Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thành phố cần thơ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (20112015).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 94 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
…….…….



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC THÀNH PHỐ CẦN THƠ
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC (2011-2015).

Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
TS.GVC. Đinh Ngọc Quyên Nguyễn Thị Ngọc Nhơn
MSSV: 6106638
Lớp: SP. GDCD, K36 - 01


Cần Thơ, tháng 11 năm 2013

i

LỜI CÁM ƠN

Những năm học tại trường Đại học Cần Thơ, tôi đã được truyền đạt những
kiến thức quý báu, đây sẽ là nền tảng vững chắc phục vụ tốt cho công việc sau này và
là hành trang để tôi bước vào đường đời. Đối với sinh viên, được làm luận văn là một
hy vọng lớn từ khi bước chân vào giảng đường đại học. Luận văn là kết quả của
những năm tháng không ngừng học tập, học hỏi kinh nghiệm, trao dồi kiến thức từ
thầy, cô, bạn bè.


Qua đây lời đầu tiên tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến thầy Đinh Ngọc
Quyên, người đã chỉ dẫn, tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài,
để tôi có thể hoàn thành luận văn một cách tốt nhất. Cảm ơn thầy, cô khoa Khoa học
Chính trị đã chỉ dẫn, truyền đạt tri thức, kinh nghiệm sống quý báu trong suốt bốn
năm tôi học tại trường.
Tôi xin gửi lời cám ơn đến thư viện khoa Khoa học Chính trị, Trung tâm học
liệu trường Đại học Cần Thơ, các sở ban ngành thành phố Cần Thơ đã hỗ trợ tôi
trong việc tìm kiếm tài liệu hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn đến tập thể lớp sư phạm Giáo dục công dân
khóa 36, những người bạn đã đồng hành, giúp đỡ tôi trong bốn năm học dưới mái
trường đại học.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức bản thân có hạn chế, nên luận văn không
thể tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy, cô.
Tôi xin chân thành biết ơn!.
Cần Thơ, tháng 12 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Ngọc Nhơn

ii

MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU………………………………………………….………….……1
1. Lý do chọn đề tài…………… ……………………… …….…………….….…1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………….……… ….…….2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………….… ……….… 2
4. Phương pháp nghiên cứu…………………… …………… ……………….… 3
5. Kết cấu luận văn…………………………………… ……………………….… 3
B. NỘI DUNG……………………… ……… ……………………….……4

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ TRÍ THỨC VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA……………………… ………………….……………………………………4
1.1. Khái niệm và vai trò của trí thức đối với sự phát triển kinh tế – xã hội… 4
1.1.1. Khái niệm trí thức………… … ……………………………… ………4
1.1.2. Vai trò của trí thức đối với sự phát triển kinh tế – xã hội…………………13
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta và ở thành phố Cần Thơ………………………… ………………… 18
1.2.1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa……………………… … …18
1.2.2. Vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta và ở thành phố Cần
Thơ…………………………… …………………………………………….……20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở THÀNH PHỐ CẦN
THƠ THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA……… …… … 31
2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội tác động đến đội
ngũ trí thức………………… …………………………………………………….31
iii

2.2. Thực trạng đội ngũ trí thức ở thành phố Cần Thơ thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa…………………….……… ………………………………….…… 35
2.2.1. Những thành tựu của đội ngũ trí thức đã đạt được và nguyên nhân của những
thành tựu………………… ………………… …………………… …… 35
2.2.2. Những hạn chế, yếu kém của đội ngũ trí thức và nguyên nhân của những hạn
chế yếu kém…………………………………… ……………………….……54
CHƯƠNG 3: NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT
HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC THÀNH PHỐ CẦN THƠ TRONG
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT
NƯỚC……………………………… …………………………………….… ….59
3.1. Những phương hướng xây dựng đội ngũ trí thức Thành Phố Cần Thơ trong
những năm tới…………………………………………………….……… 59
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Thành

Phố Cần Thơ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước…………………… …………………………………….…………… ……66
3.2.1. Hoàn thiện môi trường và điều kiện hoạt động của trí thức……….………66
3.2.2. Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức….….…… 69
3.2.3. Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức…… … ……72
3.2.4. Đề cao trách nhiệm của trí thức củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động
của các hội trí thức…………………… ……………………… ………….…….77
3.2.5. Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí
thức……………………………… ……………………………………….………79
C. KẾT LUẬN………………………… ………………………….………81
Phần phụ lục
Tài liệu tham khảo
1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng
lớn lao”. Thật vậy, ngày nay trước sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học
và công nghệ, của kinh tế tri thức, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan
trọng tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia. Đối với một nước đang trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa như nước ta thì năng lực sáng tạo của đội ngũ trí
thức có ý nghĩa sống còn. Trong thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển của đất nước,
đội ngũ trí thức Thành Phố Cần Thơ đã tăng nhanh về số lượng lẫn chất lượng góp
phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng và là
động lực thúc đẩy sự phát triển của thành phố.
Thành Phố Cần Thơ là một trong những tỉnh, thành phố phát triển nhất của
Đồng bằng sông Cửu Long với nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú, đồng thời
cũng là mảnh đất có truyền thống yêu nước và đấu tranh hào hùng. Những năm qua
Đảng bộ và nhân dân Thành Phố Cần Thơ trong đó có lực lượng trí thức đã không
ngừng phát huy thế mạnh của mình và khắc phục những khó khăn. Nhiều trí thức trẻ

thể hiện tính năng động, sáng tạo trong công việc, thích ứng nhanh với nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế góp phần thiết thực vào sự nghiệp phát triển chung của cả
nước.
Trong sự nghiệp xây dựng Thành Phố Cần Thơ trở thành điểm sáng về kinh
tế – văn hóa – xã hội không chỉ ở khu vực mà còn ở cả nước, cần phải có sự cố gắng
của nhân dân lao động nói chung và đội ngũ trí thức nói riêng. Tuy nhiên, trước yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đội ngũ trí thức Thành Phố
Cần Thơ còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém: một số trí thức biểu hiện giảm sút đạo
đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm, chạy theo bằng cấp, thiếu ý chí phấn đấu
vươn lên, bên cạnh đó tình trạng chảy máu chất xám ngày càng nhiều, chính sách đãi
ngộ còn hạn chế, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác trí
thức chưa đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, phân bố không đều giữa các tỉnh, thành,
ngành, địa phương.
2

Vì vậy, để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Thành Phố Cần Thơ trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như hiện nay không những là yêu cầu
cấp bách và thiết thực mà còn bắt nguồn từ những yêu cầu phát triển đất nước nói
chung và Thành Phố Cần Thơ nói riêng.
Với việc nhận thức được tầm quan trọng của đội ngũ trí thức và niềm mong
muốn có thể góp một phần hiểu biết của mình vào trí thức Cần Thơ nên tôi chọn đề
tài: “Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Thành phố Cần Thơ trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (giai đoạn 2011-2015)” làm luận văn tốt nghiệp
đại học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu: Đề tài tìm hiểu thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức
Thành phố Cần Thơ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2011-
2015). Từ đó, đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai
trò của đội ngũ trí thức Thành Phố Cần Thơ ngày càng vững mạnh.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung nghiên

cứu làm rõ những nội dung sau:
Một là: Làm rõ quan niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm của đội ngũ trí thức Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hai là: Đi sâu, trình bày rõ về thực trạng đội ngũ trí thức ở Thành Phố Cần
Thơ trong thời gian qua cũng như nêu lên những thành tựu và hạn chế.
Ba là: Trên cơ sở làm rõ nội dung lý luận chung về đội ngũ trí thức và thực
trạng đội ngũ trí thức Thành Phố Cần Thơ, luận văn trình bày những phương hướng
và giải pháp nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Thành phố Cần Thơ trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3

Đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu trực tiếp thực trạng vai trò của
đội ngũ trí thức Thành phố Cần Thơ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước thời kỳ đổi mới (giai đoạn 2011-2015).
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: thực trạng đội ngũ trí thức ở thành phố Cần thơ là mục đích của
luận văn hướng tới.
+ Về thời gian: Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. Từ năm 2011 đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ đã nêu, luận văn dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà
nước. Đồng thời, luận văn còn dựa trên những văn kiện Đại hội Đảng và những văn
bản của Đảng ủy và chính quyền địa phương Thành Phố Cần Thơ trong những năm
gần đây.
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chủ yếu là các phương pháp: phân tích và tổng hợp,
logic và lịch sử, gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra.
5. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn được kết cấu gồm 3 chương và 6 tiết.






4

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ TRÍ THỨC VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA.
1.1. Khái niệm và vai trò của trí thức đối với sự phát triển kinh tế – xã hội.
1.1.1. Khái niệm trí thức.
Khái niệm trí thức của một số nước.
Thuật ngữ “trí thức” được dùng ở các nước trên thế giới có nguồn gốc từ tiếng
Latinh. Trong tiếng Anh, Nga, Đức và trong cả tiếng Việt, thuật ngữ “trí thức” thường
được hiểu là trí tuệ, thông minh, hiểu biết và do đó những người trí thức thường được
hiểu là những người có trình độ cao về trí tuệ, là những người thông minh và hiểu biết
nhiều. Tuy vậy, từ trước đến nay, xung quanh thuật ngữ “trí thức” đã có nhiều cuộc
tranh luận và nhiều cách lý giải khác nhau. Sự khác nhau này, một mặt phụ thuộc vào
lập trường, quan điểm, phương pháp tiếp cận, góc độ nghiên cứu, mặt khác còn phụ
thuộc vào điều kiện lịch sử, trình độ phát triển của mỗi quốc gia dân tộc.
Đến nay, trên thế giới, người ta đã trình bày nhiều khái niệm hay định nghĩa
về trí thức. Với sự phong phú về khái niệm trí thức như vậy, việc xác định chính xác
và đầy đủ nội hàm khái niệm trí thức quả thật không dễ. Khái niệm trí thức còn nhiều
ý kiến khác nhau. Mỗi khái niệm đều có tính hợp lý của nó, do đó cho đến nay, nhiều
khái niệm về trí thức vẫn cùng tồn tại.
Thế kỷ XIX ở Pháp, người ta gọi trí thức là “những người không chỉ có học
vấn hay trình độ chuyên môn cao, mà hơn hết, phải là những người quan tâm và có

chính kiến trước những vấn đề chính trị – xã hội nóng bỏng của thời cuộc”[9,tr.11].
Họ coi nhà trí thức là một hoạt động, nếu không làm cách mạng thì cũng là người
quan tâm sâu sắc về chính trị, tham gia tích cực các hoạt động xã hội, là người biết
suy tư, nhìn xa trông rộng.
Theo học giả Trung Quốc Hồ Thu Nguyên thì “trí thức là người hiểu trước,
biết trước, rồi đem sự hiểu biết của mình cống hiến cho tiến bộ nhân loại, xã hội và
5

dân tộc”. Có bằng cấp hay tự học để đạt tới sự hiểu biết sâu rộng và đem hiểu biết đó
cống hiến cho sự tiến bộ của xã hội, cho con người đều có thể coi là trí thức.
Theo Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học Liên Xô thì “trí thức là một
nhóm xã hội gồm những người lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn
cần thiết cho ngành lao động đó. Sự tồn tại của trí thức với tính cách là một nhóm xã
hội đặc biệt gắn liền với sự phân công lao động xã hội giữa lao động trí óc và lao
động chân tay”[26, tr.360].
Từ điển chủ nghĩa xã hội khoa học Việt Nam xác định: “Trí thức là một
nhóm xã hội bao gồm những người chuyên làm nghề lao động phức tạp và có học vấn
chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó”.
Khái niệm trí thức của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin bàn khá nhiều và khá toàn diện về trí thức, qua hơn
một thế kỷ những luận điểm khoa học về người trí thức của chủ nghĩa Mác- Lê-nin
vẫn có giá trị sâu sắc nhất. Từ những nghiên cứu về con người, C.Mác và Ph.Ăng-
ghen đã đi sâu nghiên cứu về trí thức trong bối cảnh cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản đang diễn ra căng thẳng. Người trí thức có vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy sự tiến bộ của lịch sử. Tuy nhiên, người trí thức cũng cần
được giác ngộ lập trường của giai cấp công nhân để thành quả về lao động trí óc của
họ luôn được coi trọng và tôn vinh đúng mức trong quá trình xây dựng chế độ xã hội
mới.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về trí thức, căn cứ vào
những đặc trưng cơ bản của bộ phận lao động này, có thể tán thành quan điểm sau

đây: “Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt chuyên lao động trí óc phức tạp, có trình
độ học vấn, chuyên môn sâu, đại diện cho trí tuệ đương thời mà xã hội đạt được. Trí
thức là những người sáng tạo, phổ biến và vận dụng trí thức vào đời sống xã hội, thúc
đẩy nhanh sự phát triển văn hóa và tiến bộ xã hội ”[25,tr.8].
Về mặt chính trị, trí thức không thể có một đường lối chính trị cách mạng.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị luôn luôn chú trọng đào tạo đội ngũ trí
6

thức để phục vụ cho quyền thống trị và lợi ích thiết thực của giai cấp mình. Trong
cách mạng vô sản, những người cộng sản một mặt phải xây dựng một tầng lớp trí thức
mới từ con em của giai cấp công nhân, nông dân, mặt khác cải tạo, giác ngộ và sử
dụng trí thức cũ để hình thành một đội ngũ trí thức mới đông đảo có thế giới quan
cách mạng, có phẩm chất đạo đức và kiến thức khoa học - kỹ thuật, chuyên môn cao
để lao động sáng tạo, xây dựng đất nước.
Phương thức lao động của trí thức rất đặc biệt ở chỗ là loại lao động trí óc
phức tạp có chuyên môn nghiệp vụ cao. Lao động trí óc phức tạp mang tính độc lập cá
nhân rất cao là đặc trưng cơ bản nhất của trí thức. Sản phẩm của lao động trí tuệ cá
nhân là các giá trị tinh thần. Trí thức càng phát triển thì cơ cấu trí thức càng biến đổi
đa dạng và phong phú. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã đưa ra sự nhìn nhận về người trí
thức và giới trí thức rằng: giới trí thức tham gia các hoạt động xã hội với tư cách là
“thuộc tính chung của những sinh vật có trí tuệ”. Trong các hình thức lao động của
con người, có hai loại lao động: lao động sản xuất sáng tạo ra của cải vật chất và lao
động sản xuất sáng tạo ra nhưng giá trị tinh thần. Theo C.Mác, người trí thức là người
sáng tạo tinh thần, sản xuất tinh thần, là bộ phận tinh hoa của xã hội, là những hiện
thân của ý thức xã hội một cách tiêu biểu nhất, là một tầng lớp xã hội đặc biệt chuyên
lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn, đại diện cho trí tuệ đương thời mà xã hội
đạt được.
Tuy nhiên, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã phát hiện trong xã hội tư bản, người trí
thức bị giai cấp tư sản bóc lột: “giai cấp tư sản tước hết hào quang thần thánh của tất
cả những hoạt động xưa nay được trọng vọng tôn sùng. Bác sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ,

bác học đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê và trả lương của
nó ”[3,tr.600].
Về sau, trong thực tiễn đấu tranh của phong trào cách mạng vô sản Nga,
V.I.Lênin cũng nhận thấy: “những trí thức với tính cách là một tầng lớp đặc biệt trong
những xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại”[29,tr.300].
Như nhiều nhà cách mạng chân chính, Lênin hiểu rõ tầm quan trọng của trí
tuệ. Người cho rằng trí thức chính là “niềm tự hào vĩ đại của nhân loại”. Nhưng
7

những kiến thức khoa học nếu bị những kẻ có đặc quyền, những lực lượng thống trị
phản động kiềm chế và sử dụng, thì sẽ trở thành vũ khí để nô dịch quần chúng, Cách
mạng vô sản phải có nhiệm vụ giành lại vũ khí đó vì sự nghiệp giải phóng con người:
“Những người lao động khao khát có trí thức, vì trí thức cần cho họ để chiến thắng, trí
thức góp phần lớn lao vào việc phát triển lực lượng sản xuất lên một chất lượng mới.
Do vậy “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ
thuật và có kinh nghiệm, thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được, vì chủ
nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng để đi đến một
năng suất lao động lớn hơn năng suất chủ nghĩa tư bản dựa trên cơ sở những kết quả
mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được”[32,tr.217].
Cùng với việc nhận thức đúng đắn vai trò của trí thức, Lênin chỉ ra rằng:
“Cũng như bất cứ giai cấp nào khác của xã hội hiện đại, giai cấp vô sản không những
chỉ tạo ra tầng lớp trí thức riêng của mình, mà còn thu nạp cả những người ủng hộ
mình trong tất cả mọi người có học thức”. Đó chính là con đường của quá trình hình
thành đội ngũ trí thức mới.
Từ góc độ cơ cấu xã hội - giai cấp, Lênin lưu ý: trí thức không phải là giai
cấp, mà “là một tầng lớp đặc biệt”[31,tr.300] trong xã hội. Từ vị trí của mình trong
phân công lao động xã hội, trí thức không có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu tư
liệu sản xuất - cái dấu hiệu quan trọng nhất để xác định giai cấp, do đó không có khả
năng đại biểu cho phương thức sản xuất nào cả, cũng không có hệ tư tưởng độc lập
Cho nên, trí thức luôn phải gắn với những giai cấp nhất định. Lênin luôn phê phán

những ai coi trí thức là “siêu giai cấp” hoặc đứng trên giai cấp. Người nói: “Nếu
không nhập cuộc với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà
thôi”[30,tr.552].
Ngày nay, đứng trước những thành tựu to lớn của khoa học - kỹ thuật, những
tư tưởng của chủ nghĩa kỹ trị đang tồn tại và phát triển dưới nhiều màu sắc khác nhau.
Nhưng thành tựu chung và đỉnh cao về mặt chính trị - xã hội của họ là đi đến thổi
phồng vai trò của trí thức, mà dẫn đến coi nhẹ hoặc phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân hiện đại. Vì vậy, những quan điểm của Lênin về trí thức trong cơ cấu
8

xã hội - giai cấp vẫn là cơ sở để chúng ta nhận rõ bản chất phi khoa học, mơ hồ hoặc
phản chính trị của những tư tưởng này.
Khi bàn về trí thức, Lênin đã gợi cho chúng ta suy nghĩ về tầm trí tuệ của
người cán bộ lãnh đạo. Lênin nhắc nhở những người cộng sản khi đã có chính quyền
và thực hiện xây dựng xã hội mới thì thật sai lầm nếu cho rằng muốn thoát khỏi dốt
nát thì chỉ cần có giáo dục chủ nghĩa Mác mà không chú ý giáo dục các tri thức khác
nữa. Lênin khuyên những người cộng sản phải biết làm giàu trí óc của mình bằng sự
hiểu biết tất cả những tri thức mà nhân loại đã tạo ra. Hơn nữa khi trở thành cán bộ
lãnh đạo thì càng cần phải có một tầm trí tuệ. Người nói: “Người lãnh đạo cơ quan
nhà nước cần phải có ở mức độ cao khả năng lôi cuốn mọi người và có đủ trình độ
kiến thức khoa học kỹ thuật vững vàng kiểm tra công tác của họ. Đó là điều cơ bản.
Không như thế thì công tác không thể tiến hành đúng đắn được. Mặt khác, một điều
rất quan trọng là người lãnh đạo ấy phải biết quản lý về mặt hành chính và có được
người giúp việc hoặc những người giúp việc xứng đáng trong công việc đó. Sự kết
hợp hai phẩm chất ấy trong một con người vị tất sẽ có được và vị tất là cần thiết”.
Ý của Lênin thật rõ ràng. Không phải tất cả những người có bằng cấp cao,
những trí thức đều có thể trở thành người lãnh đạo. Những người lãnh đạo, nhất là ở
những cương vị cao, phải có tầm tri thức cao và rộng. Người cán bộ lãnh đạo thực thụ
về mặt trí tuệ phải có được những kiến thức về nhân sinh quan và thế giới quan mác -
xít, về khoa học quản lý - dùng người, về khoa học kỹ thuật chuyên môn thuộc phạm

vi ngành, đơn vị mình lãnh đạo Nếu không như vậy sẽ không xứng đáng với danh
hiệu người lãnh đạo.
Khái niệm trí thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thực tiễn cách mạng thế giới và ở Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn
của Chủ nghĩa Mác - Lênin về trí thức, Bác Hồ thấm nhuần tư tưởng này. Người đã
nói một câu nói rất nổi tiếng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và “Trí thức là vốn
liếng quý báu của dân tộc”.
9

Tuyên ngôn của Đảng ta nêu rõ: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những
công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất.
Và, “lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Lao động trí óc là ai? Là
thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, văn nghệ,…[18,tr.71]. Chúng ta có
quyền tự hào rằng: những người lao động trí óc ở Việt Nam đều đứng trong hàng ngũ
kháng chiến”. Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc về vai trò quan trọng của trí thức: “Trí
thức là một vốn quý của dân tộc. Không có trí thức hợp tác với công nông thì cách
mạng không thể thành công và sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam mới sẽ không
hoàn thành được”[2,tr.8]. Như vậy, xây dựng đội ngũ trí thức là xây dựng đội ngũ
những người lao động trí óc cùng bình đẳng với lao động cơ bắp, lao động kỹ thuật,
lao động thủ công. Những người trí thức là những người lao động thật sự và đóng góp
tích cực cho tiến bộ xã hội.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ
Chí Minh quan niệm thật giản dị về trí thức: “Một người học xong đại học, có thể gọi
là có trí thức[15,tr.235].
Tuy vậy, một người có trình độ học vấn cao chỉ là điều kiện cần chứ chưa
phải là điều kiện đủ để trở thành trí thức. Một người có trình độ học vấn cao chỉ có thể
trở thành trí thức khi người đó đem tri thức của mình lao động sáng tạo, áp dụng vào
thực tế xã hội phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân. Tài phải đi đôi với đức. Đức là gốc
của người cán bộ cách mạng. “Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan

trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”[19,tr.329].
Do vậy, người thiếu đức độ, lương tri thì dù có học cao tột bậc cũng chỉ là
người có bằng cấp, có học hàm, học vị, là người làm việc trí óc. Họ chưa thật sự là trí
thức đúng nghĩa. Nói cách khác, để trở thành người trí thức thì người ta cần phải có
tài và có đức, đem tri thức phục vụ tốt cho nhân dân và đất nước.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt câu
hỏi “Trí thức là gì?”. Trả lời câu hỏi này người chỉ rõ: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế
10

giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên
do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội
do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào cả”[15,tr.275].
Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là
lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ở Việt Nam, từ ngàn xưa cha ông ta
luôn coi “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Bác Hồ quý trọng trí thức không chỉ
trên nhận thức về vị trí, vai trò của trí thức, mà bằng nhiều hành động cụ thể, Người
cố gắng xây dựng, tổ chức đội ngũ trí thức ngày càng hùng hậu “nguyên khí mạnh thì
đất nước thịnh, nguyên khí yếu thì đất nước suy”. Trong quá trình vận động đi đến
Cách mạng Tháng Tám, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức được triển khai trong thực
tiễn. Tháng 5-1941, theo sáng kiến của Người, Mặt trận Việt Minh ra đời. Trong
Chương trình Việt Minh, mục Văn hóa giáo dục ghi rõ:
“- Hủy bỏ nền giáo dục nô lệ. Gây dựng nền quốc dân giáo dục. Cưỡng bức giáo
dục từ bực sơ học. Mỗi dân tộc có quyền dùng tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục dân tộc
mình.
- Lập các trường chuyên môn huấn luyện chính trị, quân sự kỹ thuật để đào tạo các
lớp nhân tài.
- Khuyến khích và giúp đỡ các hạng trí thức được phát triển tài năng của họ.
- Khuyến khích và giúp đỡ nền giáo dục quốc dân và làm cho nòi giống ngày càng
thêm mạnh”[11,tr.584].
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã bàn tới

“Nhân tài và kiến quốc”. Người khẳng định “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước
ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo
dùng thì nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều”[12,tr.99].
Với quan điểm đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, bằng tấm lòng bao dung
rộng mở, Hồ Chí Minh tiếp tục quy tụ toàn dân tộc, tập hợp đội ngũ các nhà trí thức
vào ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, giúp Chính phủ nghiên cứu kế hoạch kiến
thiết đất nước. Trong bài phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của ủy ban ngày 10-1-1946,
11

Hồ Chí Minh khẳng định: “ Còn các ngài, đã đem tài năng tri thức, lo bồi bổ về mặt
kinh tế và xã hội. Các ngài xứng đáng là những chiến sĩ xung phong. Tôi mong rằng
các ngài cũng sẽ đem hết tài năng và tri thức giúp cho Chính phủ về mặt kiến thiết.
Các ngài sẽ là những cố vấn có kinh nghiệm, có tài năng của Chính phủ”[12,tr.152].
Người chú trọng đội ngũ các nhà khoa học, văn nghệ sĩ, nhà giáo, những nhà
nho danh tiếng, kể cả quan lại cũ. Người đặc biệt quan tâm tìm người tài đức. Theo
Hồ Chí Minh: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong
số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe
không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết
điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền
năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được
những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”[12, tr.451].
Thái độ trân trọng và sử dụng trí thức của Hồ Chí Minh xuất phát từ tư tưởng
đại đoàn kết dân tộc vì một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc. Do không hiểu
được tư tưởng lớn của Bác, một số người băn khoăn về việc Người sử dụng cả quan
lại cũ trong bộ máy nhà nước mới. Hồ Chí Minh giải thích: “Chính sách của Chính
phủ trước sau vẫn là đại đoàn kết. Đối với các vị quan lại cũ cũng như đối với tất cả
các giới đồng bào, những người có tài có đức thì Chính phủ đều hoan nghênh ra gánh
việc nước”[13,tr.196]. Người khẳng định một cách dứt khoát: “Những người trí thức
tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những
người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều”[15,tr.236].

Nói tới trí thức là gắn chặt với công cuộc kiến thiết, một nhiệm vụ khó hơn
chống đế quốc, phong kiến. Theo Người, những người trí thức muốn làm tròn nhiệm
vụ thì phải “1. Khổ cán, 2. Hạnh cán, 3. Thực cán” (làm việc hết sức mình, làm việc
chất lượng, làm việc có hiệu quả, có năng suất)[12,tr.153].
Không phải chỉ đòi hỏi trí thức mà Bác Hồ còn tạo mọi điều kiện từ ưu đãi
vật chất đến chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức cách mạng. Quan
điểm của Người rất rõ ràng: Lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát
triển tài năng. Lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến
12

kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành dân chủ mới, tiến đến chủ nghĩa xã hội. Theo
Hồ Chí Minh, “trí thức không có bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức thôi”[16,tr.36].
Theo tiếng gọi và tấm gương sáng của Hồ Chí Minh, nhiều trí thức đã hăng
hái đi theo cách mạng, tham gia kháng chiến với một tấm lòng cảm phục Người sâu
sắc. Cụ Huỳnh Thúc Kháng tâm sự: chí thành, năng động, tấm lòng thành của Cụ Hồ
đã làm đá cũng phải chuyển huống là tôi. Còn Phan Anh thì “rất xúc động và cảm
kích trước tấm lòng nhân hậu và bao dung của Bác, vì thấy Bác không lấy việc tôi đã
tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật làm điều, mà vẫn cho tôi là một trí
thức yêu nước và trọng dụng”[1,tr.19].
Quan điểm Hồ Chí Minh về trí thức và cầu hiền tài đem lại một sức mạnh to
lớn trong giai đoạn củng cố chính quyền và bước đầu xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, trong bối cảnh mới, trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta khẳng định đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng,
tạo nên sức mạnh đất nước trong chiến lược phát triển.
Khái niệm trí thức của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngay từ cương lĩnh chính trị năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định trí thức là một bộ phận không thể thiếu của cách mạng Việt Nam. Tuy vậy, trí
thức là gì, là ai thì phải đến những năm gần đây mới được Đảng ta tập trung làm rõ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

có đoạn: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực
chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu trí
thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”[7,tr.81].
Trên cơ sở quan điểm của C.Mác, V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
những khái niệm nêu trên có thể khái quát: Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, có
trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn sâu, có đạo đức, lao động trí tuệ – sáng
tạo khoa học phổ biến và nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học trong hoạt động
13

thực tiễn, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển mọi mặt của đời sống
xã hội.
1.1.2 Vai trò của trí thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trí thức là tầng lớp có học thức, kiến thức, hiểu biết và có tinh thần yêu nước
nồng nàn, có ý thức dân tộc cao và là một bộ phận quan trọng trong lực lượng cách
mạng. Vì lẽ đó, trí thức có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng
cũng như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trí thức là nguồn lực trí tuệ quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội đối
với mỗi quốc gia, cũng như trong phạm vi quốc tế. Họ có vai trò to lớn trong việc
sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần, đem lại những thành tựu quan trọng trong
khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội nhân văn, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Đặc biệt, khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, tác động
đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và khi khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp thì vai trò của trí thức ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Trong thời kỳ Mặt trận dân tộc dân chủ Đông Dương, lực lượng trí thức tham
gia cách mạng khá đông. Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng và văn hóa mở ra
công khai, vai trò của trí thức cách mạng đã nổi bật trong xã hội. Chẳng hạn, trên mặt
trận văn hóa và báo chí, nhiều đồng chí như Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Trần
Huy Liệu đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin , giải
thích đường lối của Đảng, vạch trần những thủ đoạn áp bức, bóc lột của thực dân và
phong kiến. Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp đã viết cuốn “vấn đề dân cày” một

tác phẩm quan trọng về vấn đề ruộng đất và vấn đề vai trò của nông dân trong cách
mạng. Hai cuộc bút chiến “duy tâm và duy vật”, “nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ
thuật vị nhân sinh” do Hải Triều khởi xướng đã đánh bại đối phương, đồng thời tuyên
truyền rộng rãi lập trường, quan điểm của những người Mácxít trên lĩnh vực tư tưởng
và nghệ thuật.
Hồ Chí minh luôn đề cao vai trò của trí thức cách mạng, ngay trong giai đoạn
đầu của cách mạng Việt Nam, người đã đoàn kết rộng rãi các lực lượng trong dân tộc,
14

trong đó có trí thức, nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định “anh
em văn hóa trí thức là lớp tiên tri, tiên giác”. Năm 1946, với cương vị chủ tịch nước,
trả lời một nhà báo nước ngoài về vai trò của trí thức, người nói “Trí thức là vốn liếng
quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”. Chứng thực
trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người Việt Nam đã chung một phần
quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công cuộc kháng chiến, hy sinh cực khổ,
chen vai thích cánh với bộ đội nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở
ngoài” [14,tr.156].
Vai trò của tầng lớp trí thức được Bác khẳng định không chỉ đóng vai trò
quan trọng trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc mà kể cả trong sự nghiệp
đổi mới đất nước. Người nhấn mạnh: “trí thức là tài sản quý báu của quốc gia, của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc không thể thiếu lực
lượng trí thức”. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, trí thức phải đi đầu trong việc
nâng cao dân trí, xây dựng và kiến thiết nước nhà. Người khẳng định: “Trí thức phục
vụ nhân dân bao giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên xã hội chủ
nghĩa càng cần, tiến lên cộng sản chủ nghĩa lại càng cần”[17,tr.39]. Theo Người:
“muốn phát triển văn hoá thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khoẻ của nhân
dân thì phải cần thầy thuốc, muốn phát triển kỹ nghệ thì phải cần các kỹ sư”. Thực tiễn
đã chứng minh, trong mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ cách mạng đều rất cần đến học vấn, tài
năng và tâm huyết, sức lực của giới trí thức, đội ngũ trí thức đồng hành cùng dân tộc
tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa

và trong suốt quá trình cách mạng.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của đội ngũ trí thức, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định trí thức có vai trò rất
quan trọng trong cách mạng Việt Nam cũng như trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay. Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc, là nguồn lực cho
sự phát triển, là lực lượng cấu thành nền tảng chính trị xã hội của chế độ. Cùng với
chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng cộng sản Việt Nam đã xác
15

định ngày càng đầy đủ hơn, rõ hơn vị trí, vai trò của trí thức trong quá trình thực hiện
chủ trương đó.
Trong cách mạng dân tộc, dân chủ, trí thức đã quan trọng, trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vai trò của trí thức càng quan trọng hơn. Giai cấp công nhân nếu
không có đội ngũ trí thức của mình và bản thân công – nông không được nâng cao
kiến thức, không dần dần được trí thức hóa thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội
được. Do đó, cần có quan điểm đúng đắn, thống nhất và những chính sách, biện pháp
hiệu quả trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức. Cương lĩnh năm 1991 đã nêu lên bảy phương hướng cơ bản cần nắm
trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc, trong đó phương hướng đầu tiên là: “xây
dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”.Có thể nói Cương lĩnh năm 1991 là một cột mốc
ghi nhận những nhận thức mới của Đảng công sản Việt Nam về vị trí, vai trò của trí
thức.
Trí thức là một bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ của đất nước, có nhiều khả năng
để tiếp cận với những thành tựu của khoa học công nghệ mới nhất của thời đại. Vì
vậy, trong sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, những trí thức được
Đảng và Nhà Nước đào tạo đã có những đóng góp lớn lao cho sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đảng ta cũng đã khẳng định: không có trí thức thì không thể xây
dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong công tác điều hành hoạt động của bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa
càng đòi hỏi việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức là một bộ phận
của khối liên minh với giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, là nền tảng của khối
đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, là động lực chủ yếu để phát triển
đất nước. Quan điểm này là sự vận dụng và phát triển lý luận Mác- Lênin về giai cấp
và liên minh giai cấp, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc, thực chất là xác
định vị trí của đội ngũ trí thức trong cơ cấu giai cấp và cơ cấu xã hội Việt Nam.
16

Việc khẳng định và đề cao vai trò của đội ngũ trí thức đã được thống nhất,
xuyên suốt trong các kỳ Đại hội của Đảng. Đại hội VIII của Đảng đã xác định rõ hơn
vị trí, vai trò của khoa học – công nghê, giáo duc - đào tạo đối với công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Nếu cương lĩnh năm 1991 xác định: “cùng với khoa học và công nghệ,
giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”, thì Văn kiện Đại hội VIII đã thay từ “phải được
xem là” bằng từ “phải thực sự là”.
Bên cạnh đó, khi khoa học – công nghệ ngày càng phát triển thì đội ngũ trí thức
càng có vai trò quan trọng hơn và là lực lượng sản xuất trực tiếp nhất, có ý nghĩa
quyết định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Con người vừa là mục tiêu, là
chủ thể vừa là động lực phát triển xã hội, mà đội ngũ trí thức có vai trò trung tâm
trong các hoạt động của mỗi cộng đồng. Chỉ có đội ngũ trí thức mới có thể thúc đẩy
việc cải tiến công cụ sản xuất, chất lượng, hiệu quả cao và có khả năng làm thay đổi
quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội khác. Việc đội ngũ trí thức đã áp dụng khoa
học – công nghệ để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển lực
lượng sản xuất đã tạo ra nhiều ngành nghề, việc làm mới trong các lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ.
Tại Đại hội XI của Đảng, vấn đề phát triển kinh tế tri thức không chỉ được thể
hiện trong Báo cáo chính trị mà được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh có đoạn: “phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát

triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi trường”[8, tr.220]. Nếu như trước đây
cách mạng công nghiệp góp phần tiết kiệm sức lao động của con người, ít quan tâm
đến việc bảo vệ môi trường, thì ngày nay đội ngũ trí thức đã áp dụng khoa học và
công nghệ hiện đại cho phép tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các nguồn
lực xã hội, cho phép chi phí ít hơn các tư liệu sản xuất để tạo ra cùng một khối lượng
hàng hóa, đồng thời hướng tới ngày càng thân thiện với môi trường.
Ở mỗi thời đại, trí thức luôn luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là
lực lượng nồng cốt thúc đẩy sự phồn vinh và phát triển của đất nước. Đặc biệt, Đại
17

hội IX của Đảng đã nhấn mạnh: “phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng đúng và đãi ngộ xứng
đáng các tài năng. Phát huy năng lực của trí thức trong việc thực hiện các chương
trình, đề tài nghiên cứu của Nhà Nước và xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật”[6,tr.126].
Trong những năm qua, nhiều trí thức đã trực tiếp tham gia vào việc chuẩn bị
những quyết sách của Đảng và Nhà Nước. Nhiều ý kiến đóng góp bổ ích đã giúp cho
việc hoạch định chiến lược và chính sách có căn cứ chính xác hơn. Trong bầu không
khí sinh hoạt dân chủ của cả nước, hoạt động của đội ngũ trí thức đã có nhiều đổi mới.
Đảng và Nhà Nước khuyến khích việc thảo luận, tranh luận, lấy ý kiến đóng góp…để
có những kiến giải lý luận và phương án cải biến thực tiễn khả thi, hiệu quả và phù
hợp nhất. Vì vậy, trong việc xây dựng và hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối, chính
sách, pháp luật, hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà
Nước đều có sự đóng góp tích cực của trí thức.
Đội ngũ trí thức là những người đại diện cho trí tuệ dân tộc, họ đã góp phần duy
trì và phát triển những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tích cực tham gia
công tác xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hóa mới, chống những tàn dư văn hóa
cũ, các tệ nạn xã hội làm ảnh hưởng đến thuần phong, mỹ tục của người Việt Nam,
hướng con người đến những giá trị chân – thiện – mỹ.
Từ những đóng góp to lớn của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc mà trí thức luôn luôn được coi là một bộ phận quan trọng trong nhân dân,

cho dù mỗi người có những cá tính, ý kiến khác nhau, nhưng cái cốt lõi của đội ngũ
trí thức là những người thuộc tầng lớp tài năng, họ là hạt nhân tích cực trong mọi hoạt
động của đời sống xã hội và có ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Chính
những điều đó mà đội ngũ trí thức đã đào tạo được lòng tin vững chắc trong nhân dân
và cả dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn coi trọng việc chuẩn bị
cán bộ, trí thức có đức, có tài để giao phó công việc quản lý và điều hành Nhà Nước.
Đây là vấn đề quan trọng trong công tác cán bộ mà điểm cốt lõi vấn đề này là công tác
trí thức. Vấn đề này liên quan đến việc đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện đội ngũ trí
thức về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực quản
18

lý lãnh đạo. Bởi vì trong nền kinh tế hiện đại người cán bộ phải là những người vừa
hồng vừa chuyên.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta và ở thành phố Cần Thơ.
1.2.1. Khái niệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là gì ? Từ trước tới nay, có nhiều định nghĩa
khác nhau. Vậy nên hiểu phạm trù này như thế nào? Quan niệm đơn giản nhất về
công nghiệp hoá cho rằng “công nghiệp hoá là đưa đặc tính công nghiệp cho một hoạt
động, trang bị (cho một vùng, một nước), các nhà máy, các loại công nghiệp ” Quan
niệm mang tính triết tự này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình hình thành
lịch sử công nghiệp hoá ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ. Nghiên cứu định nghĩa phạm
trù công nghiệp hoá của các nhà kinh tế Liên Xô ta thấy trong cuốn giáo khoa kinh tế
chính trị của Liên Xô được dịch sang tiếng Việt Nam 1958, người ta đã định nghĩa “
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là phát triển đại công nghiệp, trước hết là công
nghiệp nặng, sự phát triển ấy cần thiết cho việc cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân
trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến.” Quan điểm công nghiệp hoá là quá trình xây dựng và
phát triển đại công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng của các nhà kinh tế học Liên
Xô đã được chúng ta tiếp nhận thiếu sự phân tích khoa học đối với điều kiện cụ thể
của nước ta. Cuốn “Từ điển tiếng Việt” đã giải thích công nghiệp hoá là quá trình xây

dựng nền sản xuất cơ khí lớn trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân và đặc
biệt công nghiệp nặng, dẫn tới sự tăng nhanh trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động
và nâng cao năng suất lao động.
Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO) đã
đưa ra một định nghĩa: “công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá
trình này, một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để
phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm
của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất,
hàng tiêu dùng và có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ
cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ của nền kinh tế và xã hội.” Theo quan điểm này, quá
19

trình công nghiệp hoá nhằm thực hiện nhiều mục tiêu chứ không phải chỉ nhằm một
mục tiêu kinh tế - kỹ thuật. Còn theo quan niệm mới phù hợp với điều kiện nước ta thì
công nghiệp hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới công
nghệ, xây dựng cơ cấu vật chất - kỹ thuật, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ
trình độ công nghệ thấp sang trình độ công nghệ cao hơn, nhờ đó mà tạo ra sự tăng
trưởng bền vững và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nói tóm lại, đó là
sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện. Thực hiện công nghiệp hoá là nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đưa nước ta theo
kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
Hiện đại hóa là một quá trình thường được hiểu là quá trình biến đổi xã hội
thông qua công nghiệp hóa, đô thị hóa và những biến đổi xã hội khác nhằm làm thay
đổi cuộc sống con người. Đó là quá trình biến đổi xã hội từ trình độ nguyên sơ lên
trình độ phát triển và văn minh ngày càng cao. Công nghiệp hóa là một bước đi, một
giai đoạn trên con đường hiện đại hóa.
Các thuyết về hiện đại hóa thường đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của các biến
số xã hội đến sự phát triển và tiến bộ xã hội, họ không chỉ chú trọng vào quá trình
biến đổi mà còn chú trọng cả cách biến đổi như thế nào, có liên quan đến cấu trúc xã
hội và văn hóa cũng như tính năng động và khả năng thích nghi công nghệ mới.

Công nghệ mới là nguồn gốc chủ yếu của sự biến đổi xã hội. Hiện đại hóa
phải xem xét từ góc nhìn công nghệ. Công nghệ mới là yếu tố then chốt thúc đẩy hiện
đại hóa. Con người trong xã hội luôn tìm đến những ý tưởng mới, cách làm tốt hơn –
những công nghệ mới, để phát triển sản xuất, làm cho cuộc sống tốt hơn, đó cũng là
quá trình nâng cao năng lực con người, phát triển vốn trí thức xã hội, làm cho xã hội
trở nên sáng tạo hơn, văn minh hơn, và trải qua nhiều thế kỷ sẽ tạo nên sự biến đổi to
lớn về xã hội, công nghiệp, kinh tế…, khái quát lại, chính đó là quá trình hiện đại hóa.
Thuật ngữ hiện đại hóa xuất hiện từ thời đại “Khai sáng”, với ý tưởng là bản
thân con người có thể làm thay đổi và phát triển xã hội của mình. Tiến bộ công nghệ
và biến đổi kinh tế sẽ làm thay đổi giá trị đạo đức và văn hóa của xã hội, sự gắn kết
kinh tế - xã hội trong phát triển sẽ thúc đẩy sự tiến bộ và nâng cao năng lực của con
20

người, đó cũng là những đặc trưng chủ yếu của quá trình biến đổi không ngừng của
thế giới.
Trong chiến lược công nghiệp hóa nước ta, công nghiệp hóa gắn liền với hiện
đại hóa để nhấn mạnh tính hiện đại, tiến bộ, văn minh, sử dụng công nghệ mới,
phương pháp mới, nhất thiết không lặp lại mô hình công nghiệp hóa của các nước đi
trước.
1.2.2. Vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta và ở Thành Phố Cần
Thơ.
Vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”là một trong ba khâu
đột phá chiến lược thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Hiện
nay, với thời đại mà khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, với
hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi sản phẩm làm ra, thì con
người càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình trong tiến trình phát triển của xã hội, của
lịch sử nhân loại. Trong bối cảnh quốc tế hiện thời, công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đang được coi là xu hướng phát triển chung của các nước đang phát triển. Đối với

nước ta, ngay từ năm 1960 tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao
động Việt Nam (nay là Đảng cộng sản Việt Nam) đã đề ra đường lối công nghiệp hóa
và coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ đó đến nay, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đã không ngừng phát triển, nâng
cao nhận thức và cụ thể hóa đường lối này. Cụ thể tại Đại hội Đảng lần thứ IV (1976)
đã đề ra mục tiêu: đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật
chất của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng lần thứ V (1981) đã có một số bước tiến trong nội dung chiến
lược công nghiệp hóa: coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp là mặt
21

trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức
đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp
nặng quan trọng, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công
nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) - Đại hội được đánh dấu là một bước ngoặc
lịch sử trong việc đổi mới tư duy và đường lối phát triển đất nước. Có thể nói rằng,
trong toàn bộ sự đổi mới này, đổi mới tư duy kinh tế là nội dung trọng yếu, có vai trò
đặc biệt quan trọng. Với sự thay đổi nhận thức về cơ chế và phương thức vận hành
nền kinh tế như vậy, nhận thức về công nghiệp hóa cũng có sự thay đổi mạnh mẽ, đặc
biệt trong chính sách công nghiệp - công cụ chủ yếu để Chính phủ can thiệp vào tiến
trình công nghiệp hóa.
Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), với việc đưa ra Cương lĩnh Phát triển đất
nước (Hội nghị Đại biểu Toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng), nhận thức về công
nghiệp hóa có một bước tiến quan trọng: tư tưởng công nghiệp hóa, hiện đại hóa được
nêu ra thay cho cách đặt vấn đề công nghiệp hóa trước đây. Hiện đại hóa được coi là
nội hàm quan trọng của chiến lược công nghiệp hóa. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 7
khóa VII (7/1994) đã bước đầu cụ thể hóa ý tưởng công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đi

tới chỗ hình thành đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xác định quan điểm, mục
tiêu, các chủ trương, chính sách và biện pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) đã khẳng định những yếu tố cơ bản của
đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam dựa trên chủ trương phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đã bổ sung nhiều nhận thức mới quan trọng
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện ở hai luận điểm quan trọng. Một là “từng
bước phát triển kinh tế tri thức”, một nội dung mới của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Hai là tiến hành “công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn theo hướng
hiện đại”.

×