Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.16 KB, 20 trang )

I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ

CẠNH TRANH
I.1 Khái niệm

Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 quy định hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như
sau:
-

Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;

-

Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng
dịch vụ;

-

Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán,
hàng hóa, dịch vụ;

-

Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;

-

Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ
không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;


-

Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, khơng cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;

-

Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên
của thỏa thuận;

-

Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

Như vậy, Luật Cạnh tranh 2004 không đưa ra định nghĩa chung nhất cho các hành
vi “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh” mà chị liệt kê các dạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
cần phải được kiểm soát. Dựa vào các đặc điểm chung của các dạng thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh cần phải kiểm soát trên, có thể rút ra định nghĩa về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh như sau:

1


Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất hành động của nhiều doanh
nghiệp (hai doanh nghiệp trở lên) bằng các hành vi có tác động làm sai lệch, hạn chế
cạnh tranh nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ đối thủ cạnh tranh hoặc có tác động hạn chế khả

năng hành động độc lập của đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan.
I.2 Đặc điểm


Thứ nhất, về chủ thể, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất cùng hành
động giữa các chủ thể kinh doanh là đối thủ cạnh tranh của nhau (thỏa thuận ngang).
Việc chủ thể của thỏa thuận cạnh tranh có phải là doanh nghiệp hay không là vấn đề
không quan trọng. Vấn đề cốt lõi là các chủ thể này phải là những chủ thể kinh doanh
trên một thị trường liên quan (bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý
liên quan). Luật Cạnh tranh 2004 của Pháp và của Liên minh Châu Âu cũng đều coi chủ
thể bị áp dụng các quy định của pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là
các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp, theo quy định tại Khoản 1, Điều 2, Luật Cạnh tranh 2004, được hiểu
là các tổ chức, cá nhân kinh doanh bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản
phẩm, dịch vụ cơng ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc
quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam. Doanh nghiệp là
chủ thể tạo nên và quyết định mức độ cũng như hình thức của cạnh tranh, đồng thời, cũng
chính các doanh nghiệp có thể gây hạn chế, giảm bớt hay thậm chí triệt tiêu cạnh tranh do
chính mình tạo ra bằng các thỏa thuận. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể là giữa
các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của nhau hoặc có thể là giữa những
doanh nghiệp có mối liên hệ với nhau trong cùng một chuỗi sản xuất hay cung ứng sản
phẩm, dịch vụ.

2


Như vậy, trong Luật Cạnh tranh 2004, thuật ngữ doanh nghiệp được sử dụng để
chỉ tất cả các chủ thể kinh doanh ở Việt Nam, bao gồm các doanh nghiệp theo quy định
của pháp luật về doanh nghiệp, hợp tác xã và các hộ kinh doanh theo quy định tại Nghị
định 43/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/4/2010 về Đăng ký doanh nghiệp.
Thứ hai, nội dung của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường tập trung vào các
yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau như: giá
cả, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng và các yếu tố khác

trong nội dung hợp đồng.
Trong thỏa thuận hạn chế cạnh tranh địi hỏi phải có sự thể hiện và thống nhất ý chí
giữa các bên tham gia thỏa thuận thông qua sự thể hiện và thống nhất ý chí của những
người có thẩm quyền và hướng tới mục đích hạn chế cạnh tranh. Vì vậy, thoả thuận hạn
chế cạnh tranh thường là kết quả của quá trình đàm phán, thương lượng giữa các bên
tham gia với nhau liên quan đến một hoặc một số nội dung hay yếu tố nào đó của thị
trường. Tuy nhiên, cũng có trường hợp các bên tham gia khơng trực tiếp thỏa thuận với
nhau mà gián tiếp đạt được sự thoả thuận thông qua các nghị quyết, quyết định hay hành
động chung của Hiệp hội mà các bên là thành viên. Sở dĩ trường hợp này cũng được coi
là thoả thuận bởi khi các doanh nghiệp tham gia và là thành viên của hiệp hội, tự
nguyện chấp nhận hay đồng tình theo những cam kết hay chủ trương chung của hiệp hội,
chấp nhận cho phép hiệp hội được đưa ra nghị quyết, quyết định hoặc hành động
chung và bản thân các doanh nghiệp thành viên tn thủ theo thì đó cũng chính là một sự
thoả thuận giữa các doanh nghiệp thành viên đã đạt được. Hình thức của thỏa thuận
dạng kiểu như vậy gần như mang tính chất uỷ quyền quyết định cho hiệp hội do vậy có
giàng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý với các thành viên. Ngoài ra, thoả thuận hạn
chế cạnh tranhcịn có thể biểu hiện dưới dạng các cam kết tuân thủ hay đáp
ứng những yêu cầu do một hoặc một số bên đặt ra. Trong thực tế, có trường hợp các
doanh nghiệp thực hiện những hành vi giống nhau nhưng khơng vì thế mà có thể kết luận
giữa các doanh nghiệp có sự thoả thuận bởi có thể đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên trên cơ
sở tính tốn và đưa ra quyết định một cách độc lập của từng doanh nghiệp. Chỉ có thể quy
kết là có sự tồn tại một thoả thuận nếu có thơng tin, chứng cứ cho thấy rằng giữa các
doanh nghiệp đã có sự gặp gỡ, trao đổi và thống nhất giữa ý chí, hay nói cách khác các
doanh nghiệp đã tìm được tiếng nói và hành động chung mà không bị tác động bởi bất cứ
lý do nào.
3


Thứ ba, hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm giảm, làm sai lệch hay
cản trở hoặc thậm chí triệt tiêu các hoạt động cạnh tranh bình thường trên thị trường. Tuy

nhiên, hậu quả này có thể đã xảy ra hoặc chưa xảy ra. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ
đòi hỏi đảm bảo các yếu tố cấu thành về mặt hình thức. Khi xác định hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh không cần xét đến hậu quả thực tế mà chỉ cần xác định hậu quả về
mặt hình thức. Hậu quả thực tế chỉ có ý nghĩa trong việc xác định mức độ trách nhiệm
pháp lý hay mức phạt.
Theo Luật Cạnh tranh của Liên minh Châu Âu thì thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
có thể bao gồm 3 dạng sau:
-

Thỏa thuận thông thường: thể hiện sự ký kết ý chí của ít nhất là hai bên. Đối
với dạng thỏa thuận này, hình thức của thỏa thuận khơng đóng vai trị quyết
định (có thể cơng khai hoặc không công khai, song phương hoặc đa phương,
định danh hoặc không);

-

Quyết định liên kết doanh nghiệp: dưới bất kỳ hình thức nào có thể là hiệp hội,
nghiệp đồn;

-

Và các thỏa thuận khác không thuộc hai trường hợp trên (đây là quy định
mang tính dự phịng).

/>
4


II. NHỮNG THỎA THUẬN CẠNH TRANH ĐANG BỊ KIỂM SOÁT
II.1 Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp (Khoản


1 Điều 8 Luật Cạnh tranh)
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 116/2005/NĐ-CP đã quy định cụ thể về thỏa
thuận ấn định giá bao gồm các hành vi từ khoản 1 tới khoản 8 đó là:
-

Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng

-

Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể.

-

Áp dụng cơng thức tính giá chung.

-

Duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan.

-

Không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất.

-

Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng.

-


Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thỏa thuận.

-

Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.

Thỏa thuận ấn định giá gây hạn chế cạnh tranh vì nó đã loại trừ một trong các yếu
tố tạo nên sự quyết liệt trong cạnh tranh, đó là yếu tố giá cả. Về kinh doanh, hành vi này
bị coi là trái đạo đức, chuẩn mực kinh doanh khi nó trực tiếp hành vi bóc lột khách hàng
(mua hàng giá đắt) hoặc bóc lột đối tác kinh doanh. Về bản chất, nó loại trừ cơ hội lựa
chọn mức giá tối ưu của hàng hóa, qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người tiêu
dùng.
Vụ việc thực tế:
Giữa năm 2013, 12 doanh nghiệp Bảo hiểm trên lãnh thổ Việt Nam đã bị điều tra do
trước đó đã cùng bắt tay nhau để thỏa thuận ấn định giá bảo hiểm học sinh trên địa bàn
tỉnh Khánh Hòa, cụ thể nâng giá từ 60.000 đồng/năm lên 80.000 đồng/năm.
Ngày 12/08/2013, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã ban hành quyết định số
07/QĐ-HĐCT giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm học sinh
này. Theo kết quả điều tra, hành vi của các doanh nghiệp là hành vi thỏa thuận ấn định
giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, vi phạm Khoản 2 Điều 9 Luật
Cạnh tranh về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm. Trên thị trường bảo hiểm toàn
5


diện học sinh trong phạm vi và giai đoạn bị điều tra, thị phần kết hợp của 12 doanh
nghiệp Bảo hiểm tham gia thỏa thuận chiếm 99.81%, vượt xa ngưỡng 30% trên thị
trường liên quan theo quy định tại Khoản 2 điều 9 LUẬT CẠNH TRANH.
(Nguồn: />
II.2 Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp của hàng hóa, cung ứng


dịch vụ (Khoản 2 Điều 8 Luật Cạnh tranh)
Theo khoản 1 Điều 15 Nghị định 116/2005/NĐ-CP:
Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ là việc thống nhất về số lượng hàng hóa,
dịch vụ; địa điểm mua, bán hàng hóa, dịch vụ; nhóm khách hàng đối với mỗi bên tham
gia thỏa thuận.
Thỏa thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hóa, dịch vụ là việc thống nhất việc
phân chia thị trường nguyên liệu, theo đó mỗi bên tham gia thỏa thuận chỉ được mua
hàng hóa, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung cấp nhất định.
Hai hành vi nêu trên thuộc nhóm hành vi thỏa thuận phân chia thị trường. Thỏa
thuận phân chia thị trường có thể hiểu là “thỏa thuận giữa các doanh nghiệp nhằm phân
chia địa bàn, nguồn cung cấp đầu vào, phân chia nhóm khách hàng nhằm hạn chế sự
cạnh tranh lẫn nhau” (Trang 8, Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh - Sổ tay thỏa
thuận cạnh tranh, Quyển 1, Cục Quản Lý Cạnh Tranh)
Biểu hiện của nhóm thỏa thuận này là trong một vùng thị trường đã thỏa thuận sẽ
chỉ có những doanh nghiệp đã tham gia thỏa thuận đảm nhận thực hiện hoạt động kinh
doanh và các doanh nghiệp đã tham gia thỏa thuận có cơ hội độc quyền trong vùng thị
trường đã thỏa thuận. Đây bị coi là hành vi nhằm hạn chế cạnh tranh và bị kiểm sốt do
có thể gây ra nhiệu hệ quả nghiêm trọng. Thứ nhất, việc phân chia vùng thị trường dẫn
tới việc các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận có cơ hội “tung hồnh” trên thị trường
bằng những điều khoản bất lợi cho khách hàng. Thứ hai, quyền lựa chọn của khách hàng
bị hạn chế không phải do cơ cấu vốn có của thị trường mà là kết quả của những toan tính
mang tính chiến lược của những doanh nghiệp đang hoạt động.
Vụ việc thực tế: Năm 2005, cơ quan cạnh tranh Pháp đã tuyên phạt 3 nhà cung cấp
mạng di động lớn nhất của Pháp là SFR, Orange và Bouygues Télécom vì hai hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh:

6


(1) trong suốt 6 năm từ 1997 đến 2003 ba công ty này đã trao đổi cho nhau về các

thuê bao mới và các thuê bao đã thôi không sử dụng mạng của mình và
(2) từ năm 2000-2002, ba cơng ty này đã thỏa thuận giữ nguyên thị phần (thực chất
là phân chia thị trường, hạn chế cạnh tranh lẫn nhau)
II.3 Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng

hóa, cung ứng dịch vụ (Khoản 3 Điều 8 Luật Cạnh tranh)
Đây là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp về việc kiểm soát, hạn chế nguồn cung,
tạo sự khan hiếm giả trên thị trường. Theo quy định tại Điều 16 Nghị Định 116/2005/NĐCP, nhóm các thỏa thuận này được phân thành hai dạng:
Thoả thuận hạn chế: Bản chất của hành vi này là giảm nguồn cung so với thời
gian trước khi thỏa thuận. Đó là việc thống nhất cắt, giảm số lượng, khối lượng sản xuất,
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan so với trước đó. Cấu thành
pháp lý của dạng thỏa thuận này có 2 dấu hiệu: thứ nhất, có sự thống nhất ý chí giữa các
doanh nghiệp tham gia; thứ hai, các doanh nghiệp đồng thuận cùng nhau cắt, giảm số
lượng khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ so với trước đó.
Thoả thuận kiểm sốt: Bản chất của thỏa thuận là hạn chế nguồn cung hàng hóa ra
thị trường ở mức thấp thông qua việc thống nhất ấn định số lượng, khối lượng sản xuất,
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ ở mức đủ để tạo sự khan hiếm trên thị trường. Ở
thỏa thuận này cấu thành pháp lý gồm 3 yếu tố cơ bản: (i) có sự thống nhất ý chí giữa các
doanh nghiệp tham gia; (ii) các doanh nghiệp ấn định lượng hàng hóa, dịch vụ mà mỗi
doanh nghiệp được sản xuất, mua bán hoặc cung ứng; (iii) lượng hàng hóa dịch vụ được
ấn định ở mức đủ tạo khan hiếm trên thị trường. Như vậy, với dạng thỏa thuận này thì cơ
quan có thẩm quyền khi điều tra phải xác định được tác động hoặc khả năng tác động đến
nguồn cung cầu của thị trường.

7


Nói một cách cụ thể hơn, nhóm thỏa thuận này thực chất là những toan tính tác
động trực tiếp đến sự cân bằng cung - cầu của thị trường bằng cách tạo ra sự khan hiếm
giả tạo hàng hóa, dịch vụ mà các doanh nghiệp đang kinh doanh, từ đó giá hàng hóa, dịch

vụ bị đẩy lên cao. Hệ quả của nó gây lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực xã hội vì đã

chủ động hạn chế nguồn cung trong khi có khả năng đáp ứng qua đó trực tiếp bóc lột túi
tiền người tiêu dùng, buộc họ mua hàng với giá đắt đỏ.

II.4 Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư (khoản 4 Điều 8

Luật Cạnh tranh)
Có thể hiểu đây là thỏa thuận giữa các bên nhằm làm giảm sự cạnh tranh trên thị
trường thông qua việc hạn chế áp dụng khoa học công nghệ, hạn chế mở rộng đầu tư.
Theo Điều 17 Nghị Định 116/2005/NĐ-CP, nhóm thỏa thuận này có hai dạng:
Thứ nhất, thống nhất mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để
tiêu hủy hoặc không sử dụng. Ý chí của các doanh nghiệp là khơng muốn nâng cao chất
lượng cũng như năng xuất sản xuất của doanh nghiệp nhằm kìm hãm sự phát triển của
loại hàng hóa và dịch vụ đó giữ cho nó ở một mức độ mà các doanh nghiệp có thể kiểm
sốt dễ dàng.
Thứ hai, thống nhất không đưa thêm vốn để mở rộng sản xuất, cải tiến chất lượng
hàng hóa, dịch vụ hoặc để mở rộng phát triển khác. Thỏa thuận này khác thỏa thuận hạn
chế số lượng, khối lượng sản xuất ở chỗ nó hạn chế việc tăng thêm về số lượng vả cả chất
lượng của hàng hóa, dịch vụ nhằm kìm chế sự phát triển của thị trường.

8


Theo chúng em, trong các nhóm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thì nhóm
hành vi này có tác động xấu nhất. Nó khơng những hạn chế cạnh tranh trong kinh doanh
mà cịn kìm hãm sự phát triển đi lên của nền kinh tế bằng việc loại bỏ các phát minh,
sáng chế khoa học kỹ thuật tiến bộ, đó đồng thời có thể là loại bỏ những sáng tạo,phát

minh vĩ đại của loài người.

II.5 Thỏa thuận áp đặt doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng

hóa, dịch vụ, hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
một cách trực tiếp đến đối tượng cửa hợp đồng (Khoản 5 Điều 8 Luật Cạnh tranh)
Đây là thỏa thuận giữa các bên nhằm áp đặt các điều kiện bất hợp lý với đối tác khi
ký kết hợp đồng. Theo quy định tại Điều 18 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, nhóm thỏa
thuận này bao gồm hai dạng cụ thể sau:
Thứ nhất, áp đặt điều kiện ký kết hợp đồng. Đây là thỏa thuận thống nhất giữa các
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trong việc cùng đặt ra một hoặc một số điều kiện tiên
quyết sau đây trước khi ký kết hợp đồng đối với khách hàng của mình:
-

Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hóa khác hoặc hạn chế đối với việc mua
hoặc cung ứng dịch vụ khác không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên
nhận đại lý theo quy định của pháp luật về đại lý.

-

Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hóa, trừ những hàng hóa thuộc danh mục
hàng hóa kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định
của pháp luật;

9


-

Hạn chế về khách hàng mua hàng để bán lại trừ nhựng hàng hóa thuộc danh
mục hàng hóa kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy
định của pháp luật;


-

Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hóa được cung cấp.

Thứ hai, buộc chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng hợp
đồng. Đây là thỏa thuận thống nhất giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận rằng các
doanh nghiệp này sẽ rang buộc các doanh nghiệp khác (đối tác của các doanh nghiệp
tham gia thỏa thuận) phải mua hàng hóa, dịch vụ từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ
định trước; thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để
thực hiện hợp đồng. Mục đích loại bỏ, tẩy chay đối thủ cạnh tranh, áp đặt các điều kiện
không công bằng, ngăn chặn không cho gia nhập thị trường của các doanh nghiệp tham
gia thỏa thuận. Các dấu hiệu để nhận dạng:
-

Thể hiện sự nhất trí của doanh nghiệp đang kinh doanh trên cùng thị trường
liên quan nhằm đặt ra các điều kiện ký kết hoặc nghĩa vụ mà từng doanh
nghiệp tham gia sẽ phải đưa vào những hợp đồng của mình với khách hàng
trong tương lai.

-

Về nội dung của thỏa thuận, các doanh nghiệp tham gia nhất trí đặt ra những
điều kiện tiện quyết trước khi ký kết hợp đồng mà khách hàng buộc phải chấp
nhận (các điều kiện tiền hợp đồng) để có thể được ký kết hợp đồng với một,
một số doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hoặc đặt ra các nghĩa vụ không liên
quan đến nội dung hợp đồng

Hậu quả nguy hiểm: các điều kiện do các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận đặt ra
tạo ra sự bất công cho các doanh nghiệp khác để hạn chế cạnh tranh. Để thỏa mãn dấu

hiệu nhận dạng hành vi vi phạm, các điều kiện phải đặt ra vơ lý và bất bình đẳng, làm cho
doanh nghiệp bị áp đặt điều kiện lâm vào tình trạng bất lợi, để giảm thiểu sức cạnh tranh.
Ngồi ra, các điều kiện đó cịn có mục đích ngăn chặn (đối thủ tiềm năng) hoặc loại bỏ
(đối thủ đang có trên thị trường) ra khỏi thị trường, xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do
kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh.
Có thể minh họa nhóm thỏa thuận vi phạm này qua ví dụ sau:

10


A, B, C là các doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại hàng hóa, D là đại lý phân
phối hàng hóa của cả A, B, C. Thấy hàng hóa của doanh nghiệp C được tiêu thụ mạnh, A
và B lo rằng thị phần của mình bị đe dọa nên đã bắt tay nhau để áp đặt đại lý D không
được bán hàng của C nữa. Vì một số lý do, đại lý D buộc phải làm theo yêu cầu. Hậu quả
doanh nghiệp C bị tổn thất nặng nề do bị giảm nguồn đầu ra của hàng hóa.
2.6. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm khơng cho doanh nghiệp khác tham vào thị trường

hoặc phát triển kinh doanh (Khoản 6 Điều 8 Luật Cạnh tranh)
Nhóm thỏa thuận này gồm hai dạng:
Dang thứ nhất, thỏa thuận ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia thị trường: Là thỏa
thuận giữa các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường nhằm duy trì vị thế của
mình dưới hình thức ngăn cản các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường bằng cách tạo ra
các rào cản như:
(i)

Thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp mới muốn gia nhập thị trường.

(ii)

Kêu gọi, dụ dỗ khách hàng không giao dịch với doanh nghiệp mới đó.


(iii) Cùng mua,bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp mới không

thể gia nhập thị trường.
Dạng thứ hai, thỏa thuận ngăn cản doanh nghiệp khác phát triển kinh doanh: Là
thỏa thuận giũa các doanh nghiệp nhằm duy trì, củng cố vị thế của mình trên thị trường
dưới hình thức ngăn cản doanh nghiệp khác mở rộng phát triển kinh doanh thông qua các
biện pháp:
(i)

Thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận.

(ii)

Kêu gọi nhà phân phối của mình phân biệt đối xử, gây khó khăn cho việc tiêu
thụ hàng hóa của doanh nghiệp khác.

(iii) Cùng mua, bán hàng hóa, dịch vụ mới mức giá đủ để doanh nghiệp không

tham gia thỏa thuận không thể mở rộng kinh doanh.
Ví dụ minh họa:
A, B, C là doanh nghiệp bán sản phẩm X trên thị trường, giá bán của A là 10.000
đồng, của B là 11.000 đồng, C là 12.000 đồng. D là doanh nghiệp mới muốn tham gia thị
trường. Sợ phải chia thị phần với D, ba doanh nghiệp A, B, C thỏa thuận cùng bán hàng
11


hóa X với giá 6.000 đồng/sản phẩm. D khơng thể cạnh tranh với giá mà A, B, C thỏa
thuận do đó D khơng thể gia nhập thị trường. Sau khi loại bỏ D không thể gia nhập thị
trường, A, B, C lại tăng giá hàng hóa X lên cao hơn giá bán ban đầu.

2.7. Thoả thuận loại khỏi thị trường những doanh nghiệp không là các bên của thỏa thuận

(Khoản 7 Điều 8 Luật Cạnh tranh)
Theo Điều 20 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, thoả thuận loại khỏi thị trường những
doanh nghiệp không là các bên của thỏa thuận (đối thủ) là việc thống nhất khơng giao
dịch với doanh nghiệp đó và cùng hành động dưới các cách thức được quy định tại điểm
a khoản 1 và khoản 2 Điều 19 Nghị định 116/NĐ-CP, cụ thể bao gồm:
(i)

Thống nhất không giao dịch với đối thủ đó.

(ii)

Kêu gọi khách hàng của mình khơng giao dịch với đối thủ đó.

(iii)

Các doanh nghiệp tham gia thoả thuận yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân
phối, nhà bán lẻ đang giao dịch với mình phân biệt đối xử, gây khó khăn cho
việc tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp đối thủ

(iv)

Cùng thống nhất mua, bán hàng hóa, dịch vụ với giá đủ để doanh nghiệp
khơng tham gia rút lui khỏi thị trường liên quan.

Các dấu hiệu của hành vi:
Về chủ thể: từ hai doanh nghiệp trở lên.
Về thỏa thuận: “cùng thống nhất” và thậm chí là “cùng hành động”. Đây là đặc
trưng dấu hiệu pháp lý quan trọng nhất.

Về mục đích: nhằm hạn chế cạnh tranh, thỏa thuận có thể theo chiều ngang hoặc
chiều dọc.
Về hậu quả: làm giảm, sai lệch hay cản trở cạnh tranh bình thường trên thị trường.
Các thỏa thuận loại khỏi thị trường những doanh nghiệp không là các bên của thỏa
thuận có dấu hiệu giống với thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp
khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh. Điểm khác nhau giữa hai loại thỏa
thuận này là mục đích hướng tới. Mục đích của thỏa thuận loại khỏi thị trường những
doanh nghiệp không là các bên của thỏa thuận là “loại bỏ”, trừ khử những doanh nghiệp
không tham gia thỏa thuận khỏi thị trường. Cịn thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, khơng
12


cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh nhằm kìm hãm sự
phát triển của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận.
Như vậy, hành vi thỏa thuận loại bỏ những doanh nghiệp không là các bên trong
thỏa thuận đã mất tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận; gây bất lợi
cho các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận; làm giới hạn khả năng lựa chọn hàng

hóa dịch vụ của khách hàng. Do đó, hành vi này bị cấm.

2.8. Thơng đồng để một bên hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu trong việc cung

cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ (khoản 8 Điều 8 Luật Cạnh tranh)
Khái niệm: Thông đồng đấu thầu là sự thỏa thuận của các bên tham gia đấu thầu để
một hoặc các bên xác định trước trúng thầu.
Căn cứ vào khoản 8 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004; Điều 21 Nghị định
116/2005/NĐ-CP. Các doanh nghiệp tham gia đấu thầu thông đồng để một bên hoặc các
bên tham gia thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ là
việc thống nhất cùng hành động trong đấu thầu dưới một trong các hình thức sau:
(i)


Một hoặc nhiều bên tham gia thỏa thuận rút khỏi việc dự thầu hoặc rút đơn dự
thầu được nộp trước đó để một hoặc các bên trong thỏa thuận thắng thầu.

13


(ii)

Một hoặc nhiều bên tham gia thỏa thuận gây khó khăn cho các bên không
tham gia thỏa thuận khi dự thầu bằng cách từ chối cung cấp nguyên liệu,
không ký hợp đồng thầu phụ hoặc các hình thức gây khó khăn khác.

(iii) Các bên tham gia thỏa thuận thống nhất đưa ra mức giá khơng có tính cạnh

tranh hoặc đặt mức giá cạnh tranh nhưng kèm theo những điều kiện mà bên
mời thầu không thể chấp nhận để xác định trước một hoặc nhiều bên sẽ thắng
thầu.
(iv) Các bên tham gia thỏa thuận xác định trước số lần mỗi bên được thắng thầu

trong một khoảng thời gian nhất định.
(v)

Có thể là các hành vi khác bị pháp luật cấm.

Thông đồng đấu thầu bị coi là hạn chế cạnh tranh khi thỏa mãn các dấu hiệu:
-

Chủ thể là các doanh nghiệp dự thầu.


-

Nội dung thỏa thuận là các doanh nghiệp để một hoặc một số doanh nghiệp
thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

-

Mục đích là nhằm làm tăng khả năng trúng thầu của những doanh nghiệp tham
gia thỏa thuận.

Như vậy, hành vi này đã loại bỏ tính cạnh tranh giữa những doanh nghiệp tham gia
thỏa thuận. Đồng thời, nó cịn làm cho mục đích đấu thầu khơng đạt được. Do đó, hành vi
thơng đồng trong đấu thầu bị cấm.
Ví dụ thực tiễn:
Vụ việc thơng đồng đấu thầu hệ thống thơng gió đường hầm tại Nhật Bản
Năm 2004, bảy công ty Ebara, Hitachi, Công nghiệp nặng Mitsubishi, Cơng nghiệp
nặng Ishikawajima Harima, Cơng nghiệp nặng Kawasaki, Tập đồn DMW và công ty
chế tạo máy Mitsui Miike’ đã tham dàn xếp trước người thắng thầu đối với từng gói thầu
trong số 5 gói thầu xây dựng hệ thống thơng gió của đường hầm do Tập đồn cơng nghệ
về đường cao tốc trung tâm (MEPC) tổ chức đấu thầu trong thời gian từ ngày 24/06/2004
đến ngày 26/10/2004. Ngày 08/09/2006, Ủy ban thương mại lành mạnh của Nhật Bản đã
đưa ra quyết định xử phạt bốn công ty Ebara, Hitachi, Công nghiệp nặng Ishikawajima

14


Harima, Công nghiệp nặng Kawasaki về hành vi thông đồng đấu thầu với mức phạt lên
đến 1 tỉ Yên.

15



III. NGUYÊN TẮC XỬ LÝ ĐỐI VỚI CÁC THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH

TRANH BỊ KIỂM SOÁT
Theo pháp Luật Cạnh tranh, các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải được
xử lý tuân theo những nguyên tắc sau:
-

Tuân theo các trình tự, thủ tục trong tố tụng cạnh tranh, do người có thẩm
quyền tiến hành theo đúng thẩm quyền do pháp luật quy định

-

Phải được tiến hành nhanh chóng, cơng minh, triệt để; mọi hậu quả do hành vi
vi phạm gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.

-

Một hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh chỉ bị xử lý một lần;một doanh
nghiệp thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì bị xử lý đối với từng hành vi vi
phạm.

-

Những hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì khơng tiến hành xử lý theo
quy định của pháp Luật Cạnh tranh mà sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật
hình sự.

Ở Việt Nam, Cục quản lý cạnh tranh có trách nhiệm nhận hồ sơ khiếu nại, tổ chức

điều tra vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Hội đồng cạnh tranh có trách nhiệm xử lý
vụ việc và kết luận điều tra chuyển đến từ Cục quản lý cạnh tranh.

16


Trình tự thủ tục khiếu nại,điều tra, xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
được thể hiện qua sơ đồ sau:

III.1 Cấm tuyệt đối

Các dạng thỏa thuận bị cấm tuyệt đối:
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 9 Luật cạnh tranh thì: “Cấm tuyệt đối với các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh được quy định tại các khoản 6, 7, 8 điều 8 Luật cạnh tranh bao gồm:
-

Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm khơng cho doanh nghiệp khác phát triển kinh
doanh

-

Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên
của thỏa thuận

-

Thông đồng để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu trong việc
cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

Việc áp dụng nguyên tắc cấm tuyệt đối:

Cấm tuyệt đối được hiểu là:
Thứ nhất, các thỏa thuận nói trên vị cấm thực hiện trong mọi trường hợp mà không
cần căn cứ vào thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia.
17


Thứ hai, không áp dụng miễn trừ đối với các thỏa thuân trên.
III.2 Cấm có điều kiện

Các dạng thỏa thuận cấm có điều kiện:
Nguyên tắc cấm có điều kiện áp dụng đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
được quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, Điều 8 Luật cạnh tranh 2004 bao gồm:
-

Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cánh trực tiếp hoặc gián tiếp.

-

Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, phân chia nguồn cung cấp hàng hóa
cung ứng dịch vụ.

-

Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng khối lượng sản xuất, mua bán
hàng hóa dịch vụ.

-

Thỏa thuận hạn chế phát triển kĩ thuật công nghệ hạn chế đầu tư.


-

Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ
không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.

Các điều kiện áp dụng:
Thứ nhất, các thỏa thuận trên chỉ bị cấm khi các bên tham gia thỏa thuận có thị
phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.
Thứ hai, các thỏa thuận nói trên có thể được miễn trừ có thời hạn theo quy định của
người có thẩm quyền nếu đáp ứng một trong các điều kiện luật định.
Nguyên nhân:
-

Sức mạnh tập thể của nhóm doanh nghiệp này chưa đủ để chi phối thị trường
liên quan, quyền lựa chọn của khách hàng vẫn chưa thể bị tước đoạt làm cho
các thỏa thuận nói trên chưa đủ sức để làm hạn chế cạnh tranh;

-

Về mặt kinh tế, sự kết hợp cùng hành động giữa các doanh nghiệp góp phần
tạo ra sức mạnh kinh doanh và sức cạnh tranh tập thể cho các thành viên của
thỏa thuận. Sức mạnh đó đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp nhỏ
trong mơi trường cạnh tranh khốc liệt mà ở đó các doanh nghiệp nhỏ luôn ở

18


vào vị trí bất lợi, làm ăn khó khăn, thậm chí bị phá sản, là ngun nhân hình
thành các thế lực độc quyền của thị trường.

III.3 Vấn đề miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có điều kiện

Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc nhóm vị cấm có điều kiện có thể được cơ
quan quản lý cạnh tranh xem xét cho hưởng miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng được một
trong các tiêu chí quy định tại điều 10 luật cạnh tranh 2004 nhằm hạ giá thành làm lợi
cho người tiêu dùng bao gồm:
-

Hợp lý hóa cơ cấu tổ chức mơ hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh

-

Thúc đẩy tiến bộ kinh tế, kĩ thuật công nghệ, cải thiện chất lượng hàng hóa
dịch vụ

-

Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kĩ
thuật của chủng loại sản phẩm

-

Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh tốn nhưng khơng liên
quan đến giá và các yếu tố của giá

-

Tăng cường sức cạnh tranh trong doanh nghiệp vửa và nhỏ

-


Tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc
tế.

Thủ tục thực hiện miễn trừ:
Bộ trưởng bộ công thương xem xét và quyết định việc miễn trừ đối vời những thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm khi có đơn xin miễn trừ của các bên dự định tham gia
vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Các bên dự định tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh có thể chỉ định một bên làm đại diện làm thủ tục xin hưởng miễn trừ. Việc chỉ định
phải được lập thành văn bản có xác nhận của các bên tham gia thỏa thuận. Các bên nộp
đơn xin thực hiện hành vi thỏa thuân hạn chế cạnh tranh phải nộp hồ sơ theo quy định tại
Điều 28 Luật cạnh tranh 2004, bao gồm:
-

Đơn xin hưởng miễn trừ theo mẫu do bộ công thương quy định.

-

Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của các bên và điều lệ
của hiệp hội đối với trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có sự tham gia
của hiệp hội.
19


-

Báo cáo tài chính có kiểm tốn của các doanh nghiệp dự định tham gia thỏa
thuận trong hai năm liên tiếp gần nhất. Đối với doanh nghiệp mới thành lập có
hoạt động kinh doanh chưa đủ một năm thì được thay thế bởi các tài liệu: bản
kê khai vốn điều lệ, tài sản cố định, tải sản lưu động, công nợ có xác nhận của

tổ chức kiểm tốn độc lập được thành lập theo quy định của pháp luật và bản
kê khai nộp thuế của doanh nghiệp tự thời điểm bắt đầu hoạt động đến một
tháng trước ngày ghi trong đơn đề nghị được hưởng miễn trừ.

-

Báo cáo thị phần của các bên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên thị
trường liên quan trong hai năm gần nhất.

-

Báo cáo giải trình cụ thể việc đáp ứng các trường hợp được miễn trừ theo quy
định. Báo cáo này phải được thực hiện dưới hình thức đề án nghiên cứu khả
thi do tổ chức khoa học và công nghệ, các tổ chức nghiên cứu và phát triển
được thành lập theo quy định của luật khoa học và công nghệ ngày 9/6/2000.

-

Văn bản ủy quyền cho đại diện các bên tham gia theo thỏa thuận.

Cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm nhận hồ sơ xin hưởng miễn trừ. Cơ quan
này có quyền yêu cầu các bên bổ sung hồ sơ tài liệu và giải trình các vấn đề chưa rõ ràng.
Cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên
quan cung cấp thông tin về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và những chủ thể này có trách
nhiệm trả lời bằng văn bản những yêu cẩu trên trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày
nhận được yêu cẩu. Bên nộp hồ sơ phải nộp lệ phí thẩm định hồ sơ theo quy định của
pháp luật. Bên yêu cầu có quyền rút đơn xin hưởng quyền miễn trừ và phải thông báo
bằng văn bản với cơ quan quản lý cạnh tranh. Cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ không hồn
lại phí thẩm định trong trường hợp rút đơn.
Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ theo quy định thì bộ

trưởng bơ cơng thương phải ra quyết định chấp thuận hoặc không cho các bên được
hưởng quyển miễn trừ. Quyết định cho hưởng quyền miễn trừ phái có nội dung quy định
tại điều 35 luật cạnh tranh 2004.
Bộ trưởng bộ cơng thương có quyển bãi bỏ quyết định cho hưởng quyền miễn trừ
khi:
-

Phát hiện có gian dối trong việc xin hưởng quyền miễn trừ (các lỗi được coi

20


không là gian dối gồm: lỗi đánh máy, lỗi in ấn khơng liên quan đến số liệu báo
cáo tái chính và không làm thay đổi cơ bản nội dung của báo cáo giải trình)
-

Doanh nghiệp được hưởng quyển miễn trừ không thực hiện các nghĩa vụ trong
thời hạn quy định tại quyết định cho hưởng quyền miễn trừ

-

Điều kiện hưởng quyền miễn trừ khơng cịn.

Doanh nghiệp khơng đồng ý với quyết định cho hưởng quyền miễn trừ hoặc không
cho hưởng quyền miễn trừ, quyết định bãi bỏ quyết định cho hưởng quyền miễn trừ có
quyền khiếu nại theo quy định của luật khiếu nại tố cáo.
Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày có quyết định cho hưởng quyền miễn
trừ, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm công khai các quyết định cho hưởng
quyển miễn trừ bằng cách niêm yết tại trụ sở của cơ quan quản lý cạnh tranh và công khai
trên các phương tiện thông tin đại chúng.


21



×