Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.92 KB, 26 trang )

CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ
NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)
1.1. NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)
1.1.1 Đặt vấn đề
Vốn ODA là một phần của nguồn tài chính chính thức mà Chính phủ các nước
phát triển và các tổ chức đa phương dành cho các nước đang phát triển nhằm hỗ trợ phát
triển kinh tế và phúc lợi xã hội các quốc gia này. Vốn ODA bao gồm tất cả các khoản
viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại và vay ưu đãi; trong đó phần viện trợ không hoàn
lại và các yếu tố ưu đãi khác chiếm ít nhất 25% vốn cung ứng. Nhiều quốc gia đã thu
hút, vận động và sử dụng vốn ODA khá hiệu quả. Song không ít quốc gia lại là bài học
không thành công về quản lý vốn ODA. Hơn 15 năm qua, Việt Nam đã có được những
thành công đáng kể trong lĩnh vực này, nhưng đồng thời cũng nổi lên nhiều bất cập đòi
hỏi Chính phủ và Quốc hội phải quan tâm đúng mức.
1.1.2. Định nghĩa ODA
ODA( Official Development Assistance) là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức hay viện trợ phát triển chính thức của Chính phủ các nước và các tổ chức quốc
tế cho các nước đang phát triển và kém phát triển. Gọi là hỗ trợ bởi vì các khoản
đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời
gian vay dài, đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là phát triển vì mục tiêu danh nghĩa
của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được
đầu tư. Gọi là chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay
1.1.3. Các hình thức cung cấp ODA bao gồm:
- ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp ODA không phải hoàn trả lại cho
nhà tài trợ. Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng như hỗ trợ kỹ
thuật, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật…;
- ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các điều kiện
ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm “yếu tố không hoàn lại”
(còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25%
đối với các khoản vay không ràng buộc;
- ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu
đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng tính chung lại có


“yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối
với các khoản vay không ràng buộc.
1.1.4. Các phương thức cơ bản cung cấp ODA gồm có:
• Hỗ trợ dự án;
• Hỗ trợ ngành;
• Hỗ trợ chương trình;
• Hỗ trợ ngân sách.
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 1
1.1.5. Các nguồn cung cấp ODA
- ODA song phương : là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia
thông qua hiệp định được ký kết giữa hai chính phủ.
- ODA đa phương : là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB,…)
hay tổ chức khu vực (ADB, EU,…) hoặc của một chính phủ của một nước dành cho chính
phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương
như UNDP (Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc), UNICEF (Quỹ nhi đồng Liên Hiệp
Quốc), …
* Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu :
- Ngân hàng thế giới (WB)
- Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
- Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)
1.2 VAI TRÒ CỦA ODA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.2.1 Những mặt tích cực
Tầm quan trọng của ODA đối với các nước đang và kém phát triển là điều không
thể phủ nhận. Điều này được thể hiện rõ qua những thành công mà các nước tiếp nhận
ODA đã đạt được. Cụ thể như sau:
1.2.1.1 Nhu cầu vốn ODA cho đầu tư phát triển kinh tế
Trong khi các nước đang phát triển đa phần là trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng
nên thông qua ODA song phương có thêm vốn để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế
xã hội.
Tạo điều kiện để các nước tiếp nhận có thể vay thêm vốn của các tổ chức quốc tế,

thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn qua sự giúp đỡ của ODA.
ODA giúp các doanh nghiệp nhỏ trong nước có thêm vốn, tạo điều kiện nâng cao
hiệu quả đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dần dần mở rộng quy mô doanh nghiệp.
Ngoài ODA còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu máy móc thiết
bị cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từ các nước phát triển.
Thông qua nước cung cấp ODA, nước nhận viện trợ có thêm nhiều cơ hội mới để tham
gia vào các tổ chức tài chính thế giới, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ các tổ chức
này.
1.2.1.2 ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát
triển nguồn nhân lực.
Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước nhận tài trợ là công
nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến. Các nhà tài trợ
còn ưu tiên đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực vì họ tin tưởng rằng việc phát triển của
một quốc gia quan hệ mật thiết với việc phát triển nguồn nhân lực.
ODA được cấp cho các nước nhận tài trợ thông qua các hoạt động như: Hợp tác kỹ
thuật, huấn luyện, đào tạo nhằm đào tạo cán bộ chuyên môn để đóng góp vào sự phát triển
kinh tế, xã hội của các nước có người được huấn luyện, đào tạo, cử chuyên gia để chuyển
giao hiểu biết, công nghệ cho các nước đang phát triển thông qua định hướng, điều tra và
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 2
nghiên cứu, góp ý, cung cấp thiết bị và vật liệu độc lập cũng là một bộ phận của chương
trình hợp tác kỹ thuật, hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án.
Nguồn vốn ODA có vai trò tích cực hỗ trợ phát triển năng lực con người trong việc
đào tạo hàng vạn cán bộ cho nước tiếp nhận trên rất nhiều lĩnh vực như nghiên cứu cơ bản
và ứng dụng khoa học, công nghệ, quản lý kinh tế và xã hội, thông qua việc cung cấp học
bổng nhà nước, cử chuyên gia nước ngoài để đào tạo tại chỗ trong quá trình thực hiện các
chương trình, dự án ODA, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, cung
cấp trang thiết bị nghiên cứu và triển khai,
1.2.1.3 ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Các dự án ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho

việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước. Bên cạnh đó
còn có một số dự án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành chính nâng cao hiệu quả hoạt
động của các cơ quan quản lý nhà nước
1.2.1.4 ODA giúp các nước đang phát triển xây dựng và hoàn thiện khung thể chế pháp lý
ODA có vai trò quan trọng hỗ trợ các nước đang phát triển xây dựng và hoàn thiện
khung thể chế, pháp lý (xây dựng và hoàn thiện các Luật, các văn bản dưới Luật) thông
qua việc cung cấp chuyên gia quốc tế, những kinh nghiệm và tập quán tốt của quốc tế và
khu vực trong lĩnh vực pháp luật đặc biệt trong bối cảnh các nước đang phát triển chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
1.2.1.5 ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư
phát triển.
Việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả
năng mang lại lợi nhuận.
ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước
đang và chậm phát triển, nó còn có tác dụng làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI
và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước, góp phần thực hiện thành công
chiến lược hướng ngoại. Tất cả các nước theo đuổi chiến lược hướng ngoại đều có nhịp độ
tăng trưởng kinh tế rất nhanh và biến đổi cơ cấu kinh tế trong nước mạnh mẽ trong một
thời gian ngắn để chuyển từ nước Nông - Công nghiệp thành những nước Công - Nông
nghiệp hiện đại, có mức thu nhập bình quân đầu người cao.
Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các cơ sở
hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi trường đầu
tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn và
nếu chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không thể tiến hành được do đó ODA sẽ là
nguồn vốn bổ sung hết sức quan trọng cho ngân sách nhà nước. Một khi môi trường đầu
tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI. Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 3
đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu
tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.

1.2.2 Những mặt hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, ODA cũng có không ít những mặt hạn chế.
Hạn chế rõ nhất của viện trợ phát triển chính thức ODA là các nước nếu muốn nhận được
nguồn vốn này phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ. Mức độ đáp ứng càng cao
thì viện trợ tăng lên càng nhiều. Các yêu cầu này đều gắn với những lợi ích và chiến lược
như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh -
quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng
vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay
đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế
giới). Ví dụ:
- Nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các
ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước
tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh
mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực
tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời
cao
- Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn
với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là
không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo,
lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến
hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự
án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao
động thế giới).
- Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt
nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận
ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
- Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông
thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ,
dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà
thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.

Ngòai ra, ngay ở trong một nước, tình trạng tập trung ODA vào các thành phố
trọng điểm cũng tạo nên sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế xã hội của quốc gia đó, làm
cho hố ngăn cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn càng trở nên cách biệt. Bên cạnh
đó, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn
ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá
trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 4
công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình
trạng nợ nần.
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 5
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ NGUỒN VỐN ODA
2.1 Hành lang pháp lý
Nhận thức được rằng ODA là một nguồn lực có ý nghĩa quan trọng từ bên ngoài,
chính phủ Việt Nam luôn luôn coi trọng và quan tâm đến việc huy động các nguồn vốn
ODA. Trước hết, để duy trì lòng tin đối với các nhà tài trợ nhằm duy trì các nguồn cung
cấp ODA, chính phủ Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện khung pháp lý cho việc khai
thác và sử dụng nguồn vốn ODA thông qua việc ban hành các chính sách và các văn bản
pháp lý điều tiết các hoạt động liên quan đến ODA, cụ thể:
Từ năm 1993 đến nay, tùy theo yêu cầu của thực tế mà Chính phủ từng bước hoàn
thiện môi trường pháp lý thông qua các Nghị định nhằm điều chỉnh công tác quản lý và sử
dụng nguồn vốn ODA một cách hiệu quả, cụ thể :
• Năm 1993 Chính phủ ban hành nghị định số 58/NĐ-CP về quản lý và trả nợ nước ngoài.
• Năm 1994 nghị định số 20/NĐ-CP quản lý nguồn vốn về hỗ trợ phát triển chính thức.
• Năm 1997 – 1999, dựa trên thực tiễn và yêu cầu đổi mới, Chính phủ ban hành nghị định
87/1997/NĐ-CP thay thế nghị định 20/NĐ-CP và nghị định 90/1998/NĐ-CP thay thế
nghị định 58/NĐ-CP.
• Năm 2001, nghị định 17/2001/NĐ-CP được ban hành thay thế nghị định 87/NĐ-CP nhằm
hoàn thiện hơn nửa về quy chế vay và trả nợ nước ngoài.
• Nghị định 131/2006/NĐ-CP ban hành ngày 9/11/2006, về việc “Quản lý và sử dụng

nguồn hỗ trợ phát triển chính thức” và thay thế Nghị định 17/2001/NĐ-CP về quản lý và
sử dụng ODA.
Ngoài ra, các Bộ hoặc liên Bộ tùy theo chức năng của mình, ban hành những thông tư
hướng dẫn cụ thể. Hơn thế nữa, để thu hút nguồn nhân lực cao cấp thực hiện các chương
trình, dự án ODA, mới đây thủ tướng đã ký ban hành “Quy chế Chuyên gia nước ngoài
thực hiện các chương trình, dự án ODA” trong đó có nhiều chính sách ưu đãi hấp dẫn
nhằm thu hút các chuyên gia tham gia công tác tại Việt Nam.
Hiện nay, việc quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức được quy định
bởi nghị định 131/2006/NĐ-CP có những điểm đáng chú ý có thể liệt kê như:
• Thứ nhất, tính đồng bộ của Nghị định về quản lý và sử dụng ODA với các văn bản pháp
luật chi phối khác trong các lĩnh vực như đầu tư, xây dựng công trình, thuế, đền bù, giải
phóng mặt bằng, ký kết và tham gia các điều ước quốc tế khung và cụ thể về ODA. Sự hài
hòa với các quy định của nhà tài trợ cũng được thể hiện rõ trong Nghị định này, đặc biệt là
khâu theo dõi và đánh giá các chương trình và dự án ODA.
• Thứ hai, Nghị định đã thể hiện sự phân cấp trong quản lý và sử dụng vốn ODA tương tự
như đối với đầu tư công. Theo Nghị định, Thủ tướng Chính phủ chỉ phê duyệt Danh mục
yêu cầu tài trợ; các chương trình, dự án ODA quan trọng quốc gia; các chương trình, dự
án kèm theo khung chính sách và trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng. Việc quyết định đầu
tư và phê duyệt các chương trình và dự án ODA khác đều phân cấp cho Thủ trưởng các cơ
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 6
quan chủ quản. Sự phân cấp mạnh mẽ này một mặt tạo ra sự chủ động và nâng cao vai trò
làm chủ, trách nhiệm của các ngành, các cấp, song mặt khác cũng đặt ra thách thức về
năng lực quản lý và tổ chức thực hiện đối với các bộ, ngành và địa phương.
• Thứ ba, công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng ODA thông qua việc Bộ Kế hoạch
và Đầu tư và các nhà tài trợ công bố rộng rãi thông tin về nguồn ODA, các chính sách và
điều kiện tài trợ để các đơn vị đề xuất có điều kiện để chuẩn bị và đề xuất các chương
trình, dự án ODA.
• Thứ tư, công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA được quy định cụ thể
và toàn diện, tiệm cận với tập quán quốc tế.
Nghị định 131/2006/NĐ-CP nhằm đồng bộ với các văn bản pháp quy khác có liên

quan như Nghị định 12/2000/NĐ-CP về quản lý đầu tư và xây dựng, Nghị định
111/2006/NĐ-CP của Chính phủ về đấu thầu và xét thầu v.v
Nước ta có 4 cấp tham gia vào quá trình quản lý thu hút và sử dụng vốn ODA, bao
gồm:
• Thủ tướng Chính phủ.
• Các bộ tổng hợp, gồm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng
Nhà nước và Văn phòng Chính phủ; trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối.
• Các Bộ, UBND các địa phương.
• Các chủ dự án, Ban quản lý dự án.
2.2 Tình hình huy động và giải ngân nguồn vốn ODA từ năm 1993 đến nay.
Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam lên tới 80 tỷ USD trong giai đoạn 1993-2012,
góp phần đưa Việt Nam gia nhập nhóm các nước có mức thu nhập trung bình thấp.
Cách đây 20 năm, ngày 8/11/1993, Hội nghị bàn tròn về ODA dành cho Việt Nam
đã được tổ chức tại Paris, Pháp. Sự kiện quan trọng này chính thức đánh dấu sự mở đầu
mối quan hệ hợp tác phát triển giữa nước Việt Nam trên đường đổi mới và cộng đồng các
nhà tài trợ quốc tế.
(Nguồn: Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 7
Hiện có khoảng 50 nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động, cung
cấp nguồn ODA và vốn vay ưu đãi cho nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội của Việt
Nam.
Tổng vốn ODA ký kết trong các điều ước quốc tế cụ thể từ năm 1993 đến 2012 đạt
trên 58,4 tỷ USD, chiếm 71,69% tổng vốn ODA cam kết, trong đó vốn vay ưu đãi đạt 51,6
tỷ USD và chiếm khoảng 88,4%, vốn ODA không hoàn lại đạt 6,76 tỷ USD và chiếm
khoảng 11,6%.
Trong hai thập kỷ qua, tổng nguồn vốn ODA giải ngân đạt 37,59 tỷ USD, chiếm
trên 66,92% tổng vốn ODA ký kết.
(Nguồn: Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Theo số liệu thống kê, tỷ trọng ODA vốn vay trong tổng vốn ODA tăng dần từ

80% trong thời kỳ 1993-2000 lên 93% thời kỳ 2006-2010 và gần đây đã ở mức 95,7%
trong hai năm 2011-2012.
(Nguồn: Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 8
Có thể thấy mức giải ngân vốn ODA đã có tiến bộ qua các năm song chưa tương
xứng với mức cam kết.
Tỷ lệ giải ngân vốn ODA của Nhật Bản tại Việt Nam năm 2011 đứng thứ nhì và
năm 2012 đứng thứ nhất thế giới, tỷ lệ giải ngân của WB tại Việt Nam tăng từ 13% năm
2011 lên 19% năm 2012.
(Nguồn: Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Lĩnh vực giao thông vận tải và bưu chính viễn thông được ưu tiên tiếp nhận và sử
dụng nguồn vốn ODA lớn nhất trong tổng số 7 lĩnh vực khoảng 16,47 tỷ USD, trong đó
15,9 tỷ USD là ODA vốn vay.
Trong thời kỳ 1993-2012, ngành giao thông vận tải đã hoàn thành và đang thực
hiện 132 dự án, trong đó đã hoàn thành 83 dự án với vốn ODA đạt 5 tỷ USD và đang thực
hiện 49 dự án với số vốn ODA khoảng 12 tỷ USD.
(Nguồn: Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 9
Ngành năng lượng và công nghiệp có tổng vốn ODA được ký kết trong thời kỳ
1993-2012 đạt khoảng 10 tỷ USD, trong đó viện trợ không hoàn lại không đáng kể,
khoảng 0,1%. Tổng số nhà tài trợ là 32, trong đó có 26 nhà tài trợ song phương và 6 nhà
tài trợ đa phương.
Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo nhận
được nguồn vốn ODA đứng thứ ba với tổng trị giá ký kết khoảng 8,85 tỷ USD (ODA vốn
vay: 7,43 tỷ USD, ODA viện trợ không hoàn lại: 1,42 tỷ USD).
(Nguồn: Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Hiện vẫn tồn tại tình trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA không đồng đều
giữa các tỉnh trên địa bàn các vùng trong cả nước trong đó vùng đồng bằng sông Hồng
tiếp nhận nguồn vốn ODA lớn nhất với 10,42 tỷ USD và vùng Tây Nguyên tiếp nhận
nguồn vốn ODA thấp nhất với 1,36 tỷ USD.

(Nguồn: Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 10
Chính phủ Việt Nam có chính sách sử dụng ODA để hỗ trợ các ngành, lĩnh vực và địa
phương ưu tiên, nhất là đối với những địa bàn có nhiều khó khăn trong từng thời kỳ phát
triển.
(Nguồn: Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Nhật Bản là nhà tài trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam trong giai đoạn 1993-
2012 với khoảng 19,81 tỷ USD. Pháp đứng thứ hai với 3,91 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ
ba với 2,33 tỷ USD. WB đứng đầu trong nhóm 6 ngân hàng phát triển với khoảng 20,1 tỷ
USD. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đứng thứ hai với 14,23 tỷ USD vốn ODA cam
kết.
Trong năm 2012, tổng số viện trợ phát triển chính thức (ODA) mà các nước và tổ
chức quốc tế dành cho Việt Nam trong năm tài khoá 2012 là 7,386 tỷ USD, thấp hơn so
với mức xấp xỉ 7,9 tỷ USD của năm 2011. Con số 7,4 tỷ USD ODA là đáng khích lệ trong
bối cảnh hầu hết các quốc gia đều phải tập trung nguồn lực để đối phó với bất ổn kinh tế.
“Số tiền này cũng thể hiện sự ưu ái của các nhà tài trợ khi Việt Nam đã bước quá
ngưỡng thu nhập trung bình” (Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu Bùi Quang Vinh). Cũng
trong năm này, Việt Nam tiếp tục nhận được sự giúp đỡ lớn từ các định chế tài chính như
WB, ADB… cũng như đối tác truyền thống là Nhật Bản (đã công bố mức tài trợ 1,9 tỷ
USD trước đó).
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, tính đến đầu tháng 12/2012, giải ngân
ODA của Việt Nam đạt 3,2 tỷ USD. Con số dự kiến của cả năm là 3,65 tỷ USD. Con số
này chỉ chiếm chưa đầy một nửa số vốn 7,9 tỷ USD cam kết nhưng tăng 10% so với mức
giải ngân hơn 2,9 tỷ USD của năm 2010.
Đến năm 2013 tổng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi trên 7 tỷ USD, tuy nhiên 6
tháng đầu năm 2013 đã giải ngân trên 3,8 tỷ USD, tăng 20 % cùng kỳ năm 2012. Một số
dự án ODA có giá trị lớn, như nhà máy xử lý nước thải tập trung tại Yên Xá, Thanh Trì,
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 11
Hà Nội trên 306 triệu USD; Dự án Xây dựng đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 1 - giai
đoạn 1 (ga Ngọc Hồi) trị giá 179,2 triệu USD; Dự án nâng cao an toàn cầu đường sắt Hà

Nội – TP HCM hơn 148 triệu USD các nguồn vốn này tập trung nhiều vào lĩnh vực
GTVT với hơn 1,4 tỷ USD, chiếm 37,37%. Ngay sau đó là lĩnh vực cấp nước và môi
trường (881 triệu USD= 22,98%). Ngược lại các lĩnh vực khác như nông nghiệp và phát
triển nông thôn kết hợp với xóa đói giảm nghèo, năng lượng, phát triển đô thị…chỉ chiếm
tỷ trọng khiêm tốn. Trong đó, Bộ GTVT có 44 dự án, với 19 dự án có mức giải ngân từ
40% trở lên so với kế hoạch năm, 16 dự án mức giải ngân thấp dưới 20%, điển hình là dự
án cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi (4%); cao tốc Bến Lức – Long Thành (16%); đường sắt
đô thị Hà Nội tuyến số 1 (19%). Tại TP. HCM với 21 dự án, trong đó có 10 dự án đầu tư
và 11 dự án hỗ trợ kỹ thuật. Tổng mức giải ngân ODA 6 tháng đầu năm 2013 đạt 1.783 tỷ
đồng.
Các chương trình, dự án có quy mô vốn lớn dự kiến ký kết năm 2013 gồm: Dự án
kết nối khu vực trung tâm đồng bằng Mê Công (544 triệu USD), Nhà ga hành khách quốc
tế T2 - sân bay Nội Bài (332 triệu USD), Dự án Phát triển hạ tầng giao thông ĐBSCL
(176 triệu USD).
Theo số liệu được đưa ra tại Diễn đàn Đối tác phát triển Việt Nam (VDPF) 2014,
tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết năm 2014 hơn 5 tỷ USD, bằng 76,91% so với
mức của năm 2013. Trước đó, tổng vốn ODA và nguồn vốn vay ưu đãi ký kết với nhà tài
trợ trong năm 2013 đạt hơn 6,5 tỷ USD (ODA vốn vay và nguồn vốn vay ưu đãi xấp xỉ
6,14 tỷ USD, ODA viện trợ không hoàn lại đạt 366 triệu USD)
Trong các lĩnh vực nhận được vốn ODA thì những lĩnh vực như giao thông vận tải,
năng lượng tập trung nhiều nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi trong khi các lĩnh vực
khác như nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp với xóa đói giảm nghèo, năng
lượng, y tế, giáo dục và đào tạo, thể chế,…chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn.
Trong khi đó, mức giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi trong 11 tháng đầu năm
ước đạt khoảng 4,96 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: vốn vay
khoảng 4,84 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại khoảng 116 triệu USD.
Tình hình thực hiện và giải ngân các chương trình, dự án ODA và vốn vay ưu đãi
giữa các ngành, lĩnh vực và giữa các địa phương chưa thực sự đồng đều. Các lĩnh vực như
giao thông, năng lượng điện, phát triển đô thị, nông nghiệp và phát triển nông thôn có tiến
độ thực hiện tốt hơn nhiều so với các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục và đào tạo, thông

tin truyền thông, lao động, thương binh và xã hội. Tương tự, giải ngân của các thành phố
lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh có mức cao hơn nhiều so với các địa phương khác
trong cả nước.
Trong năm tài khóa 2015, nguồn vốn vay ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam
dự kiến 165 tỉ Yen. Hiện JICA đang thực hiện 150 dự án, trong đó tiếp tục triển khai mới
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 12
13 dự án mới nữa. Trong năm tài khóa 2015 chú trọng vào một số lĩnh vực như: Hoàn
thiện cơ sở hạ tầng, cải thiện đời sống xã hội, tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế;
tăng cường hiệu quả của đầu tư công… Theo đó, Việt Nam vẫn là đối tác lớn nhất của
Nhật Bản, là quốc gia đứng đầu thế giới cả về số lượng và tổng kinh phí nhận viện trợ
ODA mà JICA hỗ trợ.
2.3 Thành tựu từ nguồn tài trợ vốn ODA
Trong vòng 17 năm trở lại đây, nguồn vốn ODA đã đóng một vai trò hết sức
quan trọng trọng chiến lược phát triển kinh tế; thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông
thôn xóa đói giảm nghèo; và đóng góp trong một số lĩnh vực xã hội của Việt Nam.
2.3.1.Đóng góp cho phát triển kinh tế:
ODA góp phần rất lớn thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta. Ở Việt Nam, mô hình kinh tế công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu đã tạo cho nước
ta cơ hội phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, quá trình này ban đầu gặp không ít khó
khăn do sự yếu kém về cơ sở hạ tầng kinh tế, trong khi Việt Nam còn là một đất nước
nghèo, nhu cầu về xây dựng các cơ sở vật chất phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đối lập với khả năng đáp ứng nội tại của nền kinh tế. Nguồn vốn ODA tập trung
chủ yếu vào các lĩnh vực: Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, năng lượng và công
nghiệp – những lĩnh vực đòi hỏi vốn và kỹ thuật hết sức tiên tiến, nhưng ngân sách Việt
Nam còn hạn chế; khu vực tư nhân trong và ngoài nước trong thời gian đầu phát triển
hầu như không mặn mà bởi vốn cao mà thời gian thu hồi vốn thì chậm, chưa kể đây là
những lĩnh vực nhạy cảm, ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng nên gặp phải rào cản
rất lớn từ phía Nhà Nước. Những dự án lớn, những công trình trong lĩnh vực giao thông
và điện đã hoàn thành và đưa vào sử dụng góp phần tạo điều kiện cho Việt Nam mở
rộng tái sản xuất, tạo môi trường thuận lợi thu hút nguồn vốn trong nước và vốn đầu tư

trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Đó
cũng là động lực mạnh mẽ cho sự tăng trưởng vượt bậc của Việt Nam trong những năm
gần đây.
Nhờ sự hỗ trợ này, thời gian qua, hệ thống đường bộ ở miền Bắc đã được cải thiện
đáng kể như quốc lộ 1, 5, 10, 18; nhiều cảng biển lớn đã và đang được hoàn thiện như Hải
Phòng, Cái Lân, Tiên Sa (Đà Nẵng); nhiều công trình có ý nghĩa quan trọng được xây
dựng như đại lộ Đông-Tây (TP. Hồ Chí Minh), cầu Bãi Cháy (Quảng Ninh), Cầu Thuận
Kiều (Hải Phòng), cầu Thanh Trì (Hà Nội), đường hầm xuyên đèo Hải Vân; các bệnh viện
lớn được khôi phục và nâng cấp như Bệnh viện Chợ Rẫy (TP. Hồ Chí Minh), Bệnh viện
Bạch Mai; các nhà máy thuỷ điện và nhiệt điện quy mô lớn như Phả Lại 2, Phú Mỹ 1,
Hàm Thuận-Đa Mi, Đa Nhim, Đại Ninh, thuỷ điện Đại Thi ở Tuyên Quang(360 triệu ),
nhà máy nhiệt điện Cẩm Phả(272 triệu), nhà máy thuỷ điện thượng Kon tum(100triệu
USD).
Bên cạnh việc cung ứng về vốn, các dự án ODA còn mang lại công nghệ, kỹ
thuật hiện đại, nghiệp vụ chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến. Các chương trình
hợp tác kỹ thuật do các chính phủ các nước tài trợ thực hiện tiến hành ở Việt Nam với rất
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 13
nhiều hình thức đa dạng đã góp phần chuyển giao, cải tiến trình độ công nghệ cũng như
tiếp thu công nghệ ở nước ta. Các dự án hợp tác kỹ thuật đã góp phần chuyển giao
công nghệ cho các kỹ sư, kỹ thuật viên, nhân viên y tế… của nước ta bằng cách cho
họ tham gia vào các dự án phát triển thuộc nhiều lĩnh vực cụ thể như nông nghiệp, lâm
nghiệp, đánh cá, y tế, nghiên cứu về dân số và kế hoạch hóa gia đình, dạy nghề và các
hoạt động nghiên cứu liên quan đến các lĩnh vực đó… Ngoài ra, các khảo sát về phát triển
được tiến hành nhằm kiểm tra lại khả năng thành công của các dự án từ khía cạnh kỹ
thuật, kinh tế, tài chính – cũng góp phần vào việc cải tiến trình độ công nghệ của nước ta.
Nhìn chung, các dự án ODA vào Việt Nam đều có trình độ công nghệ cao.
Lĩnh vực khoa học - công nghệ - môi trường trong đó tiêu biểu nhất là khu công
nghệ cao Hoà Lạc( 480 triệu USD). Trong Bưu chính viễn thông có dự án cáp quang biển
trục Bắc Nam( 200 triệu USD).
2.3.2.Đóng góp đối với việc thúc đẩy nông nghiệp nông thôn và kết hợp với công tác

xóa đói giảm nghèo
Thông qua các dự án lớn trong lĩnh vực này, ODA giúp cho nông dân nghèo tiếp cận
với các nguồn vốn để tạo ra các ngành nghề phụ, phát triển nông – lâm – ngư nghiệp, phát
triển hạ tầng nông thôn như: giao thông, điện, nước sạch Qua đó, đã góp phần hỗ trợ
phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời sống người dân các vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công
trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.
.
2.3.3.Đóng góp đối với một số lĩnh vực xã hội
Nhờ lượng vốn lớn và hợp tác kỹ thuật đa dạng, ODA đã góp phần vào sự phát
triển của ngành giáo dục đào tạo Việt Nam từ cấp trung ương đến địa phương, từ giáo
dục tiểu học đến đào tạo sau đại học. Nguồn vốn này đã giúp chúng ta, trước hết là khắc
phục được những khó khăn về cơ sở hạ tầng giáo dục, đồng thời tạo điều kiện cho ngành
giáo dục Việt Nam theo kịp và hòa nhập vào nền giáo dục của khu vực và thế giới.
Ngành giáo dục và đào tạo của chúng ta đã đưa ra được định hướng đào tạo, nghiên cứu
khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến vào một số lĩnh vực chủ chốt như: khoa học
cơ bản, khoa học xã hội và nhân văn, kinh tế, nông lâm nghiệp, điện tử viễn thông, tự
động hóa, dược, môi trường…
Bên cạnh đó, một lượng lớn nguồn vốn ODA được đầu tư vào lĩnh vực y tế,
chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là các vùng sâu vùng xa đã góp phần trang bị
lại cơ sở vật chất cho rất nhiều bệnh viện tuyến từ trung ương đến địa phương, giải
quyết những khó khăn trong việc chăm sóc, chữa trị, đặc biệt là các bệnh xã hội và
nâng cao sức khỏe cộng đồng, dân số kế hoạch hóa gia đình.
Chính phủ Nhật đã thực hiện nhiều dự án viện trợ xây hàng chục trường học,
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 14
nâng cấp thiết bị y tế cho các bệnh viện vùng sâu, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đào tạo nghề
với tổng vốn 213 triệu Yên. Hàng năm thông qua nguồn ODA từ nhiều quỹ tài chính khác
nhau, Nhật Bản đã cung cấp một số lượng học bổng đáng kể đào tạo đại học và sau đại
học cho các sinh viên và cán bộ Việt Nam. Năm 2007, Chính phủ Nhật cũng đã viện trợ 3
dự án, trong đó có 1 dự án cung cấp máy in chữ nổi cho người mù,

2.4 Hạn chế trong việc quản lý và sử dụng vốn ODA
2.4.1 Công tác quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế
Quản lý nhà nước là nguyên nhân bao trùm của những hạn chế trong việc thu hút
và sử dụng ODA. Bất cập trong công tác quản lý nhà nước thể hiện ở việc phân cấp, phân
định chức năng , nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước; hệ thống chính sách và
những văn bản pháp luật liên quan đến vốn ODA
Công tác quản lý nhà nước về vốn ODA về cơ bản đã tập trung vào một đầu mối, ở
Trung ương là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ở các Bộ là các Vụ Kế hoạch đầu tư hoặc Vụ Hợp
tác quốc tế, ở các tỉnh là các Sở Kế hoạch và Đầu tư.
Tuy nhiên, việc phân định chức năng của các cơ quan quản lý ODA còn mang tính
dàn trải, có những nơi chưa tập trung vào một đầu mối. Một số địa phương vẫn còn duy trì
hai đầu mối là Sở Kế hoạch và Đầu tư và Phòng Ngoại vụ thuộc Văn phòng Uỷ ban nhân
dân tỉnh. Hoặc việc ký kết các Hiệp định vay được giao cho hai cơ quan quản lý là Bộ Tài
chính và Ngân hàng Nhà nước, nhưng sau đó toàn bộ việc quản lý Hiệp định lại do Bộ Tài
chính quản lý.
Một tồn tại khá phổ biến khác là trong một bộ (một địa phương) thì chủ đầu tư là
một cơ quan thuộc bộ (địa phương), đồng thời PMU, nhà thầu cũng là của bộ (địa
phương) đó. Vì vậy, khi có vấn đề gì trong thực hiện triển khai xảy ra, thì các đơn vị này
thông đồng, dàn xếp với nhau.
Sự phối kết hợp giữa các bên liên quan của Việt Nam mà chủ yếu giữa Bộ chủ
quản, PMU, chủ đầu tư với chính quyền các địa phương, cơ quan chức năng còn thiếu
chặt chẽ, đặc biệt trong công tác giải phóng mặt bằng. Ví dụ, dự án cải tạo quốc lộ 1 do
vốn ODA của WB và ADB tài trợ liên quan đến hầu hết các tỉnh thành phố trên trục quốc
lộ 1. Do sự phối hợp không tốt giữa các địa phương nên thống nhất quan điểm đền bù giải
phóng mặt bằng rất khó khăn và mất nhiều thời gian. Địa phương giải phóng mặt bằng
nhanh phải chờ địa phương làm chậm, gây chậm trễ cho tiến độ dự án.
2.4.2 Công tác giám sát, theo dõi và đánh giá các dự án ODA còn yếu
Hiện nay, công tác giám sát và theo dõi dự án được triển khai ở mọi cấp từ Trung
ương, các bộ, địa phương chủ quản cho đến các Ban quản lý dự án. Ngoài ra còn được
thực hiện bởi chính các nhà tài trợ hoặc phối hợp thực hiện giữa các nhà tài trợ với các cơ

quan liên quan của phía Việt Nam. Theo quy định hiện hành, các Ban quản lý dự án phải
lập báo cáo tiến độ triển khai thực hiện dự án theo tháng, quý, năm và báo cáo kết thúc dự
án cho các cơ quan cấp trên. Báo cáo này bao gồm các thông tin về các công việc đã được
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 15
triển khai thực hiện hoặc hoàn thành, các khoản viện trợ đã được giải ngân Các Bộ, địa
phương chủ quản có trách nhiệm thực hiện các báo cáo quý về tiến độ triển khai các dự án
ODA thuộc phạm vi quản lý của Bộ và địa phương mình. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm lập báo cáo nửa năm và hàng năm về tình
hình triển khai thực hiện các dự án ODA.
Công tác giám sát, theo dõi và đánh giá các dự án ODA trong thời gian qua có một
số điểm đáng lưu ý như sau:
- Thứ nhất, công tác theo dõi và đánh giá dự án bị buông lỏng. Thể hiện chỉ có khoảng
15% các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện tốt công tác theo dõi và báo cáo đúng thời
hạn quy định. Nhiều cơ quan chủ quản ở Trung ương và các tỉnh chưa quản lý được các
dự án của mình. Kỷ luật báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA thực
hiện thiếu nghiêm túc. Công tác đánh giá sau khi dự án kết thúc hiện chưa được quan tâm
đúng mức. Hiện nay chỉ có nhà tài trợ thực hiện việc đánh giá dự án sau khi kết thúc trong
khi các cơ quan liên quan của phía Việt Nam không có đầy đủ kinh phí thực hiện công tác
này. Việc nhà tài trợ thực hiện công tác đánh giá hiệu quả của dự án sau khi hoàn thành
trong một số trường hợp không phản ánh đúng thực tế mà thể hiện quan điểm của nhà tài
trợ và điều này ảnh hưởng đến việc rút ra các bài học kinh nghiệm cho công tác thu hút và
sử dụng vốn ODA trong tương lai.
- Thứ hai, các thông tin về tình hình thực hiện dự án thường không được các cấp
thông báo kịp thời, các thông tin thường không đầy đủ. Điều này gây khó khăn cho các cơ
quan tổng hợp, đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong việc tổng hợp tình hình thực hiện
dự án để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Tuy vậy, nhiều chủ dự án khi gặp khó khăn trong
quá trình thực hiện thì lại thường yêu cầu các cơ quan cấp trên giải quyết. Do thiếu các
thông tin cập nhật thường xuyên nên việc giải quyết các vướng mắc thường mang tính
chất sự vụ, không có tính hệ thống, đồng bộ và kịp thời.
Tóm lại, tuy hệ thống các quy định về việc giám sát, theo dõi dự án đã được ban hành

đầy đủ, nhưng do thiếu các chế tài nên công tác này còn bị coi nhẹ và chưa thực sự đáp
ứng các nhu cầu đề ra.
2.4.3 Năng lực Cán Bộ quản lý và tình trạng thất thoát
Cơ cấu tổ chức và năng lực cán bộ trong công tác quản lý và thực hiện ODA còn
yếu và chưa đáp ứng những yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả ODA. Theo bảng xếp
hạng về cảm nhận tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố tháng 9 năm
2008, trong 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam xếp tới thứ 121. Sự thất thoát và
tham nhũng ở dự án PMU18, những dự án lớn trong lĩnh vực dầu khí, vụ hối lội PCI vừa
qua là những ví dụ về hạn chế trong quản lý và theo dõi ODA. Thách thức về đảm bảo sự
minh bạch và trách nhiệm trong quản lý ODA từ phía Việt Nam đang là một vấn đề hết
sức cấp thiết.
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 16
Vụ hối lộ quan chức Việt Nam của công ty PCI (Pacific Consultants International,
viết tắt là PCI, Công ty Tư vấn Quốc tế Thái Bình Dương, Nhật Bản) là vụ việc nổi đình
đám trong năm 2008 tại Việt Nam, liên quan đến việc đưa hối lộ của một số quan chức
công ty PCI Nhật Bản với Ban Quản lý dự án PMU tại thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là
với ông Huỳnh Ngọc Sỹ, Phó Giám đốc Sở Giao thông Công chính Thành phố Hồ Chí
Minh kiêm Giám đốc Ban Quản lý PMU Đông-Tây. Năm 2007 là vụ PMU 18 với con bạc
triệu đô Bùi Tiến Dũng.
2.4.4. Chất lượng một số công trình sử dụng vốn ODA chưa bảo đảm
Phần lớn các chương trình dự án tập trung vào lĩnh vực xây dựng cơ bản. Chất
lượng một số công trình sử dụng vốn ODA chưa bảo đảm đúng những tiêu chuẩn định
mức của bản thiết kế đặt ra. Ban vận hành phải bỏ chi phí đáng kể ra để bảo dưỡng tu sửa.
Nguyên nhân là trong quá trình thực hiện xảy ra thất thoát, lãng phí. Thất thoát trong xây
dựng cơ bản hiện nay của Việt Nam chiếm khoảng 20%-30% tổng vốn đầu tư trong từng
dự án. Chẳng hạn trường hợp PMU đã không tiến hành xác minh các khả năng khác của
nhà thầu như: khả năng tài chính, kỹ thuật, tiến độ thi công nên dẫn đến trường hợp nhiều
nhà thầu đã ăn bớt, thay đổi nguyên liệu so với tiêu chuẩn kỹ thuật của bản thiết kế đề ra
như công trình quốc lộ 18, nhà thầu thay cát vàng bằng cát đen
Mặt khác, chất lượng, nội dung thiết kế kỹ thuật tổng thể và chi tiết không phù hợp

với thực tế, không lường hết được biến cố kỹ thuật cũng như sự thay đổi bất thường của
môi trường nên phải chỉnh sửa thiết kế hoặc thiết kế lại toàn bộ nội dung.
Một số dự án hỗ trợ kỹ thuật viện trợ không hoàn lại cũng chưa đạt được hiệu quả
như mong muốn vì dự án còn nặng về các yếu tố đầu vào , nhẹ về các kết quả đầu ra. Hậu
quả là nhiều dự án chồng chéo nhau về nội dung, kết quả dự án không được khai thác và
sử dụng một cách thích đáng
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 17
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG
VỐN ODA TẠI VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI.
3.1 Định hướng sử dụng trong tương lai
Tiếp tục thu hút ODA, chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng
ODA và đảm bảo khả năng trả nợ. Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA trong thời kỳ
này bao gồm: phát triển nông nghiệp, nông thôn; xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế đồng bộ
và hiện đại; xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội; bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên
thiên nhiên; tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao công
nghệ, năng lực nghiên cứu và triển khai.
Trong những năm tới, nhu cầu về xây dưng cơ sở hạ tầng vẫn rất lớn nhằm đáp ứng
sự gia tăng của sản xuất công nghiệp. Chính phủ Việt Nam đặt ra mục tiêu cho những
năm tới là phát triển những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và giảm tỷ lệ lao
động trong lĩnh vực nông nghiệp. Theo sự thay đổi cơ cấu kinh tế này, một chiến lược mới
sử dụng ODA là rất cần thiết. Một mặt, phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các ngành giao
thông vận tải, bưu chính viễn thông và điện, cần được xem là những ưu tiên cao nhất. Mặt
khác, ODA cần được phân bổ cho các khu vực và vùng ưu tiên, như các vùng nghèo và
khó khăn. Sự ưu tiên ODA cho cơ sở hạ tầng và những vùng ưu tiên là cần thiết nhằm duy
trì tăng trưởng kinh tế bền vững và giảm đói nghèo.
Do cơ cấu nguồn vốn ODA sẽ thay đổi và ODA có thể được thực hiện qua nhiều
phương thức khác nhau, việc sử dụng một phương thức cụ thể nào cần phải dựa trên
những yêu cầu cụ thể của sự phát triển để đảm bảo sử dụng có hiệu quả ODA. Hơn nữa,
Việt nam sẽ cần phải áp dụng các phương thức và mô hình viện trợ mới như tiếp cận theo

chương trình, ngành và hỗ trợ ngân sách. Những mô hình viện trợ mới này sẽ phát huy vai
trò làm chủ của chính phủ, giảm chi phí giao dịch, tăng cường hài hoà giữa chính phủ và
các nhà tài trợ, và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các chương trình và dự án ODA.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Về cơ chế chính sách
Thứ nhất, phải tiến hành xây dựng chính sách tổng thể về quản lý, giám sát vay và
trả nợ nước ngoài được hoạch định trong mối tương quan chặt chẽ với các chính sách và
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô, việc quản lý vay và trả nợ nước
ngoài phải tính đến các chỉ tiêu cơ bản về nợ nước ngoài như: khả năng hấp thụ vốn vay
nước ngoài (tổng số nợ nước ngoài/GDP), chỉ tiêu khả năng vay thêm từng năm, chỉ tiêu
khả năng hoàn trả nợ (tổng nghĩa vụ trả nợ/thu nhập xuất khẩu).
Thêm vào đó, cần nhanh chóng hoàn chỉnh các chính sách, chế độ về vay và quản
lý nguồn vốn ODA nói riêng. Giải pháp này bao gồm: Đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán,
rõ ràng, đơn giản và minh bạch của hệ thống pháp lý liên quan đến quản lý và sử dụng
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 18
ODA: Hiện tại, nguồn vốn ODA được quản lý và sử dụng theo quy định của Nghị định và
một số văn bản dưới luật, luật có liên quan như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây
dựng, Luật Ngân sách Nhà nước. Để tăng cường quản lý, giám sát vốn ODA, cần phải rà
soát các quy định của các văn bản pháp quy hiện hành.Thực hiện tốt các văn bản pháp quy
về ODA và INGO vừa được ban hành như Quyết định 119/2009/QĐ-TTg ban hành Quy
chế Chuyên gia nước ngoài thực hiện các chương trình, dự án ODA tại Việt Nam, Nghị
định số 93/2009/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính
phủ nước ngoài…Tăng cường nỗ lực chống tham nhũng của chính phủ; đẩy nhanh cải
cách hành chính và hiệu quả hành chính nhà nước; nâng cao đào tạo chuyên nghiệp và đào
tạo lại cán bộ quản lý dự án; khẩn trương bổ sung, hoàn chỉnh cơ chế, chính sách quản lý,
sử dụng vốn ODA
-Về giải ngân vốn ODA, cần hướng dẫn quy trình, thủ tục và quản lý việc rút vốn
trên tinh thần cải tiến thủ tục quản lý, cấp phát vốn theo quy định của Luật NSNN. Về
chính sách thuế đối với các dự án ODA, cần tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động trong
việc xây dựng kế hoạch và nộp thuế; đồng thời, tạo ra một mặt bằng về thuế đối với tất cả

các dự án đầu tư từ các nguồn vốn khác nhau. Về vốn đối ứng, đảm bảo đủ vốn đối ứng
cho các chương trình/dự án ODA cũng như nâng cao tính chủ động cho các đơn vị trong
việc xây dựng kế hoạch vốn đối ứng cho các dự án.
- Về cơ chế bảo lãnh của Chính phủ, cần sớm sửa đổi Quy chế bảo lãnh của Chính
phủ đối với các khoản vay nước ngoài của DN và các tổ chức tín dụng. Về quỹ tích luỹ trả
nợ nước ngoài, ban hành quy chế lập, sử dụng và quản lý Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài
để quản lý các khoản vốn thu hồi từ các dự án được sử dụng ODA dưới hình thức cho vay
lại của Chính phủ.
Thứ hai, rà soát lại các định mức, xoá bỏ các định mức lạc hậu, xây dựng các định
mức đảm bảo tiên tiến, khoa học phù hợp với thực tiễn và xem xét lại qui trình đấu thầu,
xét thầu, giao thầu để giảm sự khác biệt giữa trong và ngoài nước, tuy nhiên phải phù hợp
với điều kiện của Việt Nam.
Thứ ba, quản lý vay nợ cần xác định rõ trách nhiệm của người vay và người sử dụng
vốn vay, chống ỷ lại vào nhà nước. Đồng thời phải quản lý chất lượng các khoản vay
ODA đặc biệt là khâu xây dựng dự án. Cụ thể:
- Ban hành các thông tư hướng dẫn thật cụ thể để thực hiện tốt các nghị định của
chính phủ về quản lý vay, trả nợ nước ngoài , hoàn chỉnh hình thành quỹ tích luỹ trả nợ
nước ngoài nhằm tạo nguồn trả nợ cho chính phủ, đảm bảo trả nợ đúng hạn, không rơi vào
chồng chất không có khả năng thanh toán.
- Ban hành qui chế chung cho vay lại các nguồn vốn vay nước ngoài, khuyến khích
sự tham gia của các ngành, các địa phương, các cơ sở vào khai thác nguồn vốn ODA.
3.3.2. Giải pháp trong việc huy động, sử dụng và giải ngân nguồn vốn ODA
3.3.2.1 Giải pháp trong huy động vốn ODA.
Thứ nhất, tăng cường vai trò của cơ quan chỉ đạo quốc gia trong việc chỉ đạo
thực hiện ODA. Như đã phân tích ở trên, việc triển khai ODA ở nước ta còn chậm và điều
này sẽ kéo theo việc huy động ODA sau này gặp khó khăn phải chăng một phần là do ta
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 19
chưa có cơ quan chuyên trách mạnh về lĩnh vực này. Không phải chỉ dành cho một vài cơ
quan hay tổ chức đặc quyền nào tham gia vào các dự án hay chương trình ODA mà đó
phải là quyền lợi và nghĩa vụ của toàn dân, của xã hội. Phải làm sao cho mọi người, mọi

vùng trên đất nước ta đều được hưởng thành quả của sự hỗ trợ về tài chính mà cộng đồng
quốc tế dành cho chúng ta. Nhưng muốn như vậy, phải có cơ quan chuyên trách mạnh,
công khai đủ sức và đủ uy tín để đề xuất chủ trương, chính sách với Đảng, nhà nước và
hướng dẫn các tổ chức xã hội, các địa phương trong nước xây dựng và thực hiện các dự án
vừa phù hợp với đường lối chiến lược của ta vừa phù hợp với mục tiêu ODA.
Thứ hai, mở rộng các quan hệ phi nhà nước. Viện trợ phát triển chính thức bao gồm
ba phương thức: viện trợ không hoàn lại (song phương), cho vay với điều kiện ưu đãi
(song phương) và các hiệp định đa phương. Nếu như phần cho vay với điều kiện ưu đãi
thường dành cho các dự án nhà nước về xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường …
thì phần viện trợ không hoàn lại thường dành cho mục tiêu phát triển con người như y tế,
cung cấp nước sạch, cải thiện điều kiện giáo dục ở nhà trường, bảo tồn khai thác các di
sản văn hoá dân tộc… Trong những lĩnh vực này không chỉ có vai trò của các tổ chức nhà
nước mà còn có vai trò của các tổ chức xã hội, đoàn thể, các địa phương, các tổ chức từ
thiện và các tổ chức phi chính phủ. Vì thế, việc mở rộng quan hệ phi nhà nước là một điều
kiện quan trọng để tìm kiếm được nhiều hơn các nguồn ODA cũng như các nguồn viện trợ
khác.
Thứ ba, Hướng dẫn lập dự án và triển khai dự án ODA. Để nhận được tài trợ ODA
của các nhà tài trợ thì các địa phương phải xây dựng được các dự án có tính thuyết phục
và có khả năng thực hiện được dự án một cách hiệu quả nhưng thường các dự án hỗ trợ
loại này thì đối tượng nhận hỗ trợ thường không đủ khả năng để làm những việc như trên.
Do đó, sự hướng dẫn, giúp đỡ của các cơ quan chuyên trách là hết sức cần thiết và quyết
định đến hiệu quả của chương trình, dự án.
3.3.2.2 Giải pháp trong việc sử dụng ODA.
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức và hiểu đúng về bản chất của ODA. ODA nên
được coi là nguồn lực có tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực trong nước đối
với mọi cấp độ thụ hưởng. Một điều cũng quan trọng nữa là cần nâng cao quyền tự chủ
trong huy động và sử dụng ODA để đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia,
ngành và địa phương, và để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA.
Thứ hai, lựa chọn lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA. Hiện nay ở Việt Nam để nền
kinh tế đạt kết quả trên diện rộng dựa vào luồng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài lâu dài

thì việc cải thiện cơ sở hạ tầng đã trở thành nhiệm vụ cấp bách. Do đó, trong thời gian đầu
của sự nghiệp CNH, HĐH Việt Nam cần tập trung vốn, đặc biệt là vốn ưu đãi nước ngoài
ODA để đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo nhiều việc
làm, các dự án đầu tư quan trọng của nhà nước trong từng thời kỳ.
Về lâu dài, chiến lược sử dụng vốn vay phải theo hướng sử dụng vốn vay nước
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 20
ngoài phải kết hợp với công cuộc cải cách ngày càng sâu sắc hơn, tăng cường xuất khẩu
hàng hoá, điều chỉnh chiến lược thay thế mặt hàng nhập khẩu.
Thứ ba, giải quyết vốn đối ứng. Vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng
vốn ODA là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình, dự án ODA được
cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trong các hiệp định, văn kiện dự án, quyết
định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Các dự án vay vốn của chính phủ Nhật Bản hay Ngân
hàng thế giới, Ngân hàng Châu Á thường yêu cầu vốn đối ứng trong nước chiếm từ 15%
đến 30% tổng giá trị dự án, các dự án hỗ trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp
quốc thường đòi hỏi vốn đối ứng trong nước khoảng 20% trị giá dự án.
Về nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý
từ nguồn ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương có vốn đối ứng phát sinh
quá lớn, vượt khả năng cân đối thì cần trình thủ tướng chính phủ để xin hỗ trợ một phần
ngay từ khi lập dự án. Tuy nhiên, thực tế vốn đối ứng không phải lúc nào cũng trôi chảy,
mà đang là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự chậm trễ trong việc thực
hiện dự án.
Cần tăng cường quản lý và sử dụng vốn đối ứng cho các dự án ODA phù hợp với
quy định của chính phủ và không được sử dụng vốn đối ứng ngoài mục đích, nội dung của
dự án. Các nguồn vốn viện trợ cho từng lĩnh vực cần phải phân bổ theo trật tự ưu tiên với
cơ cấu cụ thể, kết hợp với những khả năng và nhu cầu vốn đối ứng có tính toán cụ thể,
phải xác định rõ về vốn đối ứng ngay từ khi bắt đầu, đảm bảo tính khả thi. Nhà nước chỉ
bố trí vốn đối ứng cho dự án xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng thu hút vốn trực
tiếp. Các dự án còn lại chủ đầu tư cần có phương án bố trí vốn đối ứng chắc chắn hơn mới
đưa vào kế hoạch sử dụng vốn ODA.
Thứ tư, sử dụng ODA có chọn lọc. Một vấn đề quan trọng là ODA cần phải được

sử dụng phù hợp và kết hợp hài hoà với các nguồn vốn đầu tư khác. Thực tế, các tranh
luận chính sách chính không còn là liệu có nên thu hút ODA hay không mà vấn đề là làm
cách nào để tối đa hoá các lợi ích của ODA. Do vậy, chất lượng trong thu hút ODA sẽ
quan trọng hơn là số lượng ODA. Điều này có nghĩa là việc huy động và sử dụng ODA
cần phải căn cứ vào các yếu tố kinh tế - xã hội và phải đánh giá kỹ các lợi ích mang lại từ
việc chuyển giao vốn, kiến thức, công nghệ, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Thứ năm, tối đa hoá hiệu quả và tác động lan toả của ODA. Việc huy động và sử
dụng ODA phải dựa trên sự đánh giá tương quan giữa chi phí và lợi ích của các chương
trình và dự án để đảm bảo rằng các chương trình và dự án này có hiệu quả cao, tạo ra tác
động lan toả tối đa và đóng góp vào phát triển kinh tế. Một vấn đề quan trọng nữa là tránh
việc sử dụng tràn lan và dàn trải vốn ODA, dẫn đến gánh nặng nợ cho đất nước. Hiệu quả
của ODA phải được đặt trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
Hơn nữa, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 21
từng ngành và địa phương phải được xem xét để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA.
Không được sử dụng hết tất cả các khoản thu nhập ròng đã có, cần phải giữ một phần để
hoàn trả lại vốn, lãi kịp thời nhằm đảm bảo uy tín quốc tế.
Thứ sáu, Xây dựng hệ thống kiểm soát, đánh giá việc sử dụng nguồn vốn ODA.
Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã được thẩm định phê duyệt, quán triệt
phương châm vốn vay phải được sử dụng toàn bộ vào mục đích đầu tư phát triển, không
dùng trang trải nhu cầu tiêu dung. Thủ tục quản lý phải chặt chẽ nhưng phải thuận lợi cho
người sử dụng trong việc rút vốn và sử dụng vốn, không gây phiền hà làm giảm tốc độ
giải ngân. Phải đặt các hạn mức sử dụng và kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu, theo dõi quá
trình thực hiện và quản lý giải ngân dự án.
Thứ bảy, mở rộng diện thụ hưởng ODA tới khu vực tư nhân để thực hiện các
chương trình và dự án phục vụ các lợi ích công cộng. Huy động sự tham gia của các đối
tượng thụ hưởng là một cách quan trọng để đảm bảo nguồn vốn ODA được sử dụng công
khai, minh bạch, có hiệu quả, và tránh được thất thoát, lãng phí và tham nhũng.
Thứ tám, xây dựng kế hoạch hợp lý cho việc phân cấp ODA. Phân cấp quản lý và
sử dụng ODA là tiến trình không thể đảo ngược trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Vấn

đề quan trọng là Việt Nam cần phải xác định được phân cấp đến mức độ nào và những dự
án nào cần được phân cấp. Từ cách nhìn này, những kết quả và kinh nghiệm phân cấp
trong thời gian qua cần được xem xét. Một hệ thống các tiêu chí cho việc phân cấp ODA
bao gồm thời gian và chi phí thực hiện dự án, năng lực quản lý ODA và hiệu quả hoạt
động cũng cần phải được xây dựng.
Thứ chín, xây dựng kế hoạch giảm dần ODA với thời gian trả nợ ngắn và gắn với
điều kiện chặt chẽ. Kinh nghiệm từ các nước ASEAN và Trung Quốc cho thấy rằng lượng
ODA huy động phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.
ODA có khuynh hướng giảm ở các nước ASEAN cả về lượng và bình quân đầu người.
Việt Nam cũng cần phải bắt đầu nghiên cứu kế hoạch và chiến lược giảm dần ODA, đặc
biệt là ODA có điều kiện, đồng thời tăng cường thu hút các nguồn vốn nước ngoài khác
như FDI. Bằng cách đó, Việt Nam không chỉ duy trì được sự gia tăng của tổng vốn đầu tư
mà còn cải thiện được hiệu quả của tất cả các nguồn vốn, bao gồm cả vốn ODA.
3.3.2.3. Giải pháp tăng tốc độ giải ngân vốn ODA.
Thứ nhất, đơn giản hóa các thủ tục pháp lý liên quan đến ODA. Yêu cầu tăng tốc
độ giải ngân ODA là trách nhiệm của cả bên Việt Nam và cộng đồng tài trợ. Về phía Việt
Nam, chính phủ cần phải đơn giản hoá văn bản pháp lý và thủ tục liên quan đến ODA. Về
phía các nhà tài trợ, hài hoà và đơn giản hoá quy trình thủ tục với chính phủ Việt Nam
cũng là điều cần thiết nhằm đảm bảo tiến trình thực hiện có hiệu quả. Như lời nói của
Giám đốc WB Việt Nam Ajay Chhibber tại Hội nghị nhóm tư vấn năm 2007: “Một điều
cũng thông thường cho cộng đồng tài trợ là cần xem xét hệ thống của Việt Nam, chứ
không phải luôn luôn yêu cầu sử dụng hệ thống riêng của họ cho việc thực hiện dự án”.
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 22
Thứ hai, hài hoà thủ tục dự án. Thực tế hiện nay cho thấy tiến trình thẩm định và
phê duyệt vẫn đang còn có những vướng mắc, các văn bản báo cáo nghiên cứu khả thi
được chuẩn bị thường không đáp ứng yêu cầu do năng lực chuẩn bị báo cáo nghiên cứu
khả thi của chủ đầu tư còn hạn chế dẫn đến sự chậm trễ trong việc trình và phê duyệt báo
cáo nghiên cứu tiền khả thi, còn thiếu sự nhất quán giữa nội dung của báo cáo khả thi
được phê duyệt và các kết quả thẩm định của nhà tài trợ.
Do đó, cả hai bên cần nghiên cứu, điều chỉnh để thủ tục thẩm định của hai bên tiến

tới đồng bộ, thống nhất và phối hợp nhịp nhàng với nhau cả về nội dung và thời điểm
thẩm định của một quy trình thẩm định chung nhưng vẫn là hai lần thẩm định độc lập,
khách quan. Trong đó, nên để thẩm định của nhà tài trợ sau khi có phê duyệt của chính
phủ. Đồng thời, để tránh lãng phí thời gian nên giảm bớt những thủ tục không thật sự cần
thiết trong quá trình phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi.
Thứ ba, giải quyết vốn đối ứng:Về nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc
cấp nào thì cấp đó xử lý từ nguồn ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương có
vốn đối ứng phát sinh quá lớn, vượt khả năng cân đối thì cần trình thủ tướng chính phủ để
xin hỗ trợ một phần ngay từ khi lập dự án. Tuy nhiên, thực tế vốn đối ứng không phải lúc
nào cũng trôi chảy, mà đang là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự chậm
trễ trong việc thực hiện dự án.
Mặt khác, cần tăng cường quản lý và sử dụng vốn đối ứng cho các dự án ODA phù
hợp với quy định của chính phủ và không được sử dụng vốn đối ứng ngoài mục đích, nội
dung của dự án.
Thứ tư, cải thiện chất lượng đầu vào. Để tăng cường chất lượng đầu vào của các
chương trình, dự án ODA công tác chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt dự án cần được tổ
chức chặt chẽ và chất lượng cao trên cơ sở phát triển quan hệ đối tác. Cần phát triển hơn
nữa quan hệ đối tác giữa các bên, trên cơ sở quan tâm tới lợi ích chung cả tất cả các bên
tham gia và đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận. Đồng thời, chia sẻ thông tin cũng là
một cơ sở quan trọng để phát trển quan hệ đối tác. Do đó, để có thể phối hợp trong quan
hệ hợp tác phát triển nói chung và tạo điều kiện cho việc giải ngân đúng tiến độ các bên
cần có thông tin chính xác và tôn trọng lợi ích của nhau.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện chính sách đền bù, tái định cư. Giải phóng mặt bằng,
tái định cư là khâu quan trọng, có ý nghĩa kinh tế , xã hội, chính trị, môi trường… và ảnh
hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện dự án và do đó ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân vốn
ODA nhưng đây cũng là khâu thường xuyên có vướng mắc trong quá trình thực hiện dự
án.
Vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư cần được coi là một bộ phận quan
trọng trong kế hoạch thực hiện dự án ODA, vấn đề này không chỉ liên quan đến lợi ích
thiết thân, cuộc sống hiện tại cũng như lâu dài của người dân mà còn liên quan đến luật

Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 23
pháp, chính sách của nhà nước, chính sách của nhà tài trợ. Để tháo gỡ vấn đề này cần phải
có sự phối hợp từ nhiều phía ở phía Việt Nam và nhà tài trợ cũng cần xem xét lại việc
điều chỉnh các chính sách của mình cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 24
KẾT LUẬN
ODA có một vai trò quan trọng hỗ trợ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam và trên thực tế những chương trình, dự án sử dụng vốn ODA được thực hiện đã
tập trung vào những lĩnh vực đầu tư mang tác dụng trước mắt đồng thời là cơ sở lâu dài
cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, vì một số nguyên nhân khách quan và
chủ quan, quá trình huy động và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam vẫn còn một số hạn
chế đòi hỏi chúng ta cần nhanh chóng có những giải pháp thiết thực để làm tăng hiệu quả
trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn này, từ đó làm tăng vị thế đất nước trong con mắt
các nhà đầu tư trên thế giới.
Đánh giá nguồn vốn hỗ trợ chính thức 25

×