dụng đối với chính những ưu điểm
của mô hình tố tụng này. Công tố viên và Luật sư là người chi phối hoàn toàn
quá trình tố tụng tranh tụng. Thực tế là họ không có nghĩa vụ tìm ra sự thật
khách quan mà chủ yếu thực hiện chức năng, trách nhiệm tố tụng của mình.
Trách nhiệm của bên công tố là buộc tội, còn trách nhiệm của bên bào chữa là

gỡ tội. Cả hai bên sẽ chỉ dùng những chứng cứ có lợi cho việc thực hiện chức
năng tố tụng của mình mà thôi, và điều này làm cho chứng cứ hay quan điểm


17
riêng của một bên khi đưa ra tại phiên tòa không bao giờ phản ánh hoàn toàn
sự thật khách quan của vụ án.
Trong khi đó, Bồi thẩm đoàn là những người dân, ít hiểu biết về pháp
luật, nhưng họ lại có quyền phán quyết về sự thật khách quan của vụ án mà
chỉ thông qua việc nghe bên buộc tội và bên bào chữa xét hỏi nhân chứng và
tranh luận theo mục đích của mình. Lẽ đương nhiên, Bồi thẩm đoàn sẽ
nghiêng về bên có lý, thuyết phục hơn chứ không hẳn là bên tìm ra sự thật
khách quan. Điều này hết sức rủi ro cho mục đích tìm sự thật khách quan của
mô hình tố tụng tranh tụng. Bởi vì Luật sư hay Công tố viên có thể dễ dàng
thông đồng với nhân chứng hay thậm chí là cả giám định viên để làm sai lệch
sự thật theo cách có lợi cho mình và bẻ cong chân lý. Thực tiễn xét xử ở cả
Anh và Mỹ đó ghi nhận những trường hợp như vậy.
- Mô hình tố tụng tranh tụng chưa quan tâm đúng mức đến lợi ích công
Việc quá đề cao các lợi ích các nhân làm cho mô hình tố tụng tranh tụng
không phản ánh hết được tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích công cộng
trong các vụ án hình sự. Chính điều này dẫn đến thực tiễn giải quyết vụ án hình
sự ở một số nước áp dụng mô hình tố tụng tranh tụng đó có thời kỳ báo động
về tình trạng lạm dụng thái quá việc áp dụng hình thức mặc cả nhận tội.
Thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra ít được pháp luật quy định, thời
hạn không được xác định, không có các thiết chế giám sát tuân thủ pháp luật
từ Viện kiểm sát/ Viện công tố , do vậy, cũng tiềm ẩn những khả năng vi
phạm quyền con người của bị can từ phía cảnh sát.
1.2. VAI TRÒ CỦA TRANH TỤNG TRONG QUÁ TRÌNH XÉT XỬ
VỤ ÁN HÌNH SỰ
Giải quyết vụ án công khai, dân chủ, không để lọt tội phạm, không làm

oan người vô tội, đảm bảo công lý, công bằng là trách nhiệm không chỉ thuộc
về các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn là quyền của

×