Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Điều kiện gia nhập WTO của Việt Nam và tác động của việc gia nhập này đối với tình hình phân phối thu nhập.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.21 KB, 82 trang )





KHÓA HỌP LẦN THỨ BẨY
KINH TẾ VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO



Điều kiện gia nhập WTO của Việt Nam và
tác động của việc gia nhập này đối với
tình hình phân phối thu nhập






Nhóm nghiên cứu DIAL
1












Đà Nẵng, ngày 26 và 27 tháng 2 năm 2008


1
Nghiên cứu này được thực hiện bởi Jean-Pierre Cling, Mireille Razafindrakoto, Anne-Sophie Robillard,
François Roubaud và Mohamed Ali Marouani. Các tác giả cám ơn bà Phạm Lan Hương đã cung cấp mô
hình kinh tế Việt NamViệt Nam được CIEM sử dụng, ông Houssein Boumellassa và ông Hugo Valin
(CEPII) đã cho phép sử dụng các kết quả mô phỏng của mình phục vụ cho nghiên cứu này, ông Philippe
Nasse về những bình luận và nhận xét xác đáng.
NGHIÊN CỨU






Mục lục

Điều kiện gia nhập WTO của Việt Nam và tác động của việc gia
nhập này đối với tình hình phân phối thu nhập

Tóm tắt.............................................................................................................................. 5

1. Sự kiện gia nhập WTO là kết quả của một quá trình Việt Nam nỗ lực cải cách
kinh tế và tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới.................................................. 6
1.1. Tăng trưởng kinh tế nhanh, tỷ lệ đói nghèo giảm mạnh....................................................... 6

1.2. Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu......................................................................... 10

1.3. Tăng trưởng đầu tư nước ngoài ............................................................................................ 14


1.4. Sự kiện gia nhập WTO cần được xem xét trong một bối cảnh tổng thể.......................... 16

2. Phân tích các điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO
................................................................................................................................................... 17
2.1. Một thị trường ngày càng mở cửa cho hàng nhập khẩu.................................................... 17

2.2. Các biện pháp khác ngoài thuế quan.................................................................................... 20

2.3. Xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu nhưng hàng hóa Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn trong
việc tiếp cận các thị trường lớn...................................................................................................... 22

2.4. Hiệp định gia nhập WTO bao trùm tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.............. 25

3. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO: Điểm qua kết quả của các công
trình nghiên cứu................................................................................................................... 26
3.1. Tác động của việc gia nhập WTO đối với vấn đề tăng trưởng, đói nghèo và bất bình
đẳng ................................................................................................................................................... 27

3.2. Tác động của việc gia nhập WTO : Trường hợp của Việt Nam........................................ 34

3.3. Nhược điểm của các nghiên cứu về tác động của việc gia nhập WTO đối với Việt Nam
............................................................................................................................................................ 41

4. Phân tích tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với tình hình phân
phối thu nhập : các mô phỏng từ mô hình vi mô-vĩ mô ............................................ 42
4.1. Cấu trúc và những biến chuyển của thị trường lao động Việt Nam 1997-2004 ............. 42

4.2. Giới thiệu mô hình vi mô-vĩ mô .............................................................................................. 52


Giới thiệu mô hình EGC ............................................................................................................... 52

4.3. Phân tích các mô phỏng.......................................................................................................... 55

Kết luận........................................................................................................................... 65

Tài liệu tham khảo........................................................................................................ 68






Danh mục các Biểu đồ

Biểu đồ 1 : Tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân (2000-2007), %
Biểu đồ 2 : Biến đổi tỷ lệ nghèo đói và bất bình đẳng (1993-
2004)

Biểu đồ 3 : Biến đổi thị phần của các nước xuất khẩu ở châu Á
Biểu đồ 4 : Tỷ lệ các sản phẩm đã qua chế biến trong tổng kim
ngạch xuất khẩu

Biểu đồ 5 : Giá trị các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng
năm


Danh mục các Bảng

Bảng 1 : Biến đổi tỷ lệ nghèo đói theo vùng

Bảng 2 : Xuất khẩu sản phẩm may mặc của một số nước vào thị
trường EU, Mỹ và Nhật Bản

Bảng 3 : Cơ cấu địa lý của trao đổi ngoại thương
Bảng 4 : Tỷ lệ đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài vào
kim ngạch xuất khẩu

Bảng 5 : Phân bố các dự án FDI (trừ dầu khí) giữa cáctỉnh của
Việt Nam

Bảng 6 : Cam kết của Việt Nam về thuế quan trong khuôn khổ
WTO

Bảng 7 : Dự báo dựa trên 23 kịch bản sử dụng mô hình EGC về
tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO

Bảng 7 : Tỷ lệ lao động làm công ăn lương phân bố theo vùng
1997-2004

Bảng 8 : Tỷ lệ lao động làm công ăn lương theo loại dân
cư1997-2004

Bảng 9 : Tỷ lệ lao động làm công ăn lương phân bố theo ngành
Bảng 1 : Tỷ lệ lao động có việc làm theo trình độ tay nghề, năm
2004

Bảng 11 : Biến đổi về mức lương theo loại lao động 1997-2004
Bảng 12 : Biến đổi về mức lương theo vùng 1997-2004
Bảng 13 : Tỷ lệ thu nhập từ lương trong chi tiêu của các hộ gia
đình 1997-2004


Bảng 14 : Cấu trúc và sự biến đổi tình hình việc làm trong các
ngành công nghiệp theo loại lao động 1997-2004

Bảng 15 : Miêu tả các kịch bản mô phỏng
Bảng 16 : Các kết quả mô phỏng – Các tập hợp kinh tế vĩ mô
Bảng 17 : Các kết quả mô phỏng – Thu nhập của Chính phủ
Bảng 18 : Các kết quả mô phỏng – Giá trị gia tăng theo ngành
Bảng 19 : Các kết quả mô phỏng – Tỷ lệ tiềng lương và nhu cầu
lao động theo từng loại




Bảng 20 : Các kết quả kinh tế vi mô – Thu nhập của các hộ gia
đình

Bảng 21 :
Bảng 22 :
Các kết quả kinh tế vi mô – Tỷ lệ nghèo đói
Các kết quả kinh tế vi mô – Hệ số Gini



Danh mục các Khung

Khung 1 : Quy chế « Quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường »
(NME)

Khung 2 : Các mô hình lực hấp dẫn và các mô hình cân bằng tổng

thể


Danh mục các Phụ lục

Phụ lục A : Các cam kết chính của Việt Nam trong khuôn khổ WTO

Phụ lục B : Phân tách MCS 2000 thành 31 ngành

Phụ lục C : Quy tắc phân bổ các biến động về thời gian lao động

Phụ lục D :
Phụ lục E :
Các biến liên hệ vĩ mô-vi mô
Tham số của các kịch bản





5/82
Tóm tắt

Tháng 1/2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Sự kiện này diễn ra sau 20 năm Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới,
đánh dấu bước chuyển đổi sang « nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa » và bước khởi đầu cho một quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh và tích cực hội
nhập vào nền kinh tế thế giớ
i.


Mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong 2 thập kỷ qua đã dẫn đến những thay đổi kinh
tế, xã hội sâu sắc. Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh cùng với hiện tượng gia tăng bất bình
đẳng xã hội (dù ở mức thấp hơn so với Trung Quốc). Trong bối cảnh này, nghiên cứu
tác động của việc gia nhập WTO đối với tình hình phân phối thu nhập là một vấn đề cấp
thiết
đặt ra và đây cũng là nội dung của nghiên cứu này.

Phần 1 của nghiên cứu giới thiệu tổng hợp về các chính sách kinh tế Việt Nam đã thực
hiện từ năm 1986, với kết quả cao nhất là sự kiện gia nhập WTO và các kết quả khác về
tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng các chỉ số xã hội, ngoại thương, đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI).

Phần 2 của nghiên cứ
u phân tích những điều kiện gia nhập WTO của Việt Nam, qua đó
cho thấy những cam kết về tự do hóa thuế quan gắn với WTO chỉ ở mức độ tương đối
hạn chế và phần lớn những cam kết của Việt Nam tập trung trong các lĩnh vực khác :
cạnh tranh, dịchvụ ; trợ cấp ; mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài … Ngoài ra, Việt
Nam cũng tiếp c
ận được các thị trường lớn trên thế giới dễ dàng hơn.

Phần 3 của nghiên cứu điểm lại kết quả của các công trình nghiên cứu khác về tác động
của tự do hóa thương mại đối với tình hình phân phối thu nhập ở các nước đang phát
triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Những nghiên cứu về tác động của các chính
sách thương mại (tăng trưởng, nghèo đói, phân phối thu nhập…) đối vớ
i Việt Nam đến
nay chỉ mang lại những kết quả khiêm tốn.

Cuối cùng, Phần 4 của nghiên cứu phân tích những biến đối mới đây về việc làm và thu
nhập, đưa ra một số kết quả phỏng đoán về tác động của WTO đối với tình hình phân
phối thu nhập, và cố gắng đi xa hơn một bước so với các nghiên cứu trước theo hai

hướng : thứ nhất là sử d
ụng mô hình cân đối tổng thể kết hợp với một mô hình mô
phỏng vi mô để đánh giá sâu hơn tác động đối với các hộ gia đình ; thứ hai là không chỉ
giới hạn nghiên cứu các tác động của việc tự do hóa thuế quan mà còn đánh giá cả tác
động của việc tiếp cận các thị trường quốc tế dễ dàng hơn và gia tăng đầu tư trực tiếp
nước ngoài.




6/82
1. Sự kiện gia nhập WTO là kết quả của một quá trình Việt Nam nỗ lực cải
cách kinh tế và tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới

Trong 2 thập kỷ qua, Việt Nam đã tiến hành một chương trình cải cách sâu rộng, tạo ra sự
chuyển biến mạnh mẽ trong phương thức vận hành của nền kinh tế và là cơ sở để dẫn đến
sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WTO vào đầu năm 2007 (Chaponnière, Cling và
Bin, 2007). Những cải cách này có 3 hệ quả chủ yếu xét trên bình diện kinh tế-xã hội, mà
chúng tôi sẽ giới thiệu vắn tắt trong phầ
n này : tăng trưởng kinh tế nhanh dẫn đến tỷ lệ đói
nghèo giảm mạnh nhưng làm gia tăng bất bình đẳng ; hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới trong khuôn khổ chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu ; gia tăng đầu tư trực tiếp
nước ngoài, đặc biệt là kể từ sau khi gia nhập WTO.

1.1. Tăng trưởng kinh tế nhanh, tỷ lệ đói nghèo giảm mạnh

Sau nhiều năm chiến tranh, khủng hoảng kinh tế và thiếu hụt, việc thực hiện chính sách Đổi
Mới vào năm 1986 đã đánh dấu bước khởi đầu của một giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ
của nền kinh tế Việt Nam, một trong những nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng nhanh nhất trên
thế giới cùng với Trung Quốc. Sự tăng trưởng này

đã góp phần cải thiện đáng kể các chỉ số
kinh tế-xã hội, giảm đói nghèo. Tuy nhiên, thành quả của sự tăng trưởng không được phân
bố đồng đều giữa các vùng miền cũng như giữa các thành phần dân cư.

Sự trỗi dậy của Việt Nam từ khi thực hiện Chính sách Đổi Mới

Từ đầu những năm 1990, tỷ lệ tăng trưởng GDP của Việt năm đạt mức 8%/năm (gần với
mức 9% của Trung Quốc trong cùng thời kỳ). Từ đầu những năm 1990, tỷ lệ tăng trưởng
của nền kinh tế Việt Nam (gần 8%/năm) đứng thứ hai ở châu Á, sau Trung Quốc (Biểu đồ
1).

Tốc độ tăng trưởng nhanh chóng này bắt nguồn từ ch
ương trình cải cách kinh tế được khởi
động từ cuối năm 1986 dưới tên gọi « Đổi Mới », một vài năm sau khi Trung Quốc tiến hành
một chương trình cải cách tương tự (1978). Từ chính sách Đổi mới đã đưa ra khái niệm
«nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ». Những năm tiếp sau đó, Việt
Nam đã liên tục thực hiện các biện pháp cải cách mạnh m
ẽ:
- Phi tập thể hóa nông nghiệp, tự do hóa giá cả;
- Phát triển khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
- Xóa bỏ một phần hệ thống kế hoạch hóa tập trung ;
- Mở cửa kinh tế, giảm thuế hải quan, bãi bỏ độc quyền ngoại thương của Nhà nước.




7/82
Biểu đồ 1 : Tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân (2000-2007), %

Nguồn

: Chaponnière, Cling va Bin (2007)

Liên tục ký kết các Hiệp định thương mại

Từ khi Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam năm 1993, Việt Nam đã dần nối lại quan hệ
với cộng đồng quốc tế (nối lại viện trợ quốc tế) và ký nhiều hiệp định thương mại với nước
ngoài góp phần đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế được khởi
động cùng với chính sách Đổ
i mới:

- Sau khi gia nhập ASEAN
2
(1997), thuế nhập khẩu đối với hàng hóa có nguồn gốc từ
các nước ASEAN đã được cắt giảm dần đến mức dưới 5 % kể từ năm 2006 trong
khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do Đông Á (Asian Free Trade Area - AFTA) ; các
nước thành viên khác của ASEAN cũng cắt giảm thuế quan đối với hàng xuất khẩu
của Việt Nam, do đó, hàng hóa Việt Nam được tạo điều kiện tốt hơn trong vi
ệc tiếp
cận thị trường các nước này; việc ký kết Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN-Trung
Quốc (ASEAN-China Free Trade Agreement - ACFTA) vào năm 1994 đã dẫn đến
việc cắt giảm thuế quan bổ sung áp dụng đối với Trung Quốc (trước đó đã từng
được áp dụng đối với một số mặt hàng nông sản) ;

- Năm 2000, Việt Nam ký Hiệp định thương mại song phương vớ
i Mỹ (United States
Bilateral Trade Agreement - USBTA) ; Hiệp định này đã mở cửa thị trường Mỹ cho
hàng hóa Việt Nam (tuy nhiên, vẫn áp dụng hạn ngạch) ; hàng xuất khẩu của Việt
Nam vào thị trường Mỹ được áp dụng quy chế «tối huệ quốc » từ năm 2002 trong
khuôn khổ áp dụng Hiệp định này ; mức thuế quan trung bình áp dụng cho hàng
xuất khẩu của Việt Nam đã giảm từ 40% xuống còn 3-4% ; đổi lại, Việ

t Nam cũng cắt

2
ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) bao gồm 10 nước thành viên : Brunây, Campuchia,
Inđônêxia, Lào, Malayxia, Myanma, Philipin, Xingapo, Thái Lan, Việt NamViệt Nam.
0% 2% 4% 6% 8% 10%
Taiw an
Philippines
Indonesie
Thailande
Corée du Sud
Singapour
Malaisie
Hong Kong
Inde
Vietnam
Chine


8/82
giảm thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ Mỹ và đưa ra nhiều cam kết về mở cửa
cho đầu tư của Mỹ (xem phần sau) ;

- Đầu năm 2007, trở thành thành viên của WTO sau hơn 10 năm đàm phán và 20
năm kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới ; là thành viên của WTO, Việt Nam được
hưởng quy chế tối huệ quốc của tất cả các nước thành viên khác (được xóa bỏ h
ạn
ngạch đối với hàng xuất khẩu), đồng thời Việt Nam cũng phải áp dụng các quy định
của WTO. Sự kiện gia nhập WTO là kết tinh của một quá trình bền bỉ cải cách kinh
tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam.


Tỷ lệ đói nghèo giảm mạnh

Tỷ lệ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế Việt Nam đã góp phần làm giảm tỷ lệ đói nghèo từ
những năm 1990 (Biểu đồ 2). Tỷ lệ đói nghèo về tiền tệ đã giảm 3 lần kể từ năm 1993 (từ
58,1% xuống 19,5%, năm 2004 ; VASS, 2006).

Đồng thời, tình trạng bất bình đẳng cũng có chiều hướng gia tăng, mặc dù ở mức thấp hơn
Trung Quốc. Chỉ số Gini ở cấp độ quốc gia đã tăng từ 0,34 lên 0,37 trong giai đoạn 1993-
2004. Trên thực tế, hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận về đánh giá tính trạng gia tăng
bất bình đẳng ở Việt Nam trong thập kỷ qua. Mặc dù chỉ số Gini chỉ tăng ở mức hạn chế,
nhưng các chỉ số khác cho thấy có sự gia tăng sức ép về tình trạng bất bình đẳ
ng ở Việt
Nam. Mức chênh lệch giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất đã tăng từ 4,97 lên 6,27
trong cùng thời kỳ, phản ánh sự xuất hiện của một tầng lớp trung lưu cao cấp tập trung ở
các đô thị lớn. Các nghiên cứu phân tích chỉ số về kinh tế, xã hội và y tế (tỷ lệ suy dinh
dưỡng ở trẻ em) đều cho thấy có sự gia tăng tình trạng bất bình đẳng (Moser, 2005 ; Trần,
2003). Mộ
t trong những mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích sâu sắc vấn đề bất bình
bình trong mối liên hệ với chính sách thương mại.

Biểu đồ 2 : Tình hình đói nghèo và bất bình đẳng (1993-2004)
58,1
37,4
28,9
19,5
37
35
35
34

4,97
6,27
5,49
6,03
0
10
20
30
40
50
60
70
1993 1998 2002 2004
4
4,5
5
5,5
6
6,5
Incidence Pauvreté Indice Gini
Ratio riches/pauvres

Nguồn
: VASS, 2006 ; tính toán của các tác giả.

Các chỉ số phát triển con người (y tế, giáo dục...) đã có những biến đổi hết sức tích cực. Với
tỷ lệ 100% trẻ em học hết tiểu học và 75,8% ở cấp trung học, Việt Nam được xếp ở vị trí
cao hơn rất nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển. Tuổi thọ của người dân cũng
tăng lên, 68 tuổi đối với nam giớ
i và 73 tuổi đối với nữ giới (2005).




9/82
Trên phạm vi vùng miền, tình trạng nghèo đói biến đổi khác nhau tùy theo từng vùng (Bảng
4). Khu vực TP HCM (Đông Nam Bộ) và Đồng Bằng sông Hồng, tình trạng nghèo về tiền tệ
và lương thực hầu như đã được giải quyết (trong các báo cáo quốc tế, tình trạng này
thường được gọi bằng cụm từ « rất nghèo »). Trái lại, trong một số vùng miền khác, tình
trạng nghèo đói giảm không đáng kể, đặc biệt là vùng Tây Bắc n
ơi có tỷ lệ nghèo đói chung
và tỉ lệ nghèo đói về lương thực vẫn còn ở mức cao.


Bảng 1 : Tình hình đói nghèo theo từng vùng (%)
199
3 199 2002 2004
Tỷ lệ đói nghèo chung 58,1 37,4 28,9 19,5
Đông Bắc 86,1 62,0 38,4 29,4
Tây Bắc 81,0 73,4 68.0 58,6
Đồng bằng sông Hồng 62,7 29,3 22.4 12,1
Duyên hải Bắc Trung bộ 74,5 48,1 43.9 31,9
Duyên hải NamTrung bộ 47,2 34,5 25.2 19,0
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
Đồng bằng sông Mêkong
70,0
37,0
47,1
52,4
12,2

36,9
51.8
10.6
23.4
33,1
5,4
19,5
Tỷ lệ đói nghèo về lươ
thực
24,9
15,0 9,9 6,9
Đông Bắc 29,6 17,6 14,1 9,4
Tây Bắc 26,2 22,1 28,1 21,8
Đồng bằng sông Hồng 24,2 8,5 6,5 4,6
Duyên hải Bắc Trung bộ 35,5 19,0 17,3 12,2
Duyên hải NamTrung bộ 22,8 15,9 10,7 7,6
Tây Nguyên
Đông Nam bộ
Đồng bằng sông Mêkong
32,0
11,7
17,7
31,5
5,0
11,3
17,0
3,2
7,6
12,3
1,8

5,2

Nguồn : Tổng cục thống kê ; tính toán của các tác giả.



10/82
Phân tích kết quả trong Bảng :
- Nghèo đói chung : Năm 2004, một người được coi là nghèo (« nghèo nói chung ») nếu
mức chi tiêu hàng năm thấp hơn 11USD/tháng (173 000 đồng). Đây được coi là ngưỡng
nghèo về tiền tệ.
- Nghèo về lương thực : Ngưỡng nghèo về lương thực được xác định dựa trên một
khoản tiền đủ để mua lương thực đảm bảo cung cấp 2.100 calo/ngày. Ngưỡng nghèo
này là 10 USD/tháng (160 000 đồng), năm 2004. Ngưỡng nghèo đói chung bao gồm
ngưỡ
ng nghèo về lương thực cộng thêm những vật dụng thiết yếu ngoài lương thực.

1.2. Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu

Từ khi thực hiện chính sách Đổi Mới và tiếp bước các con rồng Đông Á, Việt Nam, đã theo
đuổi một chính sách thương mại kết hợp giữa chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu có
trợ cấp (thành lập các khu chế xuất) và chiến lược thay thế hàng nhập khẩu. Việt Nam đã
tập trung đầu tư phát triển ngành công nghiệp ôtô (xe máy), trở thành nước xuất khẩu gạo
đứ
ng thứ hai trên thế giới, xuất khẩu cà phê Robusta đứng đầu thế giới….

Kim ngạch xuất khẩu tăng rất nhanh

Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt mức 20%/năm từ giữa những năm
1980, cao hơn Trung Quốc (15%/năm). Hàng hóa Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao

hơn nhờ sự mất giá của đồng Đôla từ năm 2003, trong khi tiền Đồng Việt Nam được gián
tiếp định giá ngầm theo đồng Đôla.

Nhờ tăng trưởng xuất khẩu, thị phần của Việ
t Nam trên thị trường thế giới đã có mức phát
triển mạnh nhất so với các nước châu Á khác (Biểu đồ 3). Thị phần của Việt Nam đã tăng
gấp 3 lần kể từ năm 1995. Trong thương mại quốc tế, Việt Nam vẫn là một nước xuất khẩu
nhỏ, chỉ chiếm 0,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới (so với 1% của Thái Lan).


Biểu đồ
3 : Thị phần xuất khẩu của các nước châu Ấ
(cơ sở 100=1995)
0
50
100
150
200
250
300
1995 1997 1999 2001 2003
Vietnam
Chine
Philippines
Corée
Malaisie
Thailande

Nguồn
: Chaponnière, Cling, Bin (2007) theo CEPII/Chelem ;



11/82

Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng có những thay đổi quan trọng trong những năm vừa qua. Từ
năm 2002, các sản phẩm đã qua chế tạo chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu
(Biểu đồ 4). Đó chủ yếu là hàng dệt may và linh kiện điện tử.

Một số nước khác đã đạt tỷ lệ 50% hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩ
u gồm
Philipin (năm 1984), Trung Quốc (năm 1986), Thái Lan và Malayxia (năm 1989) và
Inđônêxia (năm 1995). Việc Việt Nam xuất khẩu dầu thô (chiếm khoảng 20% tổng kim
ngạch xuất khẩu) làm giảm tỷ lệ hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy
nhiên, tỷ trọng dầu thô trong tổng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm xuống trong
những năm tới khi Việt Nam xây dựng các nhà máy lọc dầu .để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ

trong nước.

Biểu đồ 4 : Tỷ lệ sản phẩm đã qua chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu (%)
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%

1985 1987 1989 1991 1993 1995 1997 1999 2001 2003
Taiwan
Corée du Sud
Chine
Philippines
Malaisie
Indonesie
Vietnam
Thailande


Nguồn
: CEPII/Chelem ; tính toán của các tác giả.


Cơ cấu hàng xuất khẩu và tỷ trọng hàng dệt may trong tổng kim ngạch xuất khẩu phản ánh
đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, ở giai đoạn đầu của
quá trình công nghiệp hóa. Trước khi gia nhập WTO, ngay từ đầu năm 2005, hàng dệt may
xuất khẩu của Việt Nam đã được miễn áp dụng hạn ngạ
ch. Mặc dù có sự cạnh tranh của
Trung Quốc, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu hàng dệt may đứng thứ 6 trên thế giới
3

(và đứng thứ 5, nếu tính Hồng Kông gộp vào Trung Quốc), với kim ngạch xuất khẩu tăng
gấp 4 lần trong giai đoạn 2001 (trước khi ký Hiệp định thương mại Việt-Mỹ) và 2006 (Bảng
2). Kể từ năm 2007, việc Mỹ xóa bỏ hạn ngạch đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn
thúc đẩy sự tăng trưởng này.


3

Chỉ giới hạn ở ba thị trường lớn trên thế giới là Liên minh châu Âu, Mỹ và Nhật bản.


12/82
Bảng 2 : Xuất khẩu hàng may mặc của một số nước châu Á
vào thị trường EU, Mỹ và Nhật Bản (triệu USD và %)


Nguồn
: Chaponnière, Cling, Bin (2007) theo CEPII/Chelem.
2001 2002 2003 2004 2005 2006 Var.
2006/01
(%)
Thị phần
(2006)
1. Trung Quố

Tổng 28069 29098 35254 41869 55315 62476 +122.6
EU 7486 8810 11578 14322 21092 23934 +219.7 31.4%
Mỹ 6416 7070 8667 10685 16774 19865 +209.6 27.1%
Nhật Bản 14167 13218 15009 16862 17448 18678 +131.8 83.4%
2. Bănglađét

Tổng 4471 4359 5302 6518 6686 8636 +93.2
EU 2527 2583 3515 4621 4400 5811 +130.0 7.6%
Mỹ 1929 1757 1759 1871 2268 2808 +45.6 3.8%
Nhật Bản 15 18 28 26 18 18 +20.0 0.0%
3. Ấn Độ

Tổng 3862 4208 4839 5443 7233 8229 +113.1

EU 1979 2186 2688 3079 4028 4824 +143.8 6.3%
Mỹ 1774 1939 2059 2256 3064 3235 +82.4 4.4%
Nhật Bản 109 83 92 107 141 171 +56.9 0.2%
4. Hồng Kông

Tổng 4382 6129 6131 6354 5672 6052 +38.1
EU 2328 2208 2379 2440 2121 3200 +37.5 4.2%
Mỹ 1994 3873 3708 3863 3507 2799 +40.4 3.8%
Nhật Bản 60 48 44 51 45 53 -11.7 0.2%
5. Inđônêxia

Tổng 4016 3590 3815 4169 4476 5613 +39.8
EU 1607 1391 1537 1662 1492 1812 +12.8 2.4%
Mỹ 2203 2050 2153 2390 2868 3666 +66.4 5.0%
Nhật Bản 205 149 125 117 115 135 -34.1 0.2%
6. Việt Nam

Tổng 1261 1988 3413 3839 4110 5052 +300.6
EU 689 656 591 788 857 1285 +86.5 1.7%
Mỹ 47 873 2337 2503 2664 3152 +6606.4 4.3%
Nhật Bản
525 459 484 548 588 616
+17.3 0.8%


13/82

Kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều với các nước châu Á

Cơ cấu địa lý và ngành nghề trong hoạt động ngoại thương có đặc điểm khác nhau tùy theo

lĩnh vực xuất khẩu hay nhập khẩu. Trong cả hai lĩnh vực này, châu Á đều chiếm vị trí quan
trọng trong quan hệ ngoại thương của Việt Nam.

Mỹ (với tỷ lệ trao đổi hai chiều ngày càng gia tăng) và Liên minh châu Âu chiếm 1/3 kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam (Bảng 3). Hàng xuất khẩu vào các thị trường này chủ
yếu là
hàng tiêu dùng (dệt may). Ngược lại, các nước này chiếm vị trí khiêm tốn trong kim ngạch
nhập khẩu của Việt Nam.

Bảng 3 : Kim ngạch trao đổi thương mại hai chiều với các nước và khu vực (2005)

Xuất khẩu Nhập khẩu
Nước/
Khu vực
Giá trị
(Tỷ USD)
Tỷ lệ
(%)
Nước/
Khu vực
Giá trị
(Tỷ lệ USD)
Tỷ lệ
(%)
1. Mỹ 5,9 18,2 1. ASEAN 9,3 25,2
2. ASEAN 5,7 17,6 - Xingapo 4,5 12,2
- Xingapo 1,6 4,9 - Thái Lan 2,4 6,5
- Malaixia 1,2 3,7 2. Trung Quốc 5,9 16,0
3. EU 5,5 17,0 3. Đài Loan 4,3 11,7
- Đức 1,4 4,3 4. Nhật Ban 4,1 11,1

- Anh 1,2 3,7 5. EU 2,6 7,1
4. Nhật Bản 5,2 13,8 - Đức 0,7 1,9
5. Trung Quốc 3,2 8,5 - Pháp 0,5 1,4
Tổng 32,4 100,0 Tổng 36,8 100,0
Nguồn : GSO ; tính toán của các tác giả.

Các nước châu Á (ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản) chiếm gần ½ tổng kim ngạch xuất khẩu
và hơn ½ kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Hàng xuất khẩu của Việt Nam vào các nước
này (đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản) chủ yếu bao gồm nguyên liệu thô (dầu thô, nông
sản), trong khi hàng nhập khẩu chủ yếu bao gồm sản phẩm đã qua sơ chế hoặc trang thiết
bị. C
ần lưu ý là Việt Nam ít tham gia quá trình phân công lao động trong lĩnh vực công
nghiệp trong phạm vi khu vực. Trong khu vực, trao đổi thương mại hai chiều giữa Trung
Quốc và các nước châu Á tập trung chủ yếu vào các sản phẩm qua sơ chế và hàng điện tử.



14/82
1.3. Tăng trưởng đầu tư nước ngoài

Mặc dù quá trình tự do hóa tài chính diễn ra từ từ và ở mức độ khiêm tốn, nhưng Việt Nam
cũng đã thu hút được một lượng đáng kể đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ năm 2005, đầu tư
trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng mạnh và đến năm 2007, đã đạt gần 15 tỷ USD vốn đầu tư
đã cấp phép (Biểu đồ 5). Giai đoạ
n trước đó cho đến năm 2005, giá trị vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đăng ký hàng năm là 2 tỷ USD. Năm 2005 là năm cuối cùng thu được số liệu
này. Giá trị vốn đăng ký có thể đạt mức tăng trưởng tương đương giá trị các dự án đầu tư.

Năm nước đầu tư hàng đầu là Xingapo, Đài Loan, Nhật bản, Hàn Quốc, Hồng Kông chiếm
2/3 số vốn đầu t

ư thực hiện từ năm 1988.

Biểu đồ 5 : Mức đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng năm
(2000-2007) - Tỷ USD
7,8
13
4,7
2
2,2
2
2,6
1,6
2,6
5
2,4
2,5
2,7
2,9
3,3
4,1
0
2
4
6
8
10
12
14
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007*
Enregistré Réalisé


Nguồn
: Bộ Kế hoạch và Đầu tư ; tính toán của các tác giả.
* : Dự báo

Phân tích số liệu trong Biểu : Trung bình, khoảng ½ giá trị đầu tư dự kiến (=đăng ký) được
giải ngân và thực hiện, trong đó cần phải tính đến những dự án lớn cần triển khai trong
nhiều năm. Trong thời kỳ tăng trưởng đầu tư, khoảng cách giữa vốn đăng ký/vốn thực hiện
có xu hướng t
ăng lên do cần phải tính đến thời hạn triển khai dự án.

Một nửa số vốn đầu tư này tập trung vào các ngành công nghiệp chế tạo, chế biến. Lĩnh
vực khai thác dầu khí (offshore) thu hút khoảng ¼ lượng vốn đầu tư thực hiện trong những
năm vừa qua. Đứng thứ ba trong việc thu hút đầu tư nước ngoài là ngành du lịch.

Sự đóng góp quan trọng của khu vực đầu tư nước ngoài vào tăng
trưởng xuất khẩu

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào tăng trưởng xuất khẩu
(Bảng 4), chiếm 56% tổng kim ngạch xuất khẩu nói chung và 48% kim ngạch xuất khẩu trừ
dầu thô. Ngành khai thác và xuất khẩu dầu thô được thực hiện toàn bộ trên cơ sở liên
doanh, liên kết với các tập đoàn dầu khí nước ngoài.



15/82
Bảng 4 : Tỷ lệ xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng
kim ngạch xuất khẩu 2007* (giá trị và tỷ lệ tăng trưởng)
Nguồn
: Bộ Kế hoạch - Đầu tư ; tính toán của các tác giả.

* : 8 tháng đầu năm



Hầu hết các dự án đầu tư nước ngoài đều tập trung ở hai vùng kinh tế
trọng điểm của cả nước


Đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung tại một số địa phương (Bảng 5). TP Hồ Chí Minh và
các vùng phụ cận thu hút gần 2/3 lượng đầu tư nước ngoài. Khu vực đồng bằng sông Hồng
(Hà Nội và các vùng phụ cận) thu hút được khoảng hơn 1/4. Tổng cộng, hai vùng kinh tế
trọng điểm này thu hút khoảng 90% lượng đầu tư nước ngoài trong khi đó dân số chỉ chiếm
41% dân số cả nướ
c. Sự tập trung vốn đầu tư nước ngoài này là nguồn gốc gây ra nhiều
mất cân đối và tạo ra tình trạng di dân từ nông thôn ra các thành phố lớn.
Loại doanh nghiệp/lĩnh vực Giá trị
(triệu
USD)
Tổng Tổng,
trừ dầu thô
Tỷ lệ tăng
trưởng 2007/06
Doanh nghiệp trong nước 20,086 43.8% 52,4% 24.7%
Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
25,839 56.2% 47,6% 15.9%
- Dầu thô 7,594 16.5% 19,8% -11.3%
- Các mặt hàng khác 18,245 39.7% 26,8% 32.8%
Tổng kim ngạch xuất khẩu 45,925 100.0% - 19.6%
Tổng kim ngạch xuất khẩu, trừ

dầu thô
38,331 83.5% 100,0% 25.6%


16/82

Bảng 5 : Phân bố các dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, ngoài các dự án về dầu
mỏ (1988-2007)

% Dự án Thực hiện Dân số
TP HCM và phụ cận 61.2 63.6 19.1
- Đông Nam (TP HCM) 58.7 60.2 15.3
- Đồng bằng sông Mêkông
(Long An và Tiền Giang)
2.5 3.4 3.8
Đồng bằng sông Hồng

28.3 27.5 22.0
Tổng

89.5 91.1 41.1
Các địa phương khác 10.5 8.9 58.9
Nguồn : Bộ Kế hoạch-Đầu tư; tính toán của các tác giả.


1.4. Sự kiện gia nhập WTO cần được xem xét trong một bối cảnh tổng thể

Trong phần này, chúng tôi đã phân tích việc Việt Nam gia nhập WTO dựa trên những thành
tựu kinh tế mà Việt Nam đã đạt được trong những năm qua, những hệ quả kinh tế, xã hội
và chính sách thương mại được thực hiện từ khi Việt Nam tiến hành đổi mới.


Chúng tôi cũng đi sâu nghiên cứu tình hình kinh tế, xã hội trước đây ở trong nước cũng như
trong khu vực (nghèo đói, bất bình đẳng, đầu tư
nước ngoài …), qua đó rút ra những kết
luận có liên quan đến tác động mà việc gia nhập WTO có thể mang lại. Chúng tôi sẽ đi sâu
phân tích các tác động này trong những phần sau.

Xét trên bình diện thay đổi thuế quan, những tác động của việc gia nhập WTO chỉ ở mức
hạn chế, vì quan hệ ngoại thương của Việt Nam được thực hiện chủ yếu với các nước châu
Á, là các đối tác mà Việt Nam đã và đang ký kết Hiệp đị
nh thương mại tự do (ASEAN,
Chine).

Một số tác động của WTO cũng đã được dự kiến trước và được các tác nhân kinh tế năm
bắt ngay từ khi Việt Nam còn đang trong quá trình đàm phán gia nhập, mà một trrong
những minh chứng là sự gia tăng của đầu tư nước ngoài.



17/82
2. Phân tích các điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
WTO

Tháng 1/2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO sau hơn 10 năm đàm
phán (1995). Việc Việt Nam ký kết Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ (USBTA - United
States Bilateral Trade Agreement) năm 2001 là yếu tố góp phần thúc đẩy nhanh hơn
quá trình đàm phán này, thúc đẩy Việt Nam tăng cường cải cách thể chế, cải cách chính
sách kinh tế để hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.

Gia nhập WTO, Việt Nam đã chấp nhận nhiều cam k

ết (xem Phụ lục A Danh sách tóm
tắt các cam kết của Việt Nam). Giống như các nước khác mới trở thành thành viên của
WTO, trong nhiều trường hợp, các cam kết này có mức độ ràng buộc cao hơn so các
cam kết được áp dụng cho các nước đã là thành viên của WTO vào thời điểm thành lập
tổ chức này (Hiệp định Marrakech, 1994). Mức thuế quan áp dụng cho nông sản sẽ
được ấn định ở mức thấp hơn so với mứ
c hiện hành được áp dụng cho các nước đang
phát triển khác có trình độ phát triển tương đương với Việt Nam. Việt Nam cũng cam kết
chấm dứt các hình thức trợ cấp cho xuất khẩu (điều mà các nước đang phát triển khác
có trình độ phát triển tương đương như Việt Nam vẫn được tiếp tục làm), mở cửa một
số lĩnh vực cho đầu tư nước ngoài, tiếp tục c
ổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước...

Đổi lại, Việt Nam được tiếp cận dễ dàng hơn thị trường của các nước thành viên WTO
và hạn ngạch đối với hàng dệt-may xuất khẩu của Việt Nam đã được bãi bỏ từ đầu năm
2007. Tuy nhiên, việc tiếp cận các thị trường lớn trên thế giới (đặc biệt là Mỹ và Liên
minh châu Âu) vẫn còn bấp bênh đối với hàng xuất khẩu của Vi
ệt Nam, vì các nước này
vẫn coi Việt Nam chưa có nền kinh tế thị trường (xem Khung 1 dưới đây).

2.1. Một thị trường ngày càng mở cửa cho hàng nhập khẩu

Từ những năm 1990, Việt Nam đã liên tục cắt giảm các mức thuế hải quan và bãi bỏ
phần lớn hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu. Như vậy, mức độ tự do hóa thương mại
bổ sung sau khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ chỉ ở mức khiêm tốn và sẽ diễn ra từ từ
trong một thời gian tương đối dài (12 năm).

Tiếp tục cắt giảm các mức thuế quan

Ngay từ những năm 1990, trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã liên tục cắt giảm các

mức thuế quan của mình. Đến trước thời điểm gia nhập WTO, mức thuế quan trung
bình (trung bình số học) đã giảm xuống còn 17,4% so với mức 23,3% 10 năm trước đó.

Tỷ lệ bảo hộ thực tế
4
còn được cắt giảm với nhịp độ nhanh hơn, giảm từ 59,5% năm
1997 xuống 26,2% năm 2001, tức là giảm hơn 2 lần (Athukorala, 2007). Trong các
ngành công nghiệp, tỷ lệ bảo hộ thực tế đã giảm từ 121,5% xuống còn 43,9%.


4
Tỷ lệ bảo hộ thực tế đối với một hàng hóa được tính như sau : Tỷ lệ bảo hộ hải quan tính theo giá của
hàng hóa đó trên thị trường thế giới trừ đi tỷ lệ bảo hộ áp dụng đối với các hàng hóa trung gian được tích
hợp vào hàng hóa đó trong quá trình sản xuất, nhân với giá của các hàng hóa trung gian trên thị trường thế
giới.


18/82
Thuế quan trung bình của Việt Nam nằm ở mức tương đương với Trung Quốc vào thời
điểm trước khi nước này gia nhập WTO, nhưng lại cao hơn rất nhiều so với mức thuế
quan của Inđônêxia, Malayxia và Philipin. Mức thuế quan trung bình của Việt Nam cũng
cao hơn rất nhiều so với mức thuế quan trung bình hiện nay của Trung Quốc (Ngân
hàng Thế giới, 2006).

Việt Nam cũng cam kết tổng hợp
5
các mức thuế quan áp dụng cho phần lớn các sản
phẩm, với các mức thuế từ 0% đến 35% (Bảng 6). Mức thuế quan áp dụng đối với ôtô
và xe máy vẫn duy trì ở mức cao, vì Việt Nam có chính sách bảo hộ ngành công nghiệp
này ở trong nước (ngành công nghiệp ôtô của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc lắp ráp

với số lượng nhỏ). Một số mặt hàng nhạy cảm (trứng, thuốc lá,
đường, muối) sẽ tiếp tục
được bảo hộ bằng biện pháp hạn ngạch. Việc cắt giảm đối với các mức thuế quan tổng
hợp sẽ được thực hiện trong thời hạn 12 năm, giảm từ mức trung bình 17,4%, năm
2007 xuống 13,6%, năm 2019.

Mức thuế suất trung bình áp dụng đối với hàng nông sản sẽ giảm từ 27,3%, đầu năm
2007 xuống 21,7% năm 2019. T
ỷ lệ này thấp hơn so với các nước láng giềng của Việt
Nam: Thái Lan và Philipin áp dụng mức thuế quan đối với các sản phẩm này tương ứng
là 36% và 34%.

Việt Nam đã ký Hiệp định đa phương về công nghệ thông tin. Trong khuôn khổ Hiệp
định này, Việt Nam cam kết cắt giảm mức thuế quan xuống còn 0% đối với nhiều mặt
hàng điện tử và tin học trong thời hạn từ 0 đến 8 nă
m tùy theo từng mặt hàng.


5
Thuế quan tổng hợp = mức thuế quan tối đa mà một nước cam kết áp dụng cho một sản phẩm
cụ thể trong khuôn khổ của WTO.


19/82
Bảng 6 : Cam kết của Việt Nam về thuế quan sau khi gia nhập WTO (%)

2005
(Trước khi gia
nhập)
(1)

2007
(Khi gia
nhập)
2019
(Mức thuế quan
cuối cùng)
Lịch trình thực
hiện
Trung bình
chung đơn
giản
18,5 17,4 13,6 Cho đến 12 năm
Hàng nông sản
29,4 27,3 21,7 Cho đến 5 năm
Hàng phi nông
sản
17,0 16,0 12,5 Cho đến 12 năm
- Sắt
9,7 17,7 13,0 Cho đến 2 năm
- Dầu lửa
14,6 27,2 27,1 Cho đến 2 năm
- Dệt-may
36,6 13,6 13,5 Ngay từ khi gia nhập
- Da giày
45,0 35,8 27,2 Ngay từ khi gia nhập
- Ô tô
63,6 84,8 58,7 Cho đến 12 năm
- Xe máy
100,0 100,0 74,3 Cho đến 12 năm
- Linh kiện điện

tử
13,3 13,9 9,5 5 năm
Mức thuế tối đa
150 150 85
Số dòng thuế
10.689 10.444 10.444
Nguồn : IMF (2007)

(1) Quy chế tối huệ quốc (MFN) được áp dụng đối với phần lớn các nước ngoài ASEAN.

Biện pháp hạn ngạch nhập khẩu vẫn được áp dụng đối với hai mặt hàng : Từ cuối năm
2005, chỉ còn sản phẩm đường và dầu lửa còn chịu áp dụng hạn ngạch nhập khẩu, với
việc ấn định khối lượng tối đa được nhập khẩ
u.

Ngoài ra, còn có 7 mặt hàng khác chịu áp dụng hạn ngạch nhập khẩu, nhưng không ấn
định khối lượng tối đa được nhập khẩu : sữa, trứng, ngô, thuốc lá, muối và bông. Đối
với các mặt hàng này, nếu khối lượng nhập khẩu vượt quá mức quy định thì sẽ phải
chịu một mức thuế quan cao hơn.


Bãi bỏ các biện pháp miễn thuế quan

Hai loại hình miễn thuế quan chính nhằm khuyến khích xuất khẩu hoặc hạn chế nhập
khẩu sẽ bị bãi bỏ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, vì trái với các quy định của WTO.

duty drawbacks (hoàn thuế) : trước khi Việt Nam gia nhập WTO, việc nhập khẩu các
hàng hóa tiêu thụ trung gian dùng để sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế nhập
khẩu (cơ chế này được gọi là duty drawbacks - hoàn thuế). Điều kiệ
n để được miễn

thuế đó là hàng sản xuất ra phải được xuất khẩu trong thời hạn dưới 275 ngày kể từ
ngày nhập khẩu hàng hóa được miễn thuế.



20/82
Cơ chế này có mục đích khuyến khích xuất khẩu, nhưng việc quản lý rất phức tạp và
tạo kẽ hở cho nhiều trường hợp vi phạm, lạm dụng (Dimaranan, 2005). Hình thức miễn
thuế này sẽ phải được bãi bỏ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, vì nó được coi là một
hình thức trợ cấp cho xuất khẩu trái với quy định của WTO (xem phần dưới).

Các quy định về tỷ lệ nộ
i địa hóa : trong nhiều lĩnh vực (xe gắn máy, sản phẩm cơ khí,
điện, điện tử, kể cả máy thu hình), có sự tồn tại một hình thức trợ cấp ngầm thể hiện
dưới dạng áp dụng mức thuế quan ưu đãi cho việc nhập khẩu hàng thành phẩm và linh
kiện của các doanh nghiệp thỏa mãn các tiêu chuẩn về nội địa hóa.

Biện pháp này trước đây đ
ã từng được áp dụng ở các nước đang phát triển khác
(trường hợp của Nam Phi đối với ngành ôtô) và đã bị cấm theo các quy định của WTO.
Việt Nam đã bãi bỏ hình thức ưu đãi này từ năm 2003 đối với xe máy và từ đầu năm
2007 đối với ôtô.

Duy trì thuế xuất khẩu

Theo các quy định của WTO, Việt Nam được quyền áp thuế xuất khẩu sản phẩm trong
các lĩnh vực mà Việt Nam không có ưu thế nổi trội trên thị trường thế giới. Việc áp dụng
thuế xuất khẩu này nhằm đảm bảo các mục tiêu mang tính chiến lược, bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm đã qua
chế tạo.


Thuế xuất kh
ẩu được áp dụng đối với xuất khẩu dầu thô (5%) (chiếm khoảng 20% kim
ngạch xuất khẩu) và khoáng sản. Tháng 6/ 2007, Việt Nam công bố quyết định áp dụng
thuế xuất khẩu đối với xuất khẩu quặng đồng (10%) và niken (5%).

2.2. Các biện pháp khác ngoài thuế quan

Ngoài các biện pháp thuế quan, Việt Nam cũng có các cam kết ở mức rất cao so với
các cam kết theo quy định của WTO, đặc biệt là liên quan đến vấn đề bãi bỏ trợ cấp
xuất khẩu và mở cửa cho đầu tư nước ngoài.

Cấm trợ cấp cho xuất khẩu

Theo quy định của Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp bù trừ (ASMC), những nước
có GDP/đầu người cao hơn 1000USD bị cấm các hình thức trợ cấp cho xuất khẩu các
sản phẩm công nghiệp. Những nước có GDP/đầu người thấp hơn mức này vẫn được
tiếp tục duy trì các hình thức trợ cấp này.

Tuy nhiên, các nước thành viên mới gia nhập WTO không được hưởng quy định này.
Như vậy, trên thự
c tế có trường hợp 2 nước có trình độ phát triển tương đương nhau
(tính theo GDP/đầu người), ví dụ Việt Nam và Ấn Độ, sẽ được áp dụng các chế độ rất
khác nhau trong lĩnh vực này : Việt Nam bị cấm mọi hình thức trợ cấp, còn Ấn Độ, với
quy mô nền kinh tế và mức độ ảnh hưởng đến nền thường mại toàn cầu lớn hơn Việt
Nam nhiều lần, l
ại được hưởng quyền tự do trong việc áp dụng các biện pháp trợ cấp.

Đối với trường hợp của Việt Nam, việc bị cấm áp dụng các biện pháp trợ cấp sẽ buộc
Việt Nam phải thay đổi chế độ của các khu đặc miễn hiện đang sử dụng hàng trăm



21/82
nghìn lao động (đến nay chưa có con số chính thức về số lao động đang làm việc trong
các khu đặc miễn). Những ưu đãi giành cho doanh nghiệp trong các khu vực này sẽ
không còn được gắn với điều kiện về tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp.

Việt Nam cũng đã phải cam kết ngừng trợ cấp cho xuất khẩu nông sản. Khi gia nhập
WTO vào cuối năm 2003, Campuchia cũ
ng đã phải đưa ra cam kết này. Việc cấm các
biện pháp trợ cấp cho xuất khẩu nông sản rõ ràng đã tạo ra một sự phân biệt đối xử đối
với 2 nước thành viên mới này của WTO bởi vì các nước công nghiệp lớn vẫn tiếp tục
được trợ cấp ồ ạt cho xuất khẩu nông sản của mình.

Cho dù bị cấm các biện pháp trợ cấp cho xuất khẩu, Việt Nam, v
ới tư cách là một nước
đang phát triển, vẫn được tiếp tục trợ cấp cho nông nghiệp với điều kiện mức trợ cấp
thấp hơn 10% chi phí sản xuất sản phẩm. Trên thực tế, chỉ có ngành mía đường sẽ bị
cắt giảm trợ cấp do ảnh hưởng của quy định này (ADB, 2006).

Cải tổ sâu sắc khung pháp luật kinh tế và tư pháp

Trong quá trình chuẩn bị gia nhập WTO những năm qua, Việt Nam đã có những cải tổ
sâu sắc khung pháp luật kinh tế và thủ tục pháp lý của mình. Các quy định pháp luật về
hợp đồng, quyền sở hữu, giải quyết tranh chấp kinh tế đã được đơn giản hóa và hiện
đại hóa đáng kể (ADB, 2006) ; đã ban hành Luật cạnh tranh và Luật phá sản doanh
nghiệp.

Khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết không phân biệt đối xử
giữa các doanh nghiệp

nước ngoài và doanh nghiệp trong nước (Nguyên tắc đối xử quốc gia). Trong tinh thần
này, Việt Nam đã ban hành Luật doanh nghiệp năm 2005, tạo khuôn khổ pháp lý chung
cho các doanh nghiệp trong nước (doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân)
và doanh nghiệp nước ngoài.

Một trong những hệ quả của việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia đó là Nhà nước
không được tiếp tục trợ cấp cho các doanh nghiệp trong nước nữa. Hiện nay, các
khoản trợ cấp này có hình thức rất đa dạng (cho vay ưu đãi, tín dụng xuất khẩu…).
Trong tương lai, các khoản trợ giúp này sẽ được giành cho tất cả các doanh nghiệp,
không phân biệt doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp nước ngoài.

Với những lý do này, trong thủ tục đấu thầu của các doanh nghiệp Nhà nước, phải có
sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần, không phân biệt doanh nghiệp
trong nước hay doanh nghiệp nước ngoài, và chỉ dự
a trên những tiêu chí thuần túy kinh
tế.

Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải tuân thủ các quy định của Hiệp định TRIPS. Trên
thực tế, trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tuân thủ phần lớn các quy định của Hiệp
định này đối với doanh nghiệp Mỹ trong khuôn khổ Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa
Kỳ (USBTA). Việt Nam cũng sẽ phải tuân thủ ngay những quy định của Hiệp định về các
biện pháp vệ
sinh dịch tễ và bảo vệ thực vật (SPS) và Hiệp định về các rào cản kỹ thuật
đối với thương mại (TBT).



22/82
Tăng cường mở cửa cho đầu tư nước ngoài


Các biện pháp được áp dụng trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài nằm trong
khuôn khổ quy định của Hiệp định TRIMS (Trade-Related Investment Measures).

Từ khi Việt Nam gia nhập WTO đầu năm 2007, các ngân hàng nước ngoài có thể thành
lập chi nhánh 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. Thực ra, mức độ mở cửa bổ sung
cũng không lớn lắm so với thời điểm trước khi gia nhập WTO, vì trong khuôn khổ Hiệp
định th
ương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, Việt Nam cũng đã cho phép các công ty Mỹ thành
lập chi nhánh 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam vào thời điểm năm 2010. Dù thế nào
chăng nữa, biện pháp mở cửa này sẽ buộc Việt Nam phải đẩy nhanh quá trình cải tổ
các ngân hàng quốc doanh của mình.

Trong lĩnh vực viễn thông, theo quy định của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
các doanh nghiệp Mỹ được đầu tư vào th
ị trường điện thoại di động và Internet từ cuối
năm 2005 và thị trường điện thoại cố định từ cuối năm 2007. Kể từ nay, tất cả các
doanh nghiệp nước ngoài đều được hưởng quyền này. Tỷ lệ góp vốn tối đa trong các
lĩnh vực này tương ứng là 49% và 45%.

Tiếp tục quá trình cổ phẩn hóa

Chính sách cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước (equitization) được khởi động
trong những năm 1990. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước lớn đã được cổ phần hóa (Công
ty sữa Việt Nam VINAMILK, Song Hinh-Vinh Son Hydroelectric Plant, Hochiminh City
Insurance). Việt Nam công bố rằng sẽ chỉ giữ lại những doanh nghiệp Nhà nước (Nhà
nước nắm giữ 100% vốn) trong những lĩnh vực chiến lược và một số doanh nghiệp Nhà
nước lớn. Dự kiến trong năm 2007 và 2008 s
ẽ tiến hành cổ phần hóa 600 doanh nghiệp
Nhà nước, trong đó có các doanh nghiệp lớn như Mobiphone, Vinaphone và
VietcomBank (Gide, Loyrette et Nouel, 2007). Sắp tới, Việt Nam cũng sẽ tiến hành cổ

phần hóa một phần Tổng công ty hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) và một số
ngân hàng quốc doanh. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tham gia góp vốn một cách
bình đẳng vào quá trình cổ phần hóa này (thực hiện dưới hình thức niêm yết trên thị
trường chứng khoán). Đầu tư nước ngoài trong ngành ngân hàng vẫn còn bị
kiểm soát
chặt chẽ hơn so với các ngành khác.

Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực này có tính chất tương đối khác với các cam
kết trong các lĩnh vực khác và khá chung chung, mơ hồ. Việt Nam cam kết hàng năm sẽ
gửi báo cáo cho các nước thành viên WTO về tiến độ thực hiện chương trình cổ phần
hóa của mình. Điều này nhằm thực hiện mục tiêu được các nước thành viên công nhận
Việt Nam có nền kinh tế thị tr
ường (xem phần 2.3 dưới đây).

2.3. Xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu nhưng hàng hóa Việt Nam vẫn gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận các thị trường lớn

Xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ và châu Âu

Một trong những lợi ích lớn Việt Nam thu được khi gia nhập WTO đó là được các nước
công nghiệp phát triển xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu đối với hàng dệt may của Việt Nam.


23/82

Kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam được áp dụng khuôn khổ quy định đa phương mới
đối với xuất khẩu hàng dệt may. Từ đầu năm 2005, Việt Nam được xóa bỏ hạn ngạch
đã được áp dụng trong 3 thập kỷ trước trong khuôn khổ các Hiệp định Đa sợi (AMF) :

- Mỹ áp đặt hạn ngạch đối với Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định thương mại song

phương, nh
ưng đã xóa bỏ các hạn ngạch này kể từ đầu năm 2007 ;

- Sau khi ký Hiệp định song phương về ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO năm 2004, Liên
minh châu Âu đã xóa bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam ngay từ đầu năm 2005, tức là
trước khi Việt Nam gia nhập WTO.

Ngoài ra, với quy mô nền kinh tế nhỏ và tác động đối với thị trường Mỹ không lớn, Việt
Nam không bị áp dụng các biện pháp tự v
ệ và các biện pháp tự vệ khẩn cấp đối với
hàng dệt may giống như các biện pháp Mỹ đang tạm thời được áp dụng đối với Trung
Quốc kể từ khi nước này gia nhập WTO
6
.

Việt Nam vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường Mỹ và châu
Âu

Việt Nam gia nhập WTO theo một quy chế riêng giành cho các nước chưa có nền kinh
tế thị trường (tiếng Anh là « non market economy » hay NME ; Xem Khung 1). Với việc
áp đặt quy chế riêng nay cho Việt Nam trong thời hạn 12 năm (cho đến 2019) (Trung
Quốc cũng bị áp dụng quy chế này khi gia nhập WTO vào năm 2001), WTO đã gây khó
khăn cho hàng hóa xuất khẩu Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế. Theo quy chế riêng
này, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải chịu m
ột phương pháp riêng trong việc
xem xét các trường hợp bán phá giá (chi phí được tính toán dựa trên chi phí của các
nước khác), và phương pháp này giảm nhẹ rất nhiều nghĩa vụ chứng minh (Oxfam,
2004). Như vậy, Việt Nam gia nhập WTO với tư cách là thành viên «hạng hai », giống
như Trung Quốc (Mc Carty và Kalapesi, 2003).


Quy chế là một nước chưa có nền kinh tế thị trường cũng làm hạn chế rất nhiều một
trong những lợi ích quan trọng của việc gia nhập WTO, đ
ó là cơ may thắng kiện trong
trường Việt Nam kiện đối tác thương mại ra trước cơ quan giải quyết tranh chấp về việc
áp đặt các biện pháp chống bán phá giá đối với mình (ADB, 2006)
7
.

Mỹ mới chỉ tạm thời trao cho Việt Nam quy chế tối huế quốc (MFN). Quốc hội Mỹ chưa
thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn cho Việt Nam (PNTR- Permanent
Normal Trade Relation » ) (lần bỏ phiếu mới nhất là vào tháng 11/2006). Như vậy, hàng
năm, Mỹ có quyền xem xét lại vấn đề cấp quy chế tối huệ quốc cho Việt Nam , điều
được WTO cho phép. Thật vậy, theo quy định tại
Điều XXXV, Hiệp định GATT (và Điều
XIII, Hiệp định WTO), một nước thành viên có quyền không thực hiện các nghĩa vụ đa

6
Các biện pháp tự vệ khi được áp dụng đối với bất kỳ sản phẩm nào sẽ có hệ quả ngăn chặn sự tăng
trưởng nhập khẩu sản phẩm đó, nếu sự tăng trường này được cho là quá nhanh và có thể làm rối loạn thị
trường nội địa. Các biện pháp đặc biệt đối với hàng dệt may còn đi xa hơn thế : chúng cho phép ngăn chặn
việc nhậ
p khẩu (chứ không chỉ ngăn chặn sự tăng trưởng nhập khẩu) các sản phẩm dệt may trong một thời
hạn nhất định, nếu việc nhập khẩu này làm rối loạn thị trường trong nước.
7
Năm 2004, tức là trước khi Việt Nam gia nhập WTO, Mỹ đã áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối
với sản phẩm cá da trơn của Việt Nam. Quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường » sẽ làm giảm
thiểu cơ may thắng kiện của Việt Nam trong vụ kiện này trong khuôn khổ của WTO.




24/82
phương của mình đối với một nước thành viên khác vì những lý do chính trị hay một lý
do khác. Trong trường hợp của Mỹ, lý do đưa ra là quy định cấm cư trú, đi lại đối với
các công dân Mỹ (Luật Jackson Vanik ngăn cản việc bình thường hóa quan hệ thương
mại với các nước thuộc khối XHCN cũ)
8
.

Khung 1
Quy chế « quốc gia nước chưa có nền kinh tế thị trường » (NME)

Theo yêu cầu của Mỹ, Việt Nam bị áp dụng quy chế của một nước chưa có nền kinh tế
thị trường (Non Market Economy) khi gia nhập WTO. Quy chế này cũng đã được áp
dụng đối với Trung Quốc khi nước này gia nhập WTO vào năm 2001 (và vẫn được duy
trì cho đến ngày nay). Ngoài hai nước này ra, chỉ còn một số nước thuộc Liên Xô cũ
(Kirgưxtan, Mônđavi) bị áp dụng quy chế này.

Đối với quốc gia bị áp dụng quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường », các
quốc gia thành viên khác của WTO có quyền áp dụng các tiêu chí riêng để tính mức chi
phí sản xuất hàng xuất khẩu của quốc gia đó, theo đó thay vì sử dụng tiêu chí chi phí
hiện hành tại quốc gia đó để tính mức chi phí sản xuất hàng xuất khẩu của quốc gia đó,
các quốc gia thành viên của WTO có quyền sử dụng số liệu về chi phí sản xuất của một
hay một nhóm nước « thay thế » mà ở đó các quy tắc vận hành của nền kinh tế thị
trường được áp dụng và tuân thủ một cách thực sự. Như vậy, một quốc gia thành viên
WTO khi muốn áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với một quốc gia « chưa
có nền kinh tế thị trường », thì sẽ dễ dàng hơn trong việc chứng minh sự tồn tại của
hành vi bán phá giá, vì chỉ cần tìm ra một quốc gia « thay thế » phù hợp để tính mức chi
phí sản xuất hàng xuất khẩu của quốc gia sẽ bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá
đó, ngay cả khi hai quốc gia này có trình độ phát triển và các điều kiện sản xuất hàng
hóa rất khác nhau (Nguyễn, Nguyễn và Lê Thanh, 2007).


Từ khi Trung Quốc gia nhập WTO, số lượng các thủ tục kiện yêu cầu áp dụng biện pháp
chống bán phá giá đối với nước này đã tăng gấp đôi: Khoảng 40 đơn kiện/năm trong
giai đoạn 2002-2005 so với 20 đơn kiện/năm trong những năm trước đó (1995-2001).
Tất nhiên, nguyên nhân làm gia tăng số đơn kiện này không hoàn toàn bắt nguồn từ
việc Trung Quốc bị xếp vào quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường », mà còn
do sự tăng trưởng xuất khẩu quá mạnh của Trung Quốc gây ra sự lo ngại từ các nước
khác. Tuy nhiên, quy chế Trung Quốc là « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường » là
chất xúc tác làm gia tăng số đơn kiện chống bán phá giá đối với nước này, vì đơn kiện ít
có nguy cơ bị bác bỏ bởi WTO trong trường hợp đối tượng bị kiện là Trung Quốc.

Khi Liên minh châu Âu áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với mặt hàng giày
da xuất khẩu của Việt Nam vào năm 2006 (tức là trước khi Việt Nam gia nhập WTO),
Liên minh châu Âu cũng đã viện dẫn quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị
trường » áp dụng cho Việt Nam
9
. Từ năm 2006, Liên minh châu Âu đã áp dụng mức
thuế chống bán phá giá là 16,8% dựa trên cơ sở so sánh với mức chi phí sản xuất mặt

8
Ngược lại, Việt NamViệt Nam cũng không bắt buộc phải thực hiện các nghĩa vụ mở cửa thị
trường với các doanh nghiệp Mỹ giống như đã làm với các đối tác khác (trong trường hợp Mỹ
không cấp MFN cho Việt NamViệt Nam ).
9
Quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường » cũng được các nước thành viên WTO áp
dụng cho các nước không phải là thành viên của WTO, ví dụ Ucraina bí áp dụng quy chế này
cho đến thời gian gần đây mới được bãi bỏ.


25/82

hàng này ở Braxin. Việc áp dụng các biện pháp này đã làm giảm mạnh lượng xuất khẩu
giày da của Việt Nam.

Tuy nhiên, các nước thành viên WTO (hoặc một số nước thành viên) có thể xem xét
công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường trước thời hạn quy định (2019). Năm
2007, các nước thành viên ASEAN (Việt Nam là thành viên của tổ chức này) đã quyết
định công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường (và qua đó, cam kết
không áp dụng các quy định riêng về chống bán phá giá đối với Việt Nam). Ngoài ra,
một nước đối tác của Việt Nam cũng có thể xem xét áp dụng quy chế « kinh tế thị
trường » đối với một ngành hay lĩnh vực cụ thể của Việt Nam (chứ không phải cho toàn
bộ nền kinh tế).

Khái niệm « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường » là một khái niệm rất mơ hồ, việc
xác định một quốc gia có nền kinh tế thị trường thị trường hay chưa được thực hiện dựa
trên những căn cứ tùy tiện, những căn cứ chứng minh để áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá đối với quốc gia này cũng rất võ đoán, tùy tiện. Chính vì vậy, việc Việt Nam
bị áp dụng quy chế « quốc gia chưa có nền kinh tế thị trường » sẽ là một điều bất lợi
tiềm tàng đối với nền kinh tế Việt Nam. Vũ khí này rất dễ bị các đối tác lạm dụng vì
những mục đích khác không thuần túy mang tính kinh tế hay cạnh tranh lành mạnh,
thậm chí vì những mục đích chính trị. Do đó, Việt Nam cần phải loại bỏ nguy cơ tiềm
tàng này trong thời hạn nhanh nhất.


Việc Mỹ áp dụng biện pháp này sẽ đặt Việt Nam vào tình thế bấp bênh trong quan hệ
với Mỹ, hàng hóa Việt Nam không được đảm bảo chắc chắn trong việc tiếp cận thị
trường Mỹ (trong khi một trong những mục tiêu của việc gia nhập WTO là được đảm
bảo sự tiếp cận thị trường này), nhất là năm 2007, Mỹ áp dụng cơ chế giám sát chặt
chẽ hàng dệt may nhậ
p khẩu có nguồn gốc từ Việt Nam.


Việc Liên minh châu Âu áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với mặt hàng giày
da của Việt Nam vào năm 2006 và việc Mỹ áp dụng cơ chế giám sát hàng dệt may nhập
khẩu từ Việt Nam cho thấy Việt Nam đang nằm trong sự giám sát của 2 cường quốc
thương mại trên thế giới và thành tích xuất khẩu của Việt Nam vào 2 thị trường này có
thể bị ảnh hưởng bấ
t kỳ lúc nào.

2.4. Hiệp định gia nhập WTO bao trùm tất cả các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế

Qua phân tích các điều kiện Việt Nam gia nhập WTO có thể thấy sự kiện gia nhập WTO
không thể được xem xét dưới góc độ là một sự kiện đơn lẻ thể hiện sự thay đổi bước
ngoặt trong chính sách kinh tế, thương mại của Việt Nam, mà phải được đặt trong một
quá trình lâu dài đã diễn ra từ hơn 1 thập kỷ qua. Phân tích những cam kết chính của
Việt Nam khi gia nhập WTO sẽ cho phép xác định đượ
c các yếu tố cơ bản cần tính đến
khi đánh giá mức độ ảnh hưởng của việc gia nhập WTO đối với Việt Nam.


Thứ nhất, xét trên khía cạnh trao đổi hàng hóa, tác động của WTO đối với thuế quan là
không đáng kể, vì mức thuế quan của Việt Nam đã được cắt giảm đáng kể trong những
năm qua trước khi Việt Nam gia nhập WTO ; tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu về tự

×