Tải bản đầy đủ (.doc) (159 trang)

Luận văn: Khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet trong dạy học lịch sử thế giới (1917 – 1945) lớp 11 trung học phổ thông chương trình chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.33 MB, 159 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
NGUYN C VNG
KHAI THáC Và Sử DụNG TƯ LIệU TRÊN INTERNET
TRONG DạY HọC LịCH Sử THế GIớI (1917 1945), LớP 11
TRUNG HọC PHổ THÔNG - CHƯƠNG TRìNH CHUẩN
Chuyờn ngnh: Lí LUN V PHNG PHP DY HC LCH S
Mó s: 60.14.01.11

TểM TT LUN VN THC S KHOA HC GIO DC
H NI - 2014
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây,Việt Nam đang có bước chuyển mình mạnh
mẽ về kinh tế, hướng tới mục tiêu đến năm 2020 đất nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, “con người”sẽ là yếu tố
quyết định. Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng và
phát triển giáo dục – đào tạo. Trong Điều 27.1 Luật giáo dục 2011 (sửa đổi bổ
sung) chỉ ra “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân;
chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [6].Thực hiện mục tiêu trên, các bộ môn ở
trường phổ thông đã và đang áp dụng những PPDH tích cực để nâng cao chất
lượng, trong đó có môn Lịch sử. Với lợi thế trong việc rèn luyện phẩm chất
đạo đức cho HS, các nhà giáo dục LS đã dày công nghiên cứu để đưa ra
những phương pháp dạy học mới, tiến bộ góp phần thực hiện mục tiêu của
Đảng và Nhà nước.
Một trong những biện pháp nâng cao chất lượng DHLS là việc đa dạng
hóa nguồn kiến thức HS tiếp nhận. Bên cạnh những kiến thức cơ bản trong


SGK, HS có quyền và phải được tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu bên ngoài
như tranh ảnh lịch sử, bản đồ, lược đồ, bài viết, phim tư liệu. Nguồn tư liệu
tham khảo sẽ giúp giờ học LS trở nên sinh động, HS cảm thấy hứng thú, yêu
thích bộ môn và góp phần phát triển toàn diện năng lực của các em.
Trong thời đại bùng nổ của CNTT, mọi thông tin, nguồn kiến thức có thể
dễ dàng tìm kiếm trên mạng Internet. Internet là kho thông tin khổng lồ và
phong phú, là nguồn tư liệu vô tận cho GV và HS khai thác để phục vụ cho
việc giảng dạy cũng như mở rộng kiến thức.Có thể nói, CNTT đã thổi một
luồng gió mới vào xu thế đổi mới quá trình dạy – học. Từ bấy lâu nay, CNTT
đã giúp GV vận dụng được những phương pháp DH một các linh hoạt và đơn
giản,thực hiện được những bài giảng phức tạp mà PPGD truyền thống khó có
thể làm được, hoặc nếu có thì phải rất vất vả, tốn kém mà hiệu quả không cao.
Từ những năm 90 của thế kỉ trước,Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng đổi
mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Nghị quyết
Trung ương II, khóa VIII(1997) của Đảng đã khẳng định: phải “đổi mới
phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm
bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh ”[18, tr. 41].
Chỉ thị số 40 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX cũng yêu cầu
Ngành giáo dục cần “đổi mới mạnh mẽ và cơ bản phương pháp giáo dục
nhằm khắc phục kiểm truyền thụ một chiều, nặng nề lí thuyết, .Tích cực áp
dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng công
nghệ thông tin vào hoạt động dạy học”[19; tr 453].
Tuy nhiên, thực tiễn việc khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet trong
DH nói chung, môn LS nói riêng còn gặp rất nhiều khó khăn. Từ điều kiện vật
chất, đào tạo kĩ năng sử dụng CNTT cho GV, hay nhận thức chưa đúng về đổi
mới đã gây ra những khó khăn nhất định cho việc khai thác và sử dụng tư liệu
trên Internet trong DHLS.
LSTG (1917 – 1945)là một phần rất quan trọng trong chương trình LS

lớp 11 ở trường phổ thông. Giai đoạn LS này cung cấp cho HS những hiểu
biết về phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới, sự thành lập nhà
nước vô sản đầu tiên ở Liên Xô, tình hình của các nước tư bản giữa hai cuộc
chiến tranh và CTTG thứ hai. Một giai đoạn quan trọng cần phải giáo dục cho
HS nhận thức đúng về những sự kiện đã diễn ra, góp phần làm rõ thêm LSTG
và LS dân tộc.
Xuất phát từ cơ sở và thực tế nêu trên,chúng tôi chọn vấn đề “Khai
thác và sử dụng tư liệu trên Internet trong dạy học lịch sử thế giới (1917 –
1945) lớp 11 trung học phổ thông - chương trình chuẩn” làm đề tài luận
văn thạc sĩ, chuyên ngành Lí luận và Phương pháp dạy học lịch sử, mã số
60.14.01.11.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khai thác và sử dụng tư liệu tham khảo nói chung, tư liệu trên Internet
trong dạy học lịch sử nói riêng có vai trò quan trọng đối GV và HS, nên đã
được các nhà giáo dục nói chung và các nhà giáo dục lịch sử nói riêng trên thế
giới và trong nước quan tâm. Chúng tôi xin khái quát LS nghiên cứu vấn đề
liên quan đến đề tài thành hai nhóm chính:
2.1. Tài liệu về sử dụng tư liệu trong dạy học nói chung, trong môn
lịch sử nói riêng
2.1.1.Trên thế giới
Ở Liên Xô(cũ), việc sử dụng tư liệu trong DH rất được coi trọng. Trong
công trình “Giáo dục học”, tập 2 của T.A.Ilinna, “Những cơ sở của lý luận
dạy học hiện đại”, tập 2 của B.P.Exipôp đã khẳng định trong DHLS cần phải
tổ chức sử dụng báo, tạp chí, những truyền đơn cách mạng, các sổ tra cứu
thông kê, những tác phẩm của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mac – Lênin
N.G.Đairi, trong cuốn “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào?” đã
đưa ra sơ đồ Đairi, trong đó phân tích rất kĩ cách sử dụng sách giáo khoa
và các loại tư liệu tham khảo khác. Theo Đairi, tư liệu tham khảo làm cho
bài học thêm phong phú, nó đòi hỏi việc phát huy tính tích cực dạy và học
của GV, HS.

J.J. Rút Xô- nhà giáo dục vĩ đại người Pháp cho rằng “ Sự kiện! Sự
kiện! Tôi không bao giờ mệt mỏi nhắc lại rằng chúng ta gán cho lời nói ý
nghĩa quá lớn; bằng sự giáo dục ba hoa của chúng ta, chúng ta sẽ chỉ đào
tạo ra những anh chàng ba hoa” [7; tr. 31]. Theo Rút Xô, GVcần sử dụng đồ
dùng trực quan trong DHLS, tư liệu tham khảo nhằm giúp HS tự giác, tích
cực, tư duy và khi HS đã lĩnh hội kiến thức thông qua các hoạt động thực
hành, thực nghiệm, khẳng định những tri thức đúng từ đồ dùng trực quan thì
nhất định sẽ bộc lộ nhân cách sáng tạo của mình. Đồ dùng trực quan rất
phong phú và đa dạng, bao gồm tranh ảnh lịch sử, phim tư liệu mà SGK
không thể đề cập hết được. GV và HS cần khai thác nguồn tư liệu trên
Internet phục vụ việc dạy – học LS để nâng cao hiệu quả bài học. Tác phẩm
này đã giúp ích cho chúng tôi rất nhiều về mặt lí luận.
Nhà giáo dục người Nga K.Đ. Uxinki (1824-1870) khẳng định “Tính
trực quan phải là cơ sở quan trọng nhất của việc DH”[7; tr. 52]. Uxinki đánh
giá và đề cao đồ dùng trực quan là cái ban đầu và nguồn gốc của mọi tri thức,
cảm giác, cung cấp tư liệu cho hoạt động trí tuệ của con người.
Ở một khía cạnh khác, nhà giáo dục học Liên Xô I.F. Khalamốp trong
cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào?” nhấn mạnh
vai trò của tư liệu tham khảo trong giảng dạy ở trường phổ thông.
Nhà giáo dục học J.H.Pextalôzi (1746 – 1827) nhìn thấy chỗ dựa cho quá
trình nhận thức của HS chính là trực quan “Nếu anh càng dùng nhiều giác
quan để nhận thức bản chất của một hiện tượng hay một sự vật nào đó, thì
những hiểu biết của anh về nó lại càng đúng đắn”[7; tr. 40]. Cùng với một sự
kiện, nếu HS được tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu, sử dụng nhiều giác quan
để nhận thức sẽ giúp HS khắc sâu kiến thức.
Những công trình nghiên cứu của các nhà giáo dục học trước đây đã đề
cập đến vai trò của đồ dùng trực quan, tư liệu tham khảo nhằm phát huy tính
tích cực cho HS trong học tập nói chung, học tập LS nói riêng.
2.1.2. Trong nước
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu PP sử dụng tư liệu và tài liệu trong DH

được các nhà giáo dục học và giáo dục LS chú ý. Trong cuốn “Giáo dục học”
Tập 1, Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt đã nói rõ tầm quan trọng của phương
pháp sử dụng tư liệu tham khảo. Theo các tác giả, nếu sử dụng đúng tư liệu
tham khảo sẽ có tác dụng mở rộng, đào sâu vốn hiểu biết một cách có hệ
thống và sinh động
Đối với bộ môn Lịch sử, việc nghiên cứu phương pháp sử dụng tư liệu
tham khảo trong dạy học, lần đầu tiên được đặt ra trong quyển “Phương pháp
dạy học Lịch sử” (NXB Giáo dục, 1966) của nhóm tác giả Trần Văn Trị,
Phan Ngọc Liên, Hoàng Trọng Hạnh, Nguyễn Cao Lũy, Nguyễn Tiến Cường.
Tiếp đó, cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” tập I, xuất bản 1976 do
Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị (chủ biên), đặc biệt là cuốn “Phương pháp dạy
học lịch sử” (xuất bản 1992), tái bản có sửa chữa và bổ sung nhiều lần trong
các năm 1988, 1999, 2000, 2001 tiếp tục đề cập đến vị trí, vai trò và PP sử
dụng tư liệu DH, bao gồm các tư liệu LS và tư liệu văn học
Năm 2002, cuốn “Phương pháp dạy – học lịch sử” tập 1, tập 2 do Phan
Ngọc Liên (chủ biên) đã phân ra rõ các loại tư liệu tham khảo có thể sử dụng
trong dạy học lịch sử như tư liệu lịch sử, tư liệu văn kiện Đảng, Nhà nước,
các tác phẩm của Hồ Chí Minh, tư liệu văn học đồng thời nêu vai trò và PP
sử dụng mỗi loại tư liệu nêu trên.
Trong quyển “Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử”do các
tác giả Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Trần Vĩnh Tường
(đồng chủ biên) có phần “Sử dụng tài liệu trong dạy học lịch sử”. Sách đã đề
cập đến việc sử dụng tư liệu Hồ Chí Minh, văn kiện Đảng trong nghiên cứu,
biên soạn lịch sử và các biện pháp sư phạm trong DHLS ở trường phổ thông.
Cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử (2009)”của
Nguyễn Thị Côi đã khẳng định sử dụng các loại tư liệu vào dạy học không
những góp phần làm cho bài giảng phong phú đa dạng, làm sâu sắc nội dung
sách giáo khoa, mà còn mở rộng hiểu biết của học sinh về kiến thức, văn hóa
nói chung như khảo cổ học, văn học, nghệ thuật, địa lý
Liên quan đến đề tài của chúng tôi còn có luận án tiến sĩ của Hoàng Đình

Chiến “Sử dụng tác phẩm Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp
12” đã đi sâu nghiên cứu về sử dụng các tác phẩm Hồ Chí Minh trong dạy
học lịch sử, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Qua các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy các nhà giáo
dục đều nhấn mạnh con đường nhận thức của HS khi học tập nói chung, môn
LS ở trường phổ thông nói riêng đều phải đi “từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Việc nghiên cứu, sử
dụng tư liệu và tài liệu tham khảo tuy đề cập ở những góc độ khác nhau,
nhưng đều khẳng định vị trí, vai trò của chúng trong dạy học lịch sử. Đó là
những gợi ý về mặt lí luận rất quý báu cho tôi nghiên cứu đề tài.
2.2. Tài liệu về sử dụng tư liệu trên Internet trong DHLS
2.2.1.Trên thế giới
Cuốn “Learning with Technology: A Contrustivis Perspective” (gồm 8
chương) của một nhóm giáo sư người Mĩ tập trung trình bày những tác động
tích cực của công nghệ máy tính đối với cách dạy của GV và PP học tập của
HS. Theo David H.Jonassen, nếu GV có PP sử dụng phương tiện đa truyền
thông trong quá trình DH sẽ kích thích một cách tích cực các giác quan của
HS, giúp ngời học phát huy tốt năng lực, sở thích, năng khiếu riêng để tự
khám phá và kiến tạo tri thức,…[33; tr. 9]
Về vai trò của Internet, LORI A.PERINE – Phó Giám đốc Phòng Chính
sách Khoa học và Công Nghệ Nhà Trắng (Hoa Kỳ) đã viết “Mạng Internet là
một nền móng đang mở rộng chưa từng thấy cho nghiên cứu toàn cầu”. Ông
khẳng định tính “Toàn cầu hóa” thông qua Internet, đó là sự cộng tác của
nhiều người khác nhau trên các châu lục thông qua sử dụng Internet [60; tr. 8]
SOMKIAT TANGKITVANICH DEUNDEN NIKOMBORIRAK – Viện
nghiên cứu phát triển Thái Lan (TDRI) cho rằng “Mạng Internet là một công
cụ tăng cường vốn xã hội”. Ông khẳng định vốn xã hội ở các trường học sẽ
có hiệu quả hơn khi mạng Internet được sử dụng một cách hiệu quả. [60; tr. 8]
Trong cuốn “The training of trainers program” của các nhà giáo dục
Australia đã chỉ ra 7 nguyên tắc dạy – học đối với GV và HS, trong đó có sử dụng

thiết bị DH hiện đại. Tác phẩm đề cập, nếu người học vừa được nghe, vừa được
nhìn thông qua hình ảnh, kết hợp với các hoạt động khác (tức là huy động cùng
nhiều giác quan một lúc) thì kết quả lĩnh hội kiến thức của HS đạt 90% [33; tr. 10]
2.2.2.Trong nước
Những tài liệu trong nước cũng đã đề cập đến vai trò và phương pháp sử
dụng tư liệu trên Internet trong DHLS.
Trước tiên phải kể đến bộ giáo trình “Phương pháp DHLS”, tập 1 và 2
của Phan Ngọc Liên(chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi [48], [49];
Cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn LS” (2009) của Nguyễn Thị
Côi (chủ biên) bao gồm 8 chương, trong đó chương VI do hai tác giả Đoàn
Văn Hưng và Nguyễn Mạnh Hưởng đề cập các phương tiện kĩ thuật và việc
bồi dưỡng kĩ năng khai thác thông tin trên mạng Internet trong DHLS ở
trường phổ thông.Trong chương này, hai tác giả đã đề cập đến vai trò của
mạng Internet có nhiều chức năng nhằm phục vụ cho nhiều lĩnh vực hoạt
động của xã hội. Ngày nay, trong dạy học, việc GV và HS được trang vị
những kĩ năng có bản để tìm kiếm, khai thác, gửi và nhận thông tin qua
Internet là rất cần thiết.[14;tr. 129] Đây là những giáo trình, tài liệu chính
thống dành cho sinh viên sư phạm các trường đại học và cao đẳng có nội
dung đề cập việc sử dụng Internet trong quá trình DHLS ở trường phổ thông
Tác giả Thái Duy Tuyên trong cuốn “Những vấn đề cơ bản giáo dục học
hiện đại” đã viết “Đưa máy tính điện tử vào quá trình dạy học – giáo dục.
Điều đó sẽ làm thay đổi bản chất của quá trình dạy học và nâng chất lượng
dạy học lên một cấp độ mới”[ 71;tr. 67]
Trong bài viết “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học ở Đại học, Cao
đẳng trong thời đại bùng nổ thông tin”, tác giả Nghiêm Đình Vỳ (Ban Khoa
giáo TW) cũng nhấn mạnh vai trò của Internet trong thời đại ngày nay và
khẳng định: “Cần tận dụng nó để đổi mới phương pháp dạy học, làm sao để
cho sinh viên được học tập suốt đời”[73;tr. 9]
Tác giả Phan Trọng Luận (Đại học sư phạm Hà Nội), trong bài viết “Hai
chìa khóa vàng cho cuộc cách mạng học tập thế kỷ XXI” đăng trên tạp chí

Dạy và Học ngày nay số 1 – 2002, đã khẳng định “Muốn phát triển giáo dục
không thể không sớm áp dụng công nghệ thông tin. Nước nào đi đầu trong
ứng dụng công nghệ thông tin, nước đó sẽ đi đầu về giáo dục” [58;tr. 13]
Tác giả Nguyễn Mạnh Hưởng trong các bài viết như: “Các biện pháp
nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường THPT với sự hỗ trợ của CNTT”
[29]; “Hướng dẫn HS khai thác hiệu quả các đoạn phim tài liệu trong DHLS
ở trường THPT” [31]; “Sử dụng CNTT và truyền thông vào DHLS ở trường
THPT”[28] đều nhấn mạnh đến vai trò của CNTT nói chung, sử dụng tư liệu
lịch sử trong DHLS nói riêng và đưa ra những yêu cầu và định hướng PP ứng
dụng CNTT vào DHLS ở trường phổ thông.
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học của tác giả Nguyễn Mạnh Hưởng với đề tài
“Nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử trường THPT với sự hỗ trợ của
công nghệ thông tin (Qua thực nghiệm sư phạm ở một số tỉnh/ thành phố Đồng
bằng Bắc Bộ)”(2011) [33]đã đề cập đến việc khai thác nội dung LS (bài viết,
phim ảnh, phim tài liệu ) trên mạng Internet có liên quan đến kiến thức cơ bản
trong SGK, dùng làm tư liệu tham khảo để dạy – học LS ở trường phổ thông.
Luận án Tiến sĩ Giáo dụchọc“Sử dụng phần mềm Microsoft Powerpoint
trong DH bài nghiên cứu kiến thức mới phần LSTG lớp 10 – chương trình
chuẩn” của Đoàn Văn Hưng 2009[26] đã nghiên cứu lí luận và thực tiễn việc sử
dụng phần mềm powerpoint trong dạy học bài nghiên cứu kiến thức mới ở
trường THPT. Tác giả đã đề xuất các biện pháp sử dụng phần mềm trong DHLS.
Trong luận văn Thạc sĩ Giáo dục học của tác giả Đoàn thị Kiều Oanh với
đề tài “Sử dụng tài liệu khai thác trên mạng Internet để dạy học lịch sử ở
trường THPT (Qua ví dụ một số vấn đề lịch sử thế giới cận đại ở lớp 10
THPT) [60] cũng đã đề cập đến vấn đề sử dụng Internet trong dạy học lịch sử
và các biện pháp sử dụng để nâng cao chất lượng dạy – học lịch sử ở trường
phô thông.
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học của tác giả Nguyễn Thị Thơ“Hình thành
kỹ năng khai thác và sử dụng tài liệu trên Internet cho học sinh trong học tập
lịch sử ở trường trung học phổ thông (Vận dụng qua phần Lịch sử thế giới cổ

đại và trung đại lớp 10, chương trình chuẩn)”(2010) [64] khẳng định vai trò
của việc khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet và định hướng hình thành kĩ
năng khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet cho HS trong học tập LS.
Nhìn chung, dù mục đích nghiên cứu khác nhau, ở những lĩnh vực khác
nhau, nhưng các tác giả đều khẳng định tầm quan trọng của Internet trong tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục và cần phải sử dụng nó. Đây là
một biên pháp để nâng cao hiệu quả dạy hoc các bộ môn nói chung và môn lịch
sử nói riêng. Tuy vậy, chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet trong dạy học lịch sử thế giới (1917 –
1945). Vì vậy, chúng tôiquyết định chọn vấn đề trên để làm đề tài nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm:
- Tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc khai thác và sử dụng tư
liệu trên Internet trong DHLS.
- Khảo sát, điều tra thực tiễn khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet
trong DHLS ở trường THPT.
- Đề xuất, hướng dẫn các phương pháp khai thác và sử dụng tư liệu trên
Internet trong DHLS thế giới (1917 – 1945), lớp 11 THPT – chương trình chuẩn.
- Soạn bài và thực nghiệm sư phạm (TNSP) bài 12, “Nước Đức giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới (1918 – 1939)”, lớp 11 - chương trình chuẩn để
khẳng định tính khả thi của đề tài và rút ra kết luận, kiến nghị.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình khai thác và sử dụng tư liệu
trên Internet đối với GV trong DHLS phần LSTG (1917 – 1945), lớp 11-
chương trình chuẩn.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn không đi sâu về mặt kĩ thuật mà trên cơ sở nghiên cứu về lí
luận liên quan đến đề tài, chúng tôi tập trung đề xuất, định hướng GV và HS
các phương pháp khai thác, sử dụng tư liệu trên Internet trong DHLS, tập
trung vào giờ học nội khóa.

Tác giả chọn phần LS thế giới (1917-1945), lớp 11 THPT – chương trình
chuẩn để vận dụng các phương pháp do mình đề xuất, được cụ thể hóa thông qua
TNSP bài 12“Nước Đức giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 – 1939)”
4. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở tìm hiểu lí luận và thực tiễn, đề tài tiếp tục khẳng định vai
trò của việc khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet trong DHLS ở trường
THPT. Đồng thời, chúng tôi đề xuất các loại tư liệu có thể khai thác, nội
dung, biện pháp sư phạm sử dụng tư liệu đã khai thác trên mạng Internet để
phục vụ dạy học phần Lịch sử thế giới từ (1917 – 1945), lớp 11 THPT –
chương trình chuẩn.
4.2.Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn sẽ lần lượt giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu lí luận DHLS nói chung, phương pháp khai thác và sử dụng
tư liệu trên mạng Internet trong DHLS nói riêng, từ đó đưa ra những yêu cầu
và phương pháp sử dụng cụ thể.
- Khảo sát điều tra thực tế: dự giờ, thăm dò ý kiến của GV và HS, theo
dõi tình hình DHLS nói chung và việc sử dụng tư liệu khai thác trên Internet
nói riêng qua phiếu điều tra, hệ thống câu hỏi.
- Tìm hiểu nội dung chương trình SGK phần LSTG (1917 – 1945) và các
loại tư liệu trên mạng Internet có thể khai thác và sử dụng khi dạy học phần
lịch sử này.
- Đề xuất, định hướng cho GV các phương pháp khai thác và biện pháp
sử dụng tư liệu trên Internet trong DHLS ở trường phổ thông, cụ thể hóa vào
phần LSTG (1917 – 1945)
- Soạn giáo án và tiến hành thực nghiệm sư phạm bài 12. Nước Đức giữa
hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 – 1939)để đánh giá tính khả thi của đề tài
và rút ra kết luận.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở phương pháp luận

Cơ sở phương pháp luận của đề tài đứng trên quan điểm lí luận của chủ
nghĩa Mac – Lênin về nhận thức và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng và Nhà nước về giáo dục phổ thông, đặc biệt quan điểm giáo dục lịch sử
cho học sinh phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài cũng dựa vào lí luận Tâm lí học, Giáo dục học, Phương pháp dạy
học lịch sử của các nhà khoa học giáo dục và giáo dục lịch sử, cùng một số
vấn đề có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn vận dụng nhiều phương pháp khác nhau trong quá trình
nghiên cứu như phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp phân
tích, so sánh. Nhưng do tính chất và đặc trưng của đề tài thuộc lĩnh vực lí luận
về phương pháp dạy học, nên chúng tôi tập trung vào bốn nhóm sau:
- Nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các tài liệu về Tâm lí học, Giáo dục
học, Phương pháp dạy học bộ môn, nghiên cứu chương trình, nội dung sách
giáo khoa lớp 11 và các nguồn tư liệu khai thác trên mạng Internet liên quan
đến dạy học.
- Nghiên cứu thực tiễn qua điều tra, khảo sát, phỏng vấn, bảng hỏi Tác
giả tìm hiểu, nghiên cứu chương trình SGK LS lớp 11 THPT – chương trình
chuẩn để xác định vị trí kiến thức trọng tâm, kiến thức tham khảo Trên cơ
sở đó đề xuất các hình thức, biện pháp khai thác tư liệu trên Internet trong
DHLS TG (1917 – 1945) để nâng cao hiệu quả bài học.
- Thực nghiệm sư phạm, tác giả chọn bài 12: Nước Đức giữa hai cuộc
chiến tranh thế giới (1918 – 1939) theo các biện pháp đã đề xuất nhằm khẳng
định tính khả thi của đề tài và rút ra kết luận, kiến nghị.
- Vẽ biểu đồ đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm, làm căn cứ để rút ra
nhận xét.
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1. Ý nghĩa lí luận
Đề tài góp phần nâng cao nhận thức của chúng tôi về lí luận DH nói
chung và DH bộ môn LS nói riêng, đặc biệt là vai trò, ý nghĩa của việc khai

thác và sử dụng tư liệu trên Internet trong DHLS ở trường THPT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thực hiện đề tài này không chỉ giúp cho bản thân tác giả luận văn sử
dụng thành thạo phương pháp khai thác cũng như sử dụng tư liệu trên Internet
trong DHLS ở trường THPT, mà những kết quả nghiên cứu còn được vận
dụng vào thực tiễn DHLS ở trường THPT, góp phần nâng cao chất lượng
DH. Ngoài ra đây cũng là tài liệu tham khảo cần thiết cho sinh viên, học viên
cao học, GV và những người quan tâm.
7. Đóng góp của luận văn
- Tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc khai thác và sử dụng tư
liệu trên mạng Internet trong dạy học lịch sử.
- Xác định được nội dung các tư liệu khai thác trên Internet có thể và cần
sử dụng khi dạy học phần Lịch sử thế giới(1917 – 1945), lớp 11 – chương
trình chuẩn.
- Đề xuất được phương pháp khai thác và sử dụng tư liệu trên mạng
Internet cho GV trong dạy học phần Lịch sử thế giới (1917 – 1945) ở các
trường THPT.
8. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
gồm 3 chương nội dung:
Chương 1. Khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet trong DHLS ở
trường THPT – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn
Chương 2. Phương pháp khai thác tư liệu trên Internet trong dạy học
LSTG (1917 – 1945), lớp 11 THPT – chương trình chuẩn
Chương 3. Sử dụng tư liệu trên Internet trong dạy học LSTG (1917 –
1945), lớp 11 THPT – chương trình chuẩn
NỘI DUNG
Chương 1
KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TƯ LIỆU TRÊN INTERNET TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG – MỘT SỐ VẤN

ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận và xuất phát của đề tài
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản sử dụng trong đề tài
Trong đề tài có các khái niệm quan trọng cần phải làm rõ gồmkhai thác
và sử dụng, tư liệu và tài liệu, tư liệu lịch sử và tài liệu lịch sử, khai thác và sử
dụng tư liệu trên Internet trong DHLS.
* Khai thác và sử dụng
Theo từ điển tiếng Việt, “Khai thác” là “Tiến hành hoạt động để thu lấy
những nguồn lợi có sẵn trong thiên nhiên”. Hoặc có thể hiểu theo nghĩa thứ
hai là “Phát hiện và sử dụng những cái có ích ẩn giấu hoặc chưa được sử
dụng”[72; tr.490]
Sử dụng là “Đem dùng vào mục đích nào đó”[72;tr. 876]
Trong giáo dục, GV có thể khai thác những nguồn tri thức có trong
Internet, sử dụng nguồn tri thức này góp phần làm phong phú đa dạng kiến
thức của HS tiếp thu được qua SGK và tài liệu tham khảo.
* Tư liệu và tài liệu
Khái niệm tư liệu. Theo từ điển tiếng Việt Tư liệu là những thứ vật chất
con người sử dụng trong một lĩnh vực hoạt động nhận thức nào đó (đất đai là
tư liệu quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp ), tư liệu còn là tài liệu
sử dụng cho việc nghiên cứu (thu thập tư liệu, xử lí tư liệu )[72; tr. 1071].
Cũng theo Từ điển tiếng Việt, tài liệu là “văn bản giúp cho việc tìm hiểu
một vấn đề gì” như tài liệu học tập, tài liệu tham khảo; tài liệu cũng có thể
hiểu như tư liệu [72; tr. 884].
Từ các khái niệm nêu trên chúng ta có thểphân biệt hai khái niệm tư liệu
và tài liệu. Tư liệu bao hàm nghĩa rộng hơn tài liệu, tư liệu có thể là vật thể,
thành văn, tài liệu được ghi lại dưới dạng văn bản.
* Tư liệu lịch sử và tài liệu lịch sử
Trong cuốn“Phương pháp luận sử học” đã đưa ra định nghĩa: “Tư liệu
lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan hệ xã
hội nhất định, mang trong mình nó những dấu vết của quan hệ ấy, phản ánh

trực tiếp và trừu tượng một mặt hoạt động nào đấy của con người”[50; tr.206]
Tác giả Phan Huy Lê trong cuốn “Tìm về cội nguồn” đã đưa ra ý kiến
sau: “Tư liệu lịch sử hay sử liệu theo quan điểm hiện đại là tất cả những gì
chứa đựng những thông tin về lịch sử, giúp nhà sử học khai thác, gạn lọc để
tái hiện và nghiên cứu quá khứ lịch sử”[41]
Tài liệu lịch sử được hiểu một cách khái quát là các thông tin bổ sung,
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến các sự kiện, nhân vật, địa danh hoặc
một khái niệm được đề cập đến trong nội dung bài giảng
Như vậy, tài liệu lịch sử có thể là một bài viết, một bức tranh, một đoạn
phim đó là tất cả những gì có thể cung cấp thông tin cho nội dung bài giảng.
Nếu tài liệu được chọn lọc kĩ lưỡng, sẽ làm cho bài giảng trở nên sống động,
hấp dẫn và phong phú, giúp học sinh không bị “hiện đại hóa lịch sử”. Qua đó
phát huy tính tích cực, độc lập của HS trong dạy học LS ở trường THPT.
Ví dụ khi học về bài 17 “Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945)”,
GVcó thể sử dụng các tài liệu bài viết, tranh ảnh và phim tư liệu về các nhân
vật tiêu biểu như Mutxolini và Hitle. Đây là những nhân vật trùm sỏ của chủ
nghĩa phát xít, cùng với Nhật Bản đã gây ra cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
(1939 -1945)
Nói tóm lại, có thể hiểu tài liệu LS nằm trong tư liệu LS. Tài liệu lịch sử
hẹp hơn tư liệu LS, là phần quan trọng cấu thành tư liệu LS, phục vụ cho quá
trình nghiên cứu hay học tập lịch sử.Điểm khác nhau là tư liệu là nguồn sử
liệu cả về vật thể hay sử liệu thành văn, chưa bị tác động hay chỉnh sửa bởi
tác động của con người, tư liệu lịch sử phản ánh một cách khá trung thực và
khách quan quá khứ. Tài liệu là nguồn tư liệu đã được các nhà khoa học sử
dụng và tác động vào đó để biến thành nguồn tài liệu phục vụ cho mục đích
nghiên cứu của mình. Trong giáo dục, tài liệu lịch sử mang tính định hướng
bởi lẽ những tư liệu lịch sử được các nhà khoa học, nhà giáo dục sử dụng để
phục vụ cho những nhiệm vụ khác nhau như tài liệu giáo dục, tài liệu phục vụ
nghiên cứu lịch sử
* Khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet trong DHLS

Là việc tìm kiếm các nguồn thông tin trên mạng Internet như các văn
bản, hình ảnh, âm thanh phục vụ cho việc DHLS, góp phần nâng cao chất
lượng DH. Tất nhiên, việc khai thác và sử dụng này phải đảm bảo những yêu
cầu cơ bản về tính tư tưởng, mục đích, nội dung và phương pháp sử dụng, dựa
trên quan điểm DHLS.
1.1.2. Đặc điểm tâm lí học sinh trong DHLS ở trường THPT
Quá trình nhận thức của học sinh trong học tập nói riêng, trong nhận
thức của loài người nói chung đều đi từ cảm giác đến tri giác, từ những hình
ảnh đơn giản đến khái quát. Qui luật nhận thức của con người đã được phản
ánh trong công thức nổi tiếng của Lê-nin “Từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng
của nhận thức lí tính, nhận thức hiện thực khách quan”[48; tr. 270]
Tuy nhiên quá trình nhận thức của HS có những đặc điểm khác với quá
trình nhận thức của loài người. Nếu như quá trình nhận thức của loài người
diễn ra theo con đường “mò mẫm” “thử sai” tức là khám phá cái chưa biết, đi
vào thế giới khách quan một cách độc lập, phát hiện và chứng minh những cái
mà loài người chưa biết đến trong tự nhiên xã hội và tư duy để tìm ra chân lí
mới, qui luật mới, bổ sung vào kho tàng tri thức của nhân loại thì nhận thức của
HS qua môn LS không như vậy. Đó không phải là việc tìm ra cái mới, cái chưa
biết mà các em phải tái tạo những tri thức lịch sử đã được thừa nhận, những tri
thức khoa học, tạo cơ sở cho các em khôi phục lại bức tranh quá khứ.
Đặc điểm tâm lí của HS THPT (ở lứa tuổi từ 16 – 18) thể chất và cấu tạo
não của các em đã đạt gần tới sự hoàn thiện như người lớn. Trong các hoạt
động của mình, các em đã hình thành thái độ tự khẳng định, đi liền với nó là sự
phát triển mạnh mẽ của tinh thần tự trọng, tự lập, tự lực Theo Hà Thế Ngữ thì
lứa tuổi này: “mong muốn khẳng định giá trị của phầm chất và năng lực bản
thân, mong muốn tự lập, mong muốn làm những việc có ý nghĩa ” [59;tr 72]
Nhà tâm lý học người Nga Petrvski đã nói: “ tính ham học hỏi và tính
tò mò là những đặc điểm của thiếu niên. Nó mở rộng tâm hồn để hấp thụ cái
mới, cái thú vị và lớn lao, như cái bọt biển thấm hút những tin tức khác nhau,

song xu hướng ưu thế của tính ham hiểu biết có thể khác nhau ” [61;tr. 153]
Những vấn đề nêu trên là cơ sở quan trọng để sử dụng phương pháp dạy
học mang tính chất nghiên cứu đặc trưng môn học. Với những đặc điểm tâm lí
đó, những phương pháp dạy học dưới dạng trình bày tóm tắt, thông báo nội
dung sách giáo khoa một cách máy móc, đơn điệu không còn phù hợp với
yêu cầu học tập và khả năng tư duy của học sinh. Vì vậy, mục đích của việc
sử dụng tư liệu trên mạng Internet trong dạy học lịch sử không chỉ giúp học
sinh hiểu rõ, hiểu đúng các sự kiện, hiện tượng mà còn nhằm tới việc hình
thành phương pháp tự học theo đặc trưng của môn học.
Do đặc tính cơ bản là muốn tự khẳng định mình, muốn tự lực, độc lập,
nên hứng thú của học sinh THPT đã phát triển mạnh, như hứng thú đọc sách,
hứng thú học tập, hứng thú nhận thức nói chung Vì vậy nếu từ bài giảng,
người thầy biết cách gợi mở khả năng tự lực trong từng học sinh, thì chắc
chắn năng lực tiếp thu kiến thức, cũng như nhu cầu tự học của các em sẽ nâng
lên một bước quan trọng.
Đặc điểm tâm lí nêu trên giúp chúng ta hiểu rõ đặc điểm nhận thức của
học sinh trong học tập nói chung và học tập môn lịch sử nói riêng. Trong
DHLS, nếu GV thường xuyên khai thác tư liệu trên Internet góp phần phát
triển tư duy tích cực học tập lĩnh hội kiến thức HS trong học tập LS. Nguồn tư
liệu đa dạng phong phú đa dạng trên Internet giúp HS khắc sâu kiến thức lĩnh
hội được trong SGK, đồng thời giúp các em nhớ lâu kiến thức.
1.1.3. Đặc trưng của kiến thức lịch sử và con đường hình thành kiến
thức cho học sinh trong DHLS ở trường THPT
Học tập LS là học những sự kiện, hiện tượng đã qua không tái diễn trở
lại. Vì vậy, HS không thể trực quan sinh động sự kiện, hiện tượng trong quá
khứ mà chỉ có thể “nhận thức được một cách gián tiếp thông qua các tài liệu
được lưu lại”. GV cũng không thể tiến hành thí nghiệm hay dựng lại quá khứ
cho HS quan sát. Do đó, giờ học LS mà thiếu những tài liệu, tranh ảnh, bản
đồ liên quan đến bài học thì vô cùng tẻ nhạt, HS không hứng thú học tập và
kiến thức nắm được không sâu sắc, vững chắc. Chính vì vậy, những tài liệu cụ

thể, chính xác, chính là những “hình ảnh” sinh động để khôi phục lại bức
tranh quá khứ, đúng như nó tồn tại.
Tuy nhiên, việc học tập LS không chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhớ, tái tạo
lịch sử mà phải hình thành các khái niệm, rút ra quy luật, cũng như bài học LS.
Phan Ngọc Liên đã khẳng định: “Học lịch sử cũng như các môn khác cần có trí
nhớ, song nhớ không phải là mục đích của học lịch sử mà chủ yếu là phải hiểu,
phải phát huy tính tích cực, tư duy, sáng tạo, thông mình” [45; tr 7]
Do đó, mục đích của việc học LS là HS không chỉ dừng ở ghi nhớ sự
kiện mà điều quan trọng là trên cơ sở nắm vững chương trình, SGK, hiểu
bản chất sự kiện, quá trình LS, rút ra bài học kinh nghiệm quá khứ và hiện
tại. Công việc này hoàn toàn khác với việc DH ở các môn khoa học tự nhiên
là GV hướng dẫn HS tìm hiểu, nghiên cứu “cái hiện có” và “đang tồn tại”.
Đây chính là điểm khác biệt lớn nhất giữa nhận thức LS so với các môn học
tự nhiên.
Để hiểu bản chất sự kiện, học sinh phải vận dụng các thao tác tư duy,
gồm nhiều loại phối hợp, quyện chặt với nhau và không có một thao tác nào
đơn nhất trong hoạt động tư duy: so sánh, trừu tượng hóa, phân tích, tổng
hợp Trong các hình thức của tư duy, tư duy độc lập, sáng tạo là quan trọng
nhất, vì nó có những đặc trưng phù hợp với lứa tuổi HS, mục tiêu đào tạo, nội
dung và PP học tập. Tư duy độc lập, sáng tạo sẽ giúp HS học tập một cách
thông minh, hứng thú và có kết quả hơn, biết sử dụng kiến thức đã học, tiếp
thu kiến thức mới, biết đặt vấn đề để tìm hiểu giải quyết và biết lựa chọn
những vấn đề giải quyết tốt nhất. Đối với môn LS, HS biết miêu tả, tái tạo,
khôi phục những sự kiện của quá khứ, nêu được nguyên nhân xuất hiện, phát
sinh, phát triển, diệt vong của một sự kiện LS, phải biết lịch sử là một quá
trình phát triển liên tục biện chứng
Như vậy, để nhận thức LS một cách chính xác, đầy đủ là cả một quá
trình đòi hỏi sự nỗ lực cao nhất của HS– chủ thể nhận thức. Chúng ta có thể
khái quát quá trình nhận thức và hành động của HS trong học tập LS diễn ra
qua ba giai đoạn như sau.

1. Học sinh nhận thức những sự kiện quan trọng cụ thể của LSTG, dân tộc,
địa phương Sự tiếp xúc của HS với những tri thức này mang tính chất gián tiếp
thông qua GV và tư liệu sẽ tạo thành những tri giác và biểu tượng lịch sử, đó là
giai đoạn nhận thức cảm tính trong học tập LS.
2. Ở giai đoạn tiếp theo bằng sức mạnh của tư duy trừu tượng thông qua
hoạt động tích cực độc lập của HS, các em đi đến những tri thức cụ thể, trừu
tượng, xử lý tri thức cụ thể. Đây là giai đoạn nhận thức lí tính của LS. Trên cơ
sở đó, HS sẽ nắm được nội hàm của các khái niệm LS và nắm được cốt lõi
của vấn đề.
3. Nhưng việc học tập LS không chỉ dừng lại ở đấy mặc dù các khái
niệm là nhận thức lý tính – vẫn là giai đoạn nhận thức. Trong giai đoạn tiếp
theo HS học cách vận dụng tri thức đã học để tạo ra trong tư duy những mối
liên hệ mới giữa tri thức cũ và những điểm mới chưa biết, sau đó là sử dụng
kiến thức về quá khứ, hiểu hiện tại để hành động trong thực tiễn, phù hợp với
yêu cầu, trình độ của học sinh.
Qua đó có thể hệ thống con đường hình thành kiến thức LS cho HS ở
trường THPT.
Hình 1.1. Sơ đồ về con đường hình thành kiến thức LS cho HS ở trường THPT
[30; tr41-44]
Tóm lại, nhận thức lịch sử cũng giống quá trình nhận thức nói chung:
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực
khách quan” (Lênin).[48;tr. 270]. Điểm khác của nhận thức LS là xuất phát từ
sự kiện, từ việc tri giác sử liệu để tạo biểu tượng, nắm được các khái niệm LS,
rút ra quy luật, nêu bài học kinh nghiệm quá khứ cho nhận thức hoạt động
thực tiễn ở hiện tại. Do đó, trọng DHLS bên cạnh việc phải tái hiện bức tranh
quá khứ đúng như nó tồn tại qua nhiều nguồn tài liệu thì điều quan trọng là
phải phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập của HS.
Từ đặc điểm nhận thức của HS trong học tập LS nêu trên, chúng tôi thấy
rằng sử dụng tư liệu trên mạng Internet trong DHLS vừa phù hợp với đặc

Con đường hình thành kiến thức LS cho HS ở trường THPT
Phải được tiến hành dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức
của GV
Cung
cấp sự
kiện
Tạo biểu
tượng LS
Hình
thành
khái niệm
Nêu
qui luật,
bài học
Vận dụng
kiến thức
Giai đoạn nhận
thức cảm tính
Giai đoạn nhận
thức lí tính
Giai đoạn vận
dụng kiến thức
vào đời sống
điểm nhận thức của lứa tuổi học sinh THPT – lứa tuổi hiếu động, ưa khám
phá và thích tự khẳng định mình, vừa phù hợp với đặc điểm nhận thức LS-
thông qua tư liệu LS để ‘dựng lại”LS, từ đó phát huy tính tích cực trong nhận
thức của HS, để các em hiểu LS và qua đó giáo dục HS.
1.1.4.Vai trò, ý nghĩa của việc khai thác và sử dụng tư liệu trên mạng
Internet trongDHLS ở trường THPT
1.1.4.1.Vai trò

Internet đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc dạy và học nói
chung, dạy và học lịch sử nói riêng đối với cả GV và HS, cụ thể.
- Đối với GV
Thứ nhất, Internet là một kho thông tin, tư liệu khổng lồ giúp GV dễ
dàng khai thác để sử dụng cho DHLS.
Với những tiết học truyền thống, GV mất khá nhiều thời gian cho việc
chuẩn bị tư liệu. Như việc phải phóng to những bức ảnh lịch sử, chân dung
nhân vật, chuẩn bị bản đồ, lược đồ để làm đồ dùng trực quan cho HS. Với
sự hỗ trợ của Internet. GV có thể chuẩn bị cho HS nhiều loại tư liệu tham
khảo như bài viết, tranh ảnh, phim tư liệu có thể lồng ghép vào trong mỗi nội
dung DH thích hợp mà không mất quá nhiều thời gian.
Với việc sử dụng tư liệu trên Internet, GV sẽ tạo được cho yếu tố thẩm
mĩ của các kênh hình. Ngoài ra, còn tạo được yếu tố bất ngờ cho HS khi GV
cho các em quan sát các kênh hình hay xem các đoạn phim tư liệu bằng các kĩ
thuật liên kết (bằng Trigger). Qua đó, GV tạo cho HS một bức tranh LS sinh
động giúp HS hiểu rõ được bản chất của sự kiện và không bị “hiện đại hóa”
lịch sử.
Thứ hai, khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet nâng cao chất lượng
chuyên môn, kĩ năng sử dụng CNTT của GV
Việc khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet trong DHLS giúp GV
được tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu phong phú bên cạnh SGK, sách giáo
viên và các sách tham khảo. GV sẽ tự nâng cao được trình độ chuyên môn,
rèn luyện PPDH mới tạo sự hấp dẫn lôi cuốn HS vào bài giảng, giúp tránh
được tình trạng “dạy chay – học chay” đang làm cho chất lượng bộ môn
xuống thấp.
Việc được thường xuyên tiếp cận với Internet giúp GV nâng cao trình
độ, kĩ thuật sử dụng CNTT, kĩ năng khai thác tư liệu trên Internet, thiết kế bài
giảng điện tử. Đây cũng là tiền đề cho việc GV áp dụng các PPDH mới vào
quá trình DH bộ môn
- Đối với HS

Trong học tập LS, HS không thể “trực tiếp quan sát” những sự kiện LS
mà chỉ có thể “nhận thức được một cách gián tiếp thông qua các tài liệu
được lưu lại”. [30; tr41-44]. Chính vì vậy, khai thác và sử dụng tư liệu
Internet trong DHLS giúp HS được tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu ngoài
SGK, khắc sâu kiến thức và có thể hệ thống và khái quát được nội dung bài
học.
Khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet đóng vai trò rất quan trọng
trong việc giáo dục HS. Qua việc được GV hướng dẫn và giao nhiệm vụ khai
thác tư liệu Internet HS sẽ được rèn luyện kĩ năng sử dụng CNTT. Bên cạnh
đó, trong quá trình khai thác nguồn tư liệu, HS còn hình thành được các kĩ
năng như: đọc, chọn lọc thông tin, tổng hợp, nhận xét, đánh giá hoặc kĩ
năng thuyết trình, thảo luận nhóm.
Như vậy, việc khai thác và sử dụng tư liệu Internet là một khâu rất quan
trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy và học LS ở trường THPT hiện nay.
Hỗ trợ đắc lực cho GV trong việc chuẩn bị tư liệu phục vụ cho bài giảng,
đồng thời tăng tính hiệu quả cho bài học. Do đó trong quá trình DH, GV cần
tích cực sử dụng biện pháp này và định hướng cho HS cách khai thác tư liệu
Internet phục vụ cho việc học tập.
1.1.4.2.Ý nghĩa
Việc khai thác và sử dụng tư liệu Internet trong DHLS có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc bồi dưỡng kiến thức, giáo dục tư tưởng, thái độ và phát
triển kĩ năng học tập cho HS theo định hướng, mục tiêu giáo dục, cụ thể
Về kiến thức
Thứ nhất, sử dụng tư liệu trên Internet góp phần quan trọng vào quá
trình cung cấp sự kiện, tạo biểu tượng và làm phong phú,đa dạng kiến thức
HS đã lĩnh hội được trong SGK
Với ưu thế là một kho thông tin khổng lồ, đa dạng phong phú. Internet là
nguồn tư liệu hỗ trợ vô cùng quan trọng cho GV trong việc DHLS. Qua việc
khai thác và sử dụng tư liệu trên Internet sẽ giúp cho bài giảng của GV trở
nên hấp dẫn, sinh động hơn. HS sẽ được tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu

tham khảo như tư liệu kênh chữ, tư liệu kênh hình và những đoạn phim tư liệu
lịch sử giúp các em hình thành được biểu tượng lịch sử. Với PPDH truyền
thống GV cũng có thể tạo biểu tượng cho HS thông qua việc cung cấp sự
kiện, sử dụng tranh ảnh trong SGK để giúp HS tái hiện được LS. Tuy nhiên,
biểu tượng sẽ bị “mờ nhạt” dễ dẫn đến HS nhanh quên và nhầm lẫn sự kiện
này với sự kiện khác nếu không có tình hình ảnh trực quan.
Ví dụ khi dạy bài 9. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và cuộc đấu
tranh bảo vệ cách mạng (1917 – 1921), để tạo biểu tượng cho HS về “Cách
mạng tháng Mười”, GV cho HS quan sát kênh hình và phim tư liệu liên quan.
Qua các tư liệu, HS tạo được biểu tượng về Cách mạng tháng Mười Nga là
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và thắng lợi, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Bôn-sê-vích, đứng đầu là V.I.Lê-nin. Cuộc khởi nghĩa ở Pe-tơ-rô-grát
nổ ra ngày 7/11/1917 đã mở đầu cho Cách mạng tháng Mười và nhanh chóng

×