Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

hiện trạng và giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề tái chế kim loại xã đại bái, huyện gia bình, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.64 MB, 126 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




ĐỖ THANH HIỀN



HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
LÀNG NGHỀ TÁI CHẾ KIM LOẠI XÃ ĐẠI BÁI,
HUYỆN GIA BÌNH, TỈNH BẮC NINH




CHUYÊN NGÀNH : KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ : 60.44.03.01


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THẾ BÌNH



HÀ NỘI - 2015

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Thế Bình.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày….tháng….năm 2015
Tác giả luận văn




Đỗ Thanh Hiền


















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thế Bình, người
đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Với những lời chỉ dẫn, những tài
liệu, sự tận tình hướng dẫn và những lời động viên của Thầy đã giúp tôi vượt qua
nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn quý thầy cô giảng dạy chương trình cao học "Khoa
học Môi trường” đã truyền dạy những kiến thức quý báu, những kiến thức này rất
hữu ích và giúp tôi nhiều khi thực hiện nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin cám ơn về
những góp ý có ý nghĩa rất lớn khi tôi thực hiện đề cương nghiên cứu.
Xin cảm ơn lãnh đạo Trung tâm Quan trắc Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Bắc Ninh và các bạn đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình
tôi tham gia thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày….tháng….năm 2015
Tác giả luận văn



Đỗ Thanh Hiền


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC


Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục viết tắt vi
Danh mục bảng vii
Danh mục hình ix
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1 Lịch sử phát triển và phân loại làng nghề Việt Nam 3
1.1.1 Lịch sử phát triển làng nghề Việt Nam 3
1.1.2 Phân loại và đặc trưng sản xuất của làng nghề 5
1.2 Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội 9
1.2.1 Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế và giải quyết lao
động, việc làm 9
1.2.2 Vai trò của làng nghề đối với các vấn đề xã hội 10
1.2.3 Vai trò của làng nghề trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn 11
1.3 Vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề Việt Nam 12
1.3.1 Áp lực từ quá trình phát triển làng nghề tới môi trường 12
1.3.2 Hiện trạng ô nhiễm môi trường làng nghề 15
1.3.3 Tác động của chất thải ô nhiễm tới môi trường làng nghề 20
1.4 Làng nghề tái chế kim loại và những tác động đến môi trường 24
1.4.1 Giới thiệu chung về làng nghề tái chế kim loại 24
1.4.2 Tác động từ các hoạt động sản xuất của làng nghề tái chế kim loại
đến môi trường 25
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 29
2.1 Đối tượng nghiên cứu 29

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv

2.2 Phạm vi nghiên cứu 29
2.3 Nội dung nghiên cứu 29
2.4 Phương pháp nghiên cứu 29
2.4.1 Phương pháp thu thập số liệu 29
2.4.2 Phương pháp khảo sát thực địa 30
2.4.3 Phương pháp phân tích 33
2.4.4 Phương pháp chuyên gia 34
2.4.5 Phương pháp so sánh đối chứng 35
2.4.6 Phương pháp thống kê, xử lý số liệu 35
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 36
3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực làng nghề tái chế kim
loại xã Đại Bái 36
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 36
3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội xã Đại Bái 39
3.2 Thực trạng sản xuất của làng nghề tái chế kim loại xã Đại Bái 41
3.2.1 Lịch sử phát triển làng nghề tái chế kim loại xã Đại Bái 41
3.2.2 Thực trạng sản xuất của làng nghề tái chế kim loại xã Đại Bái 42
3.3 Hiện trạng môi trường làng nghề tái chế kim loại xã Đại Bái 48
3.3.1 Hiện trạng môi trường không khí 48
3.3.2 Hiện trạng môi trường nước 51
3.3.3 Hiện trạng chất thải rắn 58
3.3.4 Đánh giá chung về hiện trạng môi trường làng nghề tái chế kim loại
xã Đại Bái 59
3.3.5 Tác động do hoạt động sản xuất của làng nghề đến môi trường và
sức khoẻ cộng đồng 60
3.4 Hiện trạng công tác quản lý môi trường làng nghề tái chế kim loại
xã Đại Bái 61
3.4.1 Những công tác bảo vệ môi trường đã được thực hiện 61

3.4.2 Những thách thức và tồn tại 63

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.4.3 Đánh giá chung về công tác quản lý môi trường làng nghề tái chế
kim loại xã Đại Bái 64
3.5 Đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề tái chế kim
loại xã Đại Bái 65
3.5.1 Giải pháp quy hoạch 65
3.5.2 Giải pháp quản lý 66
3.5.3 Giải pháp kỹ thuật 67
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 75
1 Kết luận 75
2 Kiến nghị 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
PHỤ LỤC 79

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC VIẾT TẮT

1 BOD
5
: Nhu cầu oxy sinh học
2 BTNMT : Bộ Tài Nguyên và Môi trường
3 BVMT : Bảo vệ môi trường
4 CNH - HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
5 CCN : Cụm công nghiệp

6 COD : Nhu cầu oxy hóa học
7 DO : Oxy hòa tan
8 KLN : Kim loại nặng
9 KT - XH : Kinh tế - Xã hội
10 HĐND : Hội đồng nhân dân
11 HTX : Hợp tác xã
12 QCVN : Quy chuẩn Việt Nam
13 QCCP : Quy chuẩn cho phép
14 SS : Chất rắn lơ lửng
15 TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
16 TSS : Tổng chất rắn lơ lửng
17 TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
18 UBND : Uỷ ban nhân dân




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG


STT
Tên bảng Trang

1.1 Đặc trưng ô nhiễm từ sản xuất của một số loại hình làng nghề 16
1.2 Đặc trưng nước thải tại một số làng nghề chế biến nông sản thực
phẩm điển hình 17
1.3 Ước tính tải lượng ô nhiễm thải ra từ một số làng nghề dệt nhuộm 18

1.4 Tải lượng ô nhiễm do sử dụng than ở một số làng nghề sản xuất vật
liệu xây dựng 19
1.5 Tỷ lệ bệnh tật tại làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng) tính
trên tổng số dân của khu vực 21
1.6 Một số bệnh thường gặp tại các làng nghề 22
1.7 Lượng sản phẩm tại một số làng nghề tái chế kim loại 25
1.8 Thải lượng ô nhiễm do đốt than tại làng nghề tái chế kim loại 26
1.9 Số liệu điều tra sức khoẻ người dân tại một số làng nghề tái chế
kim loại 27
1.10 Tình hình bệnh tật của người dân qua khám sức khỏe làng nghề
Văn Môn 28
2.1 Vị trí lấy mẫu không khí tại khu vực làng nghề tái chế kim loại xã
Đại Bái 31
2.2 Vị trí lấy mẫu nước mặt tại khu vực làng nghề tái chế kim loại xã
Đại Bái 32
2.3 Vị trí lấy mẫu nước thải tại khu vực làng nghề tái chế kim loại xã
Đại Bái 32
2.4 Vị trí lấy mẫu nước ngầm tại khu vực làng nghề tái chế kim loại xã
Đại Bái 33
2.5 Thông số và phương pháp phân tích mẫu không khí 33
2.6 Thông số và phương pháp phân tích mẫu nước 34

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

3.1 Lượng nguyên liệu và sản phẩm chính từ hoạt động sản xuất của
làng nghề 43
3.2 Kết quả phân tích chất lượng môi trường không khí xung quanh tại
làng nghề tái chế kim loại xã Đại Bái 49
3.3 Kết quả phân tích chất lượng môi trường không khí trong khu vực

sản xuất tại làng nghề tái chế kim loại xã Đại Bái 50
3.4 Kết quả phân tích chất lượng nước mặt tại khu vực làng nghề tái
chế kim loại xã Đại Bái 52
3.5 Kết quả phân tích chất lượng nước thải tại khu vực làng nghề tái
chế kim loại xã Đại Bái 55
3.6 Kết quả phân tích chất lượng nước ngầm tại khu vực làng nghề tái
chế kim loại xã Đại Bái 57
3.7 Phân tích SWOT tình hình quản lý môi trường làng nghề tái chế
kim loại xã Đại Bái 64


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ix

DANH MỤC HÌNH


STT Tên hình Trang

1.1 Phân loại làng nghề Việt Nam theo loại hình sản xuất 7
3.1 Nhiệt độ trung bình các mùa qua các năm 37
3.2 Độ ẩm trung bình các mùa qua các năm 37
3.3 Số giờ nắng trung bình các mùa qua các năm 38
3.4 Quy trình sản xuất nồi đồng, nhôm tại Đại Bái 43
3.5 Sơ đồ dòng vật chất điển hình cho 1 hộ sản xuất 46
3.6 Quy trình tạo tranh đồng 47
3.7 Tác hại của rác thải tại làng nghề đối với sức khỏe cộng đồng 61
3.8 Sơ đồ tổng thể hệ thống thu gom chất thải rắn 68
3.9 Sơ đồ công nghệ xử lý khí thải lò tái chế kim loại của làng nghề 70
3.10 Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải tập trung của làng nghề 72



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài
Trong số các loại hình làng nghề trong cả nước, loại hình làng nghề tái chế
kim loại nói chung là loại hình làng nghề còn non trẻ, nhưng đã cho thấy vai trò
quan trọng của nó trong nền kinh tế, xã hội và môi trường. Sự ra đời của các làng
nghề tái chế ở nước ta góp phần xử lý lượng phế liệu được sinh ra hàng ngày từ
các hoạt động xã hội, đồng thời còn góp phần làm giảm sự thiếu hụt trong nhu
cầu tiêu thụ và cạn kiệt tài nguyên.
Tuy nhiên cũng giống như các loại hình làng nghề khác, môi trường tại
các làng nghề tái chế kim loại cũng không tránh khỏi sự ô nhiễm do còn hạn chế
về quy mô, công nghệ sản xuất và sự yếu kém trong quản lý và sử dụng nguyên
vật liệu dẫn đến sự thất thoát lớn nguyên vật liệu trong sản xuất, lượng nguyên
vật liệu tổn thất này hầu như không được tận thu mà theo các dòng thải vào môi
trường và làm môi trường bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, sinh
hoạt và chất lượng cuộc sống của nhân dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Làng nghề tái chế kim loại Đại Bái tại địa bàn xã Đại Bái, huyện Gia
Bình, tỉnh Bắc Ninh là một trong các làng nghề như trên. Đây là làng nghề đã có
từ lâu đời với các ngành nghề chính như: đúc đồng, nhôm, dát mỏng kim loại, gia
công cơ khí, chạm khắc kim loại… Song song với việc kinh tế ngày càng phát
triển thì môi trường làng nghề ngày càng bị ô nhiễm. Nguyên nhân chủ yếu là
việc rác thải của các hộ làm nghề đúc đồng, cô bã nhôm… đổ bừa bãi ra môi
trường; đổ trực tiếp nước thải chứa hóa chất độc hại của các hộ làm nghề (chủ
yếu là các hộ làm hàng mỹ nghệ và hàng dân dụng) vào các lòng sông, ao hồ,
mương; các hộ đúc, cô phế liệu chưa xây dựng ống khói đạt tiêu chuẩn đã gây ô

nhiễm môi trường đất, nước, không khí và làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe
của nhân dân nơi đây.
Trước tình hình thực tế trên, nhằm cung cấp thông tin cụ thể về hiện trạng
môi trường làng nghề tái chế kim loại xã Đại Bái, huyện Gia Bình và đề xuất giải
pháp nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường phục vụ cho sự phát triển làng nghề, tôi

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Hiện trạng và giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề tái chế kim loại
xã Đại Bái, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh”
Mục đích nghiên cứu
Đánh giá hiện trạng môi trường và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo vệ môi
trường làng nghề tái chế kim loại xã Đại Bái, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Yêu cầu của đề tài
- Phản ánh trung thực điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của làng nghề tái
chế kim loại xã Đại Bái.
- Phản ánh trung thực, chính xác quá trình sản xuất của làng nghề, từ đó
đưa ra nguồn thải và chất thải đặc trưng của làng nghề.
- Phản ánh được hiện trạng môi trường (nước, không khí, chất thải rắn) tại
làng nghề tái chế kim loại xã Đại Bái.
- Đề xuất được các giải pháp có tính thực tiễn, gắn với hiện trạng môi
trường tại địa phương nghiên cứu.



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3


Chương 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lịch sử phát triển và phân loại làng nghề Việt Nam
1.1.1. Lịch sử phát triển làng nghề Việt Nam
Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Nhiều sản
phẩm được sản xuất trực tiếp tại các làng nghề đã trở thành thương phẩm trao
đổi, góp phần cải thiện đời sống gia đình và tận dụng những lao động dư thừa lúc
nông nhàn. Đa số các làng nghề đã trải qua lịch sử phát triển hàng trăm năm,
song song với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và nông nghiệp của
đất nước. Ví dụ như làng đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) với hơn 900 năm phát
triển, làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) có gần 500 năm tồn tại, nghề chạm bạc
ở Đồng Xâm (Thái Bình) hay nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng)
cũng đã hình thành cách đây hơn 400 năm… (BTNMT, 2008).
Như vậy, sự phát triển của các làng nghề Việt Nam đã thể hiện những
cung bậc thăng trầm trong mỗi giai đoạn lịch sử, đặc biệt từ những năm đổi mới
đến nay dưới tác động của những biến đổi to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội ở
trong nước cũng như quốc tế. Có thể chia lịch sử phát triển làng nghề thành các
giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1954 – 1978: Với chương trình công nghiệp hóa ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng, thợ thủ công cũng đã được khuyến khích tham gia vào
hợp tác xã. Tại một số làng nghề đã xuất hiện những hợp tác xã tiểu thủ công
nghiệp, chủ yếu là làm hàng xuất khẩu đi các nước trong khối xã hội chủ nghĩa
như Liên Xô (cũ), Trung Quốc, Đức, Ba Lan. Hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là
hàng thủ công, mỹ nghệ… phụ thuộc chủng loại, số lượng và giá trị hàng hóa
được quyết định bởi đường lối, chính sách của chính phủ. Nhiều làng nghề
truyền thống khác đã mai một và suy thoái trong giai đoạn này.
- Giai đoạn 1978 – 1985: Khi hệ thống bao cấp đã suy sụp, áp lực bởi sự
gia tăng dân số, hậu quả chiến tranh, cấm vận của Mỹ, sự thay đổi hệ thống chính
trị thế giới đã đưa Việt Nam vào thời kỳ khó khăn trong phát triển kinh tế. Đời
sống của nhân dân, đặc biệt là các hộ nông dân và tiểu thủ công nghiệp gặp khó


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

khăn buộc họ phải bươn chải, tìm đường cải thiện đời sống theo con đường tự
phát. Nhiều nghề đã được khôi phục tại làng nhằm đáp ứng nhu cầu rất thấp của
người dân.
- Giai đoạn 1986 – 1992: Đây là giai đoạn phát triển quan trọng của làng
nghề. Giai đoạn này được dánh dấu bằng bước ngoặt chuyển đổi từ cơ chế quản
lý bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Các chính
sách kinh tế, đặc biệt là chính sách đổi mới quản lý trong nông nghiệp và chính
sách phát triển các thành phần kinh tế đã có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến
sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và làng nghề nói riêng.
Trong giai đoạn này nhiều làng nghề truyền thống được khôi phục và phát
triển, trong mỗi làng nghề quy mô sản xuất được mở rộng, đầu tư về vốn, kỹ
thuật được tăng cường. Đặc biệt đã hình thành mới nhiều cơ sở sản xuất kinh
doanh, sản lượng sản phẩm ngày càng lớn, giá trị kim ngạch xuất khẩu ngày càng
tăng, thu hút một số lượng lớn lao động chuyên và không chuyên nghiệp vào quá
trình sản xuất và dịch vụ sản xuất… Trong giai đoạn này một số nghề điển hình
có tốc độ khôi phục và phát triển khá nhanh như gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội),
gốm Đồng Nai, Sông Bé, chạm khảm, điêu khắc ở Hà Tây, thêu ren ở Thái Bình,
Hà Tây…(Đặng Kim Chi và cs., 2005)
Các sản phẩm truyền thống của các làng nghề đã có được thị trường tiêu
thụ tương đối ổn định ở Đông Âu và Liên Xô (cũ). Chính sự ổn định này đã cho
phép các làng nghề duy trì được sự phát triển và thu được những nguồn thu đáng
kể từ các sản phẩm xuất khẩu. Năm 1986, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ đạt giá trị cao nhất, trên 246 triệu rúp. Ở nhiều địa phương, việc phát
triển làng nghề đã thu hút và giải quyết được việc làm cho nhiều lao động, đồng
thời làm tăng nhanh sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Làng nghề
Đồng Xâm (Thái Bình) chỉ riêng hợp tác xã Việt Hồng năm 1987 giá trị tổng sản

lượng đã đạt hơn 7 tỷ đồng gấp 10 lần so với năm 1981 (Đặng Kim Chi và cs.,2005).
Tuy nhiên sự phát triển trên không duy trì được lâu do bị ảnh hưởng trực
tiếp của những biến động về chính trị - xã hội trên thế giới. Sự sụp đổ của các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô (cũ) vào đầu những năm 90 đã làm

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

cho thị trường tiêu thụ hàng xuất khẩu chủ yếu gần như không còn nữa. Trước
những khó khăn lớn, sản xuất ở nhiều làng nghề bị đình trệ, sa sút, thậm chí bế
tắc. Thu nhập và đời sống của những người làm nghề giảm rất nhanh do việc làm
ít hoặc không có việc làm. Lực lượng lao động tại các làng nghề bị giảm mạnh.
- Giai đoạn từ năm 1993 đến nay: Khi thị trường Đông Âu và Liên Xô
(cũ) không còn, sản xuất ở các làng nghề truyền thống thực sự lâm vào tình trạng
khủng hoảng. Số người lao động không có việc làm tăng rất nhanh, nhiều người
quay lại với sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, tình trạng này kéo dài không lâu.
Một hướng đi mới cho sự phát triển của làng nghề dần được xác lập do bước đầu
đã tìm kiếm được thị trường. Các nước trong khu vực châu Á như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan… là những thị trường tiêu thụ tương đối
lớn cho các hàng thủ công mỹ nghệ. Nghị quyết Trung ương V của Đảng (tháng
6/1993) về tiếp tục đổi mới nông nghiệp, nông thôn với trọng tâm là chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn đã mở ra thời kỳ mới để khôi phục các ngành nghề
truyền thống. Nhiều địa phương có làng nghề truyền thống đã chủ động tìm kiếm
thị trường mới, tổ chức sản xuất và khôi phục lại các ngành nghề truyền thống
(Đặng Kim Chi và cs.,2005).
Cho đến nay, đã có số liệu thống kê về số lượng, loại hình của các làng
nghề, làng nghề truyền thống và làng có nghề cũng như mật độ và phân bố trên
quy mô toàn quốc nhưng chưa đầy đủ và toàn diện. Theo số liệu thống kê mới
nhất của Tổng cục Môi trường được tổng hợp từ báo cáo chính thức của Ủy ban
nhân dân, Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương, tính đến tháng 7 năm 2011, tổng số làng nghề và làng có nghề trên toàn
quốc là 3.355 làng, trong đó có 1.318 làng nghề đã được công nhận và 2.037 làng
có nghề chưa được công nhận (Trần Duy Khánh, 2012).
1.1.2. Phân loại và đặc trưng sản xuất của làng nghề
Dựa trên các tiêu chí khác nhau, có thể phân loại làng nghề theo một số
dạng như sau:
- Theo làng nghề truyền thống và làng nghề mới: Cách phân loại này cho
thấy đặc thù văn hóa, mức bảo tồn của các làng nghề, đặc trưng cho các vùng văn

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

hóa lãnh thổ.
- Theo ngành sản xuất, loại hình sản phẩm: Cách phân loại này nhằm xác
định phân bố về mặt địa lý, về nguồn và khả năng đáp ứng nguyên liệu cho hoạt
động sản xuất của làng nghề và cũng như phần nào thấy được xu thế và nhu cầu
tiêu thụ của xã hội.
- Theo quy mô sản xuất, quy trình công nghệ: Cách phân loại này nhằm
xác định trình độ công nghệ sản xuất và quản lý sản xuất tại các làng nghề, qua
đó có thể xem xét tới tiềm năng phát triển đổi mới công nghệ sản xuất đáp ứng
cho các nhu cầu như đa dạng hóa sản phẩm và giảm thiểu ô nhiễm môi trường
- Theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm: Đây là cách phân loại phục vụ mục
tiêu đánh giá đặc thù, quy mô các nguồn thải từ hoạt động sản xuất của làng nghề.
- Theo mức độ sử dụng nguyên/nhiên liệu: Cách phân loại này nhằm xem
xét, đánh giá mức độ sử dụng tài nguyên tại các làng nghề, tiến tới có được các
giải pháp quản lý và kỹ thuật trong sản xuất nhằm giảm lượng tài nguyên sử
dụng cũng như hạn chế các tác động tới môi trường
- Theo thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiềm năng tồn tại và phát triển: Với
đặc thù phát triển tự phát, sự phát triển của làng nghề phụ thuộc nhiều yếu tố khác
nhau nhưng quan trọng nhất là thị trường. Cách phân loại này xem xét tới các yếu tố

ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đối với sự phát triển của các làng nghề.
Như vậy, mỗi cách phân loại nêu trên có những đặc thù riêng và tùy theo
mục đích mà có thể lựa chọn cách phân loại phù hợp. Trên cơ sở tiếp cận vấn đề
môi trường làng nghề, cách phân loại theo ngành sản xuất và loại hình sản phẩm
là phù hợp hơn cả. vì thực tế cho thấy mỗi ngành nghề, mỗi sản phẩm đều có
những yêu cầu khác nhau về nguyên nhiên liệu, quy trình sản xuất khác nhau,
nguồn và dạng chất thải khác nhau, và vì vậy có những tác động khác nhau đối
với môi trường.
Dựa trên các yếu tố tương đồng về ngành sản xuất, sản phẩm, thị trường
nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm có thể chia hoạt động làng nghề nước ta ra
thành 6 nhóm ngành chính, bao gồm:


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

1 - Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ
2 - Làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da
3 - Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá
4 – Làng nghề tái chế phế liệu
5 – Làng nghề thủ công mỹ nghệ
6 – Các nhóm ngành khác

Hình 1.1: Phân loại làng nghề Việt Nam theo loại hình sản xuất
(BTNMT, 2008)
Mỗi ngành chính kể trên có nhiều ngành nhỏ. Mỗi nhóm ngành làng
nghề có các đặc điểm khác nhau về hoạt động sản xuất sẽ gây ảnh hưởng
khác nhau tới môi trường.
- Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ: loại
hình này có số lượng làng nghề lớn, chiếm 20% tổng số làng nghề, phân bố khá

đều trên cả nước, phần nhiều sử dụng lao động lúc nông nhàn, không yêu cầu
trình độ cao, hình thức sản xuất thủ công và gần như ít thay đổi về quy trình sản
xuất so với thời điểm khi hình thành nghề. Phần lớn các làng nghề chế biến
lương thực, thực phẩm nước ta là các làng nghề thủ công truyền thống nổi tiếng
như nấu rượu, làm bánh đa nem, đậu phụ, miến dong, bún, bánh đậu xanh, bánh
gai… với nguyên liệu chính là gạo, ngô, khoai, sắn, đậu và thường gắn với hoạt
động chăn nuôi ở quy mô gia đình.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

- Làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: nhiều làng đã có từ lâu đời, có
các sản phẩm mang tính lịch sử, văn hóa, mang đậm nét địa phương. Những sản
phẩm như lụa tơ tằm, thổ cẩm, dệt may… không chỉ là những sản phẩm có giá trị
mà còn là những tác phẩm nghệ thuật được đánh giá cao. Quy trình sản xuất
không thay đổi nhiều, với nhiều lao động có tay nghề cao. Tại các làng nghề
nhóm này, lao động nghề thường là lao động chính (chiếm tỷ lệ cao hơn lao động
nông nghiệp).
- Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: hình thành từ
hàng trăm năm nay, tập trung ở vùng có khả năng cung cấp nguyên liệu cơ bản
cho hoạt động xây dựng. Lao động gần như thủ công hoàn toàn, quy trình công
nghệ thô sơ, tỉ lệ cơ khí hóa thấp, ít thay đổi. Khi đời sống được nâng cao, nhu
cầu về xây dựng nhà cửa, công trình ngày càng tăng, hoạt động sản xuất vật liệu
xây dựng phát triển nhanh và tràn lan ở các vùng nông thôn. Nghề khai thác đá
cũng phát triển ở những làng gần các núi đá vôi được phép khai thác, cung cấp
nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ và vật liệu
xây dựng.
- Làng nghề tái chế phế liệu: chủ yếu là các làng nghề mới hình thành, số
lượng ít nhưng lại phát triển nhanh về quy mô và loại hình tái chế (chất thải kim
loại, giấy, nhựa, vải đã qua sử dụng). Ngoài ra các làng nghề cơ khí chế tạo và

đúc kim loại với nguyên liệu chủ yếu là sắt vụn, sắt thép phế liệu cũng được xếp
vào loại hình làng nghề này. Đa số các làng nghề nằm ở phía Bắc, công nghệ sản
xuất đã từng bước được cơ khí hóa.
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ: bao gồm các làng nghề gốm, sành sứ thủy
tinh mỹ nghệ; chạm khắc đá, chạm mạ bạc vàng, sản xuất mây tre đan, đồ gỗ mỹ
nghệ, sơn mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren. Đây là nhóm làng nghề chiếm tỷ
trọng lớn về số lượng (gần 40% tổng số làng nghề), có truyền thống lâu đời, sản
phẩm có giá trị cao, mang đậm nét văn hóa và đặc điểm địa phương, dân tộc.
Quy trình sản xuất gần như không thay đổi, lao động thủ công, nhưng đòi hỏi tay
nghề cao, chuyên môn hóa, tỉ mỉ và sáng tạo.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

- Các nhóm ngành khác: bao gồm các làng nghề chế tạo nông cụ thô sơ
như cày bừa, cuốc xẻng, liềm hái, mộc gia dụng, đóng thuyền, làm quạt giấy, dây
thừng, đan vó, đan lưới, làm lưỡi câu… Các làng nghề nhóm này xuất hiện từ
lâu, sản phẩm phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của địa
phương. Lao động phần lớn là thủ công với số lượng và chất lượng ổn định
(BTNMT, 2008)
1.2. Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội
1.2.1. Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế và giải quyết lao động,
việc làm
Sự phát triển sản xuất nghề trong những năm gần đây đã và đang góp phần
quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Tại các làng có nghề,
đại bộ phận người dân tham gia làm nghề thủ công nhưng vẫn duy trì sản xuất
nông nghiệp ở một mức độ nhất định. Kết quả thống kê tại nhiều làng có nghề, tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ đạt từ 60-80%; nông nghiệp chiếm khoảng 20 -
40%. Số hộ sản xuất và cơ sở ngành nghề nông thôn đang ngày một tăng lên với
tốc độ tăng bình quân từ 8,8 - 9,8%/năm, kim ngạch xuất khẩu từ các sản phẩm

làng nghề không ngừng gia tăng. Mức thu nhập của người lao động sản xuất nghề
cao gấp 3 - 4 lần so với thu nhập của sản xuất thuần nông. Nghiên cứu của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện năm 2004 chỉ ra rằng, tỷ lệ hộ
nghèo trong số hộ sản xuất thủ công nghiệp là 3,7%, thấp hơn nhiều so với mức
trung bình cả nước là 10,4%. Như vậy có thể thấy, làng nghề đóng một vai trò
quan trọng trong xóa đói giảm nghèo, trực tiếp giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân nông thôn (Chính phủ, 2011).
Bên cạnh đó, làng nghề còn có một ý nghĩa gián tiếp đặc biệt quan trọng
khác, đó là hạn chế việc di dân tự do từ khu vực nông thôn vào khu vực thành thị
trong thời kỳ nông nhàn, để tìm kiếm công ăn, việc làm và thu nhập.
Hoạt động sản xuất nghề nông thôn đã tạo ra việc làm cho hơn 11 triệu lao
động, thu hút khoảng 30% lực lượng lao động nông thôn, đặc biệt có những địa
phương đã thu hút được hơn 60% nhân lực lao động của cả làng. Mức thu nhập

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

từ sản xuất nghề cao hơn nhiều so với nguồn thu từ nông nghiệp, đặc biệt là đối
với vùng đất chật người đông như đồng bằng sông Hồng. Tại các làng nghề quy
mô lớn, trung bình mỗi cơ sở, doanh nghiệp tư nhân tạo việc làm ổn định cho
khoảng 30 lao động thường xuyên và 8-10 lao động thời vụ; các hộ cá thể tạo
việc làm cho 4-6 lao động thường xuyên và 2-5 lao động thời vụ. Tại các làng
nghề dệt, thêu ren, mây tre đan mỗi cơ sở vào thời kỳ cao điểm, có thể thu hút
200-250 lao động (Chính phủ, 2011).
Đặc biệt đối với các làng nghề mà nhất là các làng nghề truyền thống,
hoạt động sản xuất còn có một ý nghĩa xã hội tích cực khác là sử dụng được
lao động là người cao tuổi, người khuyết tật, những người rất khó kiếm việc
làm từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp và công nghiệp tập trung cũng như
các ngành kinh doanh, dịch vụ khác. Sự phát triển của làng nghề đã và đang

đóng góp đáng kể vào GDP, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của địa phương.
Làng nghề truyền thống được xem như một nguồn tài nguyên du lịch văn
hóa vật thể và phi vật thể đầy tiềm năng. Nhiều tên tuổi sản phẩm đã gắn với
thương hiệu của các làng nghề từ Nam đến Bắc, được người tiêu dùng trong nước
và nước ngoài ưa chuộng như gốm sứ Bình Dương; gốm Bát Tràng, Hà Nội; gốm
Chu Đậu, Hải Dương; gốm Phù Lãng, Bắc Ninh; đồ gỗ Đồng Kỵ, Bắc Ninh; đồ
gỗ Gò Công, Tiền Giang; dệt Vạn Phúc, Hà Nội; cơ khí Ý Yên, Nam Định; mây
tre đan Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; mây tre đan Chương Mỹ, Hà Nội;
chạm bạc Đồng Xâm, Thái Bình; đúc đồng Đại Bái, Bắc Ninh; đồ đá mỹ nghệ
Non Nước, Đà Nẵng Nhiều địa phương đã phát triển hiệu quả mô hình kết hợp
các tuyến du lịch với thăm quan làng nghề, từ gian trưng bày và bán sản phẩm
đến các khu vực sản xuất, thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước
(Chính phủ, 2011).
1.2.2. Vai trò của làng nghề đối với các vấn đề xã hội
Bảo tồn và phát triển làng nghề có vai trò quan trọng trong công tác “bảo
tồn các giá trị văn hóa dân tộc”. Lịch sử phát triển của các làng nghề truyền
thống gắn liền với lịch sử văn hóa dân tộc. Nhiều sản phẩm truyền thống vừa

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

mang tính nghệ thuật cao, vừa đậm bản sắc đặc thù của mỗi địa phương. Phát
triển làng nghề đã tạo môi trường thuận lợi cho việc kế thừa và phát huy các tinh
hoa văn hóa của dân tộc, bảo vệ giá trị “nghệ tinh” cao quý của các nghệ nhân có
tài năng với bí quyết nghề gia truyền qua nhiều thế hệ, thông qua đó bảo tồn
những giá trị đặc biệt của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Đối với đồng bào dân tộc ít người miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, việc
bảo tồn và phát triển các nghề thủ công, truyền thống có giá trị đặc biệt quan
trọng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Một mặt là duy trì tính ổn định, bền vững

của đời sống tự cung, tự cấp của đồng bào vùng cao, mặc khác, giữ gìn được
những kiến thức, kinh nghiệm bản địa vào duy trì việc tạo ra những sản phẩm có
giá trị văn hóa, tinh thần đáng tự hào cho dân tộc như hàng thổ cẩm của người
Dao, Tày, Thái, H’Mông; đồ trang sức, mỹ nghệ của các đồng bào dân tộc miền
núi phía Bắc
Tại nhiều địa phương, việc giải quyết việc làm cho rất nhiều lao động đã
tạo điều kiện giảm các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút,… góp phần đảm bảo
an sinh, xã hội cho khu vực nông thôn. Đồng thời với sự quy tụ các tay nghề sản
xuất giỏi, có cơ hội trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ; quy tụ các
nguyên liệu sản xuất phong phú là một trong những yếu tố tạo sự đa dạng hóa
của nền văn hóa và sản xuất tại nông thôn (Chính phủ, 2011).
1.2.3. Vai trò của làng nghề trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn
Điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một yếu tố cực kỳ quan trọng hỗ trợ
phát triển các làng nghề. Khả năng tiếp cận thông tin, điện, nước sạch, giao thông
và các yếu tố khác về cơ sở vật chất là rất cần thiết đối với sự tăng trưởng và phát
triển của các làng nghề. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt sẽ góp phần thực
hiện mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, tạo việc làm, xóa nghèo
ở nông thôn thông qua việc phát triển các ngành nghề tại các làng nghề. Ngược
lại, sự phát triển kinh tế của các làng nghề cũng góp phần đổi mới bộ mặt nông
thôn, cải thiện và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại đây.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở những nơi tập trung nhiều làng nghề như khu vực
Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Đông Nam Bộ nhìn chung phát triển

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

khá tốt do các làng nghề phần lớn được hình thành, phát triển ở những nơi tiếp
cận thuận lợi mạng lưới đường quốc lộ, tỉnh lộ, cùng sự hỗ trợ của các chính sách
từ chính quyền tỉnh/thành phố nhằm đẩy mạnh phát triển làng nghề.
Tại khu vực miền núi, cũng có một số làng nghề phát triển, tuy nhiên điều

kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật vẫn không được chú trọng đầu tư do phần lớn làng
nghề ở đây không nhằm mục tiêu phục vụ thị trường mà chủ yếu sản phẩm chỉ
phục vụ đời sống nhân dân khu vực lân cận (BTNMT, 2008).
1.3. Vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề Việt Nam
1.3.1. Áp lực từ quá trình phát triển làng nghề tới môi trường
Hoạt động sản xuất tại các làng nghề phát triển đã mang lại hiệu quả kinh
tế rõ rệt cho dân làng nghề, là “sức hút” lực lượng lao động ở các vùng lân cận
tới tham gia, làm thay đổi đáng kể bộ mặt làng xã có hoạt động làng nghề. Sự
phát triển nhanh chóng có tính tự phát, không theo quy hoạch đã gây những tác
động tiêu cực tới môi trường tại các làng nghề và ảnh hưởng tới sức khỏe cộng
đồng. Các áp lực đối với môi trường làng nghề có thể xuất phát từ những đặc
điểm khó khăn trong quá trình phát triển làng nghề, cụ thể như sau:
- Tư tưởng tư hữu, đua nhau theo lợi nhuận vì mục đích kinh tế của người
chủ sản xuất nhỏ có nguồn gốc nông thôn đã ảnh hưởng mạnh tới sản xuất tại
làng nghề, tăng mức độ ô nhiễm môi trường thông qua việc sau:
+ Lựa chọn quy trình sản xuất tận dụng nhiều sức lao động, dễ sử dụng
nhân công rẻ mạt, trình độ thấp.
+ Sẵn sàng sử dụng các nhiên liệu rẻ tiền, hóa chất độc hại (kể cả đã cấm
sử dụng) nhằm hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh. Đầu tư phương tiện,
dụng cụ bảo hộ lao động, điều kiện lao động rất thấp cho sản xuất sản phẩm do
vốn ít, sản xuất bấp bênh. Bình quân nhà xưởng kiên cố chỉ chiếm 20%, nhà
xưởng bán kiên cố 65,5%, hệ thống thoát nước kém hoặc không có.
+ Do lợi ích kinh tế (việc làm, thu nhập, lợi nhuận) nên nhiều hộ đã bỏ qua
(không tính đến) hoặc chấp nhận các tác động xấu về môi trường do quy hoạch
tự phát của làng nghề và hoạt động sản xuất làng nghề gây ra. Ví dụ như các làng
nghề tái chế kim loại, tái chế nhựa, các làng nghề giết mổ gia súc, thuộc gia…
(Đặng Kim Chi và cs.,2011).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13


- Quy mô sản xuất nhỏ, phần lớn ở quy mô gia đình (chiếm 80% tổng số
cơ sở sản xuất). Sản xuất tự phát, khó khăn về vốn, đầu ra sản phẩm phụ thuộc
nhiều vào nhu cầu của thị trường:
Quy mô sản xuất nhỏ, khó phát triển vì chật hẹp xen kẽ với khu vực sinh
hoạt. Sản xuất càng phát triển thì nguy cơ lấn chiếm khu vực sinh hoạt, phát thải
ô nhiễm tới khu dân cư càng lớn dẫn đến chất lượng môi trường giảm mạnh
(Đặng Kim Chi và cs.,2011).
- Quan hệ sản xuất mang đặc thù của quan hệ gia đình, làng xã:
Làng nghề là khu vực sử dụng lao động có tính gia đình và lao động mọi
lứa tuổi từ trẻ em đến người già, phụ nữ tham gia. Tại một số làng nghề phụ nữ
lao động chiếm tỷ lệ cao, kể cả tham gia quản lý lao động và kinh tế.
Nhiều làng nghề đặc biệt là các làng nghề truyền thống còn sản xuất theo
kiểu “bí truyền”, giữ bí mật cho dòng họ, tuân theo hương ước không chịu cải
tiến áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nên cản trở việc áp dụng giải pháp
kỹ thuật mới, cũng như khuyến khích sáng kiến của người lao động mang hiệu
quả kinh tế cùng với hiệu quả bảo vệ môi trường như làng nghề đúc đồng, thủ
công mỹ nghệ, gốm sứ… (Đặng Kim Chi và cs.,2011)
- Công nghệ sản xuất và thiết bị kỹ thuật phần lớn ở trình độ lạc hậu chắp
vá, kiến thức tay nghề không toàn diện:
Điều này dẫn tới tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu, làm tăng phát thải
nhiều chất ô nhiễm môi trường nước, đất, khí ảnh hưởng tới giá trị sản phẩm
(kinh tế) và chất lượng môi trường (sinh thái). Quy trình sản xuất thủ công chiếm
70,69% đối với ngành thủ công mỹ nghệ, 61,5% đối với ngành chế biến nông sản
thực phẩm, trung bình chiếm 60% đối với ngành khác (Đặng Kim Chi và cs., 2011).
Tuy nhiên, do tính cạnh tranh thị trường có thể thúc đẩy dân làng nghề
phải đầu tư đối mới công nghệ, kỹ thuật sản xuất nhưng không phải là đầu tư kỹ
thuật môi trường. Vì vậy hầu như các cơ sở đều không có các hệ thống xử lý chất
thải trước khi ra môi trường.



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

- Tài chính và vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất tại các làng nghề quá
thấp, khó có điều kiện phát triển hoặc đổi mới sản phẩm theo hướng thân
thiện với môi trường:
Sản xuất mang tính tự phát nên không có kế hoạch lâu dài, khó huy động
tài chính và vốn đầu tư lớn từ các nguồn khác (Quỹ tín dụng, ngân hàng) nên khó
chủ động trong đổi mới kỹ thuật và sản phẩm “lực bất tòng tâm”, lại càng không
muốn và không thể đầu tư cho xử lý môi trường.
- Trình độ người lao động, chủ yếu là lao động thủ công, văn hóa thấp,
học nghề theo kinh nghiệm nên ảnh hưởng tới nhận thức đối với công tác bảo vệ
môi trường, hạn chế năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Ở những hộ
chuyên, số lượng thợ giỏi chỉ chiếm 6,75%, số lao động không có chuyên môn kỹ
thuật 54,81%, ở các hộ làm theo thời vụ, số lao động không chuyên lên tới
78,76%. Mặt khác, đa số người lao động có nguồn gốc nông dân nên chưa có ý
thức về môi trường lao động, chỉ cần việc làm có thu nhập cao hơn thu nhập từ
nông nghiệp hoặc bổ sung thu nhập trong những lúc nông nhàn nên ngại học hỏi,
không quan tâm tới bảo vệ môi trường… “biết là độc hại nhưng vẫn làm vì có
thu nhập” (Đặng Kim Chi và cs., 2011).
- Công tác quản lý bảo vệ môi trường tại các làng nghề còn ít được quan tâm:
Hầu hết chưa có quy hoạch môi trường đối với các cơ sở sản xuất làng
nghề, chưa có chương trình quản lý giáo dục môi trường, tuyên truyền nâng cao
nhận thức, hiểu biết về tác động của ô nhiễm môi trường cũng như các biện pháp
phòng tránh. Vì vậy, các sự cố rủi ro môi trường tại các làng nghề thường xuyên
xảy ra, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống người dân làng nghề. Chưa có sự gắn kết
giữa các tập tục, hương ước với công tác cải thiện môi trường làng nghề.
- Thiếu các chính sách đồng bộ từ các văn bản Nhà nước đối với các vấn
đề phát triển bền vững làng nghề, các chính sách kinh tế, chính sách về môi

trường, các chính sách hỗ trợ cho công tác cải thiện môi trường… Quản lý nhà
nước về hoạt động làng nghề tại một số địa phương còn chồng chéo nhau giữa

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

các Sở Công nghiệp, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Khoa học và
Công nghệ (Đặng Kim Chi và cs., 2011)
- Chưa có được các giải pháp đồng bộ của các cấp ngành từ trung ương
tới địa phương về quy hoạch, quản lý, giáo dục tới giải pháp kỹ thuật nhằm cải
thiện từng bước môi trường làng nghề, một số tỉnh và địa phương đã quan tâm
tới quy hoạch khu công nghiệp làng nghề, nhưng còn rải rác, một số đề tài thuộc
các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công nghiệp, Khoa học và Công
nghệ, Tổng cục Môi trường đã xây dựng mô hình cải thiện môi trường nhưng
chưa phát huy được tác dụng rộng rãi đối bởi các làng nghề tương tự.
Tất cả những áp lực trên đã ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường làng nghề
và làm suy giảm chất lượng sống tại nông thôn.
1.3.2. Hiện trạng ô nhiễm môi trường làng nghề
1.3.2.1. Đặc điểm của ô nhiễm môi trường làng nghề:
Các chất thải phát sinh tại nhiều làng nghề đã và đang gây ô nhiễm và làm
suy thoái môi trường nghiêm trọng, tác động trực tiếp tới sức khỏe người dân và
ngày càng trở thành vấn đề bức xúc. Ô nhiễm môi trường làng nghề có một số
đặc điểm sau:
- Ô nhiễm môi trường tại làng nghề là dạng ô nhiễm phân tán trong phạm
vi một khu vực (thôn, làng, xã…). Do quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, đan xen
với khu sinh hoạt nên đây là loại hình ô nhiễm khó quy hoạch và kiểm soát.
- Ô nhiễm môi trường tại làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt động
sản xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm (bảng 1.1) và tác động trực tiếp
tới môi trường nước, khí, đất trong khu vực.
- Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề thường khá cao tại khu vực sản

xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người lao động
Chất lượng môi trường tại hầu hết khu vực sản xuất trong các làng nghề
đều không đạt tiêu chuẩn. Các nguy cơ mà người lao động tiếp xúc khá cao: 95%
người lao động có nguy cơ tiếp xúc với bụi, 85,9% tiếp xúc với nhiệt, 59,6% tiếp
xúc với hóa chất (BTNMT, 2008).

×