Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

cmtt cuộc thi em yêu lịch sử việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.8 KB, 11 trang )

Họ và tên: Nguyễn Thị Kiều Trinh Lớp 10A13
CUỘC THI “EM YÊU LỊCH SỬ VIỆT NAM”
Câu 1:
- Cách mạng tháng Tám là một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Là
một học sinh, một công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
em cảm thấy vô cùng tự hào về lịch sử đánh giặc cứu nước của dân ta, đồng
thời thấy được sự gian nan, vất vả, khó khăn của quân dân ta thời đó.
Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở
châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào
quân đội Nhật. Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, Chiến
tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh,
sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương
để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào
Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đúng sau
các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử
phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay đổi
chủ, chống lại cách mạng.
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách
mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng
Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng
quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi
nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh
cho thích hợp. Tháng 3-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội
nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống
nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-
1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng
các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức
Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra mạnh mẽ,
phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao


Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả
nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt
Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở
thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc
của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta
giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào
Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là:
Tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa
ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại
hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”;
thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy
ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân
cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân
tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước
đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày
14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khời nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông
thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở
các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam Ngày
19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi
nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng
Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu Ngày 25-8, khởi nghĩa
thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh,
Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã
lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành
thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử, trước cuộc
mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc
dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước
ta.
- Độc lập có ý nghĩa rất to lớn đối với mỗi quốc gia trên thế giới. Từ trong
chiều sâu lịch sử đấu tranh oai hùng để dựng nước và giữ nước của mình,
khát vọng tự do, độc lập đã nhiều lần được tuyên ngôn như là một ý chí bất
khuất của dân tộc ta. Ý chí ấy được thể hiện ngày một kiên quyết và rõ ràng,
từ Lý Thường Kiệt với “Nam quốc sơn hà ”, Nguyễn Trãi bằng “Bình Ngô
đại cáo”, đến Trần Quốc Tuấn bởi “Hịch tướng sĩ” và ở nhiều tuyên ngôn
khác nữa của các anh hùng, hào kiệt mà dân tộc ta thời nào cũng có.
Song, tự do, độc lập cũng là khát vọng chung của mọi quốc gia dân tộc và
nạn nô dịch dân tộc chưa bao giờ chấm dứt kể từ khi lịch sử thành văn. Đó là
hai mặt của một vấn đề mà bất cứ dân tộc nào, nhất là các dân tộc nhỏ, phải
tính đến trên con đường đi tới độc lập, tự do thực sự. Dân tộc có độc lập thì
nhân dân mới có thể tự mình phát triển đất nước, không có độc lập, không có
tự do sẽ khiến cho đất nước không thể đi lên, mà phải chịu áo bức, chịu khổ
sai của quân đô hộ. Điều đó quả thực trái với đạo lý thường ngày, trái với tự
tôn dân tộc. Bởi vậy, mỗi dân tộc luôn cố gắng đấu tranh giành lại độc lập
cho đất nước.
Câu 2:
Thủ Đô Hà Nội có hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích
đã được xếp hạng. Trong đó Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một di tích gắn
liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử
gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà
Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam.
Là tổ hợp gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết
của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu

biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; và Quốc Tử Giám
trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam, với hơn 700 năm hoạt động
đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử
Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng nơi
khen tặng cho học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày
rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến “cầu may”
trước mỗi kỳ thi.
Về lịch sử:
Văn Miếu được xây dựng từ “tháng 8 năm Canh Tuất (1070) tức năm Thần
Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối
vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy
học.”.
Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1442)Năm 1076, Lý Nhân
Tông cho lập trường Quốc Tử giám, có thể coi đây là trường đại học đầu
tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc
đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc Tử). Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa
lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.
Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử giám và thu nhận
cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc.
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư
nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông
mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông
cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khóa thi 1442 trở đi.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và
giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn
định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường
Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng
Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái

nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục
dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và
giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn
định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường
Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng
Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái
nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục
dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.
Về kiến trúc:
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng
khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn
Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc.
Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo
phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.
Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là
Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh.Ngoài
cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực
xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ
“Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa.
Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn
cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:
Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại
Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.
Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân
Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805). Khuê Văn
Các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt.
Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85 cm x 85 cm) bên dưới đỡ tầng gác phía
trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can

con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai
lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu
vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời toả tia sáng.
Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả những tinh tú cua bầu trời toả xuống
trái đất và trái đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên
Quang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng trưng cho
văn học. Đây là nơi thường được dùng làm nơi thưởng thức các sáng tác văn
thơ từ cổ xưa tới nay. Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc
Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sỹ.
Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt
trời), có hình vuông. Hai bên hồ là 2 khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được
làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa,
Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện còn 82 tấm bia tiến
sĩ về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779, chia đều cho hai khu tả và
hữu. Trong đó, 12 bia đầu tiên (cho các khoa thi những năm 1442-1514)
được dựng vào thời Lê sơ, 2 bia (cho các khoa 1518, 1529) được dựng vào
triều nhà Mạc, còn 68 bia cuối cùng (các khoa thi những năm 1554-1779)
được dựng vào thời Lê trung hưng. Mỗi khu nhà bia gồm có 1 Bi đình nằm ở
chính giữa và 4 nhà bia (mỗi nhà 10 bia) xếp thành hai hàng, nằm hai bên Bi
đình. Bi đình khu bên trái Thiên Quang Tỉnh chứa bia tiến sĩ năm 1442, còn
Bi đình khu bên phải chứa bia tiến sĩ năm 1448.
Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm
hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái
đường, toà trong là Thượng cung.
Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền
Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá hủy. Khu nhà Thái Học
mới được xây dựng lại năm 2000.
Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tứ phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử
Tư, Mạnh Tử). Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa. Đây
là hình tượng rất đặc trưng tại các đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo ở Việt

nam. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu…, hạc
đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái
cực âm – dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao.
Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho
con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn,
biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể
sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô
ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có
nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong
lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.
Trải qua bao thăng trầm và những biến cố của lịch sử, Văn Miếu – Quốc Tử
Giám không còn nguyên vẹn như xưa. Những công trình thời Lý, thời Lê
hầu như không còn nữa. Song Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn giữ nguyên
được những nét tôn nghiêm cổ kính của một trường đại học có từ gần 1000
năm trước của Hà Nội, xứng đáng là khu di tích vǎn hoá hàng đầu và mãi là
niềm tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn
hiến của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. Và Khuê Văn Các ở Văn Miếu-
Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội.
- Giá trị văn hóa lịch sử của khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám: Bia
Tiến Sĩ
Nội dung các Văn bia hết sức phong phú. Qua những tấm bia này, người đọc
có thể hình dung được không khí của xã hội đương thời. Nhiều tấm bia ghi
rõ cả số người dự thi, cả đề bài ra của kỳ thi năm ấy. Tất cả các bia đều có
tên tuổi của người đỗ khoa thi ấy được xếp từ cao xuống thấp. Người đọc có
thể tìm thấy ở những tấm bia này tên tuổi của những người nổi tiếng trong
lịch sử, như: các nhà sử học Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh; nhà toán học Lương
Thế Vinh; các nhà văn hóa: Tể tướng Nguyễn Quý Đức, Bùi Huy Bích; nhà
bác học Lê Quý Đôn; nhà chính trị, ngoại giao lỗi lạc Ngô Thì Nhậm

Xuyên suốt nội dung của các văn bia là những tuyên ngôn về sử dụng và đãi

ngộ người tài một cách độc đáo: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia.
Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế
nước yếu mà thấp hèn (Bia khoa 1442). Sự lớn lao của nền chính trị của các
bậc đế vương không gì quan trọng bằng trọng dụng nhân tài (Bia khoa
1448). Từ xưa, các bậc đế vương trị nước, chấn hưng giáo hóa, mở mang
thịnh trị không đời nào không coi việc cầu tìm nhân tài, kén chọn kẻ sĩ là
việc đầu tiên (Bia khoa 1496). Bởi vì nền chính sự tốt đẹp của Quốc gia
không có nhân tài thì không thể gây dựng được (Bia khoa 1592)" v.v

Nội dung của hầu hết các tấm bia đều có những răn dạy kẻ sĩ phải giữ mình
trong sạch để không để lại vết nhơ, phải làm sao để xứng danh kẻ sĩ, không
phụ ơn vua, lộc nước và kỳ vọng của mọi người: "Kẻ sĩ được khắc tên vào
tấm đá này, thật may mắn biết bao! Cho nên, phải đem lòng trung nghĩa tự
thẹn với mình, làm sao danh và thực hợp nhau (Bia khoa 1487). Thảng
hoặc có kẻ mượn khoa danh để làm kế ấm no, mượn đường ấy để được giới
sĩ hoạn kính trọng, người đời sau tất sẽ nhìn vào họ tên mà nói: kẻ kia là
hạng tiểu nhân gian tà, làm xấu lây cho khoa mục (Bia khoa 1577) Coi
việc giữ tước lộc chức vị là cao, coi xảo trá giả dối là trí, chạy theo dục
vọng mà không theo đạo đức, bỏ thực chất mà theo hư danh, như thế thì hình
tích đã chẳng còn, mà công luận không sao cho thoát, há chẳng đáng khinh
bỉ lắm thay! (Bia khoa 1659)"

Ngày 9-3-1010, hồ sơ Bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc (1442-
1779) tại Văn miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội (Bia Tiến sĩ Văn miếu) đã được
công nhận là Di sản tư liệu thế giới và ngày 27-5-2011, 82 bia Tiến sĩ của
Việt Nam đã chính thức được ghi danh vào sách "Ký ức thế giới" của
UNESCO. Những lời khắc ghi trên Văn bia Văn miếu vẫn mãi là niềm tự
hào, hãnh diện về truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, tôn trọng trí thức
của mỗi người ViệtNam. Sách do nhóm biên soạn Ngô Đức Thọ - chủ biên
cùng các tác giả: Nguyễn Thúy Nga, Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn

Nguyên biên soạn. Trung tâm hoạt động văn hóa - khoa học Văn miếu -
Quốc Tử Giám ấn hành.
Câu 3:
- Trong các nhân vật lịch sử Thăng Long – Hà Nội em thích nhất nhân vật
Lý Thường Kiệt. Vì ông ây chính là một vị anh hùng kiệt suất của dân tộc.
- Hiểu biết về Lý Thường Kiệt của em :
Lý Thường Kiệt vị anh hùng dân tộc, một nhà ngoại giao, nhà quân sự kiệt
xuất trong lịch sử Việt Nam. Tên tuổi của ông cũng gắn liền với chiến thắng
tại phòng tuyến sông Như Nguyệt cùng với bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên
của nước ta.
Vị quan phò tá ba đời vua triều Lý
Theo “Phả hệ họ Ngô Việt Nam” Lý Thường Kiệt tên thật là Ngô Tuấn, tự
là Thường Kiệt. Sau này, ông được ban cho quốc tính (họ của vua) và lấy tên
là Lý Thường Kiệt. Ông là của con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ,
cháu của Ngô Ích Vệ, chắt của Sứ quân Ngô Xương Xí và là cháu đời thứ 5
của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập – hoàng tử trưởng của Ngô Quyền
(Tuy nhiên điều này còn có rất nhiều người không đồng tình và phản biện).

Tuy bản thân là một thái giám, nhưng nhờ tài năng và đức độ của mình mà
trong cả ba đời vua nhà Lý là Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân
Tông tin tưởng và giao cho ông nắm giữ nhiều chức quan. Đây cũng là một
điều hiếm thấy trong lịch sử nước ta khi một hoạn quan lại có thể nắm quyền
lực và tham gia vào việc triều chính quốc gia.

Năm ông 21 tuổi dưới thời vua Lý Thái Tông ông được bổ nhiệm giữ chức
Kỵ mã hiệu úy (một chức quan nhỏ trong kỵ binh). Đến năm 23 tuổi (1041)
ông được sung vào ngạch thị vệ để hầu vua, giữ chức Hoàng môn chi hậu,
và được thăng dần lên chức Đô tri, trông coi mọi việc trong cung.

Triều Lý Thái Tông, ông được phong chức Bổng hành quân hiệu úy (một

chức võ quan cao cấp), sau đó ông được thăng Kiểm hiệu thái bảo- một chức
quan rất quan trọng trong triều. Năm 1061, ông được lệnh cầm quân đi trấn
yên Thanh - Nghệ.

Năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh quân Chiêm Thành. Lý
Thường Kiệt được phong đại tướng, chỉ huy đội quân tiên phong tiến vào
đánh phá kinh thành và bắt được quốc vương Chiêm Thành là Chế Củ. Chế
Củ đã xin hàng và dâng ba châu: Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh (nay là địa
phận Quảng Bình và bắc Quảng Trị) để chuộc tội.
Sau khi dẹp yên được quân Chiêm Thành, Lý Thường Kiệt được ban phụ
quốc Thái phó, tước Khai Quốc công. Tháng 8 năm 1075 ông được phong
chức Đôn quốc Thái uý. Đến khi mất, ông được vua Lý Nhân Tông truy
phong chức Kiểm hiệu Thái uý Bình chương sự và ban tước Việt Quốc
công. Chức vụ của ông lúc ấy lớn thứ 2 trong triều chỉ sau thái sư Lý Đạo
Thành.
Năm 1072, vua Lý Thánh Tông từ trần, hoàng tử Càn Đức- con trai của
Nguyên phi Ỷ Lan lên ngôi lấy hiệu là Lý Nhân Tông khi mới 7 tuổi.

Đập tan âm mưu xâm lược của bọn giặc phương Bắc

Quân nhà Tống thấy “ấu chúa” lên ngôi là một cơ hội tốt để xâm lược nước
ta. Chúng đã tiến hành xây dựng những căn cứ quân sự và hậu phương tại ba
châu Ung, Khâm, Liêm (thuộc Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay).

Trước âm mưu xâm lược của giặc phương Bắc, Lý Thường Kiệt cho rằng:
"Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước, chặn thế mạnh của giặc”.
Được triều đình tán thành, ông huy động 10 vạn quân tiến hành một cuộc tập
kích đánh thẳng vào các căn cứ chuẩn bị xâm lược của kẻ thù ngay trên đất
Tống.


Lý Thường Kiệt đã viết bài hịch Phạt Tống lộ bố văn nhằm nói rõ lý do
đánh Tống rồi niêm yết tại nhiều nơi. Nhờ đó, cuộc chiến với quân Tống đã
được nhân dân ta hết lòng ủng hộ.

Ngày 27 tháng 10 năm 1075 quân ta bắt đầu tiến công vào đất Tống. Thoạt
tiên, quân Việt phá hủy một loạt các đồn trại biên giới, rồi lần lượt đổ bộ lên
cảng và đánh chiếm các thành Khâm, Liêm.
Sau đó, đại quân tiếp tục tiến sâu vào đất địch. Ngày 18 tháng 1 năm 1076
áp sát thành Ung. Đây được coi là căn cứ quan trọng nhất trong những căn
cứ địch dùng cho cuộc viễn chinh xâm lược vào Đại Việt. Sau 42 ngày vây
hãm và tấn công quyết liệt ta hạ được thành, tiêu diệt và bắt sống nhiều quân
địch.

Theo chủ trương đã định, quân ta được lệnh san bằng các thành lũy lớn nhỏ,
tiêu hủy các kho dự trữ lương thực, vũ khí, giáng đòn sấm sét làm tổn thất
nghiêm trọng các cơ sở vật chất và phương tiện chiến tranh của địch, làm
nhụt nhuệ khí của bọn cầm quyền phương Bắc trong việc chuẩn bị chiến
tranh xâm lược.

Sau khi đã đạt mục tiêu của cuộc tiến công đánh sang đất Tống, Lý Thường
Kiệt quyết định rút nhanh quân về nước. Cuộc rút quân rất đúng lúc, vừa bảo
toàn được lực lượng, vừa phá được kế hiểm của giặc: chúng định điều quân
lẻn sang đánh úp Đại Việt nhân lúc đại quân ta còn đang ở bên nước chúng.

Trong Việt sử tiêu án, nhà viết sử Ngô Thì Sĩ đã ca ngợi Lý Thường Kiệt:
"Bày trận đường đường, kéo cờ chính chính, mười vạn thẳng sâu vào đất
khách, phá quân ba châu như chẻ trúc, lúc tới còn không ai dám địch, lúc
rút quân còn không ai dám đuổi, dụng binh như thế, chẳng phải nước ta
chưa từng có bao giờ".


Biết rõ nhà Tống sẽ không từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt
đã phái người vào đất Tống để theo dõi cụ thể mọi động thái, đồng thời tập
trung xây dựng phòng tuyến chính của quân ta dựa vào bờ nam sông Như
Nguyệt (sông Cầu), có rào giậu nhiều tầng, chạy dài trên 200 dặm từ chân
núi Tam Đảo đến sông Lục Đầu.

Tháng chạp năm Bính Thìn 1076 nhà Tống cho quân tấn công vào nước ta.
Nhà Lý giao cho Lý Thường Kiệt lãnh đạo quân đội chống lại quân xâm
lược. Ông đã chặn đánh giặc Tống tại sông Như Nguyệt. Quân nhà Tống bị
đẩy lui, tướng Quách Quỳ phải cho quân lui về phía Tây, đóng tại bờ sông
Phú Lương.

Lý Thường Kiệt nhiều lần đem binh thuyền đón đánh không cho quân Tống
sang sông. Cuộc chiến giữa hai bên diễn ra vô cùng ác liệt. Có lần giặc Tống
đã chọc thủng cả một phần phòng tuyến sông Như Nguyệt vững chãi, khiến
quân ta chết mấy ngàn người.

Để cổ vũ cho tinh thần của binh sĩ, Lý Thường Kiệt đã viết bài thơ Nam
quốc sơn hà:

Nam Quốc Sơn Hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên Thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Lý Thường Kiệt cho người hàng đêm giả làm thần sông Như Nguyệt đọc bài
thơ này, khiến tinh thần quân ta được khích lệ bội phần còn quân Tống thì sợ
khiếp vía không dám tiến đánh.

Nhân lúc tinh thần quân sĩ đang lên cao, Lý Thường Kiệt chỉ huy, đại quân
ta vượt sông bất ngờ đánh úp vào doanh trại chính của địch. Theo Việt nam

sử lược thì quân Tống đại bại, bị tiêu diệt đến năm, sáu phần mười. Số còn
lại cũng lo sợ, nao núng tìm cách rút chạy về nước Tống.

Sau chiến thắng trên, Lý Thườnsg Kiệt còn chủ động cho người sang cầu
hòa. Thực chất, đó chỉ là một đòn tấn công đặc biệt, mở đường cho quân
Tống rút lui về nước nhằm chuẩn bị cho việc tái lập mối quan hệ “bang giao
hữu hảo”, tránh họa binh đao lâu dài cho cả hai dân tộc.

Cuộc chiến này đã khiến đại Tống tổn thất nặng nề về người và của. Nếu
tính cả quân số của nhà Tống bị tiêu diệt ở Châu Ung, Châu Khâm và Châu
Liêm, tổng số quân Tống bị giết lên tới khoảng ba chục vạn. Chi phí cho
cuộc chiến tranh nếu quy ra vàng thì tổng chi phí lên tới 5.190.000 lạng.

Thất bại này đã khiến giặc phương Bắc từ bỏ ý định xâm lược và đô hộ Giao
Chỉ (tên hiệu của nước ta lúc bấy giờ) và trong khoảng 200 năm sau đó, triều
đại Trung Quốc không dám đụng đến đất nước ta.
Lịch sử mãi ghi nhớ công ơn người anh hùng dân tộc, nhà quân sự kiệt xuất,
nhà chính trị và ngoại giao tài ba Lý Thường Kiệt, người lãnh đạo quân dân
Đại Việt thời Lý, phá Tống bình Chiêm thắng lợi. Với công lao hiển hách
của mình, Lý Thường Kiệt từng được cả triều đình nhà Lý quý trọng. Ngay
lúc ông còn sống, Lý Nhân Tông đã cho làm bài hát để tán dương công
trạng. Ông được lịch sử ghi nhận là anh hùng kiệt xuất, một con người hiến
dâng cả tâm hồn sức lực cho sự nghiệp độc lập của Tổ quốc ở buổi đầu thời
tự chủ. Tài năng quân sự kiệt xuất của ông làm kẻ thù khiếp phục.

Lý Thường Kiệt mất tháng sáu năm Ất Dậu (tức trong khoảng từ 13/7 đến
11/8/1105), thọ 86 tuổi, được truy tặng Kiểm hiệu Thái úy bình chương quân
quốc trọng sự, tước Việt Quốc Công. Nhiều nơi đã lập đền thờ, dựng bia ghi
công lao của ông, tiêu biểu nhất là bài văn bia chùa Linh Xứng ở huyện Hà
Trung, tỉnh Thanh Hoá.



×