I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN S THNH
xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2015
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN S THNH
xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: TS. NG QUANG PHNG
H NI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn ghi trong luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả luận văn
Nguyễn Sỹ Thành
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM ........................ 7
1.1.
Khái niệm, vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............... 7
1.1.1.
Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự..................................................... 7
1.1.2.
Vai trò của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.................................................... 8
1.1.3.
Ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .................................................. 9
1.2.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2003 ............................... 9
1.2.1.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự từ năm 1945 đến năm 1988 ............................................................ 9
1.2.2.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo qui định của Bộ luật tố tụng hình
sự 1988 .................................................................................................... 10
1.3.
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự................................................................................. 11
1.3.1.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................................... 11
1.3.2.
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ..................................................... 18
1.3.3.
Quy định chung về xét xử tại phiên tòa sơ thẩm hình sự........................... 28
1.3.4.
Trình tự xét xử vụ án hình sự tại phiên toà sơ thẩm .................................. 34
1.3.5.
Một số thủ tục tố tụng sau phiên tòa sơ thẩm ............................................ 45
Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM TẠI TỈNH
ĐẮK LẮK ........................................................................................................... 47
2.1.
Đánh giá chung về tình hình xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk ............................................................. 47
2.2.
Thực tiễn xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp
tỉnh Đắk Lắk .......................................................................................... 52
2.3.
Những vi phạm, sai lầm trong thực tiễn xét xử sơ thẩm hình sự
tại tỉnh Đắk Lắk ..................................................................................... 54
2.3.1.
Những vi phạm, sai lầm trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm ............. 54
2.3.2.
Những vi phạm, sai lầm về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm .............. 61
2.3.3.
Những vi phạm, sai lầm về các thủ tục sau phiên tòa sơ thẩm .................. 70
2.3.4.
Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm ................................................ 71
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ SƠ THẨM
HÌNH SỰ TẠI TỈNH ĐẮK LẮK ..................................................................... 75
3.1.
Những đòi hỏi nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm hình sự ................... 75
3.2.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm hình sự tại tỉnh
Đắk Lắk .................................................................................................. 77
3.2.1.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm ............ 77
3.2.2.
Giải pháp hướng dẫn thi hành pháp luật và xây dựng án lệ ..................... 100
3.2.3.
Giải pháp về tăng cường năng lực người tiến hành tố tụng ..................... 102
3.2.4.
Các giải pháp khác ................................................................................. 103
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 111
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 116
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCA:
Bộ Công an
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT:
Cơ quan điều tra
ĐHQGHN:
Đại học Quốc gia Hà Nội
HĐTP:
Hội đồng Thẩm phán
HĐXX:
Hội đồng xét xử
HSST:
Hình sự sơ thẩm
HTND:
Hội thẩm nhân dân
KSV:
Kiểm sát viên
NQ:
Nghị quyết
TAND:
Tòa án nhân dân
TANDTC:
Tòa án nhân dân tối cao
TAQS:
Tòa án quân sự
TTHS:
Tố tụng hình sự
TTLT:
Thông tư liên tịch
TW:
Trung ương
VKS:
Viện kiểm sát
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG Ở PHỤ LỤC
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: Số liệu các phiên tòa hình sự sơ thẩm tổ chức rút kinh nghiệm
về chất lượng xét xử của TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk
116
Bảng 2.2: Số liệu bản án hình sự sơ thẩm bị hủy, cải sửa nghiêm
trọng của TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk
116
Bảng 2.3: Số liệu vụ án hình sự sơ thẩm TAND hai cấp tỉnh Đắk
Lắk trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Bảng 2.4: Số liệu hội thẩm tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk
117
117
Bảng 2.5: Số liệu vụ án hình sự sơ thẩm có luật sư tham gia bào
chữa cho bị cáo tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm của
TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk
117
Bảng 2.6: Số liệu văn phòng luật sư và số lượng luật sư trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk
118
Bảng 2.7: Số liệu vụ án hình sự sơ thẩm có trợ giúp viên pháp lý của
trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Đắk Lắk tham gia bào chữa
118
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết vụ án hình sự là một quá trình gồm nhiều giai đoạn khác nhau từ
giai đoạn khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành bản án và do nhiều cơ
quan tố tụng tiến hành. Các giai đoạn này đều có vai trò, ý nghĩa nhất định trong
việc tìm ra sự thật của vụ án. Trong đó, hoạt động xét xử sơ thẩm của Tòa án có vị
trí rất quan trọng, được coi là trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tất
cả các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố đều nhằm phục vụ cho việc xét xử của
Tòa án và đều được thể hiện một cách công khai tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Xét xử sơ thẩm được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng
hình sự quy định sẽ bảo đảm cho công tác xét xử được khách quan, chính xác, thể
hiện được vai trò, vị thế nhân danh Nhà nước của Tòa án trong việc thực hiện chức
năng xét xử, nhằm bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa, xử lý kịp thời các hành vi vi
phạm pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Thực tiễn xét xử trong một số năm vừa qua trên địa bàn cả nước nói chung
và trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng cho thấy mặc dù số lượng án hình sự hàng
năm đều tăng, nhưng nhìn chung Tòa án các cấp đã thực hiện tốt các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự trong xét xử hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm nói
riêng.Tuy nhiên, hiệu quả xét xử sơ thẩm hình sự vẫn chưa thực sự được nâng cao,
chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk vẫn xảy ra tình trạng án để quá hạn, án xử sai
và còn có trường hợp án sơ thẩm xử oan người không có tội, bỏ lọt tội phạm mà
điển hình là vụ án Trần Thọ Đức bị TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk xét xử
sơ thẩm về tội “Vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”,
án sơ thẩm lần một tuyên Trần Thọ Đức phạm tội, án phúc thẩm hủy án sơ thẩm để
điều tra lại. Kết quả điều tra lại, Cơ quan điều tra đã ra quyết định đình chỉ bị can
đối với Trần Thọ Đức và khởi tố bị can đối với Trần Thanh Sang. Bởi vì, kết quả
điều tra lại vụ án đã có căn cứ xác định Trần Thanh Sang là người điều khiển xe mô
1
tô gây tai nạn chứ không phải là Trần Thọ Đức. Vụ án này xảy ra từ năm 2010
nhưng đến cuối năm 2014 mới xét xử sơ thẩm lần hai, kết quả xét xử sơ thẩm hai
lần hoàn toàn khác nhau, gây bất bình trong nhân dân, bức xúc trong dư luận, làm
giảm uy tín của các cơ quan tư pháp, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả giáo dục ý
thức pháp luật và đấu tranh phòng chống tội phạm.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại nói trên, trong đó có nguyên
nhân rất quan trọng là những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật tố tụng
hình sự cụ thể là quy định chưa đồng bộ, chưa đẩy đủ, chưa rõ ràng, gây khó khăn
trong việc áp dụng. Bên cạnh đó, Đắk Lắk là tỉnh miền núi, trình độ dân trí thấp,
công tác cán bộ ngành tư pháp vẫn còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất của Tòa án các
cấp còn thiếu thốn, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Trong giai đoạn hiện tại, cùng với việc tiếp tục đẩy nhanh quá trình cải cách
kinh tế và cải cách nền hành chính Quốc gia, công cuộc cải cách tư pháp cũng đang
được Đảng và Nhà nước ta đẩy mạnh, coi đây là khâu đột phá quan trọng, thúc đẩy
quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
Một trong những nhiệm vụ của cải cách tư pháp hiện nay theo tinh thần của Nghị
quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” là phải “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn
vị trí, quyền hạn, nhiệm vụ của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo
hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh
tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [3].
Xuất phát từ những đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay và thực
tiễn xét xử sơ thẩm hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, việc nghiên cứu đề tài: “Xét
xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa
bàn tỉnh Đắk Lắk)”, là yêu cầu khách quan, cần thiết cả về phương diện lý luận
cũng như thực tiễn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm hình sự, đảm
bảo quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xét xử sơ thẩm hình sự đã được các nhà khoa học pháp lý và cán bộ thực
tiễn nghiên cứu ở nhiều cấp độ và phạm vi khác nhau.
2
Công trình nghiên cứu mang tính đại cương có: 1. TS Nguyễn Ngọc Chí chủ
biên (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. PGS-TS Hoàng Thị Minh Sơn chủ
biên (2008), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản lần thứ 4, có sửa đổi,
bổ sung), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân. 3. TS Nguyễn Sơn
(2004), phần 5 chương 2, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Giáo trình kỹ
năng giải quyết vụ án hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu chuyên sâu có: 1. TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ
nhiệm đề tài (2009), Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả
xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp, đề tài cấp trường, Đại học Luật Hà Nội. 2.
Tống Thị Thanh Thanh (2004), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn
thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Nguyễn Quỳnh Trang
(2008), Thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Luận văn thạc sỹ Luật học,
Khoa luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Các bài viết có: 1. TS Hoàng Thị Minh Sơn: “Một số qui định của Bộ luật tố
tụng hình sự về quyết định của Tòa án trong hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm và
thực tiễn áp dụng”, tạp chí Luật học số 7/2009; 2. Nguyễn Quốc Việt: “Tranh tụng
trong hoạt động tố tụng hình sự và vấn đề hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự”, tạp
chí Dân chủ và pháp luật số 6/2010; 3. Đinh Văn Quế: “Phương hướng hoàn thiện
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự”, tạp
chí Tòa án nhân dân (số 17/T9 - 2011); 4. Vũ Gia Lâm: “Hoàn thiện một số quy
định về xét xử sơ thẩm hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét
xử”, tạp chí Tòa án nhân dân (số 21/T11 - 2011).
Các công trình khoa học và bài viết nêu trên đều có giá trị rất lớn về lý luận
và thực tiễn, nhưng chỉ mới nghiên cứu những vấn đề chung hoặc về từng giai đoạn
của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ và toàn diện về xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ lý luận và nội dung cơ bản của hoạt động xét xử sơ
thẩm hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, làm sáng tỏ
những thiếu sót bất cập theo quy định của BHTTHS 2003 về xét xử sơ thẩm trước
yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp hiện nay, việc áp dụng các qui định pháp luật tố
tụng hình sự trong thực tiễn xét xử sơ thẩm hình sự tại tỉnh Đắk Lắk cũng như xác
định một số vi phạm, sai lầm và nguyên nhân của nó, tác giả đề xuất những giải
pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Mặt lý luận: Xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm cơ bản, vai trò, ý nghĩa
của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đồng thời phân tích và đánh giá những
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đối về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Mặt thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự từ thực tiễn tại tỉnh Đắk Lắk. Thông qua đó phân tích những khiếm khuyết bất
cập các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và những sai lầm, vi phạm
trong việc áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 từ thực tiễn của
TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk, tìm ra nguyên nhân vi phạm, sai lầm và đề ra
phương hướng nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm hình sự trong mối quan hệ với
yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay cũng như nhiệm vụ bảo vệ quyền con người,
quyền công dân theo Hiến định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, các vấn đề lý luận cơ bản về xét xử sơ thẩm hình sự.
Thứ hai, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự và thực tiễn áp dụng của TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử, tại phiên tòa sơ thẩm và một số hoạt động tố tụng khác sau phiên tòa sơ thẩm.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn không nghiên cứu sâu về vấn đề lý luận mà tập trung nghiên cứu
những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự và thực tiễn áp dụng của TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk. Trên cơ sở đó đề xuất
hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và một số
giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm hình sự.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận Triết
học Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt
Nam về Nhà nước và pháp luật, về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa. Để hoàn thiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp
phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp,
phương pháp khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành Luật tố tụng hình sự
tương đối có hệ thống và đầy đủ các vấn đề lý luận và thực tiễn đối với hoạt động
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở cấp độ một luận văn thạc sĩ. Trong công trình
nghiên cứu của mình, tác giả đã làm sáng tỏ một số vấn đề sau: Phân tích một cách
có hệ thống và tương đối toàn diện vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:
Khái niệm, bản chất, vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Luận văn chỉ ra được nhiều bất cập trong quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về thẩm quyền xét xử, giới hạn xét xử, thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ
thẩm... Trên cơ sở đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng
hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp.
Đánh giá được thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự
trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk. Qua đó đề
xuất một số giải pháp cho từng nhóm vấn đề nhằm nâng cao hiệu quả xét xử sơ
thẩm hình sự để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp hiện nay.
Về mặt lý luận, Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học tương đối toàn
5
diện những vấn đề về lý luận và thực tiễn đối với hoạt động xét xử sơ thẩm theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Luận văn góp phần làm sáng tỏ và bổ
sung vào khoa học pháp lý tố tụng hình sự, là tài liệu tham khảo trong quá trình
giảng dạy môn Luật tố tụng hình sự ở các cơ sở đào tạo pháp luật ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, Luận văn nhằm đóng góp cho việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật
tố tụng hình sự sắp tới theo hướng bảo vệ quyền con người, quyền công dân được
quy định trong Hiến pháp năm 2013. Là tài liệu tham khảo cho những người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm
hình sự theo tinh thần đẩy mạnh cải cách tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
3 chương:
- Chương 1. Những vấn đề chung và Quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam về xét xử sơ thẩm.
- Chương 2. Thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 về xét xử sơ thẩm tại tỉnh Đắk Lắk.
- Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm hình sự tại tỉnh
Đắk Lắk.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm, vai trò, ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Các bản Hiến pháp của nước ta, đặc biệt là Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013
đều quy định Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa
Quân sự là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Như vậy, xét xử là chức năng
của Tòa án, không có cơ quan nào ngoài Tòa án có thể thực hiện chức năng xét xử.
Trong việc thực hiện chức năng xét xử, Tòa án xét xử về hình sự, xét xử về dân sự,
kinh tế, lao động, hành chính và các lĩnh vực khác do pháp luật quy định.
Hoạt động xét xử của Tòa án hiểu theo nghĩa chung nhất là “hoạt động của
các cơ quan và cá nhân được quyền căn cứ vào pháp luật để xem xét những vấn đề
pháp lý và đưa ra những phán quyết có tính bắt buộc” cụ thể hơn ta có thể hiểu hoạt
động xét xử là “hoạt động nhân danh Nhà nước đánh giá và ra phán quyết về tính
hợp pháp, tính đúng đắn pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và
mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau” [7. tr.253].
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là một công đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhưng
là một công đoạn đặc biệt quan trọng. Việc xét xử sơ thẩm chỉ được tiến hành sau khi
Cơ quan điều tra đã có bản kết luận điều tra vụ án và Viện kiểm sát đã truy tố bị can
ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Trên cơ sở hồ sơ vụ án và quyết định truy tố của
Viện kiểm sát chuyển sang, Tòa án lần đầu tiên sẽ nghiên cứu để quyết định đưa vụ
án ra xét xử hay không. Nếu Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì vụ án hình
sự lần đầu tiên sẽ được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa và xét xử sơ thẩm được
xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự.
Mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, truy tố thu thập trong quá trình
7
điều tra vụ án được xem xét một cách công khai tại phiên tòa, những người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời nói của nhau, được tranh
luận chất vấn những điều mà tại Cơ quan điều tra họ không có điều kiện thực hiện.
Xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh cao của quyền tư pháp bởi vì, tại phiên tòa
quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực
hiện công khai đầy đủ nhất, nếu như bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản
cáo trạng của Viện kiểm sát chỉ là những kết luận sơ bộ về vụ án thì bản án của Tòa
án mới là kết luận chính thức và công khai về việc bị cáo có tội hay không có tội, nếu
có tội thì bị cáo phạm tội gì, theo qui định tại điểm, khoản, điều nào của Bộ luật hình
sự và mức hình phạt cụ thể được áp dụng đối với bị cáo [7, tr.175].
Từ những phân tích như trên có thể đưa ra khái niệm: Xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự là giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự mà Tòa án được giao
thẩm quyền, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xem
xét công khai tại phiên tòa, nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra, một
người có phải là người phạm tội hay không để từ đó đưa ra bản án, quyết định phù
hợp với tính chất của vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố.
1.1.2. Vai trò của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Với vị trí là trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự, xét xử sơ thẩm
có vai trò đặc biệt quan trọng mang tính quyết định trong việc giải quyết đúng đắn,
khách quan vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà bước, bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo
các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân. Bởi vì,
tại phiên tòa sơ thẩm, những người tham gia tố tụng được bình đẳng với nhau và
bình đẳng cả với đại diện Viện kiểm sát trong việc xuất trình chứng cứ, tranh luận
và đưa ra các yêu cầu, đề nghị thay đổi những người tiến hành tố tụng, yêu cầu
triệu tập thêm người làm chứng. Người tham gia tố tụng được trực tiếp nghe lời
khai, lời trình bày của những người tham gia tố tụng khác, được đối chất và tự
mình hoặc nhờ người khác đưa ra những lý lẽ để bảo vệ mình. Bởi vậy có thể nói,
8
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là nơi thể hiện đầy đủ nhất quyền dân chủ
của cá nhân, công dân [32, tr.16].
1.1.3. Ý nghĩa của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bằng việc xét hỏi và tranh luận công khai và việc áp dụng hình phạt công
bằng, nghiêm minh đối với người phạm tội, người phạm tội và những người tham
gia phiên tòa sẽ hiểu rõ các quy định của pháp luật cũng như quan điểm xử lý và
chính sách của Nhà nước đối với người phạm tội để tránh vi phạm pháp luật. Điều
này góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân trong cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm.
Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập trung một cách cao nhất trí tuệ, xử
lý tình huống một cách nhanh chóng nhưng phải đúng quy định của pháp luật, các
lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà phải mang tính thuyết phục nhưng
đồng thời phải tuân theo những quy định của pháp luật. Vì vậy, thông qua xét xử
sơ thẩm có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm
sát viên, của Luật sư và những người tham gia tố tụng khác. Cũng thông qua xét
xử sơ thẩm mà Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm, Luật sư nâng cao được trình
độ nghiệp vụ, năng lực công tác và kỹ năng nghề nghiệp, những người dự phiên
tòa hiểu biết thêm về pháp luật, củng cố lòng tin vào Công lý, niềm tin vào Tòa
án. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm hình sự với kết quả bằng bản
án, quyết định khách quan, chính xác, toàn diện có tác dụng to lớn không chỉ đối
với một vụ án cụ thể mà còn tạo được lòng tin trong nhân dân, làm giảm tỷ lệ án
sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm, góp phần tiết kiệm được thời gian, tiền bạc của Nhà nước và nhân dân, nâng
cao uy tín của ngành Tòa án.
1.2. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2003
1.2.1. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự từ năm 1945 đến năm 1988
Trong giai đoạn từ ngày thành lập nước Việt nam dân chủ cộng hòa (1945)
9
cho đến trước khi ban hành Hiến pháp năm 1959, các quy phạm pháp luật tố tụng
hình sự về xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm hình sự nói riêng chưa được hệ thống
hóa trong một văn bản nhất định mà nằm rải rác trong các Sắc lệnh của Chủ tịch
nước, Luật, Thông tư. Nhìn chung, các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự ở giai
đoạn này chịu ảnh hưởng của pháp luật tố tụng hình sự của Pháp và còn đơn giản,
chung chung, chưa cụ thể nên còn được áp dụng tùy tiện, sai lầm điển hình là trong
cải cách ruộng đất 1953 - 1956.
Trong giai đoạn từ năm 1959 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988: Hiến pháp năm 1959 và luật tổ chức Tòa án năm 1960, luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960 ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch
sử lập pháp của nước ta. Lần đầu tiên, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến
hành tố tụng được xác định rõ trong các văn bản pháp luật, chức năng xét xử hình
sự được tách khỏi chức năng buộc tội, cơ quan Công tố tách khỏi Chính phủ. Có thể
nói đây là cơ sở pháp lý để hoàn thiện một bước pháp luật tố tụng hình sự nói chung
và pháp luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm nói riêng.
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1959 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988, chúng ta vẫn chưa có một Bộ luật tố tụng hình sự thống nhất.
Tuy vậy, các quy phạm của pháp luật tố tụng hình sự ở giai đoạn này tuy chưa đầy
đủ, cụ thể, rõ ràng nhưng đã góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự
chính xác, đảm bảo nhiệm vụ bảo vệ chế độ, bảo vệ Nhà nước, bảo đảm quyền lợi
ích hợp pháp của công dân. Đặc biệt với việc ban hành hướng dẫn về trình tự, thủ
tục tố tụng hình sự sơ thẩm đã làm cơ sở nền tảng cho việc xây dựng Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988.
1.2.2. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo qui định của Bộ luật tố tụng hình
sự 1988
Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được Quốc hội nước ta thông qua vào ngày 28/6/1988 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/1989. Bộ luật này là sự kế thừa của các quy định về pháp luật tố tụng
hình sự trước đó và chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Bộ luật tố tụng hình sự Liên Xô.
10
Xét xử sơ thẩm được quy định tại phần thứ ba của Bộ luật tố tụng hình sự này.
Có thể thấy, đây là bộ luật quy định tương đối đầy đủ và rõ ràng về trình tự, thủ tục
giải quyết vụ án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng. Sau khi
ban hành bộ luật này một thời gian, nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ Xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đáp ứng yêu cầu đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm trong tình hình mới đồng thời để phù hợp với quy
định của Hiến pháp năm 1992, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều vào các năm 1990, 1992 và năm 1999. Sau các lần sửa đổi, bổ sung
đó, các quy định về xét xử sơ thẩm được sửa đổi theo hướng “dựa trên nguyên tắc
không hạn chế quyền của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, đồng
thời bảo đảm hoạt động có hiệu quả của các cơ quan bảo vệ pháp luật trước yêu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới”.
1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
BLTTHS năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2004. Xét xử sơ thẩm được quy định tại phần thứ ba từ chương XVI đến
chương XXII của bộ luật này gồm: Chương XVI quy định về thẩm quyền xét xử;
Chương XVII quy định về chuẩn bị xét xử; Chương XVIII quy định chung về thủ
tục tố tụng tại phiên tòa; Chương XIX quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa;
Chương XX quy định về thủ tục hỏi tại phiên tòa; Chương XXI quy định về tranh
luận tại phiên tòa; Chương XXII quy định về nghị án và tuyên án.
1.3.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc phân định thẩm quyền giữa
các cấp Tòa án căn cứ vào sự việc phạm tội, đối tượng phạm tội và nơi tội phạm
được thực hiện.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 dựa vào một số dấu hiệu nhất định của vụ
án hình sự để phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của các cấp Tòa án. Đó là các
dấu hiệu về tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm (loại tội phạm), nơi tội
11
phạm thực hiện và người thực hiện tội phạm, cá biệt còn căn cứ vào hành vi phạm
tội gây thiệt hại cho lĩnh vực quản lý nhà nước nào để xác định thẩm quyền xét xử
sơ thẩm giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự trong một số trường hợp nhất
định. Dựa trên ba tiêu chí được xác định ở trên, pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
phân định các loại thẩm quyền như sau:
Thứ nhất là thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc: Là loại thẩm quyền
được phân định giữa các cấp Tòa án với nhau căn cứ vào tính chất của tội phạm.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của từng tội phạm cụ thể mà giữa các
Tòa án có sự phân định thẩm quyền xét xử theo sự việc.
Trong hệ thống TAND và TAQS nước ta hiện nay, TAND cấp huyện và
TAQS khu vực là Tòa án cấp thấp nhất.Việc quy định đúng đắn về thẩm quyền xét
xử của TAND cấp huyện và TAQS khu vực có ý nghĩa quan trọng trong việc thực
hiện nhiệm vụ tố tụng hình sự. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam cho thấy thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và TAQS
khu vực ngày càng được mở rộng một cách hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển của
xã hội cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, cụ thể là: Trước năm
1960 pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định TAND cấp huyện và cấp tương
đương chỉ được xử phạt vi cảnh.
Luật tổ chức TAND năm 1960 quy định TAND cấp huyện được phân xử
những việc hình sự nhưng không phải mở phiên tòa.
Pháp lệnh ngày 23/6/1961 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tổ chức của
TANDTC và TAND địa phương quy định: “Tòa án nhân dân địa phương thuộc
tỉnh, thành phố, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có thẩm quyền
sơ thẩm những vụ án hình sự có thể phạt tù từ hai năm trở xuống” [39].
Tại Điều 36 Luật tổ chức TAND năm 1981 quy định: Các Tòa án nhân dân
huyện quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án hình
sự có mức phạt tù từ 5 năm trở xuống, trừ những loại việc sau đây:
+ Những tội xâm phạm an ninh Quốc gia
+ Những tội phạm hình sự khác có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc gây
hậu quả lớn.
12
Như vậy, theo quy định của điều luật này thì TAND cấp huyện và tương
đương có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà luật quy định mức hình phạt
từ 5 năm tù trở xuống.
Tại thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 26/7/1986 hướng dẫn: Các Tòa án
huyện cũng được xét xử một số tội mà pháp luật quy định hình phạt từ 7 năm tù trở
xuống nhưng có tình tiết giảm nhẹ cho phép xử 5 năm tù trở xuống.
Tại khoản 1 Điều 145 BLTTHS 1988 quy định: TAND cấp huyện và TAQS
khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những tội phạm mà BLHS quy định hình
phạt 7 năm tù trở xuống, trừ những tội sau:
+ Các tội xâm phạm an ninh Quốc gia
+ Các tội quy định ở các Điều 95, 96, khoản 1 Điều 172 và các điều 222,
223, 263, 294, 295 Bộ luật hình sự (BLHS năm 1985)
Khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003 quy định: Tòa án nhân dân cấp huyện
và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm
ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ các tội
phạm sau đây:
a) Các tội phạm xâm phạm an ninh Quốc gia
b) Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh
c) Các tội quy định tại các Điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221,
222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự
(BLHS năm 1999).
Như vậy, theo quy định của BLTTHS năm 2003, thẩm quyền xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của TAND cấp huyện, TAQS khu vực đã tăng lên đáng kể. Việc quy
định thẩm quyền của TAND cấp huyện, TAQS khu vực về sự việc đã căn cứ vào
việc phân loại tội phạm trong BLHS năm 1999 tạo ra tính nhất quán trong các quy
định khác của BLTTHS như thời hạn điều tra, truy tố, xét xử...Tuy nhiên việc tăng
thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cho TAND cấp huyện còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác như trình độ năng lực của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán cấp huyện, số lượng đội ngũ những người tiến hành tố tụng, cơ sở vật chất của
13
TAND cấp huyện vì vậy Nghị quyết số 24/2003/QH11 về việc thi hành BLTTHS
năm 2003 đã quy định lộ trình áp dụng thẩm quyền, chậm nhất ngày 01/7/2009 thì
tất cả TAND cấp huyện, TAQS khu vực thực hiện thống nhất thẩm quyền xét xử
quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003.
Có thể thấy, căn cứ để xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
TAND cấp huyện, TAQS khu vực dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt đối
với tội phạm trong vụ án hình sự được đưa ra xét xử sơ thẩm không vượt quá 15
năm tù. Mức hình phạt từ 15 năm tù trở xuống là do Bộ luật hình sự 1999 quy định
đối với từng tội phạm mà Viện kiểm sát truy tố trước Tòa án cấp huyện.Trong
trường hợp tội phạm được đưa ra xét xử có mức hình phạt cao nhất của khung hình
phạt mà Bộ luật hình sự quy định trên 15 năm tù thì không thuộc thẩm quyền xét xử
sơ thẩm của TAND cấp huyện và TAQS khu vực.
Trong phần các tội phạm có nhiều điều luật mà ở mỗi điều luật đó có nhiều
khung với nhiều mức hình phạt khác nhau, trong đó có khung có mức hình phạt từ
15 năm tù trở xuống và có khung có mức hình phạt trên 15 năm tù. Trong trường
hợp này những khung nào của điều luật quy định từ 15 năm tù trở xuống thì thuộc
thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện, TAQS khu vực; những khung nào của
điều luật quy định mức hình phạt trên 15 năm tù trở lên thì vụ án đó không thuộc
thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện, TAQS khu vực.
Nếu một người phạm nhiều tội, mà mỗi tội có mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy từ 15 năm tù trở xuống thì vẫn thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm
của TAND cấp huyện, TAQS khu vực. Trong trường hợp này khi tổng hợp hình
phạt có thể ấn định hình phạt chung trên 15 năm tù nhưng không vượt quá mức hình
phạt tù (30 năm).
Nếu bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội thuộc thẩm quyền xét xử của
TAND cấp huyện, TAQS khu vực, có tội thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh,
TAQS cấp quân khu thì Tòa án cấp trên xét xử sơ thẩm vụ án đó.
Trong trường hợp TAND cấp huyện, TAQS khu vực xét xử tội phạm được
quy định trong BLHS có mức hình phạt từ 15 năm tù trở xuống, nhưng qua xét xử
14
mà thấy rằng tội phạm này có mức hình phạt trên 15 năm tù (khung hình phạt nặng
hơn) thì Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để VKS chuyển hồ sơ lên cho VKS cấp
trên để truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án theo đúng thẩm quyền.
Xuất phát từ tính chất của tội phạm cũng như các phức tạp trong cấu thành
tội phạm của một số tội phạm cụ thể và trình độ năng lực của đội ngũ Thẩm phán
TAND cấp huyện, TAQS khu vực, các tội xâm phạm an ninh Quốc gia quy định tại
chương XI và các tội phạm quy định tại các Điều 93, 95, 96 khoản 1 Điều 172 và
các Điều 22, 223, 263, 294, 295, 296 BLHS thì mặc dù mức cao nhất của khung
hình phạt đối với các tội phạm này từ 15 năm tù trở xuống nhưng không thuộc thẩm
quyền xét xử của TAND cấp huyện, TAQS khu vực. Những vụ án này thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án cấp trên.
Khoản 2 Điều 170 BLTTHS quy định thẩm quyền xét xử của TAND cấp
tỉnh, TAQS cấp quân khu: “Tòa án nhân dân cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAND
cấp huyện, TAQS khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới
mà mình lấy lên để xét xử”.
Theo quy định của điều luật thì TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự đối với hai loại tội phạm:
Một là những tội phạm được quy định trong BLHS có mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội phạm ấy trên 15 năm tù trở lên và những tội xâm phạm
an ninh Quốc gia quy định tại chương XI và các tội phạm quy định tại Điều 93, 95,
96, khoản 1 Điều 172 và các Điều 22, 223, 263, 294, 295, 296 BLHS.
Hai là những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện,
TAQS khu vực nhưng TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu lấy lên để tự mình xét
xử khi thấy cần thiết. Thông thường đó là những vụ án hình sự có nhiều tình tiết
phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, những vụ án mà bị cáo là Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Sỹ quan Công an, Cán bộ chủ chốt cấp huyện, người nước
ngoài, người có chức sắc trong dân tộc, tôn giáo... Những vụ án này, đúng ra thuộc
thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện, TAQS khu vực nhưng nếu để
15
Tòa án cấp này xét xử thì không có lợi về chính trị - xã hội, cho nên Tòa án cấp trên
lấy những vụ án này lên để tự mình xét xử.
Thứ hai là thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự theo đối tượng: Là sự phân
định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa TAND và TAQS, cũng như giữa các TAQS
các cấp căn cứ vào đối tượng phạm tội.
Đối tượng phạm tội ở đây có những đặc điểm nhân thân nhất định là căn cứ
để phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa các TAQS.
Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 và
hướng dẫn tại phần III Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-TANDTC - VKSNDTC
-BCA - BQP ngày 18/4/2005: “Các Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ
án hình sự mà bị cáo là:
1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị
trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân
quân tự vệ phối hợp với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người
được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị Quân đội trực tiếp quản lý.
2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này
mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội.
+ Bí mật quân sự là bí mật của Quân đội, bí mật về an ninh quốc phòng được
xác định là bí mật quân sự và được quy định trong các văn bản do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành.
+ Gây thiệt hại cho Quân đội là gây thiệt hại đến tính mạng sức khỏe, tự do,
danh dự nhân phẩm của những người quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh tổ chức
Tòa án quân sự hoặc tài sản của những người này được Quân đội cấp phát để thực
hiện nhiệm vụ quân sự, gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội.
+ Tài sản của Quân đội là tài sản do Quân đội quản lý, sử dụng kể cả tài sản
Quân đội giao cho người khác quản lý sử dụng để chiến đấu hoặc phục vụ Quân đội.
Những thành phần khác do TAND xét xử, nếu có tranh chấp về thẩm quyền
xét xử giữa TAND và TAQS thì Chánh án TANDTC xem xét và quyết định.
Điều 4, 5 của Pháp lệnh này quy định: Trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc
16
tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS vừa có tội phạm hoặc bị cáo thuộc
thẩm quyền xét xử của TAND thì TAQS xét xử toàn bộ vụ án. Nếu vụ án có thể
tách ra để xét xử riêng thì TAQS xét xử những bị cáo thuộc thẩm quyền của mình.
Những người không còn phục vụ trong Quân đội mà phát hiện tội phạm của họ
được thực hiện trong thời gian phục vụ Quân đội; hoặc những người bị phát hiện là
phạm tội trước khi nhập ngũ thì thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS về những tội
phạm liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội. Những tội
phạm khác do TAND xét xử.
Thứ ba là thẩm quyền theo lãnh thổ: Là sự phân định thẩm quyền xét xử sơ
thẩm giữa các Tòa án với nhau (cùng cấp) căn cứ vào nơi tội phạm thực hiện hoặc
nơi kết thúc điều tra tội phạm.
Khoản 1 Điều 171 BLHS quy định: “Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án
hình sự là Tòa án nơi tội phạm được thực hiện, trong trường hợp tội phạm được
thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm
thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra” [44].
Thông thường tội phạm xảy ra ở đâu thì Tòa án nơi đó có thẩm quyền xét xử
người phạm tội không kể người phạm tội đó cư trú ở nơi đâu. Nếu không xác định nơi
tội phạm xẩy ra thì Tòa án nơi kết thúc điều tra có thẩm quyền xét xử tội phạm đó.
Trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu được đưa về xét xử trong
nước thì khoản 2 Điều 171 BLHS quy định:
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án
cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử, nếu không xác
định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án quân sự thì do Tòa án quân sự cấp Quân khu trở lên xét xử theo
quyết định của Chánh án Tòa án quân sự Trung ương [44, Điều 171].
Đối với những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước CHXHCNVN
17
đang hoạt động ở ngoài không phận hoặc lãnh hải của Việt Nam, theo quy định tại
Điều 172 BLTTHS năm 2003 thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam nơi có
sân bay, bến cảng mà tàu bay, tàu biển đó trở về đầu tiên trên lãnh thổ Việt nam
hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký.
Thứ tư là chuyển vụ án và giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Trước khi đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải căn cứ vào các Điều 170, 171,
172, 173 BLTTHS để xác định vụ án đó có thuộc thẩm quyền xét xử của mình hay
không, nếu không thuộc thẩm quyền thì theo quy định của Điều 174 BLTTHS Tòa
án đó phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. Việc chuyển vụ án trong phạm
vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quân khu do Chánh án Tòa án quyết định;
việc chuyển vụ án cho Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, quân khu do Tòa án nhân dân cấp
tỉnh,Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.
Chỉ được chuyển vụ án cho Tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử, trong
trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu vụ án thuộc
thẩm quyền của TAQS hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án được đưa ra xét xử vẫn phải
chuyển cho Tòa án có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do
Hội đồng xét xử quyết định.
Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử: Theo quy định tại Điều 175
BLTTHS, việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các TAND hoặc
TAQS do Chánh án Tòa án cấp trên quyết định. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền xét xử vụ án giữa các TAND cấp huyện thuộc tỉnh, Thành phố trung ương
khác nhau do Chánh án Tòa án nơi kết thúc việc điều tra quyết định. Việc giải quyết
tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự do Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.
1.3.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, xét xử sơ thẩm hình sự do TAND
cấp huyện, TAND cấp tỉnh, TAQS khu vực và TAQS cấp quân khu thực hiện.
BLTTHS năm 2003 không chia xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thành những giai đoạn
riêng biệt, bởi lẽ, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động tố tụng khép kín.
Nhưng từ góc độ nghiên cứu khoa học, tác giả chia hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
18