Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đề cương Xã hội học Kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.65 KB, 16 trang )

Câu 1: Vai trò quản lý các mặt hàng giả, hàng nhái hiện nay
Tác động của hàng giả và hàng nhái thương hiệu đến nền kinh tế.
Hàng giả và hàng nhái thương hiệu là hành vi vi phạm pháp luật có tính chất
nghiêm trọng đối với toàn xã hội. Việc sản xuất và buôn bán hàng giả và hàng nhái
thương hiệu ngày càng gia tăng đều trực tiếp hay gián tiếp gây ra những hậu quả
xấu đối với nền kinh tế. Một tác động điển hình là nạn hàng giả và hàng nhái
thương hiệu làm giảm hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt với
những loại hàng giả và hàng nhái thương hiệu thuộc dạng nội giả ngoại ngày càng
nhiều hơn làm cho các doanh nghiệp, các chủ đầu tư nước ngoài không dám bước
chân vào Việt Nam.
Hàng giả và hàng nhái thương hiệu còn ảnh hưởng đến nguồn ngân sách Nhà
Nước. Thông qua sự tác động tới các doanh nghiệp Nhà nước, hàng giả và hàng
nhái thương hiệu làm thiệt hại ngân sách hàng tỷ đồng. Thêm vào đó ngân sách nhà
nước luôn phải chi ra những khoản tiền tương đối lớn cho công tác chống sản xuất
và buôn bán hàng giả và hàng nhái thương hiệu. Và như vậy hàng giả và hàng nhái
thương hiệu sẽ luôn là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước nếu như chúng ta không
có những biện pháp mạnh để chặn đứng hành vi này.
Tác động của hàng giả và hàng nhái thương hiệu đến các doanh nghiệp.
Những sản phẩm hàng hoá có uy tín là kết quả của quá trình nghiên cứu đổi
mới công nghệ, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, quảng cáo tiếp thị, có sản
phẩm mang tính gia truyền hoặc xuất xứ ở những vùng có điều kiện đặc thù mà trở
nên nổi tiếng. Hàng giả và hàng nhái thương hiệu được làm giống hệt hoặc tương
tự hàng thật nhưng không phải đầu tư vào những công việc trên cho nên chi phí sản
xuất thấp vì vậy dễ thu được lợi nhuận cao, có “ lợi thế cạnh tranh’’ cao.
Cuộc “ cạnh tranh’’ không cân sức này đã làm hàng thật điêu đứng, các doanh
nghiệp luôn có nguy cơ đứng bên bờ vực của sự phá sản. Bởi vì:
Thứ nhất: hàng giả rẻ hơn bán được nhiều hơn (khi người tiêu dùng chưa biết
là hàng giả) do đó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh số bán hàng của doanh nghiệp.
Doanh số bán hàng của doanh nghiệp sẽ liên tục giảm, hàng hóa tồn đọng không
tiêu thụ được dẫn đến ứ đọng vốn, nợ ngày một nhiều và nếu cứ kéo dài tình trạng
này thì tất yếu doanh nghiệp sẽ bị phá sản.


Thứ hai: khi người tiêu dùng biết có hàng giả thì doanh nghiệp cũng bị mất uy
tín và khách hàng có thể không mua nữa và doanh nghiệp bị đẩy vào nguy cơ phá
sản.
Tác động của hàng giả và hàng nhái thương hiệu đến người tiêu dùng
Hàng giả luôn là nỗi kinh hoàng cho mỗi người tiêu dùng, bất kỳ ai cũng có
thể là nạn nhân của hàng giả và có thể ảnh hưởng đến sinh mạng, sức khoẻ của
người tiêu dùng.
Nguy hiểm nhất trong số các loại hàng giả và hàng nhái thương hiệu phải kể
đến là thuốc chữa bệnh. Nhiều bệnh nhân mua phải thuốc giả giá thì đắt mà bệnh
vẫn hoàn bệnh, thậm chí bệnh còn nặng hơn và gây chết người. Với người nông
dân hàng giả và hàng nhái thương hiệu làm cho họ dở khóc dở cười, tiền mất tật
mang khi mua phải thuốc trừ sâu, phân bón giả Và còn rất nhiều những hậu quả
mà hàng giả gây ra cho người tiêu dùng mà trong phạm vi bài viết này không thể
liệt kê hết được. Nhưng qua đó chúng ta cần phải biết rằng trong khi chúng ta đang
“ loay hoay’’ tìm những biện pháp chống hàng giả và hàng nhái thương hiệu từ
người tiêu dùng đang hàng ngày hàng giờ phải “ chung sống’’ với hàng giả và đang
phải hứng chịu những hậu quả do hàng giả gây ra.
Để đạt được những mục tiêu và đảm bảo nền kinh tế – thương mại phát triển
theo đúng những phương hướng đã được hoạch định, để có một nền kinh tế tăng
trưởng, phát triển bền vững đi đôi với tiến bộ công bằng xã hội thì việc tăng cường
chống hàng giả và hàng nhái thương hiệu là hết sức cần thiết. Trong suốt những
năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Đánh giá hoạt
động thương mại, dịch vụ trong những năm đổi mới, Nghị quyết 12/NQTW ngày
03/01/1996 của Bộ Chính trị về “ Tiếp tục đổi mới và tổ chức hoạt động thương
mại, phát triển thị trường theo định hướng XHCN” khẳng định: “ Những năm qua,
thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, ngành thương mại
đã cùng các ngành, địa phương nỗ lực phấn đấu, đạt được những thành tựu bước
đầu quan trong trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá và dịch vụ, góp phần tạo nên
những biến đổi sâu sắc trên thị trường trong nước và vị thế mới trên thị trường
ngoài nước”. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu và kết quả về kinh tế, lĩnh vực

thương mại dịch vụ, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
cũng chỉ ra những thiếu sót và khuyết điểm phát sinh những vấn đề phức tạp mới,
cần có chủ trương và biện pháp giải quyết đúng đắn nhằm đảm bảo định hướng của
sự phát triển. Trong đó, nạn hàng giả, hàng nhái cũng là một vấn đề bức bách cần
phải được giải quyết. Những tồn tại cụ thể được Nghị quyết Đại hội Đảng IX chỉ ra
đó là: “ Nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại và tệ tham nhũng không
giảm, tác động xấu đến tình hình kinh tế – xã hội; lĩnh vực xuất khẩu có những hạn
chế về sáng tạo nguồn hàng, chất lượng và sức cạnh tranh; xuất khẩu hàng nông sản
thô còn chiếm tỷ trọng lớn; nhiều mặt hàng còn phải xuất khẩu qua trung gian hoặc
chỉ là gia công nên hiệu quả kinh tế không cao. Mức tăng trưởng giá trị các ngành
dịch vụ chỉ đạt trên 50% kế hoạch, trong khi lĩnh vực này chiếm tỷ trong lớn trong
GDP. Tất cả những tồn tại trên đã hạn chế mức tăng trưởng của nền kinh tế”. Như
vậy, Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng đã thấy được vấn đề hàng giả, hàng nhái là
quốc nạn, tác hại của nó đối với nền kinh tế và sự cần thiết phải ngăn chặn nó.
Câu 2: Anh/chị hãy giải thích tại sao toàn cầu hóa lại dẫn đến tăng
khoảng cách phân hóa giàu nghèo ở VN
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa
các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v trên quy
mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để
chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do
thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư
bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công
nghệ, thông tin, văn hoá.
Thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam là khả năng cạnh
tranh chưa cao. Mở cửa thị trường, cùng với cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ, các
doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với thách thức rất lớn là cạnh tranh với các
doanh nghiệp nước ngoài Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong thời
gian qua, nhung nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những hạn chế cần khắc
phục. Ở nhiều doanh nghiệp, tính tự chủ không cao, khả năng vận hành và tính

thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh còn hạn chế. Khi toàn cầu
hóa, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải đối mặt với sự cạnh tranh
quyết liệt với các doanh nghiệp nước ngoài về thị trường hàng hóa và dịch vụ. Các
doanh nghiệp nước ngoài với ưu thế là nguồn vốn lớn, sản phẩm sản xuất trên nền
tảng CNH, HĐH, nên chất lượng và giá cả phù hợp, thêm vào đó là kinh nghiệm
chiếm lĩnh thị trường của những tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực thương mại quốc
tế. Sự cạnh tranh này khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải đứng trước hai sự lựa
chọn :
- Chấp nhận sự cạnh tranh, liên tục đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học - kỹ
thuật, vận hành hệ thống quản lý mới, cải tiến và nâng cao chất lượng sản phấm, hạ
giá thành, tăng cường dịch vụ nhằm để sản phẩm sản xuất ra có thể cạnh tranh với
sản phấm cùng loại, chiếm lĩnh được thị trường, hướng tới xuất khấu và dần tạo uy
thế trên thị trường.
- Doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh, bị đào thải khỏi thị trường.
Điều này có thể xảy ra với những doanh nghiệp quá yếu về tiềm lực kinh tế cũng
như thương hiệu, kinh nghiệm trên thương trường quốc tế. Sự đào thải của hàng
loạt doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả sẽ khiến số lao động thất nghiệp tăng cao.
Đây là một trong nhũng vấn đề cần giải quyết nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định
và bền vũng.
Thách thức đối với nước ta là phải thực hiện hàng loạt những cam kết, những
thỏa thuận đã ký từ những hiệp định thương mại song phương, đa phương, đồng
thời tuân thủ triệt để quy cũa thế giới
Những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội qua 20
năm đối mới, cùng quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã khẳng định sự
đúng đắn của con đường phát triển đất nước ta. Khai thác triệt để những lợi thế và
chủ động vượt qua những thách thức khi toàn cầu hóa là tiền đề quan trọng trong
việc hội nhập thị trường toàn cầu, dần thích nghi và bắt kịp tốc độ phát triển của
các nước tiên tiến trên thế giới. Trước mắt, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính
sách, các văn bản luật và hướng dẫn thi hành, đặc biệt là nhũng lĩnh vực có liên
quan đến những cam kết và thỏa thuận theo hiệp định thương mại song phương, đa

phương và quy chế cũa thế giới. Bên cạnh đó, cũng cần đẩy nhanh quá trình tổ
chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa DNNN,
chuẩn bị đầy đủ tiềm lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang những
ngành mũi nhọn, có khả năng cạnh tranh cao. Những doanh nghiệp thuộc những
ngành kinh tế mũi nhọn cần được tập trung mọi nguồn lực để nâng cao năng lực
cạnh tranh, thích ứng với môi trường kinh doanh toàn cầu, trở thành 'đầu tầu' của
nền kinh tế. Những doanh nghiệp năng lực cạnh tranh thấp, hoặc làm ăn không
hiệu quả cần được chuyển đổi hoặc bán, bảo đảm cho mọi nguồn lực kinh tế được
đầu tư vào những lĩnh vực có hiệu quả nhất. Những thị trường hỗ trợ cho thị trường
hàng hóa như thị trường tài chính, thị trường tiền tệ cần được quan tâm phát triển
một cách đồng bộ. Đồng thời, Nhà nước cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực, chuấn bị cho quá trình tiếp thụ nhũng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nhũng
công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quản lý để đáp ứng yêu cầu của bộ máy
quản lý đa năng và chuyên nghiệp hóa sau này.
về phía các doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng tiếp cận thị trường toàn cầu,
trong đó, hiểu sâu sắc và nghiêm túc thực hiện những quy chế trong kinh doanh
thương mại quốc tế, như vấn đề bản quyền, tiêu chuẩn, chất lượng, vệ sinh an toàn,
bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng Cũng cần chuẩn bị thật tốt nguồn nhân lực với
trình độ cao, nhằm tiếp thụ những công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm,
giảm giá thành, tăng dịch vụ sau bán hàng, để hàng hóa Việt Nam có đủ sức cạnh
tranh với sản phẩm của các nước khác.
Toàn cầu hóa là một bước đi trong lịch sử phát triển của nền kinh tế quốc tế.
Nó mở ra nhiều cơ hội cho các thành viên phát triển mình nhưng đồng thời cũng
đón nhận không ít thách thức. Khoảng cách giàu nghèo là tai nạn khó tránh trong
cánh cửa hội nhập cụ thể ta sẽ phân tích trên các mặt sau:
Trước tiên là khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng sẽ có sự phân hóa rõ rệt.
Toàn cầu hóa sẽ thu hút các nhà đầu tư tập trung vào các địa điểm có cơ sở hạ tầng
tốt, điều kiện kinh doanh thuận lợi, do đó mà các vùng vốn đã phát triển lại sẽ càng
phát triển hơn. Các vùng cớ cơ sở hạ tầng và điều kiện kinh doanh kém thì nguồn
nhân lực vốn ít sẽ lại càng ít hơn do nguồn nhân lực đã bị sức hút của các vùng có

điều kiện nói trên. Đây chính là sự phân hóa giàu nghèo giữa các khu vực khi Việt
Nam bước chân vào cánh cửa hội nhập.
Khoảng cách giàu nghèo còn thể hiện trên phương diện giai cấp. Cơ chế thị
trường chính là điều kiện để các nhà tư bản phát triển mình. Người lao động tay
chân thì lại càng lệ thuộc vào các ông chủ vì họ bị ràng buộc bởi các lao động có
trình độ hơn mình.
Các doanh nghiệp trong nước nếu không chịu được sức ép cạnh tranh bên
ngoài tất yếu dẫn đến phá sản thất nghiệp, trở thành người nghèo. Những kẻ thắng
lợi thì lại càng nâng vị thế của mình lên cao, đây là xét trên phương diện cạnh
tranh.
Không chỉ cục bộ trong nước, khoảng cách giàu nghèo còn mang phạm vi
quốc tế, giữa các nước dễ bị lệ thuộc kinh tế lẫn nhau.
Toàn cầu hóa không chỉ tạo khoảng cách giàu nghèo ngày càng sâu giữa các
vùng, các giai tầng mà còn trên phạm vi quốc tế. Toàn cầu hóa là một sân chơi
không có trọng tài bạn ạ.
Câu 3: Anh/chị hãy phân tích xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội nước ta
trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Câu 4: Những thay đổi trong cấu trúc lương trong thời kỳ chuyển đổi
kinh tế ảnh hưởng đến di chuyển lao động và cấu trúc việc làm như thế nào
Câu 7. Tệ nạn tham nhũng tác động đến nền kinh tế
Cần nhìn nhận rằng không phải bao giờ cũng dễ xác định hành động nào là
tham nhũng, hành động nào là không. Điển hình: mọi xã hội đều có phong tục quà
cáp, đãi đằng. Đến mức độ nào thì những tập quán đó (khi chúng liên hệ đến công
chức cán bộ) là tham nhũng? Theo một số nhà nghiên cứu phương Tây [xem Tanzi
(1995)] thì tham nhũng là bất cứ hành vi nào của quan chức dưới ảnh hưởng của
liên hệ cá nhân hoặc gia đình, thay vì hoàn toàn theo tín hiệu thị trường. Tôi cho
quan điểm đó là vừa quá nhỏ hẹp, lại có ý quá tôn vinh cơ chế thị trường, nhưng
không tìm được một định nghĩa vắn tắt và thỏa đáng hơn.
Như đã nói, bài này chỉ chú ý đến tác động kinh tế tiêu cực của tham nhũng.
Có thể xếp các tác động này vào bốn phạm trù: phân bố nguồn lực, công cụ chính

sách và cải cách thể chế, phân hoá giàu nghèo, và tính truyền nhiễm của nó.

1. Ảnh hưởng đến phân bố nguồn lực

(a) Muốn một nền kinh tế hoạt động tối hảo thì nguồn lực quốc gia (nhất là
vốn) phải được phân bố cho đúng giữa đầu tư (cho tương lai) và tiêu xài (cho hiện
tại), và hơn nữa, vốn đầu tư phải được phân bố cho đúng giữa những dự án khác
nhau. Vì nhiều lý do, tham nhũng sẽ làm sự phân bố nguồn lực chệch ngoài cấu
trúc tối hảo cho tăng trưởng và phát triển. Một là, trong một thế giới mà vốn có thể
di chuyển khá dễ dàng từ nơi này sang nơi khác, người có vốn sẽ đầu tư vào những
quốc gia ít tham nhũng. Hai là,trong một quốc gia, vốn sẽ chảy vào các khu vực ít
tham nhũng. Ba là, nguồn lực nói chung sẽ được tiêu xài cho hiện tại hơn là đầu tư
cho tương lai. Bốn là, những dự án được đầu tư thường là những dự án quá quy mô
và phức tạp, bởi lẽ công trình càng quy mô và phức tạp thì cơ hội tham nhũng càng
nhiều và càng dễ che đậy.[2] Tất cả bốn xu hướng đó có thể đưa vốn vào các mục
tiêu, địa phương, hoặc khu vực trái ngược nhu cầu phát triền.

(b) Tham nhũng sẽ ảnh hưởng đến phân phối tài năng con người. Cụ thể, nó
sẽ đưa đẩy nhiều tài năng vào những hoạt động không ích lợi cho xã hội. Thứ nhất,
một số người sẽ bị thu hút vào các lĩnh vực dính líu đến tham nhũng (dù chính họ
không là tham nhũng) vì thu nhập ở các lĩnh vực này tương đối khá hơn các lĩnh
vực khác. Thứ hai, nhiều doanh nhân phải tốn công, tốn sức khắc phục các rào cản,
thủ tục hành chính do giới chức tham nhũng dàn dựng, thay vì đưa những công sức
ấy vào các hoạt động sản xuất.

Mặt khác, nhiều chức vụ trọng yếu sẽ vào tay những người thiếu khả năng,
gây ra ba hậu quả. Một là, họ sẽ làm nhiều quyết định sai lầm, có hại cho cả
nước. Hai là, những người có khả năng sẽ nản lòng phục vụ. Ba là, khi thế hệ trẻ
thấy rằng muốn tiến thân chỉ cần chạy chọt móc nối thì họ sẽ coi nhẹ giáo dục học
đường, làm suy giảm tiềm năng tăng trưởng.


(c) Tham nhũng sẽ làm yếu đi tác động tích cực của cạnh tranh trong thị
trường. Cụ thể, thế cạnh tranh thị trường sẽ không phản ảnh hiệu năng kinh tế vì
những xí nghiệp đút lót, dù kém hiệu năng, cũng sẽ được ưu đãi hơn những xí
nghiệp khác. Tham nhũng sẽ làm cho điều kiện lao động thiếu vệ sinh, an toàn,
gây ô nhiễm môi trường (chủ xí nghiệp đút lót cho các viên chức thanh tra). Cơ
chế đấu thầu tham nhũng sẽ đưa đến các công trình xây cất thiếu tiêu chuẩn chất
lượng, chóng hư, dễ đổ.

2. Ảnh hưởng đến chính sách kinh tế và cải cách thể chế

(a) Tham nhũng sẽ ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước. Một mặt, ngân sách
sẽ bị khiếm thu nếu có bộ phận trốn thuế hoặc được giảm thuế nhờ đút lót. Mặt
khác, tham nhũng sẽ gây lạm chi cho nhiều chính sách xã hội và công nghiệp.[3]
Nhưng ảnh hưởng của tham nhũng trên ngân sách sẽ không dừng lại ở đó: khi ngân
sách bị thiếu hụt thì nhà nước hoặc là phải cắt giảm các chương trình phúc lợi xã
hội (gây thiệt thòi cho những đối tượng xứng đáng hưởng thụ các chương trình ấy)
hoặc là tăng thuế. Thuế càng cao thì càng làm trì trệ các hoạt động kinh tế và,
trong một xã hội tham nhũng, càng làm thiệt thòi cho các doanh nhân lương thiện,
không đút lót.

Bởi lẽ thu chi cũng là một công cụ nòng cốt trong chính sách điều tiết, ổn
định, và phát triển kinh tế của nhà nước, tham nhũng trong có cấu thuế má, chi tiêu,
sẽ làm giảm hiệu lực các chính sách đó.

(b) Tham nhũng có thể ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ qua ba kênh. Một
là, các viên chức có trách nhiệm cho vay, nếu tham nhũng, sẽ cho những người đi
vay có đút lót một lãi suất ưu đãi, làm tăng khối lượng tiền lưu hành, tạo sức ép lạm
phát. Hai là, nếu khu vực doanh nghiệp nhà nước là lớn thì chính sách tiền tệ (qua
các quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và ngân hàng) sẽ có ảnh hưởng qua lại đến

tham nhũng trong các doanh nghiệp đó. Ý kiến về chính sách tiền tệ do quản lý các
doanh nghiệp này đưa ra có thể chỉ là nhằm che đậy tham nhũng đang có trong
doanh nghiệp của họ, hoặc để tạo thêm cơ hội tham nhũng. Ba là, những kẻ làm
giàu bất chính thường lén lút chuồn tiền ra nước ngoài, tăng mức cầu ngoại tệ, làm
yếu nội tệ, ảnh hưởng đến cán cân thương mại quốc gia.[4]

(c) Bất cứ lúc nào (nhưng đặc biệt là trong thời kỳ chuyển đổi có cấu kinh tế)
thì sự cải cách định chế quản lý nhà nước cũng sẽ gặp nhiều khó khăn, một phần
do những cản ngại khách quan, một phần vì những ỳ tính trong phong thái con
người. Những khó khăn đó càng nhân lên nhiều lần khi quá trình cải cách bị các
phần tử tham nhũng cố tình kềm hãm (hầu duy trì những định chế tham nhũng đang
có) hoặc làm chệch hướng (lập ra những định chế mới với nhiều cơ hội tham nhũng
hơn).

Điều đáng lo ngại là rất khó phát hiện ảnh hưởng của tham nhũng vào quá
trình biến đổi thể chế, nhất là khi nó được che đậy dưới những chỉ tiêu nghe rất hợp
lý. Chẳng hạn như theo nhận xét của nhiều học giả thì chính quá trình phân tán
quyền hành (decentralization) đã làm tham nhũng bành trướng khủng khiếp ở Nga
sau khi Liên Xô tan ra. Gần đây, ở Trung quốc cũng đã có nhiều cảnh báo về tham
nhũng liên hệ đến thị trường chứng khoán của họ. Tương tự, có ngưòi lo ngại rằng
quyết định gần đây của Việt Nam nhằm tập trung nhiều doanh nghiệp nhà nước
thành một số tổng công ty, tuy có vài hiệu quả kinh tế tích cực đáng kể, có thể sẽ
làm tăng thêm cơ hội tham nhũng.


3. Ảnh hưởng đến phân hoá thu nhập và công bằng xã hội

Tham nhũng sẽ làm trầm trọng hơn mức độ chênh lệch thu nhập trong xã hội.
Các viên chức nhận hối lộ, cũng như những người đút lót để có đặc quyền kinh
doanh, chiếm hữu ruộng đất, sẽ mau chóng làm giàu, trong lúc đại đa số dân chúng

phải tiếp tục sống trong cảnh nghèo nàn, thậm chí có khi càng bần cùng thêm.

Phải nhìn nhận rằng, đến một chừng mực nào đó, thu nhập không đồng đều là
một hậu quả khó tránh của kinh tế thị trường, thậm chí có thể là cần thiết cho sự
vận hành năng động của cơ chế đó nếu nó phản ảnh trung thực tài năng và sự cần
mẫn làm ăn. Nhưng sự chênh lệch thu nhập do tham nhũng lại là một điều hoàn
toàn khác. Ảnh hưởng của nó đến nhiều nhân tố cần thiết cho tăng trưởng kinh tế
sẽ rất lớn và tiêu cực. Một là, sự phân hoá này sẽ làm yếu đi động lực hy sinh vì lợi
ích chung, hai là, nó xói mòn lòng trọng nể uy quyền nhà nuớc và do đó làm cùn
lụt các biện pháp điều tiết và chấn hưng kinh tế. Ba là, như đã nói, khi ngân sách
bị khiếm hụt vì tham nhũng, nhà nước sẽ phải cắt giảm các hoạt động công ích và
phúc lợi (giáo dục, xã hội, y tế) là các hoạt động mà đại bộ phận đối tượng là thành
phần có thu nhập thấp. Như vậy, tham nhũng sẽ làm tăng khoảng cách giàu nghèo,
khắc sâu hơn những ấn tượng bất công, mạnh mẽ khích động sự phẫn nộ đối với
chế độ.

Nhìn một cách khác, liên hệ giữa tham nhũng và phân hoá thu nhập là hai
chiều. Tham nhũng gây chênh lệch thu nhập, nhưng chính chênh lệch thu nhập
cũng sẽ làm nhiều người mất niềm tin vào sự công bình của xã hội, đẩy họ vào con
đuờng tham nhũng.


4. Ảnh hưởng của tham nhũng trên tham nhũng

Tham nhũng, nếu không bị chận đứng, sẽ gây thêm tham nhũng. Một khi đã
tham nhũng, người tham nhũng sẽ tham nhũng thường hơn và với những số tiền lớn
hơn. Các viên chức tham nhũng sẽ có xu hướng bổ nhiệm người kế vị hoặc thừa
hành giống họ (để tiếp tục giữ bí mật tham nhũng), bất kể năng lực. Tham nhũng
càng nhiều thì "giá trị" của các chức vụ có cơ hội tham nhũng càng cao và sẽ sinh
ra những mua bán những chức vụ đó. Những người mua chức vụ đuơng nhiên sẽ

tham nhũng thêm để lấy lại “vốn đầu tư" của mình và sẽ chống đối các cải cách có
cơ làm giảm quyền lực những chức vụ đó.[5] Các viên chức tham nhũng sẽ thích
nhận đút lót của những người có tiếng tham nhũng hơn là những người thanh liêm
bởi lẽ những người có tiếng ham đút lót sẽ ít khi "trở cờ" truy tố kẻ nhận tham
nhũng. Hậu quả là mạng lưới tham nhũng ngày càng bành trướng thêm.

Những người thanh liêm thì một là sẽ bị tham nhũng loại trừ, hoặc là cũng sẽ
bị tham nhũng cám dỗ.[6] Tham nhũng càng nhiều thì càng khó trừ diệt.[7] Nếu
tham nhũng là ít thì ta có thể ngăn ngừa bằng cách luân chuyển công chức cán bộ,
nhưng nếu tham nhũng là rộng khắp thì chính việc thuyên chuyển cũng là một cơ
hội tham nhũng thêm.


5. Tham nhũng có chăng những hậu quả kinh tế tích cực?

Mặc dù có nhiều ảnh hưởng kinh tế tiêu cực như vừa lược duyệt, một số tác
giả[8] cho rằng tham nhũng cũng có vài hậu quả tích cực. Theo họ, tham nhũng,
nếu ta không nhìn đến sự xúc phạm giá trị đạo đức của nó, cơ bản chỉ là một hoạt
động mua bán chẳng khác gì những mua bán khác trong thị trường. Nói cách khác,
đút lót hối lộ là đối sách tự nhiên của một “con người kinh tế” nhằm vượt qua các
cản ngại trong kinh doanh (hành chính quan liêu, thủ tục rườm rà). Nó cũng có thể
được coi như là một thứ “bảo hiểm” do doanh nhân “mua” nhằm phòng chống
những thay đổi bất ngờ về luật lệ, chính sách, gây xáo trộn cho kế hoạch làm ăn của
họ. Một số nhà kinh tế còn cho rằng, trong nhiều trường hợp, các quan chức cấp
đặc quyền kinh tế cho bạn bè thân quyến chẳng phải vì tham nhũng nhưng vì họ
biết rõ hạnh kiểm và năng lực của những người này hơn là của những người mà họ
không quen.[9] Cũng có người nghĩ rằng, các viên chức tham nhũng sẽ làm việc
năng nổ hơn, dù chỉ là để phục vụ các doanh nghiệp mà họ đã nhận đút lót.

Thoạt nhìn thì các biện giải trên không phải là hoàn toàn phi lý, nhưng xem kỹ

lại thì chúng căn cứ vào nhiều giả định huyền hoặc, thậm chí ngây thơ. Thứ nhất, lý
luận cho rằng tham nhũng là có hậu quả tốt cho kinh tế chỉ có thể là đúng (nếu là
đúng) phần nào đối với loại tham nhũng liên hệ đến mua bán những quyết định mà
bản chất là hợp pháp (ví dụ như để làm nhanh thủ tục hành chánh); lý luận đó
không áp dụng được đối với loại tham nhũng dính líu đến chia chác lợi lộc các hoạt
động phi pháp (như buôn lậu, biển thủ). Nói cách khác, sự năng nổ “phục vụ” của
quan chức có thể đem lại nhiều hậu quả tai hại hơn nếu chính những hoạt động mà
họ nâng đỡ phục vụ là phi pháp. Thứ hai, chưa chắc là các viên chức nhận đút lót sẽ
làm việc năng nổ hơn. Có thể chính họ sẽ bày đặt thêm thủ tục hành chánh để tăng
cơ hội tham nhũng. Thứ ba, dù cho rằng hoạt động tham nhũng có là gián tiếp
“đóng góp” phần nào vào tiến trình tự do hoá thị trường (bằng cách giảm đi hiệu
năng can thiệp của nhà nước) thì điều đó chỉ đáng cổ vũ nếu sự can thiệp của nhà
nước hoàn toàn là nên tránh. Nói khác đi, lập luận đó sẽ mất ý nghĩa nếu sự điều
tiết của nhà nước là cần thiết cho phát triển kinh tế hoặc những lợi ích công cộng
khác.

Có người lý luận rằng, vì vốn là cần thiết để phát triển kinh tế, tham nhũng có
thể có hậu quả "tốt" vì nó là một cách (dù là phi pháp) cho một số người tích tụ vốn
để đầu tư sản xuất. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm ở nhiều nước, tài sản do tham
nhũng đem lại ít khi được kinh doanh chân chính hoặc vào những hoạt động có
nhiều lợi ích cho quốc gia. Người tham nhũng hoặc là sẽ tiêu xài hoang phí (nhất
là vào các hàng xa xỉ ngoại nhập), hoặc là giấu giếm tài sản của mình, thường bằng
cách chuồn tiền ra nước ngoài, làm trầm trọng thêm sự đào tẩu vốn. Hơn nữa, các
kinh doanh hợp pháp khó có lợi nhuận hậu hĩ như trong "dịch vụ" tham nhũng, do
đó tài sản do tham nhũng đem lại thường được đưa vào nhũng kinh doanh phi pháp
khác.

Cũng có người cho rằng tính phi pháp của tham nhũng phải được thẩm định
trong bối cảnh văn hoá và phong tục của xã hội liên hệ. Theo họ, tham nhũng ở các
nước phương Đông thực sự là không nhiều như các người quan sát phương Tây

nhận xét. Có nhiều phong tục tập quán trong một xã hội có thể bị người ngoài xã
hội ấy cho là tham nhũng. Biện luận loại này về tính “tưong đối” của văn hoá vừa
là sai lầm, vừa là có ý khinh rẽ văn hoá phương Đông. Tham nhũng không bao giờ
được chấp nhận như một phong tục tập quán tốt trong bất cứ xã hội nào.
Câu 6: Vấn đề nhà ở đối với người lao động trong các khu công nghiệp
1. Vị trí và thực trạng vấn đề nhà ở của công nhân tại các khu công nghiệp
Phát triển khu công nghiệp tạo ra một kênh thu hút lao động rất có tiềm năng
và hiệu quả, góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ (kể cả số
lao động của những hộ gia đình bị thu hồi đất) và lao động nhập cư. Những năm
gần đây, lực lượng lao động trong khu công nghiệp gia tăng mạnh mẽ gắn liền với
sự gia tăng của các khu công nghiệp thành lập mới và mở rộng, các dự án hoạt
động trong khu công nghiệp. Chỉ tính riêng trong thời kỳ 2001 – 2005, các khu
công nghiệp đã thu hút thêm 65,6 vạn lao động trực tiếp, tăng gấp 4 lần so với thời
kỳ trước (1991 – 2000).
Tính đến tháng 7-2006, cả nước có 135 khu công nghiệp và khu chế xuất được
thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thu hút trên 865,64 nghìn lao
động trực tiếp. Số lao động trực tiếp này chủ yếu tập trung tại một số tỉnh, thành
phố phía Nam như thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 14,3 vạn, tỉnh Bình Dương
có hơn 13 vạn, tỉnh Đồng Nai có trên 18,8 vạn. Ngoài ra, nếu tính cả số lao động
gián tiếp thì tổng số việc làm được tạo ra từ chương trình phát triển khu công
nghiệp khoảng trên 1,2 triệu người. Tỷ trọng lao động nhập cư trong tổng số lao
động làm việc trong các khu công nghiệp của cả nước chiếm bình quân khoảng
37%. Tuy nhiên, ở các tỉnh, thành phố như: thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai,
Bình Dương tỷ lệ này chiếm trên 50%.
Thu nhập bình quân một tháng (kể cả tiền lương và tiền thưởng) của người lao
động làm việc tại các khu công nghiệp trong các doanh nghiệp trong nước (kể cả
lao động nhập cư) bình quân từ 600.000 đồng – 700.000 đồng/tháng và trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ 800.000 đồng – 1.000.000 đồng/tháng.
Với mức thu nhập trên, chỉ có những người lao động tại địa phương mới có thể bảo
đảm các nhu cầu sống tối thiểu cho bản thân, còn những người lao động nhập cư thì

rất khó khăn do phải trang trải thêm nhiều chi phí khác như thuê nhà ở, tiền điện,
tiền nước,…(chưa kể đến chi phí cho nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, học tập).
Lao động di cư tới các khu công nghiệp đã đóng một vai trò không nhỏ trong
việc cung ứng nguồn lao động và bù đắp sự thiếu hụt lực lượng lao động, đặc biệt
là nguồn lao động giản đơn và không có chuyên môn kỹ thuật, góp phần quan trọng
vào sự phát triển sản xuất, kinh doanh và thành công của các doanh nghiệp trong
khu công nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thuộc các ngành gia công
xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động. Sự gia tăng nhanh về số lượng
(1)
của các dự
án đầu tư trong nước và nước ngoài thực hiện tại các khu công nghiệp trong các
ngành
(2)
sử dụng nhiều lao động đã tạo ra lực hút mạnh đối với lao động nhập cư
đến làm việc tại các khu công nghiệp.
Sự gia tăng nhanh về số lượng lao động nhập cư đến làm việc tại các khu công
nghiệp đã làm nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc cho các địa phương có các khu công
nghiệp, đặc biệt là vấn đề nhà ở cho người lao động có mức thu nhập thấp.
2. Những bất cập và bất hợp lý về vấn đề nhà ở tại các khu công nghiệp
Việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp thường chưa đồng bộ với quy
hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, ảnh hưởng đến
tính bền vững trong phát triển; chưa chú trọng gắn việc xây dựng quy hoạch chi tiết
từng khu công nghiệp với quy hoạch nhà ở, công trình công cộng phục vụ đời sống
người lao động làm việc trong khu công nghiệp, đặc biệt là đối với người lao động
nhập cư.
Thực tế phát triển các khu công nghiệp thời gian qua đã đặt ra vấn đề nhà ở
cần phải được giải quyết phù hợp với thu nhập của công nhân, nhất là công nhân
nhập cư. Tại một số địa phương như: Đồng Nai, Long An, Bình Dương, Hải
Dương, Bắc Ninh, v.v… đã bước đầu triển khai song song với các đề án phát triển
khu công nghiệp là các dự án phát triển nhà nhằm tạo tiện ích công cộng cho công

nhân yên tâm và có điều kiện làm việc. Đây là vấn đề khá bức bách đặt ra đối với
các địa phương khi tiến hành phát triển các khu công nghiệp. Tuy nhiên, đó cũng
chỉ mới là bước đầu. Hiện tại, Thủ tướng Chính phủ đang giao Bộ Xây dựng
nghiên cứu đề án này để sớm đưa ra chính sách giải quyết.
Tình trạng hàng trăm nghìn công nhân nhập cư làm việc trong các khu công
nghiệp chưa có nhà ở trở thành phổ biến đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề xã
hội phức tạp không những cho bản thân người công nhân nhập cư, mà cả các địa
phương nơi có khu công nghiệp, nhất là các địa phương có nhiều khu công nghiệp
tập trung tại các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh…
Theo Báo cáo kết quả nghiên cứu, đánh giá chính sách di dân tới đô thị năm
2005 của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội khoá XI, tại Đồng Nai, đa số
công nhân ngoại tỉnh vẫn phải thuê nhà với mức tối thiểu 50.000
đồng/người/tháng, với diện tích bình quân 4,4m
2
/người. Mỗi phòng không dưới 4
-5 người. Chất lượng nhà cho thuê, điều kiện vệ sinh, nước, điện chưa đảm bảo yêu
cầu. Đời sống văn hóa tinh thần còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó thiếu nhất là các cơ sở sinh hoạt văn hóa thể dục thể thao, giải trí…
Hiện tại, các khu công nghiệp trên cả nước thu hút được hơn 86 vạn lao động
trực tiếp, trong đó có gần 30 vạn lao động nhập cư. Ở hầu hết các khu công nghiệp
cả nước, số người lao động nhập cư có điều kiện sống rất khó khăn. Do lao động
nhập cư làm việc tại các khu công nghiệp tăng mạnh về số lượng, dẫn tới nhu cầu
nhà ở tăng cao, trong khi hầu hết chính quyền địa phương và các chủ đầu tư hạ tầng
khu công nghiệp và các doanh nghiệp đều chưa chú trọng tới việc xây dựng nhà ở
cho công nhân thuê với giá thấp. Điều này chủ yếu do việc xây dựng nhà ở đòi hỏi
vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, hiệu quả đầu tư không cao, nên rất ít doanh
nghiệp tham gia xây dựng nhà ở cho công nhân thuê. Các địa phương phát triển
nhanh về khu công nghiệp cũng chưa có những quyết sách căn cơ để giải quyết
được vấn đề nhà ở cho công nhân nhập cư.
Cụ thể, Bình Dương mới chỉ đảm bảo nhà cho 15% số lao động, Đồng Nai:

6,5%, Thành phố Hồ Chí Minh: 4%. Hiện nay, nhiều địa phương mới chỉ có dự
kiến quy hoạch phát triển nhà ở cho người lao động trong các khu công nghiệp,
nhưng chưa có định hướng rõ và có chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng nhà ở cho
người lao động.
Số lao động nhập cư thường phải thuê nhà trọ ở khu vực xung quanh khu công
nghiệp để cư trú với chất lượng thấp, không đảm bảo điều kiện vệ sinh và điều kiện
sống tối thiểu. Điều này đang ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của người lao động nhập
cư và vấn đề vệ sinh môi trường sống của những khu vực xung quanh khu công
nghiệp. Với mức thu nhập thấp và điều kiện nhà ở khó khăn hiện nay, người lao
động rất thiếu điều kiện để thoả mãn nhu cầu vui chơi, giải trí, thể thao, nghỉ ngơi,
học tập, giao lưu tình cảm. Đặc biệt, trong các khu công nghiệp có số lao động nữ
nhiều, vấn đề hôn nhân và gia đình trở nên bức xúc nhưng chưa được các doanh
nghiệp, cơ quan, đoàn thể quan tâm thỏa đáng.
Hầu hết các luật, pháp lệnh quy định vấn đề liên quan đến di cư đều chỉ mới
dừng lại ở các quy định có tính nguyên tắc chung, áp dụng cho tất cả tổ chức, cá
nhân có liên quan trong phạm vi cả nước (kể cả tổ chức, cá nhân trong nước và
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam). Vì vậy, nội dung các quy định chủ yếu mang
tính khái quát mà không đề cập đến các nhóm đối tượng áp dụng đặc thù như lao
động di cư đến làm việc tại các khu công nghiệp. Mặc dù nội dung của Hiến pháp,
Luật pháp và Pháp lệnh đều không có những quy định thể hiện sự phân biệt đối xử
với lao động nhập cư đến làm việc tại các khu công nghiệp, nhưng các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật, Pháp lệnh của Chính phủ, bộ, ngành liên quan tới một số
vấn đề cụ thể như hộ khẩu, hộ tịch, đăng ký phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ, chăm sóc sức khoẻ và khám chữa bệnh, giáo dục (nhập học và tuyển sinh vào
các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học),
vay vốn tạo việc làm và sản xuất kinh doanh của hộ gia đình, mua và trao đổi nhà ở
thành phố, mắc điện, mắc nước… đã đưa ra một số điều kiện và thủ tục ràng buộc
quá chặt chẽ (đặc biệt là yêu cầu phải có hộ khẩu thường trú hoặc có đăng ký tạm
trú dài hạn), vì vậy, người dân, mà chủ yếu là người lao động nhập cư khó có thể
thụ hưởng một cách toàn vẹn các quyền cơ bản của họ.

Đối với người lao động nhập cư, vấn đề quan trọng là việc đăng ký hộ khẩu
thường trú tại thành phố, nhưng việc này rất khó khăn, nên đã ảnh hưởng trực tiếp
đến cuộc sống của người lao động nhập cư, gây trở ngại đối với họ trong việc
hưởng các quyền cơ bản
(3)
hiến định của công dân, trong đó có quyền lợi về nhà ở.
Một số kiến nghị đề xuất
- Để giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh liên quan tới việc phát triển khu
công nghiệp, trong Nghị định hướng dẫn Luật Đầu tư cần quy định những điều kiện
và nội dung cụ thể, ràng buộc trách nhiệm của địa phương và chủ đầu tư trong việc
quy hoạch và phát triển khu công nghiệp. Bảo đảm việc phát triển các khu công
nghiệp phải đồng bộ với việc quy hoạch, phát triển nhà ở và các điều kiện về hạ
tầng xã hội thiết yếu cho công nhân, có những chính sách hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ
tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp, chính sách hỗ trợ phát triển và đào tạo nghề,
chính sách đặc biệt ưu đãi nhằm phát triển nhà ở cho công nhân (hỗ trợ bồi thường,
giải phóng mặt bằng; ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp,…).
- Cần sớm phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp ở Việt
Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, nhằm tạo điều kiện và sự chủ
động cho các địa phương triển khai xây dựng và phát triển các khu công nghiệp
theo quy hoạch một cách đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị và các công trình
dịch vụ – tiện ích công cộng cần thiết khác; tránh thành lập khu công nghiệp để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách chủ quan, duy ý chí, gây nên sự lãng phí về
đất đai và vốn đầu tư, đồng thời giúp các bộ, ngành có căn cứ theo dõi và kiểm tra
việc phát triển các khu công nghiệp ở các địa phương.
- Bộ Xây dựng cần sớm nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách về xây dựng
nhà ở đối với công nhân trong khu công nghiệp; hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư,
đầu tư xây dựng chung cư cho công nhân làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; đầu tư xây dựng ký túc xá sinh viên và xây
dựng nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội thuộc lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu
tư.

- Quy hoạch khu công nghiệp phải được gắn với quy hoạch khu nhà ở cho
công nhân. Quy hoạch khu nhà ở cho công nhân cần đáp ứng quy hoạch chung của
đô thị, nhà ở dành cho công nhân và là một bộ phận cấu thành của hệ thống nhà ở
đô thị. Vì vậy, việc quy hoạch xây dựng nhà ở cho công nhân phải gắn với các dự
án nhà ở thương mại hoặc các dự án khu đô thị mới để đảm bảo tính đồng bộ về cơ
sở hạ tầng xã hội.
- Cần ban hành hệ thống tiêu chuẩn nhà ở tối thiểu cho người lao động trong
khu công nghiệp, đồng thời điển hình hóa các thiết kế nhà ở nhằm thống nhất và
đảm bảo phù hợp với nhu cầu và khả năng của người lao động trong khu công
nghiệp. Đồng thời, khi quy hoạch nhà ở khu công nghiệp cần tính toán nhu cầu, khả
năng nhà ở của người lao động, từ đó định hướng việc xây dựng các loại hình nhà ở
với quy mô, mức độ hiện đại và giá thành hợp lý.
- Đa dạng hóa các hình thức đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân. Ngoài việc
xây dựng nhà ở từ nguồn vốn nhà nước, cần khuyến khích các thành phần kinh tế
đầu tư xây dựng nhà ở thương mại để cho thuê, thuê mua, bán trả dần (trả góp), trả
chậm… theo cơ chế thị trường để góp phần tăng nguồn cung nhà ở trên thị trường,
đáp ứng nhu cầu đa dạng của các đối tượng khách hàng, kể cả các đối tượng có thu
nhập thấp; ban hành quy định cụ thể về phương thức thanh toán tiền mua, thuê,
thuê mua nhà ở thông qua ngân hàng phù hợp với pháp luật về kinh doanh bất động
sản. Khuyến khích xã hội hóa về nhà ở đồng thời thực hiện chính sách tạo điều
kiện, không thả nổi cho thị trường tự điều tiết.
Có chính sách hỗ trợ, miễn giảm tiền thuê đất đối với việc xây dựng nhà ở cho
người lao động và người có thu nhập thấp để việc xây dựng nhà ở cho thuê hoặc
bán đảm bảo: thu hồi được vốn và có lãi đối với các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân; tạo điều kiện cho người lao động có thể thuê hoặc mua được nhà với giá rẻ,
chất lượng vừa phải.
- Điều chỉnh hợp lý thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh
nghiệp kinh doanh bất động sản nhà ở cho người lao động trong khu công nghiệp
và người có thu nhập thấp. Phát hành trái phiếu phát triển nhà ở để huy động vốn
đầu tư trong lĩnh vực nhà ở, đặc biệt là nhà ở có giá cho thuê hợp lý.

- Ưu đãi, hỗ trợ về thuế cho người dân tham gia xây dựng nhà ở cho người lao
động tại các địa bàn có khu công nghiệp như: miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân,
thuế sử dụng đất đối với các cá nhân có nhà ở cho người lao động thuê nhằm giảm
bớt chi phí đánh vào tiền thuê nhà ở của người lao động. Tuy nhiên, cần có quy
định cụ thể về việc xây dựng nhà ở, quản lý nhân khẩu, an ninh, trật tự,… nhằm
đảm bảo tốt hơn cuộc sống cho người lao động.
- Thành lập quỹ nhà ở cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp
nhằm hỗ trợ tiền thuê, mua nhà cho người lao động có thu nhập thấp làm việc trong
các doanh nghiệp khu công nghiệp. Quỹ này được hình thành dựa trên đóng góp từ
ngân sách địa phương, vận dụng đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan
trên địa bàn.
- Cần ban hành cơ chế kiểm soát giá chặt chẽ, cho thuê nhà ở chặt chẽ, tránh
tình trạng đầu cơ, nâng giá nhà ở mua hoặc cho thuê ở mức bất hợp lý, không phù
hợp với khả năng của người lao động trong khu công nghiệp.
- Xây dựng các chế tài cụ thể quy định rõ trách nhiệm của chính quyền địa
phương, doanh nghiệp trong khu công nghiệp, doanh nghiệp phát triển hạ tầng và
người lao động trong việc xây dựng, quản lý, sử dụng nhà ở cho người lao động
trong khu công nghiệp.

×