Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

hoàn thiện cơ chế một cửa trong cải cách thủ tục hành chính tại ubnd cấp huyện tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (852.23 KB, 100 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




ĐINH ĐỨC TOÀN




HOÀN THIỆN CƠ CHẾ “MỘT CỬA” TRONG CẢI CÁCH
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TẠI UBND CẤP HUYỆN
TỈNH HẢI DƯƠNG



CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ : 60.34.04.01

Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. NGUYỄN VĂN SONG


HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng
dùng bảo vệ để lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cám ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hải Dương, ngày 10 tháng 7 năm 2015
Tác giả luận văn



Đinh Đức Toàn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp
đỡ tận tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam,
Khoa Kinh tế nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ môn Kinh tế Tài nguyên
và Môi trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc đến GS.TS Nguyễn Văn
Song người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo, cán bộ, công chức Văn phòng HĐND
và UBND: thành phố Hải Dương, thị xã Chí Linh, huyện Tứ Kỳ và Ninh Giang
tỉnh Hải Dương và một số người dân đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn
thiện luận văn này.

Tôi xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện của bạn bè, đồng nghiệp
và người thân trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài.

Hải Dương, ngày 10 tháng 7 năm 2015
Tác giả luận văn



Đinh Đức Toàn


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

MỤC LỤC

Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
Danh mục các chữ viết tắt vii
Danh mục bảng viii
Danh mục hình x
PHẦN I MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 3
1.2.1 Mục tiêu chung 3
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 4
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 4
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 4

PHẦN II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 5
2.1 Cơ sở lý luận của đề tài 5
2.1.1 Các khái niệm 5
2.1.2 Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" 13
2.1.3 Vai trò của cơ chế "một cửa" đối với giải quyết thủ tục hành chính 17
2.1.4 Quy trình giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" 18
2.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình thực hiện cơ chế “một cửa” trong
cải cách thủ tục hành chính 19
2.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài 21
2.2.1 Cơ chế, mô hình “một cửa” của một số địa phương ở nước ta 21
2.2.2 Đánh giá các mô hình thí điểm và kinh nghiệm triển khai thực tiễn 25
PHẦN III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚU 30
3.1 Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu 30
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

3.1.1 Vị trí địa lý 30
3.1.2 Địa hình, thổ nhưỡng 30
3.1.3 Điều kiện kinh tế xã hội 30
3.2 Phương pháp nghiên cứu 32
3.2.1 Phương pháp thu thập số liệu 32
3.2.2 Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 32
3.2.3 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 33
PHẦN IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 35
4.1 Khái quát tình hình giải quyết thủ tục hành chính tại bộ phận “một
cửa” UBND cấp huyện 35
4.1.1 Khái quát về bộ phận “một cửa” UBND cấp huyện 35
4.1.2 Kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” UBND
cấp huyện 42
4.2 Thực trạng việc thực hiện cơ chế "một cửa" trong cải cách thủ tục

hành chính tại UBND cấp huyện tỉnh Hải Dương 46
4.2.1 Đánh giá hoạt động liên hệ, nộp hồ sơ của công dân 46
4.2.2 Đánh giá công tác kiểm tra, xem xét tính hợp lệ của hồ sơ, hướng dẫn,
bổ sung và nhận hồ sơ 48
4.2.3 Đánh giá công tác phân loại và chuyển hồ sơ của bộ phận "một cửa" 54
4.2.4 Đánh giá công tác bộ phận xử lý về giải quyết hồ sơ 54
4.2.5 Đánh giá công tác trả hồ sơ, nhận kết quả 56
4.2.6 Đánh giá công tác niêm yết công khai; rà soát, cắt giảm các thủ tục
hành chính 58
4.2.7 Đánh giá về thiết bị, hệ thống mạng 59
4.2.8 Đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng, chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức 60
4.2.9 So sánh việc thực hiện giải quyết thủ tục hành chính trước và sau khi
thực hiện cơ chế “một cửa” 62
4.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến tình hình thực hiện “cơ chế” một cửa
trong cải cách thủ tục hành chính 65
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi

4.3.1 Chính sách về cắt giảm thủ tục hành chính 65
4.3.2 Trình độ, năng lực của cán bộ, công chức và chế độ đãi ngộ 66
4.3.3 Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn 68
4.3.4 Trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ bộ phận “một cửa” 68
4.3.5 Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra 69
4.3.6 Công tác thông tin, tuyên truyền về cải cách thủ tục hành chính theo
cơ chế "một cửa" 70
4.4 Giải pháp hoàn thiện cơ chế "một cửa" trong cải cách thủ tục hành
chính tại UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Hải Dương 70
4.4.1 Định hướng 70
4.4.2 Giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế "một cửa" trong cải cách thủ tục
hành chính tại UBND cấp huyện tỉnh Hải Dương 71

PHẦN V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 81
5.1 Kết luận 81
5.2 Kiến nghị 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
CCHC
HCNN
HĐND
UBND
TTHC
CNTT
UBMTTQ
XHCN
Chữ viết đầy đủ
Cải cách hành chính
Hành chính nhà nước
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Thủ tục hành chính
Công nghệ thông tin
Ủy ban mặt trận Tổ quốc
Xã hội chủ nghĩa




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

4.1 Tổng hợp chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc của bộ phận “một cửa”
tại UBND cấp huyện 37
4.2. Tổng hợp cơ sở vật chất, trang thiết bị của bộ phận “một cửa” tại
UBND cấp huyện 38
4.3 Tổng hợp kết quả giải quyết thủ tục hành chính của bộ phận “một
cửa” tại UBND thành phố Hải Dương 43
4.4 Tổng hợp kết quả giải quyết thủ tục hành chính của bộ phận “một
cửa” tại UBND thị xã Chí Linh 43
4.5 Tổng hợp kết quả giải quyết thủ tục hành chính của bộ phận “một
cửa” tại UBND huyện Ninh Giang 44
4.6 Tổng hợp kết quả giải quyết thủ tục hành chính của bộ phận “một
cửa” tại UBND huyện Tứ Kỳ 45
4.7 Kết quả đánh giá, ý kiến của người dân đối với hoạt động liên hệ, nộp
hồ sơ 46
4.8 Kết quả đánh giá, ý kiến của người dân khi liên hệ, nộp hồ sơ 47
4.9 Kết quả đánh giá, ý kiến của người dân đối với việc xem xét, hướng
dẫn thủ tục, hồ sơ 49
4.10 Kết quả đánh giá, ý kiến của người dân đối với việc nhận hồ sơ 50
4.11 Ý kiến đánh giá của người dân đối với việc xem xét, hướng dẫn, nhận
hồ sơ của cá nhân 51
4.12 Kết quả đánh giá, ý kiến của người dân đối với việc xem xét, hướng

dẫn của cá nhân 52
4.13 Ý kiến đánh giá của người dân về sự hài lòng đối với việc xem xét,
hướng dẫn, nhận hồ sơ 53
4.14 Kết quả đánh giá của cán bộ đối với công tác chuyển hồ sơ 54
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ix

4.15 Kết quả đánh giá, ý kiến của cán bộ đối với bộ phận xử lý về giải
quyết hồ sơ 55
4.16 Kết quả đánh giá, ý kiến của người dân đối với công tác trả hồ sơ,
nhận kết quả 57
4.17 Kết quả đánh giá của người dân đối với việc nhận kết quả 57
4.18 Kết quả đánh giá, ý kiến của người dân đối với việc niêm yết, công khai 58
4.19 Ý kiến đánh giá của cán bộ đối với công tác rà soát, cắt giảm thủ tục
hành chính 59
4.20 Ý kiến đánh giá của cán bộ đối với thiết bị, hệ thống mạng tại bộ
phận "một cửa" 60
4.21 Ý kiến đánh giá của cán bộ đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng chế
độ đãi ngộ cán bộ, công chức 61
4.22 Ý kiến đánh giá của người dân sau khi thực hiện cơ chế “một cửa”
trong cải cách thủ tục hành chính 62
4.23 Kết quả cắt giảm thủ tục hành chính trước và sau khi thực hiện cơ chế
“một cửa” trong cải cách thủ tục hành chính 64
4.24 Trình độ đội ngũ cán bộ, công chức tại bộ phận “một cửa” và bộ phận
chuyên môn 67


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page x


DANH MỤC HÌNH

STT Tên hình Trang

2.1 Quy trình giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" 18



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

PHẦN I
MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc cải cách hành chính (CCHC) đã được Đảng và Nhà nước Việt
Nam khởi xướng và thực hiện từ những năm 90 của thế kỷ trước nhằm thay đổi cơ
chế vận hành của nó theo yêu cầu quản lý đất nước trong xây dựng nền kinh tế thị
trường dưới sự điều tiết của Nhà nước. Mục tiêu cải cách hành chính là xây dựng
một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả và hướng tới một Nhà nước pháp quyền. Nội dung
cải cách hành chính được tiến hành tương đối toàn diện, thể hiện trên các lĩnh vực
chủ yếu như: cải cách thể chế; cải cách bộ máy nhà nước; xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa nền hành chính.
Cải cách thủ tục hành chính là một phần nhiệm vụ cải cách thể chế hành
chính, do vậy vấn đề cải cách thủ tục hành chính được Đảng và Chính phủ Việt
Nam quan tâm và lựa chọn trở thành khâu đột phá. Thủ tục hành chỉnh (TTTC)
không chỉ liên quan đến công việc nội bộ của một cơ quan, một cấp chính quyền,
mà còn liên quan trực tiếp đến các tổ chức và công dân trong mối quan hệ với nhà
nước. Các quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp hay ở

các văn bản pháp luật khác có dược thực hiện hay không, thực hiện như thế nào, về
cơ bản đều phải thông qua TTHC do các cơ quan, các cấp chính quyền nhà nước
quy định và trực tiếp giải quyết. Nhận thức rõ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng
của công tác CCHC, các Nghị quyết của Đại hội Đảng khóa VII và VIII, đặc biệt là
Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành TW Đảng đã khẳng định: “tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách
một bước nền hành chính Nhà nước”.
Ngày 04/5/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 38/NQ-CP về cải cách
một bước thủ tục hành chính mà mục tiêu quan trọng là hướng đến việc giải quyết
tốt hơn các công việc của tổ chức, công dân. Đáp ứng đòi hỏi thiết yếu của cuộc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

sống từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường phù hợp với
tiến trình hội nhập, xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Sau
một thời gian thực hiện và trên cơ sở tổng kết quá trình thực hiện Nghị quyết
38/NQ-CP, ngày 17/9/2001 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
136/2001/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2001-2010” với mục tiêu cơ bản là: “Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính
nhằm bảo đảm tỉnh pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết
công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để
tham nhũng, gây khó khăn cho dân” và ngày 04/9/2003 Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế
“một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Tiếp theo đó ngày
22/6/2007, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết đinh số 93/2007/QĐ-TTg về việc ban
hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương.
Trước yêu cầu phát triển sâu nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước, yêu cầu hội nhập mạnh mẽ và toàn diện, CCHC đang đứng trước những thách
thức vô cùng to lớn và là công việc hết sức bức thiết, quan trọng đối với tất cả các cơ

quan trong bộ máy hành chính Nhà nước (HCNN). Kết quả của CCHC giúp cho công
việc được thực hiện đúng, chuẩn mực và là sự mong đợi của mọi tổ chức, công dân
đối với nền hành chính hiện nay. Đồng thời, sự hài lòng của tổ chức, công dân ngày
càng tăng và người dân sẽ không còn “ngại” mỗi khi phải đển các cơ quan hành chính
liên hệ giải quyết các TTHC, đây là mục tiêu mà nền HCNN đang hướng tới.
Trong xu thế đó, UBND tỉnh Hải Dương đã chỉ đạo việc thực hiện cơ chế
"một cửa" tại Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh. Trên cơ sở đó,
các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Hải Dương đã triển khai và áp dụng cơ chế
này trong việc giải quyết thủ tục hành chính. Cũng nhờ vậy, tình hình giải quyết thủ
tục hành chính UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã được cải thiện một
cách đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng không tránh khỏi những bất cập.
Vì vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống, hoàn thiện quy trình giải quyết
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

TTHC theo cơ chế “một cửa” tại UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Hải Dương là
hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm cung cấp các căn cứ khoa học cho
việc xây dựng một cơ chế làm việc thích hợp cho địa phương. Xây dựng một nền hành
chính hiện đại với mục tiêu: cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả,
công khai, minh bạch trong giải quyết công việc hành chính.
Từ những lý do trên cùng với sự quan tâm của bản thân về vấn đề cải cách
thủ tục hành chính và thực hiện TTHC tại các cơ quan hành chính, tôi đã chọn đề
tài: “Hoàn thiện cơ chế “một cửa” trong cải cách thủ tục hành chính tại
UBND cấp huyện tỉnh Hải Dương” để tìm hiểu, nghiên cứu với mong muốn có
một cái nhìn tổng quan về tình hình thực hiện TTHC tại UBND cấp huyện để từ đó
có những nhận diện, đánh giá về quá trình thực hiện cải cách hành chính ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Để giải quyết vấn đề này, các câu hỏi cần nghiên cứu làm rõ như sau:
- Thủ tục hành chính, cải cách thủ tục hành chính có nội dung, ý nghĩa, vai
trò gì? Cơ chế “một cửa” là gì?

- Kinh nghiệm triển khai cơ chế “một cửa” tại một số địa phương trong giai
đoạn hiện nay?
- Việc thực hiện giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại
UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện nay như thế nào?
- Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hiện giải quyết thủ tục hành chính theo cơ
chế “một cửa” của UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Hải Dương là gì?
- Có các giải pháp nào để hoàn thiện việc triển khai thực hiện trong thời gian tới?
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở kết quả phân tích đánh giá thực trạng về thực hiện thủ tục hành
chính theo cơ chế "một cửa" tại UBND cấp huyện; Từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện cơ chế "một cửa" trong cải cách thủ tục hành chính trên địa bàn
tỉnh Hải Dương.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn thủ tục hành chính liên quan
tới cơ chế “một cửa” trong cải cách hành chính UBND cấp huyện;
- Đánh giá kết quả triển khai cơ chế "một cửa", tại UBND cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Hải Dương; Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tình hình thực hiện cơ chế
“một cửa”;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính theo
cơ chế "một cửa" tại cơ quan hành chính cấp huyện.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu, đánh giá điều kiện hoạt động, quy trình, cách thức tổ
chức, vận hành và trình độ đội ngũ cán bộ, công chức cũng như kết quả của việc
thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại UBND cấp huyện

tỉnh Hải Dương.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Nội dung: Nghiên cứu nguyên nhân cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa”; Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế "một cửa" trong cải cách thủ
tục hành chính tại UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Không gian: Trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Thời gian: Từ năm 2011 đến 2014.









Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1 Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1 Các khái niệm
2.1.1.1 Thủ tục hành chính
Bộ máy nhà nước Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo một trật tự pháp
lý, thông qua pháp luật quy định về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền và trình tự thực
hiện thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước trong việc
giải quyết các công việc trong nội bộ nhà nước, những công việc liên quan đến
quyền và lợi ích của công dân và tổ chức. Những quy định pháp lý quy định trình

tự, thủ tục thực hiện các công việc kể trên tạo thành hệ thống quy phạm thủ tục
mang tính chất bắt buộc cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phải tuân
theo trong việc giải quyết các công việc thuộc chức năng của mình.
Thực tế thừa nhận có sự phân công phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện ba quyền: Quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp thì
đồng thời cũng có các quy phạm thủ tục là thủ tục lập pháp, thủ tục hành pháp, thủ
tục tố tụng tư pháp.
Thủ tục lập pháp là thủ tục làm Hiến pháp và làm luật.
Thủ tục tố tụng tư pháp là thủ tục giải quyết các tranh chấp, định tội được
thực hiện bởi hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Thủ tục hành chính, trong khoa học luật hành chính không có quan điểm
thống nhất về phạm vi cụ thể của khái niệm thủ tục hành chính.
Quan điểm thứ nhất cho rằng đó là trật tự mà các cơ quan quản lý hành chính
nhà nước giải quyết các tranh chấp về quyền và xử lý vi phạm pháp luật (Nguyễn
Văn Thâm, 2007).
Quan điểm thứ hai cho rằng đó là trình tự mà cơ quan quản lý hành chính
nhà nước giải quyết bất kỳ vụ việc cá biệt cụ thể nào (Nguyễn Văn Thâm, 2007).
Quan điểm thứ ba cho rằng thủ tục hành chính là trình tự thực hiện mọi hình
thức hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước tức là bao gồm cả
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

trình tự hoạt động sáng tạo pháp luật (ban hành quyết định chủ đạo, quyết định quy
phạm pháp luật hành chính) (Nguyễn Văn Thâm, 2007).
Quan điểm thứ tư quan điểm rộng và hợp lý hơn cả vì xem xét bất kỳ hoạt
động quản lý nào đêu có thể thấy tính kế tiếp liên tục của các hành động. Do đối
tượng chịu tác động của các quy phạm vật chất hành chính là các quan hệ xã hội rất
đa dạng nên không có một thủ tục hành chính duy nhất mà có rất nhiều loại thủ tục
hoạt động trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Tất cả các hoạt động đó
đều có những đặc trưng chung tạo thành khái niệm thủ tục hành chính.

Thủ tục hành chính là một loại quy phạm pháp luật quy định trình tự về thời
gian, không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy nhà nước, là cách
thức giải quyết công việc của cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với các
cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân (Nguyễn Văn Thâm và Võ Kim sơn, 2002).
Thủ tục hành chính được đặt ra để các cơ quan hành chính Nhà nước có thể
thực hiện mọi hình thức hoạt động cần thiết của mình trong đó bao gồm cả trình tự
thành lập các công sở, trình tự bổ nhiệm, bãi nhiệm, điều động viên chức, trình tự
lập quy, áp dụng quy phạm để đảm bảo các quyền của chủ thể và xử lý vi phạm,
trình tự điều hành, tổ chức các hoạt động tác nghiệp hành chính. Đó chính là các
quy tắc phải tuân thủ theo trong quá trình ra các quyết định hành chính của các cơ
quan quản lý Nhà nước.
Thủ tục hành chính là một bộ phận chế định của Luật hành chính. Nói cách
khác, thủ tục hành chính là một loại hình quy phạm mang tính công cụ để giúp các
cơ quan Nhà nước có điều kiện thực hiện chức năng của mình.
Thủ tục hành chính do các cơ quan Nhà nước ban hành để thực thi Hiến pháp
và pháp luật nhằm thực hiện chức năng quản lý của nền HCNN (hành chính nhà
nước) và hoàn thành nhiệm vụ của mình, đồng thời các cơ quan HCNN có trách
nhiệm thực thi các thủ tục đó.
Ý nghĩa của thủ tục hành chính:
Thứ nhất, thủ tục hành chính đảm bảo cho các quy phạm quy định trong các
quyết định hành chính được thi hành thuận lợi. Thủ tục càng có tính cụ thể thì ý
nghĩa càng lớn bởi vì các thủ tục cụ thể thường tác động đến hiệu lực, hiệu quả của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7

việc thực hiện chúng.
Thứ hai, thủ tục hành chính đảm bảo cho việc thi hành các quyết định được
thống nhất và có thể kiểm tra được tính hợp pháp, hợp lý cũng như các hệ quả do
việc thực hiện các quy định hành chính tạo ra.
Thứ ba, thủ tục hành chính khi được xây dựng và vận dụng một cách hợp lý sẽ

tạo khả năng sáng tạo trong việc thực hiện các quyết định quản lý đã được thông qua,
đem lại hiệu quả thiết thực cho quản lý hành chính Nhà nước. Thủ tục hành chính liên
quan đến quyền lợi của công dân do vậy khi được xây dựng và vận dụng tốt vào đời
sống sẽ có ý nghĩa rất thiết thực, giảm sự phiền hà, củng cố được quan hệ giữa Nhà
nước và công dân cũng như các tổ chức.
Thứ tư, thủ tục hành chính cũng là một bộ phận của pháp luật hành chính nên
việc xây dựng và thực hiện tốt các thủ tục hành chính sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với
quá trình xây dựng và triển khai pháp luật. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi
nhà nước ta đang tiếp tục công cuộc cải cách nền HCNN và xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam thì thủ tục hành chính lại càng có vai trò quan trọng.
Nhìn một cách tổng quát, thủ tục hành chính có ý nghĩa như một chiếc cầu nối
quan trọng giữa cơ quan Nhà nước với dân, với các tổ chức khác. Chiếc cầu nối này
có khả năng làm bền chặt các mối quan hệ, làm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Nhưng nếu xây dựng thiếu tính khoa học, áp dụng tuỳ tiện
vào đời sống thì chính thủ tục hành chính sẽ làm xa cách dân với Nhà nước và hậu
quả của nó là làm niềm tin của người dân với chính quyền tiếp tục bị giảm sút.
2.1.1.2 Cải cách hành chính và cải cách thủ tục hành chính
Cải cách hành chính Nhà nước là một trong những nội dung cơ bản của khoa
học nghiên cứu về hành chính nói chung và hành chính nhà nước nói riêng. Cải
cách hành chính nhà nước luôn là vấn đề được quan tâm phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới, làm đòn bẩy để nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc phát
triển kinh tế, phát huy dân chủ trong hoạt động của bộ máy công quyền, củng cố và
tăng cường tiềm lực về mọi mặt cho đất nước. Ở nước ta, cùng với công cuộc đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính nhà nước cũng được Đảng và Nhà
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

nước quan tâm kịp thời. Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam
(tháng 12 năm 1986) đã mở ra một thời kỳ phát triển mới có tính chất bước ngoặt
của Việt Nam, thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, lấy đổi mới kinh tế làm trọng

tâm, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Ý thức được vai trò của Nhà nước trong việc xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp, thiết lập một cơ chế quản lý mới, nghị quyết của Đại hội đã
đề ra chủ trương chấn chỉnh bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh, gọn, có đủ
năng lực thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ
thể; xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch nhà nước; quản lý và điều hành có
hiệu quả các hoạt động kinh tế, xã hội; giữ vững pháp luật, kỷ cương và trật tự, an
toàn xã hội, thiết lập cơ chế quản lý mới cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ
chức bộ máy của các cơ quan Nhà nước. Mục tiêu cải cách hành chính là nhằm xây
dựng bộ máy nhà nước có đủ năng lực để thực hiện các nhiệm vụ chủ trương có tính
chất chiến lược của đất nước lúc đó. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) tháng
1/1995 đánh dấu một bước phát triển mới trong nội dung định hướng cải cách hành
chính ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo cơ bản được hoàn thiện
thêm, nội dung và phương pháp thực hiện cải cách đã được thể hiện một cách tương
đối cơ bản, toàn diện và có cơ sở khoa học, đã khẳng định tầm quan trọng của cải
cách hành chính. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính. Như vậy, cải cách
hành chính Nhà nước là vấn đề vừa mang ý nghĩa lý luận lại vừa mang ý nghĩa thực
tiễn quan trọng.
Cải cách hành chính Nhà nước là một khái niệm của hành chính học. Do sự
khác biệt giữa chế độ chính trị, trình độ và giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của
các nước, cả sự khác biệt trong quan điểm và góc độ nghiên cứu mà giữa các nước
khác nhau ở những định nghĩa khác nhau về cải cách hành chính nhà nước.
Theo nghĩa rộng, cải cách hành chính Nhà nước có thể hiểu là một quá trình
thay đổi cơ bản, lâu dài, liên tục bao gồm cơ cấu của quyền lực hành pháp, tất cả
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9

các hoạt động có ý thức của bộ máy nhà nước nhằm đạt được sự hợp tác giữa các bộ

phận và các cá nhân vì mục đích chung của cộng đồng và phối hợp các nguồn lực
để tạo ra hiệu lực, hiệu quả quản lý và các sản phẩm (dịch vụ hoặc hàng hoá) phục
vụ nhân dân thông qua các phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực (Nguyễn
Duy Gia, 1995).
Hiểu theo nghĩa này, cải cách hành chính nhà nước là những thay đổi được
thiết kế có chủ định nhằm cải tiến một cách cơ bản các khâu trong hoạt động quản
lý của bộ máy nhà nước: Lập kế hoạch, định thể chế, tổ chức công tác cán bộ, tài
chính, chỉ huy, phối hợp kiểm tra, thông tin và đánh giá.
Theo nghĩa hẹp, cải cách hành chính nhà nước có thể hiểu như là một quá
trình thay đổi nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế
độ và phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới
trong lĩnh vực quản lý của bộ máy hành chính nhà nước. (Nguyễn Duy Gia, 1995).
Ta có thể khái quát về cải cách hành chính như sau:
Cải cách hành chính nhà nước là quá trình thay đổi có chủ định nhằm hoàn
thiện thể chế của nền hành chính; cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy hành
chính các cấp và đội ngũ công chức hành chính để nâng cao hiệu lực, năng lực và
hiệu quả hoạt động của nền hành chính công phục vụ dân.
Cải cách thủ tục hành chính là yêu cầu bức xúc của nhân dân, doanh nghiệp,
của các tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài, là khâu đột phá của tiến trình cải cách
hành chính Nhà nước. Trong tiến trình phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành
chính có một vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu thủ tục hành chính nói riêng, nền hành
chính nước ta nói chung không được hay chậm cải cách thì sẽ là một rào cản kìm
hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội
nhập ngày càng sâu rộng, thủ tục hành chính cần phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa.
Cải cách thủ tục hành chính là điều kiện cần thiết để tăng cường củng cố mối
quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, tăng cường sự tham gia quản lý Nhà nước của
nhân dân. Cải cách thủ tục được coi là khâu đột phá trong cải cách nền hành chính
nhà nước, tạo sự chuyển động của toàn bộ hệ thống nền hành chính quốc gia.
Nói tóm lại, cải cách thủ tục hành chính là một bộ phận quan trọng trong cải
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 10

cách hành chính, bao gồm quá trình cải biến có kế hoạch cụ thể để đạt mục tiêu
hoàn thiện hệ thống thể chế nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của một nền hành
chính hiệu lực, hiệu quả và hiện đại .
2.1.1.3 Cơ chế "một cửa"
Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước
thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức là văn
bản mang tính pháp lý đầu tiên có đề cập đến việc giải quyết thủ tục hành chính
thông qua "một cửa", dựa vào nguyên tắc nơi nào là đầu mối có trách nhiệm chính
trong việc giải quyết công việc thì cá nhân, tổ chức trực tiếp đến đó: "Trường hợp
đề nghị của tỉnh và thành phố có liên quan đến nhiều Bộ, thì Bộ chuyên ngành phải
làm đầu mối bàn với các Bộ liên quan khác. Không nên để Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố phải đi đến từng Bộ để xin ý kiến giải quyết của Bộ trưởng sau
đó mới đến Bộ trưởng chuyên ngành giải quyết" (Chính phủ, 1994); "Những công
việc liên quan đến nhiều bộ phận trong cơ quan thì Thủ trưởng cơ quan phải đề ra
quy chế phối hợp giải quyết trong nội bộ cơ quan để công dân, tổ chức có yêu cầu
giải quyết công việc chỉ phải làm việc với một công chức được giao nhiệm vụ được
làm đầu mối tiếp xúc, nhận hồ sơ và giải quyết công việc”.
Như vậy, có thể xác định trong việc giải quyết thủ tục hành chính liên quan
đến nội bộ của bộ máy hành chính Trung ương, địa phương hay trong mối quan hệ
cung cấp dịch vụ công cho công dân thì nguyên tắc tập trung vào một đầu mối chính
có chức năng quản lý chủ yếu để giải quyết công việc là nguyên tắc xuyên suốt quá
trình thực hiện. Đây cũng là tinh thần chủ đạo của cải cách thủ tục hành chính theo
cơ chế "một cửa".
Khái niệm quy chế “một cửa” lần đầu tiên được sử dụng trong Quyết định
số 366/HĐBT ngày 07/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), ban
hành quy chế thẩm định các dự án có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Theo đó,
bộ phận “một cửa” được hiểu là nguyên tắc làm việc của các ban quản lý các khu
công nghiệp, khu chế xuất của Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Quyết định số 181/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, quy chế “một
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

cửa’ được hiểu là quy chế giải quyết mọi công việc của tổ chức, công dân thuộc
thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước. Từ tiếp nhận yêu cầu tới trả kết quả
giải quyết TTHC đều thông qua một đầu mối là “Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả”.
Một cửa là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân, bao gồm cả tổ
chức, cá nhân nước ngoài (sau đây gọi là tổ chức, cá nhân) thuộc trách nhiệm, thẩm
quyền của một cơ quan hành chính nhà nước, từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ,
giải quyết đến trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối là bộ phận tiếp nhận và trả
kết quả của cơ quan hành chính nhà nước (Thủ tướng Chính phủ, 2007).
Thực chất, cơ chế “một cửa” là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, cá
nhân thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của nhiều cơ quan hành chính nhà nước cùng
cấp hoặc giữa các cấp hành chính từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ giải quyết
đến trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối là bộ phận tiếp nhận và trả kết quả
của một cơ quan hành chính nhà nước.
Mục đích của việc thực hiện cơ chế “một cửa”:
- Giảm phiền hà cho tổ chức, công dân khi có yêu cầu giải quyết công việc
tại cơ quan hành chính nhà nước.
- Góp phần chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng của một bộ phận cán
bộ, công chức. Nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần, thái độ phục vụ tổ chức,
công dân của đội ngũ cán bộ, công chức.
- Nâng cao chất lượng công vụ; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan
hành chính nhà nước.
- Làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp
trong giải quyết công việc liên quan đến tổ chức, công dân.
- Đổi mới cơ bản phương thức hoạt động của bộ máy các cơ quan hành chính
nhà nước, trên cơ sở đó sắp xếp lại tổ chức theo hướng gọn nhẹ, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả.

Việc áp dụng thực hiện cơ chế “một cửa” cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Thủ tục hành chính đơn giản, rõ ràng, đúng pháp luật.
- Công khai các thủ tục hành chính, phí, lệ phí và thời gian giải quyết công
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

việc của tổ chức, công dân.
- Nhận yêu cầu và trả kết quả tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
- Việc phối hợp các bộ phận có liên quan trong bộ máy công quyền nhằm giải
công việc của tổ chức, công dân là trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước.
- Bảo đảm giải quyết công việc nhanh chóng, thuận tiện, đúng thời gian cho
tổ chức, công dân.
Các lĩnh vực áp dụng cơ chế "một cửa":
Tại Quyết định 181/2003/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND các
quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh thực hiện quy chế “một cửa” đối với
7 loại TTHC, bao gồm: cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các hộ kinh
doanh cá thể; cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà; quyền sử dụng đất; đăng ký
hộ khẩu; công chứng, chứng thực; các chính sách xã hội.
Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả là nơi tiếp xúc đầu tiên của người dân với
cơ quan hành chính. Công việc của bộ phận này là tiếp nhận, hướng dẫn người dân
đầy đủ thủ tục cần thiết để giải quyết công việc, thẩm định tính hợp lệ của hồ sơ,
sau đó chuyển cho các phòng ban có chức năng giải quyết. Người dân cũng đến
chính nơi mà mình đã nộp hồ sơ để nhận lại kết quả.
Xét từ phía cá nhân, tổ chức, quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn rất
nhiều so với trước đây khi họ phải liên hệ với cơ quan hành chính. Họ không mất
nhiều thời gian để đi qua rất nhiều cửa sau đó mới có thể đến được cửa quan trọng
sau cùng. Mà việc đi lại "nhiều cửa" đa số trường hợp không đạt kết quả vì "mỗi
cửa" hướng dẫn một khác, "cửa" này không chấp nhận kết quả của "cửa" kia. Công
dân muốn làm cho các "cửa" của cơ quan hành chính "thông suốt" được với nhau
đòi hỏi tiêu tốn rất nhiều tiền của, công sức, thời gian, nhiều lúc họ phải sử dụng

đến nhiều mối quan hệ ngoài công vụ mới có thể giải quyết được. Tuy nhiên, trên
thực tế không phải cá nhân, tổ chức nào cũng có đủ điều kiện và tự nguyện làm
"công việc" này. Từ đó tạo sự bất bình đẳng trong việc được cung ứng dịch vụ công
của người dân. Quy chế "một cửa" đã khắc phục cơ bản được tình trạng bức xúc
này, bởi nó trả về đúng bản chất của sự việc, cơ quan nhà nước phải tự làm công
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

việc của mình, không được đùn đẩy những việc của mình về phía người dân, đẩy
khó khăn cho người dân.
Xét từ góc độ của cơ quan hành chính nhà nước, khi triển khai giải quyết thủ
tục hành chính theo cơ chế "một cửa", cơ quan hành chính phải kiện toàn bộ máy
của mình, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Bởi vì, họ phải
đảm nhận và thực hiện chức năng thực sự của mình qua cơ chế mới, không còn
chuyện người dân làm thay cho cơ quan nhà nước như trước đây.
Xuất phát từ những quy định mang tính nguyên tắc định hướng của Nghị
quyết 38/CP, khi thực hiện quy chế này phải xác định rõ bản chất pháp lý của cơ
chế "một cửa". "Một cửa" tức là công việc tập trung về một đầu mối có trách nhiệm
chính thực hiện thông qua sự phối hợp với các "cửa" khác. Không thể nhầm lẫn
giữa việc tập hợp các "cửa" tức là các cơ quan chuyên môn, chuyên trách một mặt
quản lý nhà nước với việc tập trung đầu mối để giải quyết công việc. Bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả là nơi tập trung đầu mối chứ không phải là nơi tập hợp các
"cửa". Việc tập hợp đầu mối có thể tiến hành dễ dàng thông qua một quy chế phối
hợp, nhưng việc tập hợp các "cửa" đòi hỏi phải qua quá trình lâu dài đúc kết từ thực
tiễn quản lý. Việc tập hợp các "cửa" chính là làm thay đổi cơ cấu của bộ máy hành
chính nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung. Đã có địa phương trong một thời
gian dài không nắm rõ bản chất của vấn đề nên đã tiến hành thu hồi dấu các "cửa" ở
cấp huyện, do đó gây ra những tác động không tích cực đối với việc thực hiện cơ
chế "một cửa" ở cấp huyện. Cũng chính những địa phương này góp phần hoàn thiện
cơ chế "một cửa" từ những bước thử nghiệm ban đầu chưa được chính xác đó.

Nguyên nhân là do tính chất mới mẻ của vấn đề, cả trong tư duy quản lý và phương
thức quản lý. "một cửa" cũng không phải là phương thức để giải quyết toàn bộ vấn
đề cải cách hành chính ở địa phương, nó chỉ là một khâu trong quá trình cải cách
hành chính và cũng không nằm ngoài xu thế chung của mục tiêu cải cách hành
chính nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước.
2.1.2 Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa"
Văn kiện của Đảng mang tính nền tảng đầu tiên chỉ đạo quá trình cải cách
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

hành chính nói chung và thủ tục hành chính nói riêng là báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI năm 1986 xác định cơ bản nội dung của cải cách hành chính là tăng cường
bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương và cơ sở thành một hệ thống thống
nhất, có sự phân định rành mạch, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp đồng
thời phải phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất -
kinh doanh thực hiện một quy chế làm việc khoa học, có hiệu suất cao.
Nhiệm vụ cải cách hành chính tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII qua việc Đảng xác định những nội dung cụ thể hơn trong việc
xây dựng bộ máy hành chính, đứng đầu là Chính phủ, các Bộ, kế tiếp là chính
quyền địa phương các cấp, sắp xếp lại tổ chức, biên chế làm cho bộ máy nhà nước
gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả, xây dựng hoàn chỉnh cơ chế quản lý và pháp luật. Đặc
biệt đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng, tinh thần cải cách
hành chính được phát triển hoàn thiện thêm một bước đáng kể. Đảng đã xác định cụ
thể mục tiêu tổng quát của cải cách hành chính: Xúc tiến cải cách hành chính. Cải
cách nhằm đổi mới và tăng cường hệ thống hành pháp cả về tổ chức, cán bộ, phát
huy vai trò điều hành của bộ máy hành pháp trên cơ sở pháp luật thống nhất và sự
điều hành tập trung của Chính phủ. Nhìn chung, đây là những tờ trình nền tảng chỉ
đạo công cuộc cải cách bộ máy nhà nước và cải cách bộ máy hành chính.
Trên cơ sở những tờ trình chỉ đạo này, Chính phủ ban hành Nghị quyết số

38/NQ-CP ngày 4/5/1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải
quyết công việc của công dân và tổ chức quy định những công việc cụ thể mà các
cấp, các ngành phải tiến hành thực hiện và hoàn thành để đảm bảo yêu cầu cải cách
hành chính. Trong đó, cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá đi sâu vào những
lĩnh vực ảnh hưởng trực tiếp đến người dân như: thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu,
nhập khẩu, đầu tư, xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấp đất; đăng ký kinh doanh, hành
nghề; sở hữu và sử dụng phương tiện giao thông; hộ khẩu; xuất cảnh, nhập cảnh;
trước bạ mua bán chuyển nhượng các loại tài sản; cho vay vốn; công chứng; thanh
tra doanh nghiệp.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 4/5/1994 về cải cách một bước thủ tục hành
chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức là văn bản mang tính
pháp lý đầu tiên có đề cập đến việc giải quyết thủ tục hành chính thông qua "một
cửa", dựa vào nguyên tắc nơi nào là đầu mối có trách nhiệm hcính trong việc giải
quyết công việc thì cá nhân, tổ chức trực tiếp đến đó. Như vậy, có thể xác định
trong việc giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến nội bộ của bộ máy hành
chính Trung ương, địa phương hay trong mối quan hệ cung cấp dịch vụ công cho
công dân thì nguyên tắc tập trung vào một đầu mối chính, có chức năng quản lý chủ
yếu để giải quyết công việc là nguyên tắc xuyên suốt quá trình thực hiện. Đây cũng
là tinh thần chủ đạo của cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa".
Ngày 23/1/1995, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8,
khóa VII, xác định nhiệm vụ trọng tâm của cải cách nền hành chính "phải cải cách
một bước cơ bản các thủ tục hành chính , loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt
không cần thiết, giảm phiền hà, ngăn chặn tệ nạn, cửa quyền, sách nhiễu, tham
nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật. Chính phủ nắm quyền ban hành thủ tục hành
chính; đồng thời quy định phạm vi giao quyền cho cấp tỉnh, thành phố được ban
hành một số loại thủ tục đặc thù của địa phương. Tập trung cải cách thủ tục trong
các lĩnh vực tác động trực tiếp tới đời sống và sản xuất kinh doanh của nhân dân.

Ngày 17/9/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg
về việc phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 - 2010
với nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước;
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công. Một trong các nội
dung quan trọng của cải cách thể chế hành chính đó là cải cách thủ tục hành chính
(TTHC). Muốn cải cách hành chính thì TTHC phải được đơn giản hóa một cách tối
đa, rườm rà. Để đáp ứng yêu cầu đó Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định
181/2003/QĐ-TTg ngày 4/9/2003 về việc ban hành quy chế thực hiện cơ chế "một
cửa" tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Tiếp tục nhiệm vụ cải cách hành chính và cải cách thủ tục hành chính, các
văn kiện tiếp theo của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết

×