Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Một số giải Pháp quản lý Nhà nƣớc để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.74 KB, 81 trang )

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống,
mỗi một cộng đồng dân tộc có một nét văn hoá riêng độc đáo tạo nên một nền
văn hoá Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Hiện nay, quá trình phát triển kinh
tế - xã hội cũng như hội nhập quốc tế đã có ảnh hưởng tích cực cũng như hạn
chế tới văn hoá của các dân tộc thiểu số. Trong đó dân tộc Cao Lan ở Tuyên
Quang cũng vậy. Quá trình hình thành và phát triển tại Tuyên Quang của dân tộc
Cao Lan đã tạo nên nét văn hoá độc đáo cho riêng mình. Tuy nhiên, hiện nay
văn hoá của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang đang đứng trước nhiều thách thức,
một số giá trị văn hoá truyền thống có nguy cơ bị mai một thậm chí mất hẳn,
việc tiếp thu tràn lan, không có chọn lọc các yếu tố văn hoá của các dân tộc khác
đã dần làm mất đi bản sắc riêng của mình, đặc biệt là đối với lễ hội đình làng -
nét sinh hoạt truyền thống cộng đồng hết sức ý nghĩa và độc đáo của dân tộc
Cao Lan.
Thực hiện chủ trương xây dựng nền văn hoá “Tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương V khoá VIII của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc những năm gần đây việc khôi phục và phát triển lễ hội đình làng của dân
tộc Cao Lan đã được chú trọng và đạt một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, việc
giữ gìn và phát triển loại hình lễ hội truyền thống này còn một số hạn chế nhất
định như: Phát triển tự phát, thiếu tính định hướng; nhiều giá trị văn hoá truyền


thống tại lễ hội có nguy cơ mai một dần; chính sách của các cấp chính quyền đối
với việc phát triển lễ hội này còn hạn chế…Thực tế đó đòi hỏi phải có những
giải pháp quản lý Nhà nước phù hợp để giữ gìn và phát huy loại hình lễ hội này.
Trước nhu cầu mang tính cấp thiết đó, tác giả mạnh dạn lựa chọn “ Một số giải
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


2

pháp quản lý Nhà nƣớc để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc
Cao Lan ở Tuyên Quang ” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Vì vấn đề nghiên cứu là một vấn đề rộng, phức tạp, thời gian nghiên cứu
còn hạn chế và một số khó khăn trong thu thập tài liệu nên khoá luận luận chắc
chắn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Do đó, rất mong được sự đóng
góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để khoá luận được hoàn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang, những năm qua đã có một số công
trình nghiên cứu khoa học về văn hoá đồng bào dân tộc Cao Lan trong đó có đi
sâu nghiên cứu lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan như:
- Đề tài: “ Văn hoá truyền thống dân tộc Cao Lan ” năm 1993 – 1994;
Đề tài: “ Văn hoá truyền thống của một số dân tộc Tỉnh Tuyên Quang ” năm
1999 – 2000;
- Đề tài: “ Bảo tồn hát Sình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang ” năm
2003 của Nịnh Văn Độ;
- Đề tài Luận văn Cao học của Đặng Chí Thông về “ Phong tục tập quán
và lễ hội của người Cao Lan ở xã Kim Phú, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

Tuy vậy chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về các giải pháp quản lý Nhà
nước để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên
Quang, mặc dù vai trò của quản lý Nhà nước là hết sức quan trọng trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục tiêu của đề tài.
Trên cơ sở nghiên cứu, nhận xét đánh giá về một số thực trạng quản lý
Nhà nước đối với việc giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của đồng bào dân
tộc Cao Lan thời gian qua tại tỉnh Tuyên Quang, từ đó kiến nghị một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước đối với việc giữ gìn
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


3

và phát triển lễ hội đình làng của đồng bào dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang
trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: là hoạt động quản lý nhà nước đối với việc giữ
gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang đặc biệt là huyện Yên Sơn – địa phương có đông dân cư là người
Cao Lan và là nơi duy nhất còn tồn tại lễ hội đình làng truyền thống.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành khoá luận tác giả triệt để sử
dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê
nin;
- Phương pháp thống kê, so sánh, đánh giá, điều tra xã hội học, phân tích

tổng hợp…;
- Phương pháp quan sát thực tiễn, trừu tượng hoá đối tượng;
6. Những đóng góp của khoá luận
Sau khi khoá luận hoàn thiện sẽ có những đóng góp nhất định xét trên
nhiều góc độ khác nhau, cụ thể là những đóng góp sau:
- Việc hoàn thiện vấn đề nghiên cứu sẽ giúp bổ sung lý luận về quản lý
Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số ở
Tuyên Quang;
- Góp phần bổ sung kiến thức thực tiễn về hoạt động quản lý Nhà nước
trên một lĩnh vực xã hội nhất định, cụ thể là lễ hội văn hoá - truyền thống của
đồng bào dân tộc thiểu số;
- Góp phần giới thiệu lễ hội đình làng - nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của
đồng bào dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang với các địa phương cũng như với các
dân tộc thiểu số khác trên đất nước Việt Nam;
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


4

- Tìm kiếm một số giải pháp quản lý Nhà nước mang tính thực tiễn cao để
giữ gìn và phát triển lễ hội truyền thống của dân tộc Cao Lan trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Khoá luận:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, khoá luận được chia thành các phần như
sau:
Chƣơng 1. Khái quát chung về văn hoá truyền thống, lễ hội và vai trò của
Nhà nƣớc trong việc duy trì và phát triển văn hoá truyền thống.
Phần này tập trung giải thích một số nét khái quát về văn hoá truyền

thống, lễ hội truyền thống cũng như lý luận về vai trò của Nhà nước đối với
quản lý văn hoá truyền thống - lễ hội truyền thống làm nền tảng cho nghiên cứu
vấn đề ở các chương tiếp theo. Nội dung của chương này bao gồm khái quát về
văn hoá truyền thống trong thời kỳ hội nhập, vai trò của lễ hội truyền thống đối
với việc bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống, vai trò của Nhà nước đối với
việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống, hệ thống chính sách của Nhà
nước đối với việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống.
Chƣơng 2. Thực trạng về quản lý Nhà nƣớc đối với việc giữ gìn và phát
triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang.
Trong chương này, tác giả tập trung phân tích thực trạng việc tổ chức và
quản lý lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan để thấy được những mặt đã đạt
được và chưa đạt được trong việc bảo tồn và phát triển loại hình lễ hội này trên
địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Phần này sẽ bao gồm các nội dung như: Khái quát
chung về lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang, cơ chế quản lý
đối với lễ hội truyền thống ở Tuyên Quang trong đó có lễ hội đình làng của dân
tộc Cao Lan, thực trạng tổ chức và quản lý lễ hội đình làng, đánh giá những kết
quả và hạn chế trong tổ chức và quản lý lễ hội đình làng của người Cao Lan, tìm
hiểu nguyên nhân của những hạn chế đó.
Chƣơng 3. Một số giải pháp quản lý Nhà nƣớc để giữ gìn và phát triển lễ
hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


5

Chương này tập trung đề ra phương hướng giữ gìn và phát triển lễ hội
đình làng của dân tộc Cao Lan trong thời gian tới và kiến nghị một số giải pháp

về quản lý Nhà nước để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của người Cao Lan
trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng của tổ chức và quản lý lễ hội trong thời
gian qua, cũng như kinh nghiệm của các địa phương trong việc tổ chức và quản
lý lễ hội và phương hướng giữ gìn, phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao
Lan đã nêu.





















Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính



6

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG, LỄ HỘI VÀ
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN
VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG

1.1 Văn hoá truyền thống trong thời kỳ hội nhập và phát triển
1.1.1 Các cách tiếp cận về văn hoá truyền thống
Để tìm hiểu về văn hoá truyền thống, trước hết cần tìm hiểu về văn hoá -
một khái niệm quan trọng khi nói đến văn hoá truyền thống.
a. Văn hoá
Văn hoá là một khái niệm rộng được bắt nguồn từ chữ Latinh: “ Cultura”
có nghĩa là sự cày cấy, vun trồng. Cùng với quá trình phát triển văn hoá ngày
càng có nội dung phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Các nhà
nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm để phản ánh các góc độ của văn hoá. Bản
chất của văn hoá là rộng và đa dạng , do vậy các khái niệm về văn hoá chỉ mang
tính chất tương đối. Có thể đưa ra một số khái niệm về văn hoá như sau:
 Theo nghĩa hẹp: Văn hoá là những chính kiến xã hội để quyết định những ứng
xử cá nhân trong xã hội đó.
 Theo nghĩa rộng:
- Quan điểm của UNESCO : “ Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá là tổng
thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định
tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm
nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng ”
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “ Thập niên thế giới phát triển văn hoá”
tại Pháp ngày 21-1-1998, ngài Tổng thư ký UNESCO cũng từng phát biểu: văn

hoá là tổng thể sống động các hoạt động dân tộc trong quá khứ cũng như trong
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo đó đã hình thành nên một hệ thống
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


7

giá trị , các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định riêng biệt của mỗi
dân tộc ”
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Hội Nghị Ban Chấp Hành
Trung Ương lần thứ V ( Khoá VIII ) Đảng ta xác định: “ Văn hoá là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội ”, và xác định “ Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao
động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn
minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hoá đã hun đúc nên tâm
hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc ”.
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá, văn nghệ, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hoá ”
Như vậy, văn hoá có nhiều khái niệm khác nhau dưới các góc độ khác
nhau. Quan trọng nhất văn hoá được xem như tất cả những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra phục vụ nhu cầu sống của con người trong
quá trình phát triển và là một nền tảng tinh thần không thể thiếu trong đời sống
của con người.

b. Văn hoá truyền thống.
Văn hoá truyền thống là một khái niệm chỉ những nét văn hoá riêng biệt
của một cộng đồng xã hội, được hình thành cùng với quá trình phát triển của
cộng đồng xã hội đó và được lưu truyền qua các thế hệ; cụ thể là tính cách, là
đạo đức, là phong tục tập quán, tư tưởng, lối sống, thói quen…. Văn hoá truyền
thống tạo nên bản sắc dân tộc, là nét văn hoá riêng biệt của một cộng đồng xã
hội, tồn tại và phát triển cùng lịch sử phát triển cộng đồng. Nét văn hoá đó đã ăn
sâu vào trong nếp sống cũng như nếp nghĩ của cộng đồng xã hội đó.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


8

Như vậy có thể quan niệm văn hoá truyền thống là toàn bộ giá trị, thành
quả, thành tựu vật chất và tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được
lưu giữ và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ
vang của dân tộc Việt Nam.
Hay nói cách khác văn hoá truyền thống là đặc điểm đã in thành nếp sâu
đậm trong tâm hồn, tình cảm , lối diễn đạt, tư duy của một cộng đồng qua bao
thế kỷ gắn bó với nhau cùng phát triển.
Có thể nói văn hoá truyền thống là yếu tố cốt lõi của văn hoá dân tộc, nó
là yếu tố quyết định bản sắc độc đáo của một nền văn hoá. Nền văn hoá truyền
thống mà bị mai một hay mất đi thì một dân tộc sẽ mất đi chính bản thân mình.
Do đó, việc giữ gìn và phát triển văn hoá truyền thống là một nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của mỗi cộng đồng dân tộc, quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2 Đặc trƣng văn hoá truyền thống.

Văn hoá truyền thống là những giá trị sáng tạo, quan điểm thẩm mỹ của
dân tộc, các chuẩn mực về tư tưởng đạo đức, giao tiếp ứng xử, phong tục, lễ
nghi… thông qua đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Do đó văn hoá
truyền thống có các đặc trưng như sau:
Thứ nhất, văn hoá truyền thống mang tính lịch sử: Văn hoá truyền thống
hình thành và bồi đắp qua quá trình phát triển lâu dài của cộng đồng, dân tộc.
Cộng đồng chính là nơi văn hoá truyền thống được hình thành và phát triển. Qua
quá trình lao động sáng tạo của con người, những nét đẹp văn hoá dần được hình
thành và bồi đắp qua thời gian. Văn hoá truyền thống không phải cái có sẵn, và
khi có rồi không phải không cần bồi đắp. Có những giá trị nếu không được bồi
đắp cùng với quá trình phát triển của con người sẽ bị mai một dần và mất hẳn.
Tính lịch sử của văn hoá truyền thống thể hiện qua sự kế thừa các giá trị truyền
thống. Văn hoá truyền thống của mỗi thời kỳ lịch sử mang dấu ấn của thời kỳ đó
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


9

đồng thời kế thừa những giá trị của thời kỳ trước đó và là nền tảng cho thời kỳ
tiếp theo phát triển.
Thứ hai, văn hoá truyền thống là một bộ phận của văn hoá, nó được dùng
để phân biệt với tính hiện đại mà nền văn hoá đã tiếp thu trong quá trình phát
triển. Nếu như văn hoá hiện đại là những giá trị văn hoá mới được tiếp thu thì
văn hoá truyền thống là những giá trị đã hình thành và tồn tại từ lâu, được bồi
đắp qua nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn. Tuy vậy, trên thực tế thì văn hoá truyền
thống và tính hiện đại của văn hoá cũng có sự đan xen và kế thừa lẫn nhau. Văn
hoá truyền thống là hệ thống các giá trị và các chuẩn mực lâu đời điều chỉnh các

hoạt động cũng như quan hệ cộng đồng xã hội. Chẳng hạn những giá trị truyền
thống văn hoá như tương thân tương ái, đồng cam cộng khổ hay yêu nước
thương dân, tính cố kết cộng đồng… là những giá trị văn hoá tốt đẹp đã tồn tại
lâu đời và được bồi đắp qua nhiều thế hệ. Do đó có thể khẳng định văn hoá
truyền thống mang tính lâu đời.
Thứ ba, Văn hoá truyền thống cũng mang tính giá trị. Xét về giá trị của
văn hoá truyền thống thì nó bao gồm cả những giá trị mang tính tích cực và
những giá trị không còn phù hợp với đời sống hiện tại nữa. Những giá trị tích
cực và còn phù hợp với đời sống hiện tại sẽ được giữ gìn, bảo tồn và phát huy.
Còn những giá trị văn hoá không còn phù hợp nữa sẽ bị cải biến dần cho phù
hợp hoặc sẽ bị loại bỏ khỏi nền văn hoá mới mà xã hội đang xây dựng. Chẳng
hạn như, những giá trị truyền thống tốt đẹp như truyền thống tương thân tương
ái, truyền thống đoàn kết… sẽ được phát huy, còn những giá trị truyền thống
không còn phù hợp như những tập tục rườm rà, những hủ tục lạc hậu, mê tín dị
đoan không còn phù hợp…sẽ bị cải tiến thành phong tục phù hợp, hay loại bỏ
hẳn để nền văn hoá phát huy vai trò đối với sự phát triển xã hội. Do đó vấn đề
giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc cần xác định rõ đâu là những giá trị văn hoá
cần giữ gìn và phát huy và cái nào cần cải tiến hay loại bỏ.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


10

Thứ tư, văn hoá truyền thống mang tính giáo dục sâu sắc. Văn hoá truyền
thống mang trong mình những khuôn mẫu ứng xử, làm nền tảng cho những hành
vi trong xã hội. Văn hoá truyền thống cũng thể hiện tính giáo dục của mình đối
với xã hội thông qua việc hướng con người hành động đúng với truyền thống

vốn có của cộng đồng mà cả xã hội đã thừa nhận và làm theo. Nó là chuẩn mực
xã hội để con người noi theo và thực hiện. Những phong tục tập quán, những
hoạt động văn hoá mang tính cộng đồng như các lễ nghi, lễ hội đều mang trong
mình những giá trị giáo dục cộng đồng sâu sắc. Phần lớn những nét truyền thống
văn hoá đó giáo dục cho cộng đồng xã hội biết trân trọng và phát huy thành quả
của quá trình xây dựng và phát triển xã hội mà cha ông nhiều thế hệ đã dày công
vun đắp. Hơn nữa thông qua các lễ nghi truyền thống giáo dục con người biết ơn
tổ tiên cha ông đã sinh thành và dưỡng dục, biết ơn các thế hệ đi trước. Đây là
một nét văn hoá tốt đẹp của cộng đồng xã hội. Phát huy những giá trị văn hoá
này cũng đồng nghĩa với việc phát huy nền tảng tinh thần cho xã hội, định
hướng cho xã hội hoạt động tốt hơn, phù hợp hơn với môi trường sống hiện đại.
Thứ năm, văn hoá truyền thống mang tính bền vững. Những giá trị văn
hoá truyền thống bao giờ cũng tồn tại lâu đời và được xã hội thừa nhận và trân
trọng giữ gìn qua nhiều thế hệ. Nó trở thành một bộ phận không thể thiếu của xã
hội. Nó giống như động lực cho con người lao động sản xuất tốt hơn. Chẳng hạn
như truyền thống các ngày lễ tết là một thí dụ. Trải qua bao biến cố của lịch sử
phát triển, truyền thống lễ tết ở Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển, nó là một bộ
phận của cuộc sống con người Việt Nam. Sau những tháng ngày lao động vất vả
dịp lễ tết là thời gian để mọi người nghỉ ngơi lấy lại tinh thần tiếp tục công việc,
là dịp để mọi người thể hiện lòng biết ơn tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và cũng là
dịp mọi người quan tâm tới nhau, tới tình làng nghĩa xóm... Có lẽ không một gia
đình Việt Nam nào lại nằm ngoài giá trị văn hoá truyền thống đó. Dó đó có thể
nói rằng văn hoá truyền thống là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự phát triển
xã hội, khó có thể mất đi cho dù xã hội có nhiều biến động. Đồng thời tính bền
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính



11

vững của văn hoá còn thể hiện cả những mặt bảo thủ, trì trệ. Những mặt bảo thủ,
trì trệ này tồn tại một cách bền bỉ, dai dẳng cùng với quá trình phát triển. Đặc
điểm này đòi hỏi trong quản lý Nhà nước đối với văn hoá truyền thống cần có
tác động thích hợp để nhanh chóng loại bỏ tính bảo thủ, trì trệ của những giá trị
đã lạc hậu không phù hợp với quá trình phát triển, nhằm tạo điều kiện cho văn
hoá truyền thống phát triển tốt nhất theo định hướng.
1.1.3 Vai trò của văn hoá truyền thống đối với sự phát triển xã hội và quá
trình hội nhập quốc tế.
Đánh giá vai trò của văn hoá Đảng ta đã khẳng định: “ Văn hoá là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội ”( Nghị quyết trung ương V khoá VIII của Ban Chấp Hành Trung
ương Đảng ).
Văn hoá truyền thống là nòng cốt của nền văn hoá nói chung, quá trình
phát triển xã hội không thể không trân trọng những vai trò to lớn của văn hoá
truyền thống. Văn hoá truyền thống là nền tảng tinh thần cho xã hội, nó biểu
hiện sức mạnh tiềm tàng và bản lĩnh của một dân tộc và được biểu hiện thông
qua những truyền thống và hệ giá trị mang tính đặc trưng cho bản sắc văn hoá
của dân tộc. Truyền thống và hệ giá trị này được thấm nhuần trong mỗi con
người và cả cộng đồng, dân tộc; được chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy
qua các thế hệ; được vật chất hoá trong các cấu trúc thiết chế chính trị - xã hội
và trong hoạt động sống của cả dân tộc. Là nền tảng tinh thần của xã hội, văn
hoá truyền thống cũng như văn hoá biểu hiện sức sống, sức phát triển, sự hiểu
biết và trí tuệ, đạo lý, tâm hồn…của con người, của dân tộc và trong mối quan
hệ của con người với đồng loại, với xã hội, với tự nhiên được xây dựng và bồi
đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử.
Đối với xã hội có một nền tảng tinh thần vững chắc thì mới có sự phát
triển về kinh tế xã hội. Nhìn nhận yếu tố quyết định đối với sự phát triển xã hội
thì con người đứng ở vị trí trung tâm. Chính con người chứ không phải lực

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


12

lượng nào khác quyết định sự phát triển của mình. Đánh giá vai trò của con
người đối với sự phát triển thì con người “vừa là mục tiêu vừa là động lực” của
sự phát triển. Con người với tài năng và óc sáng tạo của mình làm ra của cải vật
chất cho chính bản thân mìn và cho xã hội. Muốn có được năng suất lao động
cao, hiệu quả con người phải có trí tuệ, phải có trình độ khoa học công nghệ, và
đặc biệt phải có sức khoẻ, sức khoẻ ở đây bao gồm thể lực và trí lực. Mà con
người có phát triển toàn diện thì mới có được sức khoẻ đó, văn hoá truyền thống
chính là một yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên một con người vừa có sức khoẻ
về thể chất vừa khoẻ về tâm hồn để lao động và sáng tạo.
Hơn thế nữa, văn hoá truyền thống là một phương tiện giáo dục xã hội
góp phần tạo nên một giá trị vô cùng quan trọng đối với bản thân mỗi con người
và với cả xã hội. Đó là yếu tố tài và đức. Đây là hai yếu tố tạo nên một con
người mới với trình độ văn hoá cao, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Văn hoá truyền thống với những hệ giá trị như chăm chỉ
cần cù, chịu thương chịu khó, tương thân tương ái… sẽ giúp con người phát huy
được mọi khả năng sáng tạo của mình trong học tập cũng như trong lao động sản
xuất, dưới sự giúp đỡ của cộng đồng. Cũng nhờ những giá trị của văn hoá truyền
thống đã giáo dục cho con người dần hoàn thiện giá trị đạo đức của mình trở
thành con người có trí đức hoàn thiện để cùng cộng đồng phát triển.
Như vậy, văn hoá truyền thống là một yếu tố vô cùng quan trọng trong
việc xây dựng con người mới – mục tiêu và động lực của sự phát triển. Con
người mới với sức khoẻ và trí tuệ mới sẽ là lực lượng quyết định đối với mọi sự

phát triển. Vì thế chăm lo xây dựng con người mới không thể không chăm lo
xây dựng văn hoá cho cộng đồng xã hội, đặc biệt là văn hoá truyền thống dân
tộc. Hay nói cách khác chăm lo giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống chính
là chăm lo xây dựng con người mới, là tạo động lực cho các quá trình phát triển.
Không chỉ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, văn hoá truyền thống còn đóng vai trò quan trọng trong giao lưu hội
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


13

nhập với quốc tế. Quá trình hội nhập là một quá trình giao lưu giữa các quốc gia
với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực văn
hoá. Các quốc gia thông qua quá trình hội nhập, sẽ giao lưu, trao đổi kinh
nghiệm cũng như các tinh hoa văn hoá với nhau làm phong phú thêm nền văn
hoá nước nhà. Tham gia hội nhập quốc tế là một đòi hỏi tất yếu khách quan của
các quốc gia. Muốn phát triển, các quốc gia không thể không tham gia vào quá
trình vận động chung của quá trình hội nhập. Hội nhập chính là cơ hội để các
quốc gia cùng nhau giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội mang tính toàn cầu.
Phải nhận thấy rằng vấn đề tham gia hội nhập với khu vực và thế giới của các
quốc gia không chỉ là sự hội nhập về mặt chính trị, do các Chính Phủ đảm nhận,
mà có cả sự tham gia của người dân. Có thể nói sự tham gia hội nhập của người
dân chính là yếu tố mở đường cho các quốc gia hội nhập sâu rộng hơn. Quan hệ
giữa nhân dân các nước là điều kiện tiền đề cho các quốc gia quan hệ với nhau
thân thiết hơn về mọi mặt. Sự giao lưu của nhân dân các nước trên nhiều lĩnh
vực trước hết phải là sự giao lưu về mặt văn hoá. Văn hoá truyền thống tham gia
vào quá trình hội nhập quốc tế hay toàn cầu hoá với tư cách là yếu tố khẳng định

tính riêng biệt độc đáo của một dân tộc. Tính riêng biệt độc đáo đó là nền tảng
để các quốc gia khẳng định bản sắc của riêng mình, từ đó có thể mở rộng quan
hệ trên nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau như kinh tế, chính trị, giáo dục hay y
tế…
Trong giao lưu hợp tác quốc tế, tính dân tộc của văn hoá truyền thống
nhiều khi quyết định đến tính chất và mức độ của quan hệ quốc tế trên các lĩnh
vực. Chẳng hạn như, với những nét văn hoá đặc sắc, truyền thống văn hoá mang
đậm nét cổ truyền sẽ giúp các quốc gia mở rộng hợp tác về du lịch văn hoá
truyền thống, với truyền thống cần cù, ham học hỏi của người lao động Việt
Nam là yếu tố thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để phát triển kinh tế.
Cùng với quá trình hội nhập, văn hoá truyền thống sẽ làm sợi dây liên kết các
quốc gia lại với nhau cùng hợp tác và phát triển trên nhiều lĩnh vực khác. Đồng
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


14

thời văn hoá truyền thống của dân tộc cũng chính là yếu tố để khẳng định mình
cùng với bạn bè thế giới. Một quốc gia dân tộc tham gia vào một sân chơi rộng
lớn lại không khẳng định được mình là ai thì chắc chắn một điều rằng mối quan
hệ với các quốc gia khác không thể bền vững được. Điều này khẳng định rằng,
không có tính độc đáo cá biệt của mình sẽ không thể tham gia hội nhập được.
Tính độc đáo của riêng mình trong mỗi quốc gia chỉ có được nhờ văn hoá truyền
thống dân tộc hay bản sắc dân tộc đó mà thôi.
Chính vì những điều này mà UNESCO đã phát động “ Thập niên thế giới
phát triển văn hoá ” trong đó có đề cao yếu tố các quốc gia phải đặc biệt quan
tâm tới quá trình bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá độc đáo của mình. Đó

chính là nền tảng cho sự phát triển và tham gia hội nhập quốc tế. Hễ quốc gia
nào mà không quan tâm phát triển văn hoá, đặc biệt văn hoá truyền thống và coi
văn hoá như một nhân tố điều tiết xã hội, gắn với phát triển kinh tế thì quốc gia
đó sẽ bị mất cân đối trong phát triển và không còn là bản thân mình nữa. Điều
này cho thấy vai trò của văn hoá truyền thống đã được các quốc gia thừa nhận,
và đã trở thành một chương trình hoạt động chung của cộng đồng quốc tế vì mục
tiêu phát triển con người. Không chăm lo bảo vệ và phát huy văn hoá truyền
thống đồng nghĩa với dân tộc đó tự đánh mất mình, đồng nghĩa với việc mất văn
hoá dân tộc là mất nước, chịu sự lệ thuộc về văn hoá, đất nước, dân tộc đó sẽ
không thể tồn tại độc lập được.
Như vậy, văn hoá, và văn hoá truyền thống là một yếu tố có ý nghĩa và
vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nói chung và quá trình hội nhập
quốc tế nói riêng. Chăm lo giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân
tộc chính là chăm lo cho sự phát triển bền vững của dân tộc và làm cho văn hoá
nhân loại thêm phong phú hơn.
1.2 Lễ hội truyền thống - một hoạt động quan trọng góp phần duy trì và
phát triển văn hoá truyền thống
1.2.1 Lễ hội truyền thống và các loại hình lễ hội
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


15

a. Lễ hội truyền thống
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người
dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ
hàng ngàn đời nay có truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện

thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh những hình tượng
thiêng, được định danh là những vị “Thần” - những người có thật trong lịch sử
dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất
cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm; những
người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi
với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật
truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện,
giữ gìn cuộc sống hạnh phúc... Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công
đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc và là dịp để mọi người gặp gỡ
nhau, giao lưu sinh hoạt văn hoá với nhau.
b. Các loại hình lễ hội
 Theo tính chất của lễ hội truyền thống, có:
- Lễ hội mang tính tính ngưỡng: Tết truyền thống, Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội
Chùa Hương, Lễ hội Cầu Mùa… Đây là loại lễ hội truyền thống có số lượng lớn
nhất
- Lễ hội văn nghệ dân gian: Hội Chèo, Hội Lim…
 Theo phạm vi, quy mô:
- Lễ hội cấp quốc gia: Lễ hội Đền Hùng,
- Lễ hội cấp Tỉnh: Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư ( Ninh Bình ), Lễ hội
Chùa Hương ( Hà Tây ), Hội Lim ( Bắc Ninh )…
- Lễ hội cấp Huyện: Hội đền Thái Vi ( Ninh Bình), Hội chùa Keo ( Hà Tây),…
- Lễ hội cấp xã: Đây là loại lễ hội chiếm số lượng lớn nhất với các hình thức tổ
chức phong phú mang đậm nét truyền thống của cộng đồng từng làng quê Việt
Nam
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính



16

 Theo quy chế tổ chức và quản lý lễ hội, gồm
- Lễ hội dân gian
- Lễ hội lịch sử cách mạng
- Lễ hội tôn giáo
- Lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam
1.2.2 Đặc điểm của lễ hội truyền thống
 Tính cộng đồng. Mỗi một lễ hội truyền thống đều mang tính cộng đồng
sâu sắc. Tính cộng đồng của lễ hội thể hiện ở chỗ chính từ cộng đồng mà lễ hội
truyền thống được hình thành nên. Lễ hội truyền thống được ra đời phục vụ nhu
cầu của cộng đồng, đó là nhu cầu tín ngưỡng; nhu cầu giao lưu, sinh hoạt văn
hoá với nhau…Hơn nữa cộng đồng chính là mảnh đất để cho các lễ hội truyền
thống tồn tại và phát triển. Lễ hội ra đời phục vụ cho nhu cầu văn hoá cũng như
tâm linh của con người. Vì thế lễ hội truyền thống gắn kết chặt chẽ với cộng
đồng xã hội. Một lễ hội được tổ chức mà không được cộng đồng tham gia,
không được cộng đồng coi trọng thì chắc chắn lễ hội đó không mang tính cộng
đồng cao.
 Hầu hêt các lễ hội truyền thống đều có đặc điểm là bao gồm hai phần
chính là phần lễ và phần hội. Phần lễ mang tính trang nghiêm, mang ý nghĩa tín
ngưỡng sâu sắc. Phần lễ thường là những nghi thức trang trọng thể hiện sự tạ ơn
đối với những người có công với cộng đồng và cầu mong cho mưa thuận gió
hoà, cầu cho cuộc sống được bình an, hạnh phúc. Còn phần hội chính là phần
sinh hoạt văn hoá của cộng đồng. Phần hội này bao gồm các trò chơi dân gian
truyền thống, vừa có tác dụng thu hút mọi người tham gia lễ hội vừa có tác dụng
giải trí, tạo tâm lý thoản mái cho người dân để chuẩn bị bước vào vụ sản xuất
mới, đồng thời làm tăng tính cố kết cộng đồng, tinh thần đoàn kết của người dân
trong làng xã. Xét về nguồn gốc, phần lớn các trò chời dân gian đều xuất phát từ
ước vọng thiêng liêng của người nông dân. Ví dụ trò pháo đất, đốt pháo, trò thả
diều… xuất phát từ tiếng sấm cầu mưa thuận gió hoà; trò cướp cầu, đánh đáo,

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


17

ném còn thì thể hiện ước vọng cầu an; trò thi bắt lợn, thi thổi cơm, trò đập niêu
thể hiện mong ước chân cứng đa mềm, nhanh chân nhanh tay, sức khoẻ dẻo
dai…..
 Tính giáo dục sâu sắc.
Lễ hội truyền thống là dịp để cho mỗi người trở về với cội nguồn, vừa là
dịp để cho mỗi người gặp nhau sau những lo toan của cuộc sống hàng ngày. Lễ
hội là dịp để mọi người thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn với
những người có công với làng xã, với đất nước. Qua lễ hội, mỗi người có dịp
bày tỏ lòng biết ơn đó, được ôn lại lịch sử cũng như được thấm nhuần các giá trị
to lớn của truyền thống mà cha ông đã để lại. Qua các nghi thức cúng lễ, qua các
trò chơi dân gian, các thế hệ truyền lại cho nhau những giá trị truyền thống to
lớn mà cha ông đã dày công vun đắp nên. Tất cả đều một mục đích giáo dục cho
thế hệ sau biết trân trọng, giữ gìn những gì cha ông đã hy sinh cả sương máu và
tính mạng tạo nên, đồng thời giáo dục cho các thế hệ đạo lý uống nước nhớ
nguồn của dân tộc, khơi dậy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, giúp đỡ
nhau cùng phát triển
1.2.3 Vai trò của lễ hội truyền thống trong việc duy trì và phát triển văn hoá
truyền thống
Lễ hội truyền thống là một hoạt động sinh hoạt văn hoá của cộng đồng xã
hội. Nó có vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội nói chung và với việc duy
trì và phát huy văn hoá truyền thống nói riêng. Vai trò đó được biểu hiện qua các
mặt như sau:

Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn
cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Trở về với
cội nguồn con người thể hiện lòng tri ân của mình với các thế hệ trước, thể hiện
tấm trân tình đối với cha ông đã sinh thành, dưỡng dục và để lại thành quả cho
các thế hệ kế tiếp. Nhớ về cội nguồn, nhớ về công lao của cha ông chính là đạo
lý “ uống nước nhớ nguồn ”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây ” đã tồn tại từ bao đời
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


18

nay của dân tộc Việt Nam. Lễ hội chính là dịp để mỗi người thể hiện đạo lý
truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc ta. Do đó có thể nói rằng, lễ hội đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
ta.
Lễ hội còn thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng
hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để
vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Sức mạnh to lớn của tinh
thần đoàn kết từ bao đời nay của cha ông ta được thể hiện thông qua lễ hội.
Cộng đồng cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm lao động sản xuất, chia sẻ
kinh nghiệm sống, tương trợ lẫn nhau theo tinh thần “ là lành đùm lá rách” để
cùng nhau phát triển. Lễ hội cũng chính là nơi con người có thể hiểu nhau hơn.
Nếu không có lễ hội thì cơ hội để cộng đồng hiểu biết nhau, chia sẻ với nhau
những kinh nghiệm của cuộc sống sẽ khó khăn hơn do những lo toan, bươn trải
cho cuộc sống. Vì vậy, lễ hội là mảnh đất cho tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau
trong cộng đống xã hội phát triển.
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật

chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, lưu giữ và
chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị
đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố
tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí…Lễ hội là nơi có tính giáo dục sâu sắc,
đặc biệt là giáo dục về những giá trị truyền thống. Cùng với lễ hội các giá trị
truyền thống của dân tộc được tái hiện lại một cách sinh động thông qua các
nghi lễ, các trò chơi dân gian, các làn điệu dân ca dân vũ…tất cả đều tái hiện lại
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việc tái hiện lại những giá trị
truyền thống đó chính là việc chuyển giao lại cho các thế hệ sau giữ gìn, bảo tồn
và phát huy giá trị của chúng. Bên cạnh đó, lễ hội cũng là dịp để con người sáng
tạo văn hoá, giao lưu văn hoá với các nền văn hoá khác. Đây cũng là cơ hội để
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


19

cho các giá trị truyền thống được quảng bá rộng rãi và phát huy trong cuộc sống
của cộng đồng.
Như vậy, có thể nói lễ hội truyền thống là nơi hội tụ, là mảnh đất màu mỡ
để cho văn hoá truyền thống phát triển. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc được lưu giữ , bảo tồn và phát huy thông qua lễ hội. Do vậy lễ hội là một
điều kiện quan trọng để văn hoá truyền thống tại và phát huy, việc khôi phục và
phát triển các lễ hội truyền thống cũng chính là việc giữ gìn và phát triển văn
hoá truyền thống của dân tộc.
1.3 Sự cần thiết của quản lý Nhà nƣớc về văn hoá để duy trì và phát huy
văn hoá - lễ hội truyền thống
1.3.1 Vai trò của Nhà nƣớc đối với việc duy trì và phát huy văn hoá - lễ hội

truyền thống
a. Vai trò của Nhà nước.
 Vai trò định hướng hoạt động
Duy trì và phát huy văn hoá truyền thống là nhiệm vụ quan trọng của toàn
xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hoá nước nhà. Muốn cho nền văn hoá của
đất nước đặc biệt là văn hoá truyền thống phát triển một cách đúng đắn thì phải
có một định hướng nhất định. Vai trò định hướng cho văn hoá truyền thống
được bảo tồn và phát triển thuộc về Nhà nước. Nhà nước định hướng cho văn
hoá truyền thống phát triển theo một mục tiêu, một đường hướng nhất định. Sự
định hướng của Nhà nước giúp cho văn hoá truyền thống dân tộc được chọn lọc
và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của mình đồng thời loại bỏ những giá
trị mang tính lạc hậu, không còn phù hợp với cuộc sống đương đại nữa. Như
vậy, vai trò định hướng của Nhà nước ở đây chính là việc hướng cho những giá
trị nào là tốt đẹp, là tích cực có vai trò quan trọng trong cuộc sống cộng đồng
được bảo tồn và phát huy, đồng thời xác định những gì đã lạc hậu hay mang tính
chất không có lợi cũng như không còn phù hợp nữa để có biện pháp loại bỏ hoặc
thay thế cho phù hợp.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


20

Trong những năm qua, vai trò định hướng của Nhà nước đối với việc duy
trì và phát huy văn hoá truyền thống đã được thể hiện thông qua các chủ trương,
đường hướng phát triển văn hoá và các văn bản quản lý. Trong đó có định
hướng những giá trị truyền thống cần được bảo tồn và phát triển, đồng thời cũng
quy định những giá trị lạc hậu cần loại bỏ. Chẳng hạn như trong Quy chế tổ

chức lễ hội ban hành kèm theo Quyết định số 09/2001/QĐ-BVHTT của Bộ
trưởng Bộ Văn hoá Thông tin có quy định về mục tiêu của việc tổ chức lễ hội tại
điều 2 như sau:
“ 1. Tưởng nhớ công đức các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các liệt sĩ,
các bậc tiền bối đã có công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
3. Đáp ứng nhu cầu văn hóa, tín ngưỡng, tham quan các di tích lịch sử - văn
hóa, danh lam thắng cảnh, công trình kiến trúc nghệ thuật, cảnh quan thiên
nhiên và các nhu cầu chính đáng khác của nhân dân. ”
Đồng thời quy định cả những điều cấm trong lễ hội, được quy định tại điều 3
như sau:
“1. Lợi dụng lễ hội để tổ chức các hoạt động chống lại Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, gây mất trật tự, an ninh, tuyên truyền trái pháp luật,
chia rẽ đoàn kết dân tộc.
2. Tổ chức các hoạt động mê tín dị đoan, phục hồi hủ tục trái với thuần phong
mỹ tục của dân tộc.
3. Tổ chức các dịch vụ sinh hoạt ăn nghỉ và dịch vụ tín ngưỡng trong khu vực
nội tự.
4. Đánh bạc dưới mọi hình thức.
5. Đốt đồ mã (nhà lầu, xe, ngựa, đồ dùng sinh hoạt...).
6. Những hành vi vi phạm pháp luật khác.”
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


21


Như vậy, Quy chế đã quy định những mục đích cụ thể của việc tổ chức lễ hội,
đồng thời nghiêm cấm các hành vi không đi đúng với mục đích tổ chức lễ hội
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường văn hoá truyền thống. Điều này thể hiện rõ
sự định hướng của Nhà nước cho việc tổ chức và quản lý lễ hội, một nét sinh
hoạt văn hoá truyền thống của cộng đồng xã hội.
 Vai trò hỗ trợ.
Nhà nước không chỉ có vai trò định hướng đối với sự phát triển văn hoá
truyền thống mà còn đóng vai trò là lực lượng hỗ trợ cho văn hoá truyền thống
được duy trì và phát huy theo sự định hướng của Nhà nước. Nhà nước hỗ trợ
cho văn hoá truyền thống được duy trì và phát triển thông qua các hình thức sau:
Thứ nhất là hỗ trợ về mặt kinh phí hoạt động. Văn hoá truyền thống để
được duy trì và phát huy theo định hướng của Nhà nước cần có kinh phí để thực
hiện. Ngoài kinh phí do cộng đồng xã hội đóng góp, cần có một khoản kinh phí
hỗ trợ từ phía Nhà nước cũng như hỗ trợ về mặt quản lý và sử dụng kinh phí cho
các hoạt động. Kinh phí thực hiện việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống
là yếu tố hết sức quan trọng, nó là một yếu tố quyết định tới sự thành công hay
không của sự nghiệp phát triển văn hoá. Trong thực tế của sự nghiệp phát triển
văn hoá, đặc biệt là vấn đề bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống đã có nhiều
trường hợp do thiếu kinh phí tổ chức hoạt động mà các giá trị của văn hoá không
được bảo tồn và phát huy. Do đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về mặt
kinh phí để thực hiện việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống.
Thứ hai là hỗ trợ về mặt pháp lý. Cũng như các lĩnh vực khác, văn hoá
truyền thống cũng cần có một môi trường pháp lý để hoạt động. Môi trường
pháp lý chính là yếu tố tạo cho văn hoá truyền thống được diễn ra theo đúng
mục tiêu và chính sách của Nhà nước. Có một môi trường pháp lý an toàn, văn
hoá truyền thống có điều kiện được phát triển mạnh mẽ dưới sự hỗ trợ cũng như
đảm bảo của Nhà nước. Bằng việc ghi nhận các lĩnh vực văn hoá truyền thống
như văn nghệ dân gian, các nét sinh hoạt truyền thống, các phong tục tập quán…
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008



– Sinh viên Học viện Hành chính


22

trong các văn bản pháp luật và quy định có cơ chế bảo vệ văn hoá truyền thống
bằng pháp luật chính là việc thể hiện vai trò hỗ trợ về mặt pháp lý hay nói cách
khác chính là việc tạo môi trường pháp lý cho văn hóa truyền thống phát triển
theo định hướng.
Thứ ba là hỗ trợ về mặt chuyên môn cũng như phương thức thực hiện.
Việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống là một nhiệm vụ khó khăn và
phức tạp cần có chương trình và kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn. Cộng đồng
xã hội hơn ai hết hiểu rất rõ về những giá trị tốt đẹp của văn hoá truyền thống.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển, nhiều khi việc cộng đồng tự đánh mất
những giá trị văn hoá truyền thống mà không hề hay biết, khi biết rồi thì cũng
không biết phải khôi phục bằng cách nào. Thậm chí chính cộng đồng cũng
không biết trong các giá trị của văn hoá truyền thống thì những giá trị nào cần
phải lưu giữ, phát huy và những giá trị nào cần thay đổi. Nhà nước thông qua
các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà nước về văn hoá có vai trò quan trọng
giúp cho cộng đồng thấy được điều đó, đồng thời hỗ trợ về mặt chuyên môn để
các giá trị của văn hoá truyền thống được duy trì và phát triển tốt hơn. Thí dụ
như việc tổ lễ hội truyền thống, Nhà nước sẽ hỗ trợ việc tổ chức thông qua cơ
quan chuyên môn quản lý về văn hoá. Các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà
nước về văn hoá sẽ hỗ trợ về mặt chương trình, cố vấn về các nghiệp vụ tổ chức
lễ hội, trong đó sưu tầm các hoạt động văn hoá dân gian như dân ca, dân vũ, các
trò chơi dân gian trong lễ hội…Đồng thời hỗ trợ về mặt kiểm tra giám sát các
quy định chung để thực hiện các hoạt động giữ gìn và phát triển văn hoá truyền
thống.
Như vậy, với sự hỗ trợ to lớn từ phía Nhà nước giúp cho văn hoá truyền

thống phát triển theo chiều hướng tích cực, góp phần bảo vệ, duy trì và phát
triển văn hoá dân tộc, chống ảnh hưởng xấu, đồng thời giao lưu học hỏi những
tinh hoa văn hoá thế giới để góp thêm hơi thở hiện đại cho văn hoá - yếu tố quan
trọng để văn hoá truyền thống có thể duy trì và phát triển trong bối cảnh mới.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


23

 Vai trò nòng cốt trong việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống.
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực văn
hoá, trong đó có nhiệm vụ giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống. Do đó Nhà
nước đóng vai trò là lực lượng tiên phong đi đầu. Chủ trương xây dựng nền văn
hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được Nhà nước xây dựng thành các chương
trình, kế hoạch cụ thể. Nhà nước cần có chương trình và kế hoạch huy động,
khuyến khích cả xã hội cùng tham gia.
b. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với việc giữ gìn và phát
triển văn hoá tuyền thống.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh vực đã và đang diễn ra
hiện nay làm cho văn hoá cũng trở thành một lĩnh vực của hội nhập. Trong đó
việc giao lưu về văn hoá giữa các quốc gia là một tất yếu khách quan. Muốn
phát triển văn hoá các quốc gia không thể khép kín trong mỗi quốc gia, dân tộc.
Do đó, nhất định sẽ có sự tác động qua lại giữa các quốc gia về văn hoá. Điều
này dẫn đến hai hệ quả khác nhau. Nếu biết tiếp thu và chọn lọc những tinh hoa
văn hoá của các quốc gia khác sẽ làm cho nền văn hoá dân tộc thêm đa dạng,
phong phú và phát triển. Ngược lại, nếu tiếp thu không chọn lọc và không chú ý
giữ gìn văn hoá truyền thống sẽ làm mai một đi văn hóa truyền thống. Vì vậy,

việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phải đi đôi với giữ gìn và phát huy văn
hoá truyền thống. Nhận thức được vai trò quan trọng của vấn đề giữ gìn và phát
huy văn hoá truyền thống, tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII ( 1991 ),
Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu xây dựng nền văn hoá “ tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc”.
Quá trình phát triển kinh kế - xã hội của đất nước cùng với quá trình hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì vấn đề giữ gìn và phát huy văn hoá truyền
thống càng được chú trọng hơn, nó không chỉ là nhiệm vụ của từng quốc gia mà
của cả nhân loại. Chính vì thế mà UNESCO đã phát động “Thập niên quốc tế
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


24

phát triển văn hoá” và nhấn mạnh các quốc gia cần phải có chương trình nhằm
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của quốc gia mình.
Như vậy, việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống không chỉ là
nhiệm vụ của riêng Việt Nam hay một quốc gia nào mà của cả cộng đồng thế
giới. Để nền văn hoá Việt Nam phát triển là một nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, Đảng ta đã ra một Nghị quyết riêng về vấn đề này. Đó là Nghị
quyết của Hội nghị lần thứ V - Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về “ xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ”. Tại Nghị quyết
này, Đảng ta đã chủ trương giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống để xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc thông qua các
nhiệm vụ cụ thể là nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá; đồng thời
bảo tồn, phát huy và phát triển vǎn hóa các dân tộc thiểu số. Trong đó khẳng
định “ Di sản vǎn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi

của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu vǎn hóa.
Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị vǎn hóa truyền thống
(bác học và dân gian), vǎn hóa cách mạng, bao gồm cả vǎn hóa vật thể và phi
vật thể ”.
Đồng thời “ Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và
xây dựng, phát triển những giá trị mới về vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật của các
dân tộc thiểu số…
Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử
dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các
dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của
dân tộc mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên
cứu vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật là người dân tộc thiểu số. Ưu tiên tài trợ cho
các tác giả dân tộc thiểu số có tài nǎng sáng tạo các tác phẩm về đề tài dân tộc
và miền núi. Đào tạo đội ngũ trí thức thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số và tạo
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008


– Sinh viên Học viện Hành chính


25

điều kiện để trí thức, cán bộ dân tộc thiểu số trở về phục vụ quê hương. Phát
huy tài nǎng các nghệ nhân…”
Tinh thần Nghị quyết Trung ương V khoá VIII được tiếp tục khẳng định
qua các kỳ Đại hội IX, X của Đảng ta. Trong đó tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IX, văn hoá truyền thống được định hướng phát triển như sau: “ Đẩy mạnh
cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá"; "Xây dựng nếp
sống văn minh và gia đình văn hoá"; phong trào "Người tốt, việc tốt". Thực hiện
tốt phong trào thi đua yêu nước, ..., kiên quyết đấu tranh loại trừ các hiện tượng

tiêu cực và các tệ nạn xã hội.
Phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; bảo tồn và tôn tạo các di sản văn hoá vật thể
và phi vật thể làm nền tảng cho sự giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng, giữa
các vùng cả nước và giao lưu văn hoá với bên ngoài. Tiếp tục đưa các hoạt
động văn hoá thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc;
phát động phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình,
bản, làng văn hoá;...”. Chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại định hướng
phát triển văn hoá của Đại hội Đảng X: “ Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con
người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế ...; chống những hiện tượng phản văn hoá, phi văn hoá”.
Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc trong đó có nhiệm vụ duy trì và phát huy văn hoá truyền thống,
Nhà nước ta đã có nhiều chương trình cụ thể. Thông qua hệ thống chính sách, văn
bản quản lý Nhà nước đã và đang từng bước có các hoạt động cụ thể hoá các chủ
trương lớn của Đảng về văn hoá truyền thống của Việt Nam. Chẳng hạn như Luật
Di sản văn hoá được Quốc Hội ban hành ngày 29/6/2001 là cơ sở pháp lý cao nhất
cho việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, trong đó có các giá trị
văn hoá phi vật thể và văn hóa vật thể. Ngày 31/7/2007 Thủ tướng Chính Phủ ban
hành quyết định số 125/2007/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc

×