Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

khả năng sinh sản của gà đông tảo nuôi trong nông hộ tại huyện khoái châu, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.8 MB, 85 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




NGUYỄN THỊ PHƯƠNG





KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA GÀ ĐÔNG TẢO
NUÔI TRONG NÔNG HỘ TẠI HUYỆN KHOÁI CHÂU,
TỈNH HƯNG YÊN





LUẬN VĂN THẠC SĨ






HÀ NỘI - 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT


HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




NGUYỄN THỊ PHƯƠNG



KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA GÀ ĐÔNG TẢO
NUÔI TRONG NÔNG HỘ TẠI HUYỆN KHOÁI CHÂU,
TỈNH HƯNG YÊN



CHUYÊN NGÀNH: CHĂN NUÔI
MÃ SỐ: 60.62.01.05




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. VŨ ĐÌNH TÔN
PGS.TS. BÙI HỮU ĐOÀN



HÀ NỘI - 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và
kết quả trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Phương














Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành bản luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất
đến PGS.TS.Vũ Đình Tôn và PGS.TS. Bùi Hữu Đoàn người hướng dẫn khoa
học về sự giúp đỡ nhiệt tình và đầy trách nhiệm đối với tôi trong quá trình
thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể đồng nghiệp của tôi tại Trung tâm
Nghiên cứu Liên ngành Phát triển Nông thôn – Học viện Nông nghiệp Việt Nam,
những anh chị đã giúp đỡ tôi trong công việc cũng như những lời động viên, khích
lệ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các nông hộ chăn nuôi gà Đông Tảo tại
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập.
Xin cảm ơn người thân, gia đình, bạn bè đã ủng hộ tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015
Tác giả Luận văn



Nguyễn Thị Phương






Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iii


MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng v
Danh mục hình vi
Danh mục biểu đồ vii
Danh mục chữ viết tắt viii
MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
1
1.2. Mục đích của đề tài
2
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Cơ sở lí luận của đề tài
3
1.1.1.Cơ sở nghiên cứu khả năng sinh sản ở gia cầm mái 3
1.1.2. Hiện tượng rụng trứng và quá trình hình thành trứng 5
1.1.3. Cơ sở khoa học về khả năng sinh sản 6
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
15
1.2.1. Tình hình chăn nuôi và nghiên cứu gia cầm trên thế giới 15
1.2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước 18
CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
20

2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
20
2.2.1. Điều tra khảo sát cơ cấu đàn gà Đông Tảo hiện có tại địa
phương 20
2.2.2. Đặc điểm ngoại hình của gà Đông Tảo 20
2.2.3. Khả năng sinh sản và chất lượng trứng của gà Đông Tảo 20
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
20
2.3.1. Điều tra khảo sát cơ cấu đàn gà Đông Tảo hiện có tại địa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

phương. 20
2.3.2. Đặc điểm ngoại hình gà Đông Tảo 21
2.4. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
23
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 24
3.1. Số lượng và sự phân bố gà Đông Tảo tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên
24
3.2. Đặc điểm ngoại hình gà Đông Tảo
30
3.3. Kích thước các chiều đo cơ thể gà Đông Tảo sinh sản
38
3.4. Chuồng trại và phương thức chăn nuôi gà Đông Tảo trong nông hộ
40
3.5. Thức ăn cho gà Đông Tảo sinh sản trong điều kiện nông hộ
41
3.6. Khả năng sinh sản của gà Đông Tảo
44
3.7. Chất lượng trứng gà Đông Tảo

47
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 52
1. Kết luận
52
2. Kiến nghị
53
TÀI LIỆU THAM KHẢO 54
PHỤ LỤC 58
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

DANH MỤC BẢNG


STT Tên bảng Trang

Bảng 3.1 Số lượng và phân bố các hộ nuôi gà Đông Tảo tại huyện Khoái Châu 25
Bảng 3.2 Cơ cấu đàn gà Đông Tảo nuôi trong các hộ điều tra 26
Bảng 3.3 Quy mô chăn nuôi gà Đông Tảo trong nông hộ 28
Bảng 3.4 Cơ cấu đàn gà Đông Tảo phân theo qui mô chăn nuôi 29
Bảng 3.5 Đặc điểm ngoại hình của gà Đông Tảo 32
Bảng 3.6 Kích thước chiều đo cơ thể gà Đông Tảo sinh sản 38
Bảng 3.7 Kiểu chuồng trại và phương thức trong chăn nuôi gà Đông Tảo 40
Bảng 3.8 Phương thức cho ăn của gà Đông Tảo 41
Bảng 3.9 Khẩu phần thức ăn cho gà Đông Tảo sinh sản 42
Bảng 3.10 Năng suất sinh sản của gà Đông Tảo 44
Bảng 3.11 Khả năng ấp nở trứng gà Đông Tảo 46
Bảng 3.12 Một số chỉ tiêu chất lượng trứng của gà Đông Tảo 48
Bảng 3.13 Thành phần hóa học của trứng gà Đông Tảo 50
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vi

DANH MỤC HÌNH

STT Tên hình Trang

Hình 3.1 Điểm nghiên cứu 24
Hình 3.2 Màu lông gà trống Đông Tảo 33
Hình 3.3 Màu lông gà mái Đông Tảo 34
Hình 3.4 Đầu và mào gà Đông Tảo 35
Hình 3.5 Đo các chỉ tiêu về kích thước của gà Đông Tảo 36
Hình 3.6 Thân mình và đuôi gà Đông Tảo 36
Hình 3.7 Chân gà trống Đông Tảo 37















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

STT Tên biểu Trang


Biểu đồ 3.1 Quy mô chăn nuôi gà Đông Tảo trong nông hộ 29
Biểu đồ 3.2 Khẩu phần thức ăn cho gà Đông Tảo nuôi tại nông hộ 43

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

FAO Food and Agriculture Organization of the United Nations
OECD Organization for Economic Co-operation and Development
USDA United States Department of Agriculture (Bộ Nông nghiệp Mỹ)




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, chăn nuôi gia cầm đóng vai trò quan trọng trong kinh tế hộ gia
đình, có đến 90% là chăn nuôi gia cầm trong nông hộ (FAO, 2008). Theo niên giám
thống kê 2013, tổng số gia cầm đạt 314,7 triệu con tương đương với 746,9 nghìn tấn

thịt hơi. Hoạt động sản xuất và các sản phẩm từ gia cầm gắn liền với các hoạt động
văn hóa truyền thống của người nông dân Việt Nam từ xa xưa cho đến ngày hôm
nay, sản phẩm của gia cầm được sử dụng là vật phẩm chính và không thể thiếu
trong dịp tết cổ truyền, ngày giỗ, lễ hội. Việt Nam có không ít hơn 16 giống gà địa
phương Ri, Tè, Tàu Vàng, Ôkê, H’Mông, Tre, Tò, Mía, Hồ, Đông Tảo, Văn Phú
(Phạm et al., 2013).
Với sự hội nhập kinh tế toàn cầu và mục tiêu phát triển chăn nuôi gia cầm công
nghiệp, Việt Nam đã nhập nhiều giống gia cầm từ nước ngoài để nuôi thuần hoặc
cho lai tạo với các giống gà địa phường nhằm tăng năng suất thịt, trứng, chính điều
này đã gây nguy hiểm cho các giống gia cầm địa phương, làm cho quần thể giống
gia cầm địa phương bị suy giảm, trong đó có gà Đông Tảo. Theo Lê Thị Thúy
(2010), quần thể gà nhỏ hẹp và việc giao phối gà không có kiểm soát dẫn đến tỷ lệ
cận huyết của giống gà Đông Tảo cao (0,099).
Gà Đông Tảo có nguồn gốc từ xã Đông Tảo, Khoái Châu, Hưng Yên thuộc
vùng đồng bằng sông Hồng. Giống gà này từ lâu đời đã nổi tiếng bởi chất lượng thịt
và trứng thơm ngon. Đặc biệt gà có ngoại hình khác biệt so với các giống gà nội
khác bởi chân to, thân hình chắc khỏe khối lượng lúc trưởng thành gà trống đạt 3,8-
4,0kg, gà mái 3,0-3,5 kg (Nguyễn Hữu Lương và cs., 2009). Đã có những công
trình nghiên cứu và bảo tồn về giống gà này như chương trình “Bảo tồn quỹ gen vật
nuôi”, 1992; Nghiên cứu về đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất (Nguyễn Hữu
Lương và cs., 2009); Khả năng sản xuất của gà Đông Tảo (Nguyễn Đăng Vang,
1999). Tuy nhiên, trong những năm gần đây người dân phát triển chăn nuôi gà
Đông Tảo mạnh mẽ số lượng gà Đông Tảo tăng, đàn gà thuần có nguy cơ lai tạp và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

bị cận huyết, nguy cơ mất dần gà Đông Tảo thuần đang hiện hữu. Vì vậy, những
nghiên cứu về năng suất sinh sản của đàn gà Đông Tảo là cần thiết, từ đó chúng tôi
tiến hành nghiên cứu: “Khả năng sinh sản của gà Đông Tảo nuôi trong nông hộ
tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên”.

1.2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá thực trạng cơ cấu đàn gà Đông Tảo hiện nay
- Đánh giá khả năng sinh sản và chất lượng trứng của đàn gà Đông Tảo thuần
nuôi trong điều kiện nông hộ
- Thông qua nghiên cứu này, góp phần bảo tồn và phát triển bền vững giống
gà Đông Tảo thuần chủng.




















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1.1.Cơ sở nghiên cứu khả năng sinh sản ở gia cầm mái
Cũng như loài bò sát, gia cầm thụ tinh trong và đẻ trứng. Ở gia cầm, trong
quá trình tiến hóa cùng với việc tăng kích thước trứng xảy ra việc thoái hóa phần
bên phải của hệ sinh dục cái. Ở con đực đôi tinh hoàn nằm trong cơ thể. Sự phát
triển phôi xảy ra trong trứng tương đối lớn, được bảo vệ bằng một loại vỏ cứng. Gia
cầm thành thục tương đối sớm và khả năng đẻ cao. Những phẩm chất này chịu ảnh
hưởng của công tác giống, chế độ nuôi dưỡng và chăm sóc. Sự hiểu biết về những
đặc tính hình thái và sinh lý của các cơ quan sinh dục gia cầm có ý nghĩa lớn trong
nghiên cứu và thực tiễn nhằm tăng hiệu quả chăn nuôi.
Theo Nguyễn Thị Mai và cs. (2009), sự hình thành mầm của tuyến sinh dục
xảy ra vào thời kỳ đầu của sự phát triển phôi: phôi gà vào ngày thứ 3, ở vịt và
ngỗng vào ngày 4 – 5. Thời kỳ phân biệt bộ phận sinh dục ở phôi gà được thấy vào
ngày ấp thứ 6 – 9. Tới ngày ấp thứ 9, ở buồng trứng đã thể hiện sự không đối xứng,
buồng trứng bên phải ngừng phát triển và thoái hóa dần, buồng trứng bên trái tiếp
tục phát triển, phân thành lớp vỏ và lớp tủy. Ở vỏ xảy ra quá trình sinh sản của các
tế bào sinh dục đầu tiên – noãn bao. Vào ngày thứ 9, ở phôi gà đếm được 28.000 tế
bào sinh dục, ngày thứ 17 có 680 nghìn tế bào, đến cuối kỳ ấp số lượng của chúng
giảm còn 480.000. Ở ngày ấp thứ 12, ống dẫn trứng được phân thành loa kèn, phần
tiết lòng trắng và tử cung.
a. Sự tạo trứng
Sự phát triển của tế bào trứng gồm 3 thời kỳ: sinh sản, sinh trưởng và chín.
- Thời kỳ sinh sản xảy ra trong quá trình phát triển phôi và kết thúc khi gà nở.
- Thời kỳ sinh trưởng được chia thành thời kỳ sinh trưởng nhỏ và thời kỳ sinh
trưởng lớn. Thời kỳ sinh trưởng nhỏ kéo dài từ khi gà nở đến khi thành thục sinh
dục. Thời kỳ sinh trưởng lớn dài 4 – 13 ngày và đặc trưng bằng sự lớn rất nhanh của
lòng đỏ.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4


- Thời kỳ chín của noãn bao lại xảy ra 2 lần liên tiếp của tế bào sinh dục, số
nhiễm sắc thể giảm đi 2 lần, vì vậy sự phân chia này gọi là giảm nhiễm hay phân
chia bào nhiễm.
Sự rụng trứng của gia cầm chịu sự điều khiển của các hormone, các hormone
FSH và LH kích thích sự sinh trưởng và sự chín của các tế bào sinh dục trong
buồng trứng. Estron ảnh hưởng lên tuyến yên, ức chế việc tiết FSH, như vậy sẽ
làm chậm việc chín của trứng trong buồng trứng. Hormone LH điều khiển sự
rụng trứng của gia cầm, tuyến yên sẽ ngừng tiết LH khi trong ống dẫn trứng có
trứng, do đó ức chế sự rụng trứng của tế bào trứng chín tiếp theo. LH chỉ được
tiết vào buổi tối, sự chiếu sáng làm ngừng tiết hormone này, do vậy sự rụng
trứng sẽ bị ngừng lại vì thế mà khi nuôi gà đẻ trứng cần có chế độ chiếu sáng
hợp lý để có hiệu quả kinh tế cao nhất.
b. Cấu tạo và chức năng ống dẫn trứng
Ống dẫn trứng có hình ống, ở đó xảy ra quá trình thụ tinh và hình thành vỏ
trứng. Ở gia cầm thành thục sinh dục, ống dẫn trứng có 5 phần sau:
- Phễu:
Là phần mở rộng của đầu ống dẫn trứng, dài 4 – 7cm, đường kính 8 – 9cm
nằm dưới buồng trứng (Nguyễn Thị Mai và cs., 2009). Phễu có tác dụng hứng trứng
rụng từ buồng trứng và tạo ra lớp lòng trắng trứng đầu tiên bọc lấy tế bào trứng.
Đây cũng là nơi nuôi dưỡng, lưu giữ tinh trùng và là nơi xảy ra quá trình thụ tinh.
- Phần tạo lòng trắng:
Là phần dài nhất 30 – 50cm, có tác dụng tạo lòng trắng bao bọc lòng đỏ
trứng. Thời gian trứng ở đây không quá 3 giờ (Nguyễn Thị Mai và cs., 2009).
- Phần cổ (eo):
Là phần hẹp lại của ống dẫn trứng dài 8cm, ở đây lòng trắng loãng được bổ
sung và còn tiết ra 2 lớp màng chắc dính sát vào nhau có tác dụng tạo hình dạng của
trứng. Thời gian trứng ở đây khoảng gần 1 giờ.
- Phần dạ con:
Là đoạn tiếp theo của eo, đó là phần mở rộng, thành dày, dài 10 – 12cm.

Trong thời gian này tuyến của vách dạ con tiết ra chất dịch lỏng, bổ sung vào lòng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

trắng, chúng thấm qua các màng dưới vỏ trứng vào lòng trắng. Ở đây trứng được
tăng gấp đôi về khối lượng và cũng là nơi trứng được hình thành lớp vỏ cứng để
chuẩn bị đẻ ra ngoài.
- Âm đạo:
Là đoạn cuối cùng dài 7 – 12cm, có tác dụng tạo ra lớp màng mỏng bao bọc
trứng, khi ra ngoài thì khô lại tạo lớp màng bảo vệ cho trứng khỏi tác nhân của
ngoại cảnh.
1.1.2. Hiện tượng rụng trứng và quá trình hình thành trứng
Hiện tượng rụng trứng và hình thành trứng ở gà mái gắn liền với sự hình
thành các chất dinh dưỡng để nuôi bào thai. Quá trình thoát khỏi buồng trứng của tế
bào trứng chín gọi là sự rụng trứng. Tế bào trứng chín rơi vào túi lòng đỏ và nằm
trên bề mặt lòng đỏ đạt độ chín trong phạm vi 9 - 10 ngày.
Khối lượng trứng tăng 16 lần trong thời gian 7 ngày ở thời kỳ trước rụng
trứng (Nguyễn Tất Thắng, 2008). Hormone FSH, LH điều chỉnh theo một trình tự
chặt chẽ trong quá trình phát triển. Thùy trước tuyến yên tiết ra hormone FSH và
LH là tác nhân kích thích bao noãn phát triển, vỡ ra và chín để giải phóng trứng.
Trứng sau khi rụng được rơi vào trong phễu (loa kèn) của ống dẫn trứng và phễu
nhu động liên tục. Tế bào trứng rơi vào phễu dừng lại ở đây 20 phút, nếu có tinh
trùng thì việc thụ tinh tế bào trứng sẽ xảy ra ở trên thành phễu. Sự rụng trứng ở gà
xảy ra một lần trong ngày, thường là sau khi gà đẻ trứng 30 phút. Nếu gà đẻ sau 16
giờ thì sự rụng trứng sẽ chuyển đến buổi sáng ngày hôm sau. Trứng rụng của ngày
hôm sau bị ngưng trệ, chuyển đến ngày kế tiếp nữa và là hiện tượng đẻ cách nhật.
Nếu lấy trứng ra khỏi tử cung thì cũng không làm tăng nhanh sự rụng trứng được.
Sự rụng trứng ở gà thường xảy ra trong thời gian từ 2 - 14 giờ hàng ngày.
Tế bào trứng di chuyển đầu tiên là phần tiết lòng trắng (2,5 - 3 giờ). Ở đây
các phần của lòng trắng được hình thành và tiếp tục di chuyển xuống phần eo

khoảng 10 phút bắt đầu hình thành màng lòng trắng, sau đó xuống tử cung, qua tử
cung mất 19 giờ. Tại đây nó hình thành vỏ, sau đó trứng qua âm đạo rất nhanh và ra
ngoài. Tế bào trứng đi qua phần tiết lòng trắng với tốc độ 2 - 3 m/phút, qua eo 1,4
m/phút, đến tử cung thì gần như dừng lại. Trứng qua âm đạo rất nhanh, toàn bộ quá
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

trình hết 20 - 24 giờ. Trong quá trình di chuyển các đoạn của ống dẫn trứng, tế bào
trứng vừa chuyển động tịnh tiến vừa chuyển động cuộn tròn.
Thời kỳ đầu của quá trình đẻ trứng, từ khi rụng quả trứng đầu tiên đến
khi gà bắt đầu đẻ bình thường về sinh lý kéo dài 1 - 2 tuần, thậm chí đến 1
tháng. Trong thời kỳ này, gà mái đẻ trứng thất thường với biểu hiện như 2
trứng/ngày, trứng dị hình vỏ, thiếu vỏ cứng, vỏ mỏng, trứng 2 lòng hoặc
khoảng cách giữa các lần đẻ thất thường (Nguyễn Tất Thắng, 2008). Sở dĩ có
hiện tượng đó là do 2 trứng trong tử cung hoặc 2 trứng cùng chín và rơi vào
ống dẫn trứng.
1.1.3. Cơ sở khoa học về khả năng sinh sản
Khả năng sinh sản của gia cầm được thể hiện bởi các chỉ tiêu về sản lượng,
khối lượng, hình dạng, chất lượng trứng, khả năng thụ tinh và ấp nở. Đối với các
giống gia cầm khác nhau, khả năng sinh sản cũng rất khác nhau.
- Năng suất trứng
+ Cơ sở giải phẫu của năng suất trứng
Các nhà phôi thai học cho rằng trứng gà là một tế bào sinh sản khổng lồ .
Cấu tạo của trứng bao gồm: lòng đỏ, lòng trắng và vỏ.
Buồng trứng có chức năng tạo lòng đỏ, còn ống dẫn trứng co chức năng tiết
ra lòng trắng đặc, lòng trắng loãng, màng vỏ, vỏ mỏng và lớp keo mỡ bao ngoài vỏ
trứng. Thời gian trứng lưu lại trong ống dẫn trứng từ 20-24 giờ.
Các tài liệu nghiên cứu của nhiều tác giả như Card L.E and Nesheim M.C.,
(1970) đều xác định ở giai đoạn phôi thai, hai phía phải và trái của gà mái đều có
buồng trứng phát triển nhưng sau khi nở thì buồng trứng bên phải tiêu biến chỉ còn

lại buồng trứng bên trái.
Các tài liệu nghiên cứu đều cho rằng, hầu hết vật chất lòng đỏ trứng gà
được tạo thành trước khi đẻ trứng 9-10 ngày. Trong 1- 3 ngày đầu, tốc độ sinh
trưởng của lòng đỏ chậm, khi đường kính đạt 6 mm bắt đầu vào thời kì sinh
trưởng cực nhanh và có thể tăng 4 mm trong 24 giờ cho tới khi đạt 40 mm. Tốc
độ sinh trưởng của lòng đỏ không tương quan đến cường độ đẻ trứng. Quá trình
hình thành trứng và rụng trứng là một quá trình sinh lý phức tạp do sự điều khiển
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

của hormone. Thời gian từ lúc đẻ trứng đến khi rụng trứng quả trứng tiếp theo
kéo dài từ 15 -75 phút.
- Một số yếu tố ảnh hưởng đến sức đẻ trứng của gia cầm
Sức đẻ trứng của gia cầm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, mỗi yếu
tố ảnh hưởng đến sức đẻ trứng ở mức độ nhất định. Một số yếu tố chính ảnh hưởng đến
sức đẻ trứng của gia cầm như các yếu tố di truyền cá thể, giống dòng gia cầm, tuổi, chế
độ dinh dưỡng, điều kiện ngoại cảnh (Nguyễn Thị Mai và cs., 2009).
+ Các yếu tố di truyền cá thể
Sức đẻ trứng: là một tính trạng số lượng có lợi ích kinh tế quan trọng của gia
cầm đối với con người. Có 5 yếu tố di truyền ảnh hưởng đến sức đẻ trứng của gia
cầm: tuổi thành thục sinh dục, cường độ đẻ trứng, tính nghỉ đẻ, thời gian kéo dài
chu kỳ đẻ trứng sinh học và tính ấp bóng
Tuổi thành thục sinh dục là một yếu tố năng suất trứng và có liên quan đến
sức đẻ trứng của gia cầm. Thành thục sớm cũng là một tính trạng mong muốn, tuy
nhiên cần phải chú ý đến khối lượng cơ thể. Tuổi bắt đầu đẻ và kích thước cơ thể có
tương quan nghịch. Chọn lọc theo hướng tăng khối lượng trứng sẽ làm tăng khối
lượng cơ thể gà và làm tăng tuổi thành thục sinh dục. Tuổi thành thục sinh dục của
cá thể được xác định thông qua tuổi đẻ quả trứng đầu tiên. Tuổi thành thục của một
nhóm hay một đàn gia cầm được xác định theo tuổi đạt tỷ lệ đẻ 5% (Nguyễn Thị
Thanh Bình, 1998).

Thể trạng và độ dài ngày chiếu sáng ảnh hưởng đến khả năng thành thục sinh
dục, những gà thuộc giống có tầm vóc nhỏ thì phần lớn bắt đầu đẻ trứng sớm hơn
những giống gà có tầm vóc lớn.
Ngoài ra, tuổi thành thục sinh dục sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, loài, giới
tính, thời gian nở ra trong năm… Gà hướng trứng tuổi thành thục sớm hơn gà hướng thịt.
Thời gian gà đẻ mạnh là vào những ngày ngắn của thu đông, điều đó cũng nói lên rằng
thời gian chiếu sáng trong ngày ảnh hưởng đến tuổi thành thục sinh dục. Theo Đặng Hữu
Lanh và cs. (1999) cho biết, hệ số di truyền của tính trạng này là 0,32.
Cường độ đẻ trứng là sức đẻ trứng trong một thời gian ngắn. Theo Card L.E
(1968) và Nesheim (1970) cho rằng, cường độ đẻ trứng thường được xác định theo
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

khoảng thời gian 30 – 60 ngày và 100 ngày. Các tác giả này còn cho biết, đối với
các giống gà chuyên trứng cao sản thường có cường độ đẻ trứng lớn nhất vào tháng
thứ hai và ba sau đó giảm dần đến hết năm đẻ. Nguyễn Mạnh Hùng và cs. (1994)
cùng nhiều tác giả khác cho biết, có sự tương quan rất chặt chẽ giữa cường độ đẻ
trứng của 3 – 4 tháng đầu tiên với sức đẻ trứng cả năm. Vì vậy, người ta thường
dùng cường độ đẻ trứng ở 3 – 4 tháng tuổi đầu tiên để dự đoán sức đẻ trứng của gia
cầm mà ghép đôi và chọn lọc giống. Cường độ đẻ trứng còn liên quan mật thiết với
thời gian hình thành trứng và chu kỳ đẻ trứng.
Thời gian nghỉ đẻ: Ở gà, thường có hiện tượng nghỉ đẻ trong một thời gian,
có thể kéo dài trong năm đầu đẻ trứng, từ vài ngày tới vài tuần, thậm chí kéo dài 1
– 2 tháng. Thời gian nghỉ đẻ thường vào mùa đông, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến
sản lượng trứng cả năm. Gia cầm thường thay lông vào mùa đông nên thời gian này
gà nghỉ đẻ. Trong điều kiện bình thường, lúc thay lông đầu tiên là thời điểm quan
trọng để đánh giá gà đẻ tốt hay xấu. Những đàn gà thay lông sớm, thời gian bắt đầu
thay lông từ tháng 6 – 7 và quá trình thay lông diễn ra chậm, kéo dài 3 – 4 tháng là
những đàn gà đẻ kém. Ngược lại, có những đàn gà thay lông muộn, thời gian thay
lông bắt đầu từ tháng 10 – 11, quá trình thay lông diễn ra nhanh là đàn gà đẻ tốt.

Đặc biệt ở một số đàn gà cao sản, thời gian nghỉ đẻ chỉ 4 – 5 tuần và lại đẻ ngay khi
chưa hình thành xong bộ lông mới.
Thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học: chu kỳ đẻ trứng sinh học liên quan
đến thời vụ nở của gia cầm con. Tùy thuộc vào thời gian nở mà sự bắt đầu và kết thúc
của chu kỳ đẻ trứng sinh học có thẻ xảy ra trong thời gian khác nhau trong năm.
Thường ở gà, chu kỳ này kéo dài một năm; ở gà tây, vịt, ngỗng chu kỳ này ngắn hơn và
theo mùa. Chu kỳ đẻ trứng sinh học có mối tương qua thuận với tính thành thục sinh
dục, nhịp độ đẻ trứng, sức bền đẻ trứng và chu kỳ đẻ trứng. Giữa tuổi thành thục và
thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học có mối tương quan nghịch rõ rệt.
Tính ấp bóng hay bản năng đòi ấp trứng: Đây là phản xạ không điều kiện có
liên quan đến sức đẻ trứng của gia cầm. Trong tự nhiên, tính ấp bóng giúp gia cầm
duy trì nòi giống. Bản năng đòi ấp rất khác giữa các giống và các dòng. Các dòng
nhẹ cân có tần số thể hiện bản năng đòi ấp thấp hơn các dòng nặng cân. Gà Leghorn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

và gà Goldline hầu như không còn bản năng đòi ấp. Bản năng đòi ấp là một đặc
điểm di truyền của gia cầm, nó là một phản xạ nhằm hoàn thiện quá trình sinh sản.
Song với thành công trong lĩnh vực ấp trứng nhân tạo, để nâng cao sản lượng trứng
của gia cầm cần rút ngắn và làm mất hoàn toàn bản năng ấp trứng. Bởi vì bản năng
ấp trứng là một yếu tố ảnh hưởng đến sức bền đẻ trứng và sức đẻ trứng.
Các yếu tố di truyền cá thể phụ thuộc vào các gen khác nhau và ảnh hưởng ở
mức độ khác nhau đến sức đẻ trứng. Muốn nâng cao sức đẻ trứng qua một số ít thế
hệ phải bắt đầu chọn lọc trên cả 5 yếu tố nói trên.
+ Giống, dòng gia cầm
Giống, dòng gia cầm có ảnh hưởng rất lớn đến sức sản xuất trứng của gia
cầm. Các giống khác nhau có khả năng đẻ trứng là khác nhau: giống gà Kabir sản
lượng trứng trung bình là 195 quả/mái/năm, gà Brown Nick sản lượng trứng trung bình
là 300 quả/mái/năm. Các giống gà được chọn lọc theo hướng chuyên trứng thường có
sản lượng trứng cao hơn các giống gà kiêm dụng và các giống gà chuyên thịt, các

giống gà nội thường có sản lượng trứng thấp hơn so với các giống gà nhập ngoại.
+ Tuổi gia cầm
Tuổi gia cầm cũng có liên quan đến năng suất trứng. Sản lượng trứng của gà
giảm dần theo tuổi, thường thì sản lượng năm thứ hai giảm 15 – 20% so với năm
thứ nhất (Nguyễn Thị Mai và cs., 2009). Một số loại gia cầm như vịt và ngỗng thì
sản lượng trứng năm thứ hai cao hơn năm thứ nhất.
+ Chế độ dinh dưỡng
Thức ăn và dinh dưỡng có quan hệ chặt chẽ với khả năng đẻ trứng. Muốn gia
cầm có sản lượng trứng cao, chất lượng trứng tốt thì phải đảm bảo một khẩu phần
ăn đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng theo nhu cầu. Quan trọng nhất là cân
bằng giữa năng lượng và protein, cân bằng các axit amin, cân bằng các chất khoáng
và vitamin. Thức ăn có chất lượng kém sẽ không thể cho năng suất cao, thậm chí
còn gây bệnh cho gia cầm. Các loại thức ăn bảo quản không tốt bị nhiễm nấm mốc,
các loại thức ăn bị nhiễm độc kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật… Thậm chí các
loại thức ăn hỗn hợp đảm bảo đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng nhưng bảo
quản không tốt cũng sẽ không phát huy được tác dụng trong chăn nuôi gia cầm
(Nguyễn Thị Mai và cs., 2009).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

+ Điều kiện ngoại cảnh
Các yếu tố ngoại cảnh như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, mùa vụ ảnh hưởng rất
lớn tới sức đẻ trứng của gia cầm.
Mùa vụ có ảnh hưởng rõ rệt đến sức đẻ trứng của gà. Ở nước ta vào mùa hè
sức đẻ trứng giảm xuống so với mùa xuân, đến mùa thu thì sức đẻ trứng của gà lại
tăng lên.
Nhiệt độ môi trường xung quanh có liên quan mật thiết với sản lượng trứng.
Nhiệt độ thích hợp cho gia cầm đẻ trứng là 18 – 24
0
C. Nếu nhiệt độ thấp hơn giới

hạn thì gia cầm phải huy động năng lượng để chống rét và nhiệt độ cao trên nhiệt độ
giới hạn thì cơ thể gia cầm phải thải nhiệt. Nhiệt độ môi trường cao làm giảm lượng
thức ăn thu nhận, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn từ đó làm giảm năng suất trứng và
chất lượng trứng (Nguyễn Thị Mai và cs., 2009). Vỏ trứng sẽ mỏng hơn bình
thường nếu kết hợp với dinh dưỡng không hợp lý.
Liên quan chặt chẽ với nhiệt độ là độ ẩm không khí của chuông nuôi. Độ ẩm
thích hợp từ 65- 70%. Độ ẩm thấp sẽ làm lượng bụi trong chuồng nuôi tăng lên, đây
là một tác nhân gây bệnh đường hô hấp. Ngược lại độ ẩm cao là điều kiện thuận lợi
cho các loại vi sinh vật gây bệnh phát triển, nhất là các bệnh đường tiêu hóa. Độ ẩm
cao kết hợp với nhiệt độ cao sẽ gây stress nóng ẩm rất bất lợi với gia cầm, làm giảm
khả năng đẻ trứng, chất lượng trứng và giảm hiệu quả chăn nuôi.
Ngoài nhiệt độ và độ ẩm, chế độ chiếu sáng cực kỳ quan trọng trong chăn nuôi
gia cầm nói chung và gà đẻ trứng nói riêng. Gia cầm không chỉ cần ánh sáng để
nhìn và tìm thức ăn, nước uống, nơi ở…mà nó còn khởi động cơ quan sinh dục.
Theo Nguyễn Thị Mai và cs. (2009) võng mạc và não bộ của gia cầm rất nhạy cảm
với kích thích của ánh sáng. Cơ chế dẫn truyền kích thích của ánh sáng là cơ chế
thần kinh - thể dịch mà tuyến yên là trung tâm truyền dẫn, chỉ những ánh sáng có
bước sóng dài mới đi qua được. Vì vậy, muốn kích thích cơ quan sinh dục, cần sử
dụng ánh sáng ấm với nhiều màu đỏ và cam. Ánh sáng tác động đến sức đẻ trứng từ
hai khía cạnh là thời gian chiếu sáng và bản chất của ánh sáng. Khi sử dụng chế độ
chiếu sáng trong chuồng nuôi gà, không chỉ đảm bảo thời gian và cường độ chiếu
sáng mà còn phải chú ý đến màu sắc của ánh sáng. Nếu muốn kích thích gà ăn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

nhiều, hoạt động tìm ổ đẻ hiệu quả, tránh đẻ rơi trứng trên sàn đối với gà đẻ thì nên
sử dụng ánh sáng trắng lạnh với nhiều màu xanh. Cần tăng cường ánh sáng đỏ đối
với gà mái đẻ nhất là giai đoạn chuẩn bị vào đẻ (giai đoạn tiền đẻ trứng). Yêu cầu
của gà đẻ về thời gian chiếu sáng là từ 12 – 16 giờ/ngày, cường độ chiếu sáng 10,8
lux sẽ cho năng suất trứng cao nhất. Trong chăn nuôi gà đẻ, có thể sử dụng ánh sáng

tự nhiên hoặc nhân tạo để chiếu sáng cho gà với cường độ chiếu sáng từ 3 – 3,5
W/m
2
(Ron Meijerhof, 2006).
+Năng suất trứng và tỷ lệ đẻ
Năng suất trứng là số trứng một gia cầm mái sinh ra trong một đơn vị thời
gian. Đối với gia cầm đẻ trứng, đây là chỉ tiêu năng suất quan trọng nhất, phản ánh
trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Năng suất trứng là một
tính trạng số lượng nên nó phụ thuộc nhiều vào giống, đặc điểm của cá thể, hướng
sản xuất, mùa vụ và dinh dưỡng.
Hutt F.B., 1978 đề nghị tính sản lượng trứng từ khi gia cầm đẻ quả trứng đầu
tiên, còn Brandsh H. and Billchel H., 1978 cho biết sản lượng trứng được tính đến
500 ngày tuổi. Theo các tác giả trên sản lượng trứng cũng được tính theo năm sinh
học 365 ngày, kể từ ngày đẻ quả trứng đầu tiên. Trong thời gian gần đây, sản lượng
trứng được tính theo tuần tuổi. Nhiêu hãng gia cầm nổi tiếng như Shaver (Canada),
Lohmann (Đức), sản lượng trứng được tính đến 70-80 tuần tuổi.
Năng suất trứng là tính trạng có mối tương quan nghịch chặt chẽ với tốc
độ sinh trưởng sớm, do vậy trong chăn nuôi gà sinh sản, cần chú ý cho gà ăn
hạn chế trong giai đoạn gà dò, gà hậu bị để đảm bảo năng suất trứng trong giai
đoạn sinh sản. Năng suất trứng phụ thuộc nhiều vào số lượng và chất lượng
thức ăn, phụ thuộc vào mức năng lượng, hàm lượng protein và các thành phần
khác trong khẩu phần thức ăn. Năng suất trứng có hệ số di truyền không cao,
nhưng lại dao động lớn. Nguyễn Văn Thiện (1995) cho biết, hệ số di truyền
năng suất trứng của gà là 0,12 - 0,3.
Về tỷ lệ đẻ gà có tỷ lệ đẻ thấp trong mấy tuần đầu của chu kỳ đẻ, sau đó tăng
dần và đạt tỷ lệ cao ở những tuần tiếp theo rồi giảm dần và đạt tỷ lệ đẻ thấp ở cuối
thời kỳ sinh sản. Sản lượng trứng/năm của một quần thể gà mái cao sản, được thể
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12


hiện theo quy luật cường độ dẻ trứng cao nhất vào tháng thứ hai, thứ ba sau đó giảm
dần đến hết năm đẻ. Để tiến hành chọn giống về sức đẻ trứng Hutt F.B., 1978 đã áp
dụng ổ đẻ có cửa sập tự động để kiểm tra số lượng trứng của từng gà mái. Các tác
giả cho rằng sản lượng trứng 3 tháng đẻ đầu và sản lượng trứng cả năm có tương
quan di truyền chặt chẽ (0,7- 0,9).
Năng suất trứng của gà Đông Tảo/36 tuần đẻ đạt 67,71 quả/mái (Nguyễn
Đăng Vang và cs., 1999). Năng suất trứng của gà Lương Phượng Hoa/48 tuần đẻ
đạt trung bình 158,63 quả/mái (Vũ Ngọc Sơn và cs., 1999). Phùng Đức Tiến và cs.
(2001) nghiên cứu trên gà Ai Cập, công bố năng suất trứng từ 22 – 61 tuần đạt
175,36 quả/mái.
Khối lượng trứng: khối lượng trứng là một chỉ tiêu liên quan mật thiết tới chất
lượng trứng giống, kết quả ấp nở, chất lượng và sức sống của gà con. Khối lượng trứng
gia cầm phụ thuộc vào giống, tuổi đẻ, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng…
Theo Brandsch. H and Bilchel. H, 1978 giá trị trung bình khối lượng quả trứng
đẻ ra trong một chu kỳ, là một tính trạng do nhiều gen có tác động cộng gộp quy định,
nhưng hiện còn chưa xác định rõ số lượng gen quy định tính trạng này. Sau sản lượng
trứng, khối lượng trứng là chỉ tiêu quan trọng cấu thành năng suất của đàn gà bố mẹ.
Khi cho lai hai dòng gia cầm có khối lượng trứng lớn và bé, trứng của con lai thường
có khối lượng trung gian, nghiêng về một phía ( Khavecman, 1972).
Khối lượng trứng có hệ số di truyền cao, do đó có thể đạt được nhanh chóng
thông qua con đường chọn lọc (Kushner K.F., 1973). Trứng của gia cầm mới bắt đầu
đẻ nhỏ hơn trứng gia cầm trưởng thành 20-30%. Khối lượng trứng mang tính đặc trưng
của từng loài và mang tính di truyền cao. Hệ số di truyền của tính trạng này h
2
= 0,48 -
0,8 (Brandsch. H and Bilchel. H, 1978). Theo Nguyễn Văn Thiện (1995), h
2
= 0,6 -
0,74. Ý kiến của nhiều tác giả cho rằng trong cùng một giống, dòng, cùng một đàn,
nhóm trứng có khối lượng lớn nhất hoặc bé nhất đều cho tỷ lệ nở thấp, khối lượng

trứng to thì sẽ kéo dài thời gian ấp nở. Orlov M.V, (1974) cho biết, trứng ấp nhận
được từ một nhóm gà mái đẻ có khối lượng trứng trung bình sẽ cho kết quả ấp tốt.
Nhiều tác giả cho rằng giữa khối lượng trứng và sản lượng trứng có tương quan
nghịch, theo Janva (1967) hệ số tương quan giữa sản lượng trứng/năm và khối lượng
trứng là -0,11. Bùi Quang Tiến và cs. (1985) nghiên cứu trên gà Rhoderi là -0,33.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

Chất lượng trứng: trứng gà gồm 3 phần cơ bản: vỏ, lòng đỏ và lòng trắng.
Theo Nguyễn Thị Mai và cs. (2009) tỷ lòng trắng/lòng đỏ tốt nhất là 2/1, càng xa
tỷ lệ này khả năng ấp nở càng thấp. Tỷ lệ này liên quan chặt chẽ tới khối lượng
của trứng. Trong cùng một giống, thường những quả trứng có khối lớn thì tỷ lệ
này cũng lớn hơn và ngược lại những quả trứng có khối lượng nhỏ thì tỷ lệ này
cũng nhỏ hơn.
Hình dạng trứng: trứng gia cầm thường có hình ô van và được thể hiện qua
tỷ số giữa chiều dài và chiều rộng của trứng hay ngược lại. Chỉ số này không biến
đổi theo mùa (Nguyễn Thị Mai và cs., 2009).
Trong chăn nuôi gia cầm sinh sản, chỉ số hình thái của trứng là một chỉ tiêu
để xem xét chất lượng của trứng ấp, những quả trứng dài hoặc quá tròn đều có tỷ lệ
nở thấp. Nguyễn Thị Mai và cs. (2009) cho biết hình dạng trứng của các loài, giống
gia cầm khác nhau thì khác nhau và phụ thuộc vào cấu tạo, đặc điểm co bóp của ống
dẫn trứng trong quá trình tạo trứng.
Màu sắc vỏ trứng: không có ý nghĩa lớn trong việc đánh giá chất lượng
trứng, nhưng có giá trị trong chọn giống và thị hiếu tiêu dùng. Màu sắc trứng là tính
trạng đa gen, có hệ số di truyền biến động từ 0,55 - 0,75 (Nguyễn Thị Mai và cs.,
2009). Khi cho lai dòng gà trứng vỏ trắng với dòng gà trứng vỏ màu, vỏ trứng gà lai
sẽ có màu trung gian.
Độ dày và độ bền của vỏ trứng: độ dày, độ bền hay độ chịu lực của vỏ
trứng là những chỉ tiêu quan trọng đối với trứng gia cầm, có ảnh tới kết quả ấp
nở và vận chuyển. Độ dày và độ bền vỏ trứng phụ thuộc vào giống, tuổi, điều

kiện chăm sóc và nuôi dưỡng, … Nhiệt độ chuồng cao, tuổi già hay stress đều
làm giảm độ dày và sức bền của vỏ trứng.
Hệ số di truyền độ dày của vỏ trứng theo Marco et al. (1982) là 0,3 – 0,6;
hay 0,3 (Nguyễn Văn Thiện, 1995).
Trứng gà Mía ở 38 tuần tuổi có độ dày trung bình 0,36 mm và độ chịu lực
2,88kg/cm
2
(Trịnh Xuân Cư và cs., 2001). Trứng gà Lương Phượng Hoa ở 38 tuần
có độ dày vỏ trung bình 0,35mm và độ chịu lực 4,46kg/cm
2
(Nguyễn Huy Đạt và
cs., 2001).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

Nguyễn Quý Khiêm (1996) cho biết trứng gà Tam Hoàng có độ dày vỏ trứng
bình 0,34 - 0,37 mm, độ chịu lực đạt 3,47kg/cm
2
.
Chỉ số lòng đỏ, chỉ số lòng trắng và đơn vị Haugh: Khi xem xét chất lượng
của trứng thương phẩm cũng như trứng giống, người ta đặc biệt quan tâm đến chỉ
tiêu này. Các chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng trứng càng tốt và tỷ lệ nở càng
cao (Nguyễn Thị Mai và cs., 2009).
Chỉ số lòng đỏ: Chỉ số lòng đỏ là tỷ số giữa chiều cao lòng đỏ so với đường
kính của nó. Theo Nguyễn Thị Mai và cs. (2009), chỉ số lòng đỏ của trứng gà
khoảng 0,4 - 0,5. Trứng có chỉ số lòng đỏ càng lớn thì chất lượng trứng càng tốt.
Chỉ số lòng trắng: là chỉ tiêu đánh giá chất lượng lòng trắng, chỉ số này được
tính bằng tỷ lệ giữa chiều cao lòng trắng đặc so với trung bình cộng đường kính lớn
và đường kính nhỏ của nó. Chỉ số này càng lớn thì chất lượng lòng trắng càng cao.
Chỉ số lòng trắng bị ảnh hưởng bởi giống, tuổi và chế độ nuôi dưỡng.

Nguyễn Huy Đạt và cs. (2001) cho biết, trứng gà Lương Phượng Hoa có chỉ
số lòng trắng và lòng đỏ ở 38 tuần tuổi tương ứng là 0.14 và 0,53; ở 60 tuần tuổi
tương ứng là 0,091 và 0,49.
Đơn vị Haugh: đơn vị Haugh được Haugh R (1930) xây dựng, sử dụng để
đánh giá chất lượng trứng, phụ thuộc khối lượng và chiều cao lòng trắng đặc. Đơn vị
Haugh càng cao thì chất lượng trứng càng tốt. Đơn vị Haugh bị ảnh hưởng bởi thời
gian bảo quản trứng, tuổi gia cầm mái (gà càng già trứng có đơn vị Haugh càng thấp),
bệnh tật, nhiệt độ, thay lông (sau thay lông đơn vị Haugh cao hơn trước thay lông) và
giống (Uyterwal et al.,1995).
+ Khả năng thụ tinh và ấp nở
Kết quả thụ tinh là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng sinh sản của
con giống, phụ thuộc vào các yếu tố như tuổi, tỷ lệ trống mái, mùa vụ, dinh dưỡng,
chọn đôi giao phối,…Tỷ lệ nở là chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của phôi, sức sống
của gia cầm non. Khả năng ấp nở phụ thuộc vào chất lượng trứng, tỷ lệ phôi, kỹ
thuật ấp nở,…Đối với những trứng có chỉ số hình dạng chuẩn, khối lượng trung
bình của giống sẽ cho tỷ lệ ấp nở cao nhất.
Hệ số di truyền của tỷ lệ trứng thụ tinh là 0,11 - 0,13, hệ số di truyền của tỷ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

lệ ấp nở 0,10 - 0,14 (Trần Đình Miên và Nguyễn Văn Thiện, 1995). Nguyễn Đăng
Vang và cs. (1999) cho biết ở gà Đông Tảo tỷ lệ trứng có phôi đạt 89,54 % và tỷ lệ
nở loại 1/trứng ấp đạt 70,08 %. Theo Nguyễn Văn Thạch (1996), gà Ri nuôi bán
thâm canh tỷ lệ phôi đạt 93,42 % và nở/phôi đạt 90,51 %.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.2.1. Tình hình chăn nuôi và nghiên cứu gia cầm trên thế giới
Sau hai năm khó khăn do chi phí thức ăn tăng cao và dịch bệnh kéo dài đến
năm 2013, hiện nay chăn nuôi gia cầm có xu hướng tăng trở lại. Sau khi đạt được
2,7% tăng trong năm 2012, tốc độ tăng trưởng về sản lượng thịt gia cầm giảm
xuống còn 1,5% trong năm 2013. Ước tính mới nhất cho thấy năm 2014 tăng 1,6%.

Về lâu dài, theo một báo cáo triển vọng của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển
(OECD) và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), sản
lượng thịt gia cầm trong 10 năm đến năm 2023 sẽ tăng trưởng khoảng 2,3% mỗi
năm cho khoảng 134.500.000 tấn khiến ngành chăn nuôi gia cầm sẽ trở thành ngành
lớn nhất từ năm 2020 trở đi. Mức tăng trưởng này so với 1,2% ở thịt bò và thịt lợn,
2,3% ở thịt cừu và 1,6% tính cho tất cả các ngành. Do đó, trong tổng số 53 triệu tấn
thịt tăng lên từ 2013 đến 2023 thì thịt gia cầm chiếm tới hơn một nửa 27 triệu tấn.
Năm 2000 số lượng gà giết mổ trên toàn thế giới là 40.635 triệu đến năm
2012 số lượng gà giết mổ đã tăng lên 59.861 triệu con, trong khi mức trung bình
trọng lượng mổ thịt mỗi con tăng từ 1,44kg đến 1,55kg.
Số lượng gia cầm giết thịt ở châu Á đã tăng từ 14.687 triệu đến 24.723 triệu
con trong giai đoạn 2000 đến 2012. Trọng lượng mổ thịt tăng lên khoảng 1,3 kg ở
châu Á, thấp hơn ở châu Mỹ, nó tăng từ 1,67kg lên 1,93kg. Các phân tích khu vực
sản xuất thịt gà bản địa toàn cầu cho thấy, trong năm 2012 - dữ liệu mới nhất của
FAO, thì Mỹ chiếm 43% trong tổng số gần 93 triệu tấn, châu Á chiếm 34%, Châu
Âu gần 17%, Châu Phi 5% và Châu Đại Dương <1%. Trong khi đó vào năm 2000,
tỷ lệ tương ứng là khoảng 46, 32, 16,5 và 1%. Ước tính cho năm 2013 và 2014 cho
thấy trong khi thịt gia cầm tăng 1,6% và 1,7%, tương ứng, thì năm 2015 sản lượng
sẽ tăng hơn 2% và sẽ đến 98 triệu tấn.

×