Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

giải pháp khắc phục tình trạng bỏ hoang đất canh tác trên địa bàn huyện cẩm giàng, tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.98 KB, 97 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM






TĂNG ĐỨC THIỆN



GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BỎ HOANG
ĐẤT CANH TÁC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CẨM GIÀNG,
TỈNH HẢI DƯƠNG



CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ : 60 34 04 10


Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. Nguyễn Văn Song




HÀ NỘI, 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế


Page ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng
dùng bảo vệ để lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cám ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Hải Dương, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn



Tăng Đức Thiện
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp
đỡ tận tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cơ quan, tập thể và cá nhân.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Học viện nông nghiệp Việt Nam,
Khoa Kinh tế nông nghiệp & Phát triển nông thôn và Bộ môn Kinh tế Tài nguyên
và Môi trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc đến GS.TS. Nguyễn Văn
Song người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.

Tôi xin trân trọng cảm ơn cán bộ, công chức, viên chức văn phòng Sở Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, UBND huyện, các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND huyện, các đoàn thể chính trị-xã hội huyện Cẩm Giàng, UBND các xã, thị
trấn, huện Cẩm giàng, tỉnh Hải Dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thiện
khóa luận này.
Tôi xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện của bạn bè, đồng nghiệp
và người thân trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài.

Hải Dương, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn



Tăng Đức Thiện
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

MỤC LỤC

Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
Danh mục chữ viết tắt vi
Danh mục bảng vii
Phần I MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1 Mục tiêu chung 2
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 2
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 2
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 3
Phần II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4
2.1 Cơ sở lý luận về hiện tượng bỏ hoang đất canh tác 4
2.1.1 Khái niệm đất canh tác 4
2.1.2 Nguyên tắc sử dụng đất canh tác 4
2.1.3 Quan điểm sử dụng đất canh tác 5
2.1.4 Vai trò của đất canh tác 6
2.1.5 Khái niệm bỏ hoang đất canh tác 8
2.1.6 Nội dung nghiên cứu hiện tượng bỏ hoang đất canh tác 8
2.1.7 Ảnh hưởng của bỏ hoang đất canh tác 8
2.1.8 Những yếu tố tác động đến hiện tượng bỏ hoang đất canh tác 9
2.2 Cơ sở thực tiễn về hiện tượng bỏ hoang đất canh tác 12
2.2.1 Thực trạng bỏ hoang đất canh tác ở một số nước trên thế giới 12
2.2.2 Tình trạng bỏ hoang đất canh tác ở Việt Nam 18
2.2.3 Nguyên nhân bỏ hoang đất canh tác 24
2.3 Bài học kinh nghiệm rút ra từ tổng quan cho nghiên cứu và địa phương 27
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

Phần III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29
3.1 Đặc điểm của địa bàn nghiên cứu 29
3.1.1 Vị trí địa lý 29
3.1.2 Điều kiện tự nhiên 30
3.1.3 Điều kiện kinh tế - xã hội 32
3.2 Phương pháp nghiên cứu 37
3.2.1 Khung phân tích 37
3.2.2 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 38
3.2.3 Phương pháp thu thập số liệu 39
3.2.4 Phương pháp xử lý số liệu 41

3.2.5 Phương pháp phân tích 41
3.2.6 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 42
Phần IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 43
4.1 Khái quát thực trạng tình hình bỏ hoang đất canh tác trên địa bàn huyện Cẩm
Giàng tỉnh Hải Dương 43
4.1.1 Tình hình chung về bỏ hoang đất canh tác của huyện 43
4.1.2 Thực trạng bỏ hoang đất canh tác của những hộ điều tra 46
4.2 Nguyên nhân và yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng bỏ hoang đất canh tác 50
4.2.1 Nguyên nhân bỏ hoang đất canh tác 50
4.2.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng bỏ hoang đất canh tác tại huyện
Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương 63
4.3 Giải pháp khắc phục tình trạng bỏ hoang đất canh tác tại huyện Cẩm Giàng,
tỉnh Hải Dương 68
4.3.1 Cơ sở đề xuất giải pháp 68
4.3.2 Một số giải pháp cụ thể 68
Phần V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 75
5.1 Kết luận 75
5.2 Kiến nghị 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
PHỤ LỤC 80
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BVTV : Bảo vệ thực vật
KT – XH : Kinh tế - xã hội
LĐNN : Lao động nông nghiệp
NN & PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn

UBND : Ủy ban nhân dân
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

3.1 Cơ cấu hiện trạng đất nông nghiệp huyện Cẩm Giàng năm 2014 33
3.2 Chuyển dịch cơ cấu đất phi nông nghiệp huyện Cẩm Giàng giai đoạn
2006-2014 35
3.3 Dân số và lao động huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2006-2014 36
3.4 Cơ cấu loại hộ khu vực nông thôn huyện Cẩm Giàng năm 2006-2011 37
3.5 Số lượng mẫu điều tra 40
4.1 Thực trạng diện tích đất canh tác bị bỏ hoang trên địa bàn huyện Cẩm Giàng
giai đoạn 2012 - 2014 44
4.2 Tỷ lệ hộ bỏ hoang đất canh trên địa bàn huyện Cẩm Giàng giai đoạn
2012-2014 45
4.3 Diện tích đất ruộng được giao/hộ 46
4.4 Diện tích đất canh tác được sử dụng của nhóm hộ điều tra năm 2014 47
4.5 Tình hình bỏ hoang đất canh tác của nhóm hộ điều tra 48
4.6 Một số nguyên nhân dẫn đến hộ bỏ hoang đất canh tác 50
4.7 Dân số và Cơ cấu lao động huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2006-2014 51
4.8 Cơ cấu trình độ lao động Huyện Cẩm Giàng từ 2009 – 2011 52
4.9 Cơ cấu hộ theo ngành nghề của huyện Cẩm Giàng 53
4.10 Phân bổ lao động theo ngành nghề của nhóm hộ có đất canh tác bỏ hoang 54
4.11 Ảnh hưởng của số lượng lao động nông nghiệp đến mức độ bỏ hoang đất
canh tác của hộ 55
4.12 Giá trị sản xuất bình quân/sào/năm của một số cây trồng 57
4.13 Chi phí trồng trọt bình quân/sào/năm của một số cây trồng 57

4.14 Thu nhập hỗn hợp bình quân/sào của nhóm hộ điều tra 58
4.15 Ảnh hưởng của hệ thống tưới tiêu tới diện tích bỏ hoang của hộ 59
4.16 Chất lượng đất canh tác bỏ hoang của nhóm hộ điều tra 60
4.17 Mức độ phân tán ruộng đất của diện tích đất canh tác bỏ hoang 61
4.18 Cơ cấu nguồn thu nhập của nhóm hộ điều tra có đất canh tác bỏ hoang 62
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii

4.19 Tiền công bình quân 1 ngày công lao động của nhóm hộ có đất canh
tác bỏ hoang 63
4.20 Các chỉ tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020 66

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ix

DANH MỤC HỘP

STT Tên hộp Trang

4.1 Thu nhập từ nông nghiệp thấp không thu được lao động 55
4.2 Hầu hết lao động nông nghiệp chuyển sang làm công việc khác 56
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

Phần I
MỞ ĐẦU

1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp không ổn định, thu nhập kém
hơn với so các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng, dịch vụ khác. Tại một số

địa phương có điều kiện thuận lợi, các cụm công nghiệp, khu công nghiệp và các
hoạt động dịch vụ phát triển mạnh đã thu hút hàng vạn lao động trẻ, dẫn đến tình
trạng nhiều địa phương thiếu lao động nông nghiệp, chỉ còn những người sức khỏe
kém và người cao tuổi ở nhà làm ruộng. Nhiều khu ruộng dân không gieo cấy nhưng
cũng không ai thuê mượn bởi có đầu tư sản xuất cũng chưa chắc có lợi nhuận.
Theo khảo sát của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT),
trung bình mỗi địa phương có trên 100ha, có nơi lên tới 200ha đất nông nghiệp bỏ
hoang. Như vậy, số diện tích đất nông nghiệp bỏ hoang của cả nước phải lên tới vài
nghìn héc ta (tính riêng tại 6 tỉnh miền Bắc và miền Trung đã có trên 1.000ha).
Trong khi nông dân nhiều nơi có nhu cầu mở rộng sản xuất, tận dụng từng tấc đất
để thâm canh, gia tăng sản xuất thì tình trạng bỏ ruộng và trả ruộng (xuất hiện ở cả
những địa phương có diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp) tác động
rất lớn đến nền sản xuất nông nghiệp và tạo tâm lý bất ổn tại các địa phương, gây
lãng phí tài nguyên đất (Đỗ Minh, 2013).
Huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương những năm gần đây đã xuất hiện nhiều
hộ nông dân bỏ hoang đất canh tác, đặc biệt tình trạng này có chiều hướng gia tăng.
Tổng hợp báo cáo của UBND các xã, thị trấn, năm 2012 toàn huyện có 37,6ha và
năm 2013 có 40,4ha đất canh tác bị bỏ hoang. Đến năm 2014, diện tích đất canh tác
bỏ hoang lên đến 64ha, tương ứng với số hộ là 594 hộ. Riêng xã Tân Trường có 8
ha đất nông nghiệp bỏ hoang lâu nay, với 112 hộ nông dân không có nhu cầu sản
xuất nông nghiệp (UBND huyện Cẩm Giàng, 2013).
Hiện nay, hiện tượng bỏ hoang đất canh tác xuất hiện ở cả những địa phương
có đất đai mẫu mỡ, có trình độ thâm canh cao, khu vực sản xuất lúa gạo chủ yếu của
miền bắc như Thanh Hóa và các tỉnh đồng bằng Sông Hồng. Diện tích đất bỏ hoang
chủ yếu là đất 2 lúa, thậm chí đất 2 lúa 1 mầu.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

Hiện tượng bỏ hoang đất canh tác tuy chưa phải là phổ biến, nhưng đã tác
động không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp và tâm lý bất ổn người dân khu vực nông

thôn, gây lãng phí trong việc sử dụng quỹ đất nông nghiệp và nếu không có giải
pháp, chính sách phù hợp sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực vấn đề này đã được
các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm giải quyết, song chưa có hiệu quả vững
chắc. Trước thực trạng đó, câu hỏi đặt ra là bản chất của hiện tượng bỏ hoang đất
canh tác là gì? Những yếu tố nào tác động đến hiện tượng bỏ hoang đất canh tác?
Hiện tượng bỏ hoang đất canh tác ở huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương ra sao? Giải
pháp nào khắc phục hiệu quả hiện tượng bỏ hoang đất canh tác ở huyện Cẩm Giàng,
tỉnh Hải Dương?
Để có giải pháp khắc phục một cách bền vững hiện tượng này, tôi đã chọn đề
tài “Giải pháp khắc phục tình trạng bỏ hoang đất canh tác trên địa bàn huyện
Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích thực trạng tình hình bỏ hoang đất canh tác và các
nguyên nhân, yếu tố tác động đến hiện tượng bỏ hoang đất canh tác, đề xuất các giải
pháp khắc phục tình trạng bỏ hoang đất canh tác trên địa bàn huyện Cẩm Giàng,
tỉnh Hải Dương.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của hiện tượng bỏ
hoang đất canh tác;
- Phản ánh thực trạng hiện tượng bỏ hoang đất canh tác; phân tích các
nguyên nhân, yếu tố tác động tới hiện tượng bỏ hoang đất canh tác tại huyện Cẩm
Giàng, tỉnh Hải Dương;
- Đề xuất các giải pháp khắc phục tình trạng bỏ hoang đất canh tác trên địa
bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Tình trạng bỏ hoang đất canh tác, những yếu tố ảnh hưởng đến hiện tượng bỏ
hoang đất của hộ, thông qua việc nghiên cứu các đối tượng sau:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 3

- Đất canh tác bị bỏ hoang trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương;
- Hộ gia đình có diện tích đất canh tác bị bỏ hoang trên địa bàn huyện Cẩm
Giàng, tỉnh Hải Hương;
- Cán bộ, công chức quản lý nông nghiệp và các chính sách về nông nghiệp
trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
a) Phạm vi về không gian
Địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
b) Phạm vi về nội dung
- Thực trạng đất canh tác bị bỏ hoang;
- Những yếu tố dẫn tới hiện tượng bỏ hoang đất canh tác và nguyên nhân dẫn
đến hiện tượng bỏ hoang đất canh tác;
- Đề xuất một số giải pháp khắc phục tình trạng bỏ hoang đất canh tác.
c) Phạm vi về thời gian
- Đề tài nghiên cứu tình hình sử dụng đất và bỏ hoang đất canh tác trên địa
bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương giai đoạn 2012-2014.
- Số liệu sơ cấp được tập trung khảo sát năm 2014.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

Phần II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1 Cơ sở lý luận về hiện tượng bỏ hoang đất canh tác
2.1.1 Khái niệm đất canh tác
Theo phân loại tiêu chuẩn của Tổ chức nông lương của Liên Hợp Quốc
(FAO), Đất canh tác gồm các loại đất trồng cây hàng năm, chẳng hạn như ngũ cốc,

bông, khoai tây, rau, dưa hấu, loại hình này cũng bao gồm cả đất sử dụng được
trong nông nghiệp nhưng tạm thời bỏ hoang (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia,
2014).
Cổng thông tin điện tử tỉnh Ninh Bình (2014) cho biết thuật ngữ được sử
dụng để tính một số chỉ tiêu nông, lâm nghiệp và thủy sản thì Đất canh tác là loại
đất sử dụng trồng các loại cây hàng năm như: Cây lương thực (lúa, ngô…), cây
công nghiệp ngắn ngày (lạc, thuốc lá, bông…), các loại rau đậu, các loại cây làm
thuốc, cây thức ăn gia súc, đất trồng cỏ… Ngoài ra, ở một số văn bản của nước
ta cho rằng Đất canh tác là đất được dùng gieo trồng, thâm canh các loại cây
trồng có chu kỳ sinh trưởng, phát triển, thu hoạch dưới 12 tháng (UBND tỉnh
Ninh Bình, 2014).
Tổng cục Thống kê (2012) đưa ra khái niệm: “Đất canh tác là diện tích đất
dùng để trồng các loại cây nông nghiệp có thời gian sinh trưởng từ khi gieo trồng
đến khi thu hoạch lần đầu tiên không quá 1 năm”.
Như vậy, có thể hiểu đất canh tác trong nghiên cứu này theo cách hiểu đã
được áp dụng để tính toán một số chỉ tiêu nông, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh
Ninh Bình: Đất canh tác là đất sử dụng trồng các loại cây hàng năm như: Cây lương
thực (lúa, ngô…), cây công nghiệp ngắn ngày (lạc, thuốc lá, bông…), các loại rau
đậu, các loại cây làm thuốc, cây thức ăn gia súc, đất trồng cỏ… có thời gian sinh
trưởng từ khi gieo trồng đến khi thu hoạch lần đầu tiên không quá 1 năm.
2.1.2 Nguyên tắc sử dụng đất canh tác
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn, trong khi đó nhu cầu của con người lấy
từ đất ngày càng tăng, mặt khác đất canh tác ngày càng bị thu hẹp do bị trưng dụng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

sang các mục đích khác. Sử dụng đất canh tác ở Việt Nam với mục tiêu nâng cao
hiệu quả kinh tế - xã hội (KT-XH) trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực, thực
phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp và hướng tới xuất khẩu. Sử dụng
đất trong sản xuất nông nghiệp trên cơ sở cân nhắc những mục tiêu phát triển KT-

XH, tận dụng tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái và không làm ảnh hướng
xấu đến môi trường là những nguyên tắc cơ bản và cần thiết để đảm bảo cho khai
thác sử dụng bền vững nguồn tài nguyên đất. Do đó, đất canh tác cần được sử dụng
theo nguyên tắc “đầy đủ và hợp lý”, phải có các quan điểm đúng đắn theo xu hướng
tiến bộ, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, làm cơ sở thực hiện việc sử dụng
đất canh tác có hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện sử dụng đất canh tác đầy đủ và hợp
lý là cần thiết vì:
- Làm tăng nhanh khối lượng nông sản trên 1 đơn vị diện tích, xây dựng cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, chế độ bón phân hợp lý, góp phần bảo vệ độ phì đất.
- Là tiền đề để sử dụng có hiệu quả cao các nguồn tài nguyên khác, từ đó
nâng cao đời sống của nông dân.
- Trong cơ chế kinh tế thị trường cần phải xét đến tính quy luật của nó, gắn
với các chính sách vĩ mô nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác và phát triển
nền nông nghiệp bền vững (Đỗ Kim Chung và cs., 2009).
2.1.3 Quan điểm sử dụng đất canh tác
Sử dụng đất canh tác dựa trên các quan điểm sau:
- Tận dụng triệt để các nguồn lực thuận lợi, khai thác lợi thế so sánh về khoa
học - kỹ thuật, đất đai, lao động qua liên kết trao đổi để phát triển cây trồng có tỉ
suất hàng hoá cao, tăng sức cạnh tranh và hướng tới xuất khẩu.
- Trên quan điểm phát triển hệ thống nông nghiệp, thực hiện sử dụng đất
canh tác theo hướng tập trung chuyên môn hoá, sản xuất hàng hoá theo hướng
ngành hàng, nhóm sản phẩm, thực hiện thâm canh toàn diện và liên tục. Thâm canh
cây trồng vừa để đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác vừa đảm
bảo phát triển một nền nông nghiệp ổn định.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác trên cơ sở thực hiện “đa dạng hoá”
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

hình thức sở hữu, tổ chức sử dụng đất canh tác, đa dạng hoá cây trồng, chuyển đổi
cơ cấu cây trồng phù hợp với sinh thái và bảo vệ môi trường.

- Nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác gắn liền với chuyển dịch cơ cấu sử
dụng đất và quá trình tập trung ruộng đất nhằm giải phóng bớt lao động sang các
hoạt động phi nông nghiệp khác.
- Các quan điểm sử dụng đất canh tác cụ thể là:
+ Khai thác triệt để, hợp lý, có hiệu quả quỹ đất canh tác
+ Chuyển mục đích sử dụng phù hợp
+ Duy trì và bảo vệ đất canh tác
+ Tiết kiệm, làm giàu đất canh tác
+ Bảo vệ môi trường đất để sử dụng lâu dài. Năm nguyên tắc trên là cốt lõi
của việc sử dụng đất canh tác bền vững. Để duy trì sự sống còn của con người, nhân
loại đang phải đương đầu với nhiều vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn, sự bùng
nổ dân số, nạn ô nhiễm và suy thoái môi trường, mất cân bằng sinh thái Nhiều
nước trên thế giới đã xây dựng và phát triển nông nghiệp theo quan điểm nông
nghiệp bền vững. Hệ thống nông nghiệp bền vững là hệ thống quản lý thành công
các nguồn lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, để thỏa mãn những nhu cầu của
con người, mà vẫn đảm bảo duy trì và nâng cao chất lượng môi trường và bảo vệ
các nguồn lợi thiên nhiên. Hệ thống đó phải bao gồm sự quản lý, bảo vệ các nguồn
lợi thiên nhiên một cách hợp lý nhất và phải có phương hướng thay đổi công nghệ
và thể chế để đảm bảo duy trì và thỏa mãn liên tục những nhu cầu của con người ở
hiện tại và trong tương lai. Sự phát triển như vậy phải gắn liền với việc bảo vệ đất,
nước, các nguồn gen cây trồng vật nuôi và bảo đảm lợi ích kinh tế và sự chấp nhận
xã hội. Nông nghiệp bền vững là tiền đề và điều kiện cho định cư lâu dài (Đỗ Kim
Chung và cs., 2009).
2.1.4 Vai trò của đất canh tác
Đất đai nói chung và đất canh tác nói riêng là tư liệu sản xuất đặc biệt không
thể thay thế: Trong quá trình khai thác sử dụng các tư liệu sản xuất khác sẽ bị hao
mòn hoặc hỏng hóc, còn đất đai nếu được khai thác sử dụng một cách hợp lý, khoa
học thì không những không bị giảm độ phì nhiêu mà còn làm giàu thêm độ phì nhiêu.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7


Đặc biệt vì đất đai vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Trong nông
nghiệp ruộng đất không chỉ là nơi diễn ra sự kết hợp giữa lao động và các yếu tố tự
nhiên để nuôi sống cây trồng. Đất đai chịu sự tác động của con người trong quá trình
sản xuất như: cày, bừa, xới để có môi trường tốt cho sinh vật phát triển. Đất đai là
tư liệu lao động vì đất đai phát huy tác dụng như một công cụ lao động. Con người sử
dụng đất đai để thâm canh trồng trọt. Không có đất đai thì không có sản xuất nông
nghiệp Quỹ đất nông nghiệp có hạn và ngày càng bị thu hẹp do nhu cầu ngày càng
cao về công nghiệp hóa, đô thị hóa và nhu cầu đất ở (Đỗ Kim Chung và cs., 2009).
Trong nông nghiệp đất đai là yếu tố hàng đầu của ngành sản xuất này. Đất
đai không chỉ là chỗ dựa, chỗ đứng để lao động mà còn là nguồn cung cấp thức ăn
cho cây trồng. Mọi tác động của con người vào cây trồng đều dựa vào đất đai và
thông qua đất đai. Đất đai sử dụng trong nông nghiệp được gọi là ruộng đất. Trong
nông nghiệp, ruộng đất vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Quá trình
sản xuất nông nghiệp là quá trình khai thác, sử dụng đất. Bởi vậy không có ruộng
đất thì không thể có hoạt động sản xuất nông nghiệp (Ngô Đức Cát, 2000).
Hướng sử dụng đất quy định hướng sử dụng các tư liệu sản xuất khác và
hiệu quả sản xuất. Chỉ có thông qua đất, các tư liệu sản xuất mới tác động đến
hầu hết các cây trồng, vật nuôi. Vì vậy, muốn làm tăng năng suất đất đai, giữ
gìn và bảo vệ đất đai để đảm bảo cả lợi ích trước mắt cũng như mục tiêu lâu dài,
cần sử dụng đất tiết kiệm có hiệu quả, cần coi việc bảo vệ lâu bền nguồn tài
nguyên vô giá này là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp bách đối với mỗi quốc
gia (Đỗ Kim Chung và cs.,1997).
Đất đai không những là địa bàn tiến hành sản xuất mà còn là môi trường
sốngcủa các loài sinh vật. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những sinh vật
sống (cây trồng, vật nuôi). Đất đai cung cấp dinh dưỡng cho quá trình sinh trưởng
và phát triển của cây trồng. Hiệu quả sản xuất của cây trồng, vật nuôi phụ thuộc rát
nhiều vào chất lượng đất đai. Việc quản lý và sử dụng đất tốt sẽ làm tăng thu nhập,
ổn định kinh tế chính trị và xã hội ở nông thôn. Đất đai luôn gắn bó với nông dân từ
đời này sang đời khác, là tài sản sinh kế quan trọng của hộ nông dân. Họ sinh sống,

sản xuất, tạo ra thu nhập trên mảnh đất của mình. Đất đai còn là phần tài sản thừa kế
quan trọng mà hộ nông dân để lại cho thế hệ kế tiếp (Đỗ Kim Chung và cs., 2009).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

2.1.5 Khái niệm bỏ hoang đất canh tác
Cho đến nay, chưa có tài liệu nào nói rõ về khái niệm bỏ hoang đất canh tác
nói riêng và bỏ hoang đất nông nghiệp nói chung, ở một số văn bản của nhà nước
trong lĩnh vực quản lý đất đai có nêu: đất có đủ điều kiện về địa hình, thổ nhưỡng,
cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất nhưng không đựợc đưa vào khai thác sử
dụng trong chu kỳ sản xuất từ 12 tháng trở lên được coi là đất bị bỏ hoang (Quốc
hội, 2013).
Như vậy, có thể hiểu đất canh tác bị bỏ hoang trong nghiên cứu này là phần
diện tích đất canh tác được nhà nước giao cho cá nhân, tổ chức có điều kiện, tiềm
năng khai thác sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp nhưng không được sử
dụng trong 1 chu kỳ (vụ) sản xuất trở lên.
2.1.6 Nội dung nghiên cứu hiện tượng bỏ hoang đất canh tác
- Thực trạng bỏ hoang đất canh tác một số nước, Việt Nam, địa bàn nghiên cứu.
- Thực trạng bỏ hoang đất canh tác của hộ.
- Yếu tố tác động đến hiện tượng bỏ hoang đất canh tác: lao động, điều kiện
canh tác, đặc điểm đất đai, hiệu quả sử dụng đất…
- Nguyên nhân của hiện tượng bỏ hoang đất canh tác.
- Giải pháp khắc phục tình trạng bỏ hoang đất canh tác.
2.1.7 Ảnh hưởng của bỏ hoang đất canh tác
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và quan trọng nhất với hộ nông dân vì
cuộc sống của họ gắn liền với đất đai. Không có đất đai thì không có sản xuất nông
nghiệp và người nông dân. Mối quan hệ giữa đất đai và người nông dân là mối quan
hệ đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp. Giải quyết mối quan hệ này là tiền đề phát
triển sản xuất nông nghiệp, ngược lại giải quyết không tốt mối quan hệ này thì kinh
tế nông nghiệp không thể phát triển được.

Đất nông nghiệp nói chung, đặc biệt là đất canh tác có vai trò to lớn trong
nền kinh tế nói chung và kinh tế hộ gia đình, giữ vai trò bảo đảm an ninh lương
thực, thực phẩm cho một quốc gia, địa phương, góp phần ổn định an ninh chính trị.
Trong lịch sử Việt Nam đã phải hy sinh nhiều xương máu để giành lại ruộng đất
cho người nông dân với khẩu hiệu “người cầy có ruộng” và để nói nên giá trị to lớn
của đất nông nghiệp ông cha ta có câu “Ai ơi chớ để ruộng hoang, bao nhiêu tấc đất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9

tấc vàng bấy nhiêu”. Bỏ hoang đất canh tác gây ra tâm lý bất ổn cho người nông
dân, nông thôn, gây lãng phí lớn về nguồn lực về đất đai, đe dọa đến an ninh lương
thực, thực phẩm trong vùng, quốc gia. Nông dân bỏ hoang đất canh tác đang đặt ra
nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Nếu để xảy ra tình trạng nông dân bỏ hoang đất canh
tácồ ạt sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nền nông nghiệp và an sinh xã hội. Khi bỏ đi tư
liệu sản xuất, người nông dân sẽ di cư tự do ra thành phố kiếm việc làm. Trong bối
cảnh kinh tế khó khăn như hiện nay, việc làm không phải dễ tìm, từ đó có thể sẽ làm
nảy sinh những tệ nạn, ảnh hưởng trật tự xã hội. Tình trạng nông dân bỏ ruộng còn
cho thấy những chính sách dành cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn của chúng
ta có dấu hiệu xa rời thực tiễn (Quang Minh, 2014).
2.1.8 Những yếu tố tác động đến hiện tượng bỏ hoang đất canh tác
i) Điều kiện đất đai, thổ nhưỡng
Đất đai là yếu tố gắn liền với quá trình sản xuất nông nghiệp, vị trí, thành phần
cơ giới đất, độ phì nhiêu của đất ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh trưởng, phát
triển của sinh vật, quyết định đến thu nhập của nhà sản xuất nông nghiệp. Ở khu vực
đất đai có độ phì cao sẽ cho năng suất cao, chi phí cho đầu tư sản xuất thấp hơn so với
những khu đất khác, do đó những khu vực này đem lại hiệu lợi nhuận cao hơn nên
thường ít bị bỏ hoang hơn. Ngược lại những khu đất có độ phì thấp, đất chua, mặn, bạc
mầu ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng, phát triển của cây trồng, người nông đân phải đầu
tư nhiều thời gian chăm sóc, bón phân nhiều hơn trong khi năng suất cây trồng vẫn
thấp hơn khu đất khác. Hiệu quả sản xuất thấp, thậm chí thua lỗ dẫn đến tình trạng

người nông dân chán nản không canh tác nữa.
Một số nơi địa hình không thuận lợi như: ruộng trũng, việc tưới tiêu không
thuận lợi, chất đất kém, giao thông nội đồng kém do chưa chuyển đổi được sang cây
trồng khác nên vẫn bỏ hoang (Sở NN & PTNN Hải Dương, 2013).
ii) Quy mô diện tích của thửa ruộng
Quy mô nhỏ lẻ, manh mún, ruộng đất phân tán có ảnh hưởng lớn đến tình trạng
bỏ hoang đất canh tác. Ruộng đất nhỏ lẻ, phân tán mỗi nơi một thửa gây khó khăn cho
hộ nông dân trong sản xuất nông nghiệp, để canh tác trên mảnh ruộng này họ phải bỏ
ra nhiều chi phí hơn cho việc di chuyển, khó khăn cho việc thực hiện cơ giới hóa, chi
phí nhiều công lao động hơn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

Hiệu quả kinh tế thấp do ruộng đất manh mún, chi phí đầu vào ngày một tăng
cao, giá nông sản thấp nhất là sản xuất lúa đầu ra có xu hướng giảm, sản xuất
bấp bênh do thiên tai, dịch bệnh nhiều nên tỷ lệ bỏ hoang đất canh tác ở những
thửa ruộng nhỏ hẹp cao hơn (Sở NN & PTNN Hải Dương, 2013).
iii) Nguồn nhân lực
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ thu hút lược lượng
lớn lao động lớn khu vực nông thôn, nông nghiệp, hình thành luồng di cư lao động
từ nông thôn ra thành thị, các khu công nghiệp. Trong khi đó sản xuất nông nghiệp
mang tính thời vụ, thời gian nông nhàn của lao động nông nghiệp cao, nên lực
lượng lao động trẻ chuyển sang làm công nhân trong các khu công nghiệp, nhà máy
hoặc ngành nghề khác do đó nhiều hộ gia đình thiếu nguồn nhân lực tham gia vào
sản xuất nông nghiệp, nhiều hộ gia đình thiếu lao động thực hiện công việc nặng
nhọc trong sản xuất nông nghiệp nên đã không thể thực hiện các hoạt động nông
nghiệp và họ đã cho thuê hoặc bỏ hoang ruộng đất của mình.
Những năm gần đây, những cụm khu công nghiệp, các hoạt động dịch vụ đã
thu hút một bộ phân lao động nông nghiệp tại địa phương với thu nhập khá và ổn
định do đó nhiều địa phương thiếu lao động nông nghiệp (Sở NN & PTNN Hải

Dương, 2013).
iv) Cơ cấu kinh tế nông thôn thay đổi
Sự phát triển của làng nghề, các ngành thủ công mỹ nghệ thu hút sự chú ý
của những nông dân. Các ngành nghề có thu nhập cao, đầu tư vào có hiệu quả cao
hơn so với trồng lúa nhiều vả lại thu nhập từ làng nghề khá ổn định, không chịu tác
động của nhiều yếu tố tự nhiên như thời tiết, nắng mưa… và lao động trong làng
nghề cũng nhàn hạ hơn lao động trong nông nghiệp rất nhiều vì vậy đã có nhiều
nông dân từ bỏ ruộng đất của mình để đi theo làng nghề hay những nghề có thu
nhập cao hơn và đỡ vất vả hơn.
Sự xuất hiện của khu công nghiệp cũng kéo theo nhiều tác động đến nông
nghiệp nông thôn và nông dân và việc nông dân bỏ ruộng, cho mượn ruộng. Khi các
nhà máy, các công ty hay khu công nghiệp xuất hiện thì có nhiều mảnh ruộng, thửa
ruộng bị chia cắt xen kẽ và gần khu công nghiệp. Những mảnh ruộng bị chia cắt,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

chia nhỏ không đủ để canh tác, nó quá nhỏ, phân tán vì vậy đầu tư vào những mảnh
ruộng này sẽ là điều bất khả thi và không hiệu quả nên những mảnh ruộng này bị bỏ
không canh tác nữa. Bên cạnh sự nhỏ lẻ của các mảnh ruộng còn có sự ô nhiễm về
khí thải, nguồn nước xung quanh khu công nghiệp vì vậy những diện tích đất trồng
xung quanh khu công nghiệp cũng bị ô nhiễm không thể tiếp tục canh tác được, hơn
nữa nó còn có hại cho những người dân canh tác những mảnh ruộng này do phải
tiếp xúc với ruộng đất ô nhiễm, nước ô nhiễm và thường xuyên hít phải khí thải độc hại
chính vì vậy những mảnh ruộng xung quanh khu công nghiệp, nhà máy, công ty bị bỏ
hoang không cấy (Sở NN & PTNN Hải Dương, 2013).
v) Do chi phí đầu vào tăng cao
trong những năm gần đây chi phí cho các nguyên liệu đầu vào liên tục tăng cao
trong khi giá lúa gạo tăng chậm chạp không kịp với những biến động của giá phân
bón thuốc trừ sâu… Các chi phí này quá cao trong khi từ thời gian chăm sóc đến
thời gian thu hoạch lại khá dài, khi thu hoạch rồi muốn có tiền những hộ nông dân

này lại phải bán thóc, bán lúa lấy tiền cho nên khi so sánh thu nhập so với chi phí bỏ
ra thì các hộ nông dân này đều chán nản với ruộng đất của chính mình.

Nguồn: Ngọc Lê, 2013
Cục Kinh tế hợp tác và PTNT cho biết, giá vật tư đầu vào ngày càng tăng,
trong khi giá bán sản phẩm ngày càng giảm đi. Nếu tính 5 năm trở lại đây, giá giống
tăng 2,5 lần, giá phân bón vô cơ tăng gấp 2 lần, nhân công thuê ngoài cũng tăng hơn
2 lần, trong khi đó giá thóc chỉ tăng 1,2 lần, từ 5.000 đồng lên 6.000 đồng/kg. Như
vậy, có thể thấy giá đầu vào tăng nhanh hơn giá đầu ra chính là yếu tố quan trọng
nhất làm giảm thu nhập của nông dân. Mặt khác nếu năm 2011 khảo sát nhiều xã
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

ĐBSH mỗi hộ bình quân phải đóng khoảng 1,6-1,7 triệu đồng/năm cho các khoản
tiền như: Tiền bảo vệ đồng ruộng, tiền thu làm giao thông nông thôn, nội đồng, kiên
cố hóa kênh mương, vệ sinh môi trường, quỹ khuyến học, quỹ nông dân và phần
lớn khoản này họ vẫn được tính theo đầu sào (Ngọc Lê, 2013).
‘Trong khi thu nhập thấp, lại phải đóng các phí kèm theo, nên thay vì việc lẽ
ra có nhiều ruộng thì khá lên, bây giờ sản xuất càng nhiều ruộng thì càng phải đóng
góp nhiều hơn và chính vì thế thúc đẩy nông dân có tâm lý trả ruộng” (Trích phát
biểu của ông Tăng Minh Lộc, Bộ NN và PTNT).
2.2 Cơ sở thực tiễn về hiện tượng bỏ hoang đất canh tác
2.2.1 Thực trạng bỏ hoang đất canh tác ở một số nước trên thế giới
Hàng năm, trên thế giới diện tích đất canh tác có xu hướng bị thu hẹp, sản xuất
nông nghiệp trở nên khó khăn hơn. Không chỉ đối mặt với sự sụt giảm về diện tích, cả
thế giới cũng đang lo ngại trước sự suy giảm chất lượng đất. Một diện tích lớn đất canh
tác bị nhiễm mặn không canh tác được một phần cũng do tác động gián tiếp của sự gia
tăng dân số. Sự gia tăng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) cũng tạo ra nguy cơ ô
nhiễm đất nông nghiệp. Thuốc hóa học trừ sâu, phân bón hóa học trên thế giới ngày
càng được sử dụng nhiều. Trong thập niên 80, thuốc BVTV được sử dụng ở các nước

như: Indonexia, Pakistan, Philipin, Srilanka đã tăng hơn 10%/năm. Thuốc BVTV gây
hại nghiêm trọng cho môi trường và sức khỏe con người. Theo ước lượng của Tổ chức
Y tế Thế giới, mỗi năm có 3% lao động trong nông nghiệp ở các nước đang phát triển
(25 triệu người) bị nhiễm độc thuốc trừ sâu. Thập niên 90, ở Châu Phi mỗi năm 11
triệu người bị nhiễm độc. Tại Malayxia, 7% nông dân bị ngộ độc hàng năm và 15 % bị
ngộ độc ít nhất 1 lần trong đời. Hàng năm có khoảng 6 triệu hecta đất bị hoang mạc
hoá, mất khả năng canh tác do những hoạt động của con người. Xói mòn rửa trôi cũng
là một nguyên nhân khác gây suy thoái đất. Mỗi năm rửa trôi xói mòn chiếm 15%
nguyên nhân thoái hoá đất. Trung bình đất đai trên thế giới bị xói mòn 1,8 - 3,4
tấn/hecta/năm. Tổng lượng dinh dưỡng bị rửa trôi xói mòn hàng năm là 5,4 - 8,4 triệu
tấn, tương đương với khả năng sản sinh 30 - 50 triệu tấn lương thực. Sự xói mòn đất
dẫn tới hậu quả là làm giảm năng suất đất, tạo ra nguy cơ mất an ninh lương thực, phá
hoại nguồn tài nguyên, làm mất đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái và nhiều nguy
cơ khác (Trung tâm thông tin tư liệu Khoa học và công nghệ quốc gia, 2002).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

Campuchia
Theo báo cáo của Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu và phát triển Nông
nghiệp Campuchia được đăng tải trên báo điện tử Tổ Quốc ngày 09/12/2009
(www.toquoc.gov.vn) thì nông dân Campuchia đang trong vòng luẩn quẩn thiếu
đất canh tác và thiếu ăn. Đồng ruộng Campuchia phân bố rất thưa dân số, bởi cái
đất nước bao la ấy với diện tích 181.035km
2
, có một nửa là diện tích đồng bằng
mà đến nay chỉ có 14 triệu dân. Trong số này có hơn 80% làm nông nghiệp.
Người ta tính rằng nông dân Campuchia sở hữu đến hơn 1hecta đất/người. “Tiềm
năng nông nghiệp của Campuchia rất dồi dào, nhưng nông dân thì lại rất nghèo, có
những vùng thiếu gạo ăn phải sống nhờ vào sự cứu đói của các tổ chức quốc tế”. Trên
90% đất nông nghiệp ở Campuchia chỉ làm một vụ lúa. Rất ít gặp hệ thống thuỷ lợi,

thuỷ nông. Hầu như nông dân làm ruộng dựa vào thiên nhiên là chủ yếu. Một số nông
dân khác thì lợi dụng nguồn nước ngọt sánh kiệt của mùa khô để trồng một số nông
phẩm như: bầu, bí, bắp, dưa… nhưng sản lượng không đáng kể, chủ yếu là tự sản tự
tiêu, bởi vì nước ngọt ở Campuchia mùa khô rất hiếm (Kim Liên, 2009).
Thái Lan
Thái Lan năm 2007, nước này xuất khẩu 9 triệu tấn gạo, đạt 3,5 tỷ USD, giữ
vững thế độc tôn, do có lợi thế về lao động nông nghiệp và đất đai. Nhưng hiện nay
đang phải đối mặt với thách thức lớn, diện tích đất canh tác có xu hướng giảm
mạnh, thoái hóa khiến người nông dân ở một số tỉnh, đặc biệt là vùng Đông Bắc
Thái Lan, không mặn mà với nghề nông, bỏ lại ruộng vườn tìm đến những thành
phố lớn như Bangkok làm thuê. 30 năm trước, có thời gian diện tích đất nông
nghiệp của Thái Lan tăng “đột biến”. Người Thái cần cù lao động, bám chặt đồng
ruộng để mong thay đổi cuộc sống. Còn các nhà hoạch định chính sách Thái Lan coi
nông nghiệp là nội lực sống còn để phát triển kinh tế quốc dân. Với lợi thế về nhân
lực nông nghiệp (có đến 80% dân số Thái sinh sống vùng nông thôn), diện tích đất
canh tác sẵn có, Thái Lan đã nhanh chóng hiện thực hóa được ước mơ trở thành
“nồi cơm” của thế giới. Nỗi lo bắt đầu manh nha trong giới lãnh đạo của quốc gia
được xem là luôn đi đầu khu vực trong xuất khẩu nông sản này khi diện tích đất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

canh tác nông nghiệp gần đây (hiện nay là 22 triệu ha) có xu hướng giảm mạnh.
Nguyên nhân được các nhà nghiên cứu Thái Lan mổ xẻ: tốc độ công nghiệp hóa, sự
mở rộng các khu công nghiệp, giải trí; “trương nở” của những đô thị lớn; kèm theo
đó là hiện tượng lơ là trong việc áp dụng các kỹ thuật canh tác mới theo phương
châm phát triển bền vững khiến màu mỡ đất canh tác bị rửa trôi, xói mòn hoặc
nhiễm mặn.
Như một “phản ứng dây truyền”, diện tích đất canh tác giảm, thoái hóa khiến
người nông dân ở một số tỉnh, đặc biệt là vùng Đông Bắc Thái Lan, không mặn mà với
nghề nông, bỏ lại ruộng vườn tìm đến những thành phố lớn như Bangkok làm thuê.

Theo một thống kê, hơn 10 năm trước số lao động nông nghiệp Thái Lan chiếm từ 55-
60% dân số thì gần đây, con số này chỉ còn khoảng 40%, và dự báo đến 2013 sẽ tiếp
tục giảm xuống còn 37% (Đức Phường, 2008).
Trung Quốc
Theo báo điện tử Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc - CRI ngày 20/09/2009,
Trung Quốc có đất đai rộng mênh mông, loại hình tài nguyên đất đai da dạng. Ruộng
đất, vùng rừng, đồng cỏ, hoang mạc, bãi lầy rải rác tại Trung Quốc với diện tích lớn.
Nhưng Trung Quốc có đất đồi nhiều, đồng bằng ít, ruộng đất và vùng rừng chiếm tỷ
lệ nhỏ. Tài nguyên đất đai các loại rải rác không đồng đều, ruộng đất chủ yếu tập
trung ở khu vực đồng bằng và vùng lòng chảo thuộc khu vực gió mùa miền đông;
phần lớn vùng rừng tập trung ở vùng hẻo lánh ở miền đông bắc và tây nam; đồng cỏ
chủ yếu rải rác ở vùng cao nguyên và vùng núi ở đất liền. Nông dân hiện vẫn chiếm
đại bộ phận trong tổng số 1,3 tỷ dân Trung Quốc. Thế nhưng bộ phận này dường
như bị gạt ra ngoài lề của công cuộc chấn hưng kinh tế đất nước. Sự thần kỳ của nền
kinh tế lớn đông dân nhất thế giới đem lại thu nhập khá cao, 1.000 USD/năm cho
người dân thành thị, nhưng thu nhập của những người dân quê chỉ đạt khoảng 317
USD/năm, và khoảng cách này ngày càng rộng ra cùng với sự bùng nổ sản xuất
công nghiệp của Trung Quốc. Trong khi giá cả hàng nông sản gia tăng chậm chạp
thì những chi phí sản xuất như giá phân bón, xăng dầu phục vụ sản xuất nông
nghiệp lại tăng cao theo giá công nghiệp, đẩy thu nhập ròng của người nông dân
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

vốn đã thấp lại càng thấp hơn so với mặt bằng chung của xã hội. Tính tới nay đã có
hàng trăm triệu nông dân Trung Quốc bỏ ruộng vườn ra thành phố tìm kiếm việc
làm tại các khu công nghiệp (Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc – CRI, 2014).
Philippines
Ở Philippines thu nhập từ nông nghiệp thấp, hầu hết lao động trẻ đều tìm đến
những thành phố lớn để tìm kiếm việc làm có thu nhập cao, đã tạo luồng di cư lao
động từ nông thôn đến các thành phố lớn. Khu vực nông thôn thiếu hụt lao động,

ruộng đồng bị bỏ hoang trong khi đất nước phải đối mặt với cuộc khủng hoảng
lương thực. Khi Philippines phải đối mặt với cuộc khủng hoảng lương thực tồi tệ
nhất trong nhiều năm nay, thì rất nhiều nông dân ở chính khu vực cấy trồng đã từ
bỏ ruộng đồng, đến với các nghề có thu nhập hấp dẫn hơn. Ruộng lúa bậc thang
2.000 năm tuổi của Philippines tại dãy núi Coridellera đã được UNESCO công
nhận là Di sản Thế giới. Tuy nhiên, nó đã bị bỏ quên và không được tu sửa khi
người nông dân rời bỏ ruộng đồng đến với những nguồn thu hấp dẫn khác. Ông
Raymond cho biết: Diện tích ruộng bậc thang của chúng tôi đang sụt giảm ở mức
báo động. Khoảng 25-30% đất đã bị bỏ hoang, lãng quên hay sử dụng vào mục
đích khác.
Một số nông dân đã chuyển đổi từ trồng lúa sang các sản phẩm có giá trị cao
hơn như rau, cao su, cà phê, nhưng rất nhiều người khác thì bỏ ruộng đồng đi tìm
việc làm ở các thành phố lớn. Những phòng trọ, cửa hiệu lương thực và bán lẻ đã
lấn dần đất nông nghiệp. Hồi chuông cảnh báo về viễn cảnh tồi tệ trong cung cấp
lương thực đã vang lên, chính phủ Philippines đã ra lệnh dừng mọi kế hoạch chuyển
đổi đất nông nghiệp sang mục đích khác. Nhưng họ làm không tích cực để ngăn
chặn việc dân di cư tới thành phố, rời bỏ ruộng đồng. “Đây là điều đáng buồn vì hầu
hết thanh niên đều có giấc mơ kiếm sống dễ dàng hơn, có nghề nghiệp thu nhập cao
hơn ở các thành phố hay nước ngoài”, Raffy Menen, lãnh đạo một hiệp hội nông
dân ở vùng ruộng bậc thang cho biết. Hầu hết học sinh trung học ở trong làng của
ông chẳng có hứng thú gì với nghề trồng lúa truyền thống đã có lịch sử hơn 2.000
năm của ông cha. “Đây là công việc khó khăn, tất cả đều làm bằng tay vì chúng tôi
không có gia súc cũng như thiết bị phù hợp với những thửa ruộng nhỏ. Thanh niên
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16

trong làng đều muốn kiếm việc tại các khách sạn hay nhà hàng trong thị trấn” (Kỳ
Thư, 2008).
Tóm lại, đất nông nghiệp trên thế giới đã không nhiều so với tổng diện tích
tự nhiên, lại bị khai thác sử dụng kém hiệu quả gây lãng phí lớn về nguồn lực từ đất.

Nghiên cứu thực trạng sử dụng đất nông nghiệp các nước khu vực Đông nam á có
điều kiện tương đồng vớiViệt Nam nhận thấy rằng, đất đai bị thoái hóa do sử dụng
nhiều hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, hiệu quả sản suất nông nghiệp thấp, thu nhập
từ các ngành nghề phi nông nghiệp cao đã tác động trực tiếp đến tâm lý người nông
dân không găn bó với đồng ruộng. Tăng cường quản lý và áp dụng các biện pháp
canh tác hợp lý là một việc làm cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
2.2.2 Tình trạng bỏ hoang đất canh tác ở Việt Nam
2.2.2.1 Sử dụng đất canh tác ở Việt Nam
a) Diện tích đất canh tác
Tổng diện tích tự nhiên của Việt Nam là 33.168.855 ha, đứng thứ 59 trong
hơn 200 nước trên thế giới. Thế nhưng, diện tích đất canh tác của Việt Nam thấp
vào bậc nhất trên thế giới. Đó là dự báo của các chuyên gia trong hội thảo “Sử dụng
tài nguyên đất ở Việt Nam với định cư đô thị và nông thôn” do Liên hiệp các Hội
khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Viện nghiên cứu định cư, Viện nghiên cứu đô thị và
phát triển hạ tầng tổ chức vào ngày 24-25/5/2007. Nước ta có các vùng đất nông
nghiệp trù phú như: Đồng bằng sông Hồng rộng gần 800 ngàn hecta, đồng bằng
sông Cửu Long khoảng 2,5 triệu hecta. Nhưng hiện những vùng đất này đều bị chia
nhỏ, manh mún khiến một số công trình thủy nông không còn tác dụng. Mặt khác,
đất canh tác đang bị chuyển đổi tùy tiện. Đến năm 2010, đất canh tác giảm khoảng
hơn 170 ngàn hecta (Lê Văn Khoa, 2009).
b) Chính sách đất canh tác của Việt Nam
* Thực trạng
Chính sách đất canh tác hiện nay ở nước ta là kết quả của quá trình xây dựng
trên quan điểm đổi mới trong một thời gian dài. Khởi điểm của quá trình đổi mới đó
là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 về giao quyền tự chủ cho hộ nông dân,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) tháng 11-1988

×