Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Cục dự trữ liên bang Mỹ FED

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.89 KB, 16 trang )

1

MỤC LỤC

Mục lục 1
Danh mục các chữ viết tắt 2
Danh mục các bảng biểu 3
Danh mục các sơ đồ 3
MỞ ĐẦU 4
Chƣơng 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ (FED) 5
1.1. Lịch sử hình thành 5
1.2. Quá trình phát triển 5
Chƣơng 2: CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ (FED) 7
2.1. Hội đồng Thống đốc 7
2.2. Ủy ban thị trƣờng mở (FOMC) 8
2.3. Hệ thống ngân hàng khu vực và ngân hàng chi nhánh 8
Chƣơng 3: VAI TRÒ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC DỰ TRỮ
LIÊN BANG MỸ (FED) 11
3.1. Vị trí và nhiệm vụ của FED 11
3.1.1. Tính pháp lý và vị trí trong chính quyền 11
3.1.2. Vai trò và nhiệm vụ của FED 12
3.2. Các hoạt động chính của FED 12
3.2.1. Nghiệp vụ phát hành tiền 12
3.2.2. Thực thi chính sách tiền tệ 13
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT



FED Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve System)
FFR Lãi suất quỹ liên bang (Federal Fund Rate)
FOMC Ủy ban thị trường mở (Federal Open Market Committee)
NHTM Ngân hàng Thương mại
NHTW Ngân hàng Trung ương
OMO Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operations)
QE Nới lỏng định lượng (Quantitative Easing)

3

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

STT
Tên bảng
Trang
1
Bảng 2.3.1: Hệ thống Ngân hàng khu vực, ký hiệu và
ngân hàng chi nhánh trực thuộc
9

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

STT
Tên sơ đồ
Trang
1
Sơ đồ 2.3.1: Bản đồ địa lý 12 Quận dự trữ liên bang
10


4

MỞ ĐẦU
Ở bất kỳ quốc gia nào, Ngân hàng Trung ương (NHTW) cũng đều đóng vai trò đặc biệt
trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Bởi lẽ, nếu ví hệ thống ngân hàng là huyết mạch
thì NHTW là trái tim của nền kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có
một NHTW thực hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc trong
hoạt động của NHTW cũng có thể gây ra sự khủng hoảng cho cả nền kinh tế.
Trong vai trò của một NHTW, Cục Dự trữ Liên bang – FED được xây dựng để đảm bảo
duy trì cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt, an toàn và ổn định. Trong quá trình tồn
tại và phát triển cùng lịch sử nước Mỹ, FED ngày càng chứng minh được vai trò vô cùng quan
trọng của nó trong hệ thống ngân hàng cũng như nền kinh tế Mỹ, đồng thời góp phần ảnh
hưởng đến nền kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, sự hiểu biết về FED vẫn còn tương đối hạn chế và còn nhiều nhầm lẫn. Vì
vậy, bài tiểu luận này hy vọng sẽ mang đến một cái nhìn tổng quan đúng đắn, rõ ràng và đầy
đủ về Cục Dự trữ Liên bang Mỹ – FED.

5

CHƢƠNG 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ (FED)
1.1. Lịch sử hình thành
Trong lịch sử, Hoa Kỳ vốn là thuộc địa của Anh. Để phản đối chính sách thuế của Anh
đánh vào trà (tea tax), Hội nghị tiệc trà Boston (Boston Tea Party) đã diễn ra vào năm 1774 do
Benjamin Franklin triệu tập để đưa ra chính sách về quyền của người Mỹ được đóng thuế. Sự
kiện này được coi là “giọt nước tràn ly”, đưa cách mạng Mỹ đến thắng lợi, đồng thời thúc đẩy
hệ thống tài chính – tiền tệ Hoa Kỳ có những bước thay đổi đáng kể: “Dưới thời thuộc địa
Anh, vấn đề điều hành chính sách tiền tệ, in ấn và phát hành tiền do Anh quốc thực hiện. Sau
độc lập, vấn đề điều hành chính sách tiền tệ, in ấn và phát hành tiền do Hoa Kỳ đảm nhận. Tuy

nhiên, dưới sức ép của các nhà tài phiệt châu Âu chủ yếu là Anh, Pháp, Đức, Italia và các nhà
tài phiệt, hệ thống ngân hàng, đặc biệt là vị trí của Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ bị các thế
lực tài phiệt biến thể liên tục theo hướng NHTW tư hữu, đúng như mô hình NHTW tư hữu
Anh quốc. Nói đúng hơn là NHTW Hoa Kỳ đã trải qua các cuộc chiến “đẫm máu” nhằm xác
lập tính chất “sở hữu” của NHTW thuộc về ai: Chính phủ hay các nhà tài phiệt tư nhân.
Trong đó, tên gọi (nguồn gốc của FED) diễn biến như sau: từ 1791 – 1811, có tên gọi là
“First Bank of the United States” (học theo mô hình ngân hàng Anh quốc) do Tổng thống
Washington ký thành lập và có hiệu lực trong vòng 20 năm. Trong đó, các nhà tài phiệt tư nhân
Hoa Kỳ như J.P Morgan, Rockefeller và gia tộc Rothschild chiếm 80% cổ phần, Chính phủ
Hoa Kỳ chỉ nắm giữ 20%. Năm 1811 – 1816, không có “Central Bank” (NHTW); năm 1816 –
1836, là “Second Bank of the United States”, trong đó, các nhà tài phiệt Hoa Kỳ và gia tộc
Rothschild tiếp tục nắm giữ 80% cổ phần, còn Chính phủ Hoa Kỳ chỉ nắm giữ 20%. Từ năm
1837 – 1862, là “Free Bank Era”; từ 1846 – 1921, là “Independent Treasury System”; từ 1863
– 1913, là “National Bank”; từ 1913 đến nay là “Federal Reserve System”, tức FED ngày
nay.”
[1]

1.2. Quá trình phát triển
Để cải tổ và vực dậy nền tài chính Hoa Kỳ sau cuộc đại khủng hoảng tài chính xảy ra
năm 1907. Năm 1908, Tổng thống Theodore Roosevelt (1901 – 1909), vị Tổng thống thứ 26
của Mỹ, quyết định thành lập “Ủy ban tiền tệ quốc gia” (National Monetary Commission) để
6

chỉnh đốn và cải cách hệ thống tài chính Mỹ. Chủ tịch của Ủy ban tiền tệ quốc gia lúc bấy giờ
là Nghị sỹ Nelson Aldrich.
Ngày 22/11/1910, tại hòn đảo JekyII Island (ngoài khơi bang Georgia), “The First Name
Club” gồm Nelson Aldrich và những nhà tài phiệt quan trọng nhất nước Mỹ lúc bấy giờ được
thành lập. Sự kiện này được xem là cái nôi sinh ra FED. “Nhóm làm việc do Nelson Aldrich
chủ trì đã họp trong vòng 9 ngày liên tục, để viết nên một dự luật cải tổ hệ thống ngân hàng và
luật pháp tiền tệ trình lên Quốc hội. Dự luật mới có những đặc điểm khác với dự luật trước đó,

ở chỗ: như đã đề cập ở trên, tên gọi của Ngân hàng Quốc gia Hoa Kỳ thay đổi liên tục, cho đến
năm 1863 – 1913, mới chính thức gọi là Ngân hàng Quốc gia Hoa Kỳ (được hiểu là Ngân hàng
Trung ương). Sau khủng hoảng tài chính 1907, những yếu kém của Ngân hàng Quốc gia bộc
lộ, niềm tin dân chúng vào sự điều hành của Ngân hàng Quốc gia suy giảm mạnh, bởi Ngân
hàng Quốc gia là ngân hàng tư nhân, do các nhà tài phiệt ngân hàng tư nhân Hoa Kỳ và quốc tế
lập nên. Chính vì vậy, để phục hồi sức mạnh của Ngân hàng Quốc gia do tư nhân nắm giữ,
điều đặc biệt đầu tiên của dự thảo mới là đổi tên Ngân hàng Trung ương thành Cục Dự trữ liên
bang (Federal Reserve System – FED) mặc dù bản chất bên trong không thay đổi. Việc đổi tên
từ “Ngân hàng” sang “Dự trữ” nhằm đánh lạc hướng dư luận công chúng, làm cho công chúng
tin rằng cơ quan điều hành này là cơ quan của Chính phủ, do nhân viên Chính phủ điều hành,
chứ không phải là “tư nhân điều hành” (các nhà tài phiệt). Hơn nữa, tên gọi Ngân hàng Trung
ương thường liên quan đến hàng loạt âm mưu đen tối của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế
Anh quốc, vì thế Paul kiến nghị nên sử dụng tên gọi “Cục Dự trữ liên bang” (FED) thay cho
NHTW để che đậy tai mắt thiên hạ. Bên cạnh đó, FED của Mỹ được thiết kế theo kiểu tư nhân
nắm giữ cổ phần. Khác với Ngân hàng Thứ nhất (1791 – 1811, có tên gọi là “First Bank of the
United States”) và Ngân hàng Thứ hai (1816 – 1836, có tên gọi là “Second Bank of the United
States”), đó là trong cơ cấu cổ phần của FED thì 20% cổ phần vốn có của Chính phủ tại Ngân
hàng Thứ nhất và Thứ hai, nay đã được tư nhân hóa, do đó FED trở thành một NHTW tư hữu
thuần túy.”
[2]

Như vậy, tên gọi của FED liên tục được thay đổi qua các thời kỳ, trong đó có những giai
đoạn xuất hiện cùng lúc ba loại hình: Free Bank Era, Independent Treasury System, National
Banks… Mãi đến năm 1913, mới chính thức có tên gọi là “Hệ thống dự trữ liên bang” (Federal
Reserve System) thường được gọi tắt là FED.

[1], [2] Trích bài viết của TS. Tôn Thanh Tâm trên Tạp chí Ngân hàng (Số 23/2009).
7

CHƢƠNG 2

CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ (FED)
Paul Warburg (1868 – 1932) người Mỹ gốc Đức, là đại diện của dòng họ Rothschild nổi
tiếng ở Đức, Anh, Pháp, Italia, đã đảm nhận vai trò Tổng công trình sư kiêm chủ tịch đầu tiên
của FED. Theo ông, người chịu trách nhiệm chủ trì FED phải là một chuyên gia hàng đầu của
Ngân hàng Dự trữ New York (Federal Reserve Bank of New York), sau đây xin gọi tắt là Ngân
hàng New York. Nhưng để nhận được sự ủng hộ của các nghị sỹ đến từ các bang khác, đặc biệt
là các bang thuộc miền Trung tây nước Mỹ, vốn không ưa các chuyên gia đến từ miền Đông,
trong đó có Ngân hàng New York, ông đã thiết kế cho 12 ngân hàng khu vực trở thành 1 bộ
phận của FED nhằm trung hòa các mối quan hệ và thuận cho việc lựa chọn người của Ngân
hàng New York thành nhân vật đứng đầu FED. Trên thực tế, Ngân hàng New York luôn dẫn
đầu việc đưa ra các chủ trương chính sách, định hướng cho toàn bộ các ngân hàng khu vực
thực hiện.
Mặc dù New York là trung tâm tài chính (Phố Wall), Paul lại chọn trụ sở chính của FED
đóng tại Washington chứ không phải New York, nhằm tránh sự kỳ thị của dân chúng Mỹ đối
với các ngân hàng đến từ New York thời bấy giờ.
Nhận thấy các nghị sỹ miền Trung tây nước Mỹ thường tỏ rõ mối thù địch với Ngân
hàng New York, Paul đề xuất giao cho Tổng thống là người chịu trách nhiệm bổ nhiệm vị trí
Chủ tịch của FED và người đứng đầu 12 Ngân hàng khu vực, mà không phải là Quốc hội.
Có thể nói cấu trúc của FED rất khác biệt so với các NHTW khác. Ở FED tồn tại 4 cấp:
Hội đồng Thống đốc, Ủy ban Thị trường mở (FOMC), 12 ngân hàng khu vực và các ngân hàng
chi nhánh trực thuộc.
2.1. Hội đồng thống đốc
Hội đồng Thống đốc (Board of Governors) của FED có 7 thành viên gồm: Chủ tịch do
Tổng thống bổ nhiệm, 2 thành viên đại diện cho Chính phủ là Bộ Tài chính và Kho bạc Mỹ,
còn lại là các ông chủ ngân hàng tư nhân. Trong đó, Tổng thống chỉ được quyền bổ nhiệm và
miễn nhiệm 1 thành viên trong vòng 2 năm. Như vậy, 1 nhiệm kỳ Tổng thống 4 năm thì Tổng
thống chỉ được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm 2 thành viên trong Hội đồng Thống đốc FED.
Nếu nhiệm kỳ Tổng thống kéo dài 8 năm (2 nhiệm kỳ) thì quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm chỉ
được tối đa 4 người, và 4 người này phải được Thượng viện thông qua, đó là điều không dễ.
Lịch sử Mỹ đã chứng minh điều này. Chẳng hạn, ông Alan Greenspan từng là Giám đốc Tập

8

đoàn J.P.Morgan, được Tổng thống Reagan bổ nhiệm vào vị trí Chủ tịch FED vào năm 1987,
và ở vị trí cho đến năm 2006 mới nghỉ hưu, tức là sự nghiệp của ông đã trải qua 4 đời Tổng
thống. Điều đó chứng tỏ sức mạnh độc lập của FED và vai trò của các nhà tài phiệt Hoa Kỳ,
thể hiện tính khác biệt trong điều hành của mình so với các quốc gia khác.
2.2. Ủy ban thị trƣờng mở (FOMC)
Ủy ban thị trường mở (The Federal Open Market Committee) – FOMC gồm 12 thành
viên: 7 thành viên của Hội đồng Thống đốc FED, Chủ tịch Ngân hàng New York, và 4 trong số
11 Chủ tịch của các ngân hàng khu vực còn lại sẽ luân phiên theo nhiệm kỳ 1 năm. Các ghế
luân phiên sẽ được chọn bằng cách lấy 1 Chủ tịch từ 4 nhóm ngân hàng:
- Boston, Philadelphia và Richmond;
- Cleveland và Chicago;
- Atlanta, St. Louis và Dallas;
- Minneapolis, thành phố Kansas và San Francisco.
FOMC tổ chức cuộc họp định kỳ 8 lần/ năm. Tại cuộc họp, Ủy ban sẽ xem lại các điều
kiện kinh tế – tài chính, xác định hướng đi thích hợp cho chính sách tiền tệ, tính toán các rủi ro
cho các mục tiêu dài hạn về ổn định giá và sự phát triển kinh tế.
2.3. Hệ thống ngân hàng khu vực và ngân hàng chi nhánh
Hệ thống của FED có 12 “Ngân hàng dự trữ liên bang” (Federal Reserve Bank), thường
được gọi ngắn gọn là “Ngân hàng khu vực”, tương ứng với 12 “Quận dự trữ liên bang”
(Federal Reserve Districts) theo Luật dự trữ liên bang (Federal Reserve Act) được ký vào năm
1913. Các ngân hàng khu vực cùng chịu trách nhiệm thực thi chính sách tiền tệ đã được Ủy
ban thị trường mở (FOMC) thông qua. Hệ thống 12 ngân hàng khu vực được chia như sau:
Atlanta, Boston, Chicago, Cleveland, Dallas, Thành phố Kansas, Minneapolis, New York,
Philadelphia, Richmond, San Francisco và St. Louis. Mỗi ngân hàng khu vực được ký hiệu
bằng chữ cái. Những chữ cái này in trên giấy bạc mà chúng phát hành.
Một vài trong số những ngân hàng khu vực trên có các ngân hàng chi nhánh (Branch)
trực thuộc. Tuy nhiên, trụ sở chính của tất cả ngân hàng chi nhánh được đặt tại Tòa nhà Eccles
ở Washington D.C. Trước đây, hệ thống ngân hàng khu vực có 25 ngân hàng chi nhánh.

Nhưng vào tháng 10/2008, chi nhánh New York Buffalo đã bị đóng cửa, nên hiện tại chỉ còn
24 ngân hàng chi nhánh trực thuộc các ngân hàng khu vực.

9

STT
Ngân hàng khu vực
Ký hiệu
Ngân hàng chi nhánh trực thuộc
1
Boston
A

2
New York
B
Buffalo (đã đóng cửa năm 2008)
3
Philadelphia
C

4
Cleveland
D
Cincinnati (Ohio), Pittsburgh (Pennsylvania)
5
Richmond
E
Baltimore (Maryland);
Charlotte (North Carolina)

6
Atlanta
F
Birmingham (Alabama); Jacksonville (Florida);
Miami (Florida); Nashville (Tennessee);
New Orleans (Louisiana)
7
Chicago
G
Detroit (Michigan)
8
Saint (St.) Louis
H
Little Rock (Arkansas); Louisville (Kentucky);
Memphis (Tennessee)
9
Minneapolis
I
Helena (Montana)
10
Thành phố Kansas
J
Denver (Colorado); Oklahoma City (Oklahoma);
Omaha (Nebraska)
11
Dallas
K
El paso; Houston; San Antonio (Texas)
12
San Francisco

L
Los Angeles (California); Portland (Oregon);
Salt Lake City (Utah); Seattle (Washington)
Bảng 2.3.1: Hệ thống Ngân hàng khu vực, ký hiệu và ngân hàng chi nhánh trực thuộc.
Tên của các ngân hàng chi nhánh được gọi bằng cách ghép tên ngân hàng khu vực mà
nó trực thuộc và tên khu vực nó được đặt. Ví dụ, Ngân hàng khu vực San Francisco đặt chi
nhánh tại thành phố Los Angeles (thuộc bang California) được gọi là: “Federal Reserve Bank
of San Francisco Los Angeles Branch”.
Sơ đồ sau sẽ cho ta thấy cách phân chia về mặt địa lý 12 Quận dự trữ liên bang tương
ứng với 12 Ngân hàng khu vực ở trên.
10


Sơ đồ 2.3.1: Bản đồ địa lý 12 Quận dự trữ liên bang.
12 Ngân hàng dự trữ liên bang được đánh dấu bằng những hình ô vuông màu đen. Tất
cả các Ngân hàng chi nhánh trong từng quận được đánh dấu bằng hình tròn màu đỏ. Trụ sở
chính ở Washington D.C được đánh dấu sao. Riêng chi nhánh tại Buffalo, New York đã đóng
cửa năm 2008 được đánh dấu tròn chéo.
11

CHƢƠNG 3
VAI TRÒ VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ (FED)
3.1. Vị trí và nhiệm vụ của FED
3.1.1. Tính pháp lý và vị trí trong chính quyền
Hoạt động của FED vừa giống một cơ quan nhà nước, vừa giống một doanh nghiệp.
FED đóng vai trò của một NHTW, nhưng cổ phần thuộc sở hữu của các ngân hàng, tổ chức tư
nhân khác. Từng bộ phận của FED có tư cách pháp lý khác nhau.
- Hội đồng Thống đốc do Tổng thống bổ nhiệm và Thượng viện phê chuẩn. Tuy nhiên,
Hội đồng Thống đốc không nhận tài trợ của Quốc Hội, và 7 thành viên của Hội đồng được bầu
theo cơ chế dân chủ. Nhiệm kỳ của mỗi thành viên trong Hội đồng Thống đốc kéo dài 14 năm,

và chỉ có thể được tái bổ nhiệm nếu nhiệm kỳ trước không trọn vẹn. Tổng thống tiếp tục bổ
nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng, giữ chức trong vòng 4 năm và có thể được tái bổ
nhiệm không hạn chế chừng nào họ còn là thành viên của Hội đồng. Ví dụ điển hình là ông
Alan Greenspan, người đã giữ cương vị Chủ tịch FED suốt 19 năm (từ năm 1987). Tiếp theo là
Ben Bernanke, người đã thay thế Alan Greenspan vào ngày 01/01/2006 và giữ chức trong 8
năm (đến hết tháng 1/2014). Chủ tịch hiện nay của FED là Janet Yellen.
- Ủy ban thị trường mở (FOMC) là một ủy ban thuộc FED, chịu sự quy định của luật
pháp Mỹ, quản lý các nghiệp vụ thị trường mở (OMO) quốc gia, ví dụ như việc FED mua bán
các trái phiếu chính phủ Mỹ. FOMC ra quyết định về tỷ lệ lãi suất liên bang và mức cung tiền
cho nền kinh tế Mỹ, từ đó quản lý được lãi suất quỹ liên bang (FFR). Nghiệp vụ thị trường mở
(OMO) và lãi suất quỹ liên bang (FFR) sẽ được giải thích rõ hơn trong phần tiếp theo. Ủy ban
xây dựng chính sách tiền tệ bằng cách xác định mục tiêu ngắn hạn cho các nghiệp vụ thị
trường mở của FED, tức là mức lãi suất mục tiêu cho FFR. FOMC cũng trực tiếp thực hiện các
nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối dưới sự quản lý của FED.
- Các Ngân hàng dự trữ liên bang (Ngân hàng khu vực) được thiết lập như là những
cánh tay thi hành của FED trung ương. Các ngân hàng này được tổ chức phần lớn giống như
những tập đoàn tư nhân và có một số yếu tố giống một cơ quan của chính phủ liên bang. Cổ
phần các ngân hàng này do các NHTM tư nhân là thành viên nắm giữ. Ban Giám đốc của Ngân
hàng khu vực có 9 thành viên, gồm 6 người do các NHTM thành viên bầu ra và 3 người do Hội
đồng Thống đốc bổ nhiệm. Ban Giám đốc này sẽ bầu ra Chủ tịch và phải được Hội đồng
Thống đốc phê chuẩn. Ngân hàng khu vực chỉ giao dịch với các ngân hàng thương mại và quỹ
12

tín dụng. Hiện có khoảng 3.000 ngân hàng và 17.000 quỹ tài chính khác là thành viên của
FED. Rất nhiều trong số các ngân hàng khu vực có cổ phiếu phát hành trên thị trường và tất cả
đều có cổ phần tại các ngân hàng chi nhánh trong khu vực của mình.
3.1.2. Vai trò và nhiệm vụ của FED
Theo quyết định của Hội đồng Thống đốc, FED hiện nay có các nhiệm vụ sau:
- Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, bằng cách tác động đến các điều kiện tiền tệ và
tín dụng, nhằm mục đích giữ tỷ lệ thất nghiệp ở mức tự nhiên, ổn định giá cả và điều hòa lãi

suất dài hạn;
- Giám sát và quản lý các thể chế ngân hàng nhằm đảm bảo tính an toàn hệ thống và
bảo đảm quyền tín dụng của người dân;
- Duy trì sự ổn định của nền kinh tế và kiềm chế các rủi ro hệ thống có thể phát sinh
trên thị trường tài chính;
- Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức tín dụng, Chính phủ Mỹ và ngân hàng
trung ương các nước khác (thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử, phát hành tiền…). Đóng vai
trò chủ chốt trong vận hành hệ thống chi trả quốc gia.
- Ngoài ra, FED còn tiến hành các nghiên cứu và cung cấp thông tin về nền kinh tế Mỹ
cũng như các bang.
3.2. Các hoạt động chính của FED
3.2.1. Nghiệp vụ phát hành tiền
Một điều đặc biệt là chính phủ Mỹ không có quyền phát hành tiền tệ. Quyền lực ấy
thuộc về hai cơ quan: Cục Dự trữ Liên bang Mỹ – FED và Bộ Tài chính.
- Bộ Tài chính phát hành tiền xu (coin) có mệnh giá 1 xu (cent), 5 xu, 1 hào (dime =
1/10USD), đồng 25 xu (quarter = 1/4USD) và một số đồng 1 dollar;
- Giấy bạc do FED phát hành là nguồn cung tiền tệ và chúng được đưa vào lưu thông
qua các ngân hàng khu vực thuộc FED. Trên tờ giấy bạc mà FED phát hành sẽ có các ký hiệu
chữ và số đại diện cho ngân hàng khu vực mà tờ tiền đó được phát hành, được ghi như trong
bảng 2.3.1 ở trên. Ví dụ, nếu tờ tiền được Ngân hàng dự trữ New York phát hành sẽ có chữ B
trước dãy số series và số 2 nằm ở 4 góc trong phần nền trắng; nếu do Ngân hàng dự trữ San
Francisco phát hành sẽ có chữ L trước dãy số series và số 12 nằm ở 4 góc trong phần nền
trắng…


13

3.2.2. Thực thi Chính sách tiền tệ
FED đặt ra và thực hiện Chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy sức khỏe của nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ tác động đến lãi suất, yếu tố có tác động rõ rệt lên nền kinh tế. Thông qua

chính sách tiền tệ, FED có thể can thiệp vào nền kinh tế thông qua các công cụ:
1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Reserve requirements): Tỷ lệ tiền mặt và tiền gửi quy định các
ngân hàng phải nắm giữ trong kho của mình để đảm bảo tính thanh khoản. Dự trữ bắt buộc tại
Mỹ được gửi tại các ngân hàng khu vực của FED. Trường hợp khoản dự trữ giảm xuống dưới
mức quy định, các ngân hàng phải đi vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng (interbank
market) để đảm bảo tỷ lệ dự trữ. Công cụ này được sử dụng để trực tiếp kiểm soát khả năng
cho vay của các ngân hàng, qua đó kiềm chế lạm phát hiệu quả.
2. Lãi suất: FED có 2 công cụ lãi suất là lãi suất chiết khấu (Discount rate) và lãi suất
quỹ liên bang (FFR).
- Lãi suất chiết khấu (Discount rate) là lãi suất các khoản vay mà FED tính cho các
NHTM và các tổ chức tín dụng khi các tổ chức này đi vay từ ngân hàng khu vực.
- Lãi suất quỹ liên bang (Federal fund rate – FFR) do FOMC định ra. Quỹ liên bang là
những khoản vay nợ ngắn hạn (qua đêm) điển hình giữa các ngân hàng Mỹ. Khi một NHTM
có khả năng không duy trì được tỷ lệ dự trữ bắt buộc do FED quy định thì họ phải vay từ
nguồn quỹ liên bang của ngân hàng khác với lãi suất tự thỏa thuận giữa các ngân hàng này. Thị
trường vay quỹ liên bang rất nhạy cảm với nhu cầu tín dụng của ngân hàng, nên FFR được coi
là phong vũ biểu đo mức độ căng thẳng của thị trường tín dụng ngân hàng. Do đó, việc FED
dùng công cụ thị trường mở tác động tới việc cung tiền sẽ hướng FFR về mức lãi suất mục
tiêu, đảm bảo sự phù hợp với tỷ lệ tăng trưởng GDP ổn định tại một mức lạm phát kỳ vọng.
Tóm lại, lãi suất chiết khấu do FED định ra, còn lãi suất quỹ liên bang FFR do thị
trường liên ngân hàng định ra. Lãi suất chiết khấu thường cao hơn FFR 0.5-1%. Hai loại lãi
suất trên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các loại lãi suất khác. Việc đi vay trực tiếp từ FED được
các ngân hàng xem là biện pháp cuối cùng khi cần thanh khoản gấp cho khách hàng. Mỗi khi
nghe nói FED thay đổi lãi suất cơ bản tức là thay đổi FFR.
3. Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operations – OMO): Đây là nghiệp vụ quan
trọng của chính sách tiền tệ. Ta hay nghe rằng FED đang mua các loại tài sản tài chính theo
chương trình “Nới lỏng định lượng” (Quantitative Easing – QE). Nghiệp vụ thị trường mở
cũng tương tự như vậy. Thông qua OMO, khi quyết định thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng,
FED sẽ mua trái phiếu chính phủ, giúp đưa thêm tiền vào lưu thông. Và ngược lại, khi muốn
14


thắt chặt tiền tệ, FED bán các trái phiếu chính phủ để thu lại lượng tiền cần thiết đang lưu
thông trên thị trường. Điều này có tác dụng điều chỉnh tỷ lệ lãi suất liên bang trong phạm vi
mục tiêu của FED. Tỷ lệ lãi suất liên bang là thước đo điều chỉnh các khoản cho vay liên ngân
hàng. Lãi suất giảm xuống sẽ khuyến khích các ngân hàng đi vay trên thị trường liên ngân
hàng, từ đó sẽ khuyến khích các ngân hàng cho vay nhiều hơn. Ngược lại, khi FED tăng lãi
suất liên bang nghĩa là FED cho rằng hệ thống đang lỏng lẻo và có khả năng tạo ra bong bóng.
“Với việc kinh tế Mỹ vẫn trong giai đoạn phục hồi, việc FED muốn làm hiển nhiên là
giữ lãi suất liên bang càng thấp càng tốt. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là lãi suất này đã ở mức 0%
từ năm 2009.
Trên thực tế là Fed đang thực hiện chính sách lãi suất bằng 0 – điều này có thể hiểu đơn
giản là lãi suất danh nghĩa đang ở mức thấp nhất có thể. Chúng ta đã đạt đến mức giới hạn của
chính sách tiền tệ truyền thống.”
[3]
Chính sách nới lỏng tiền tệ (QE) vốn được hiểu là “chính sách tiền tệ phi truyền thống”
mà theo đó, FED sẽ mua các tài sản tài chính, cụ thể là trái phiếu chính phủ và các tài sản cầm
cố, nhằm làm tăng lượng cung tiền lưu thông. Từ năm 2008 đến 2013, FED đã thực hiện 3 gói
QE (gần nhất là QE3) với lượng tiền tung ra đã lên tới 3,6 nghìn tỷ USD.
















[3] Trích bài viết trên tờ Business Insider số tháng 9 năm 2013.
15

KẾT LUẬN
Ngày 23/12/1913, Luật dự trữ liên bang được Quốc hội Mỹ thông qua và Tổng thống
W.Wilson phê chuẩn. Theo đó, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve System – FED)
được thành lập. FED chính thức hoạt động vào năm 1915, đặt trụ sở chính tại Washington D.C.
FED đóng vai trò là NHTW của Mỹ, với 4 cấp tổ chức: Hội đồng Thống đốc gồm 7 thành viên,
Ủy ban thị trường mở (FOMC) gồm 12 thành viên, hệ thống 12 Ngân hàng dự trữ liên bang
(gọi tắt là Ngân hàng khu vực) và 24 Ngân hàng chi nhánh (kể từ tháng 10/2008). Trong mạng
lưới 12 Ngân hàng khu vực đặt tại 12 Quận dự trữ liên bang, Ngân hàng New York được xem
là nổi bật hơn và giữ vai trò quan trọng hơn cả trong các quyết định của FED. Cựu chủ tịch của
FED, Alan Greenspan, đã giữ cương vị liên tục 14 năm từ năm 1987. Sau đó là Ben Bernanke
giữ chức vụ trong 8 năm. Chủ tịch hiện nay của FED là Janet Yellen kể từ tháng 1/2014.
Với lịch sử hơn 100 năm hình thành và phát triển cùng nước Mỹ, FED ngày càng chứng
minh được vai trò vô cùng quan trọng của nó trong hệ thống ngân hàng cũng như nền kinh tế
Mỹ. Các quyết định đưa ra tại đây có tầm ảnh hưởng sâu rộng không chỉ trong phạm vi nước
Mỹ và còn toàn thế giới. Sự phát triển liên tục và diễn biến phức tạp của nền kinh tế tài chính
toàn cầu đã đòi hỏi FED với những mục tiêu và nhiệm vụ mới trong tương lai.

16

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ThS. Phan Anh Tuấn, Đề cương bài giảng môn Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ.
2. Frederic S. Mishkin, The Economics of Money, Banking and Financial Markets, seventh
edition, Addison – Wesley, 2011.
3. TS. Tôn Thanh Tâm, Bài viết trên Tạp chí Ngân hàng, số 23/2009.

4. Business Insider, số tháng 9 năm 2013.
5. Cafef.vn
6. CFOviet.com
7. Vtv.vn
8. Wikipedia.com
9. www.FEDeralreserve.gov/abouttheFED
10. www.saga.vn/thuat – ngu
11. www.vnba.org.vn

×