Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Đề cương xã hội học lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.33 KB, 35 trang )

ĐỀ CƯƠNG XÃ HỘI HỌC LAO ĐỘNG
MỤC LỤC
1


1. Khái niệm Chuyển dịch cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động được hiểu là việc phân chia số lượng lao động theo tỷ lệ dựa trên
một số tiêu thức kinh tế, xã hội .
Chuyển dịch cơ cấu lao động có thể hiểu là sự di chuyển của lao động từ ngành này
qua ngành khác, từ thành phần kinh tế này sang thành phần kinh tế khác và từ vùng này sang
vùng khác. Từ đó tạo ra sự thay đổi về quy mô lao động giữa các ngành, các vùng, các thành
phần kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi trong quan hệ tỷ lệ, cũng như xu hướng
vận động của các bộ phận cấu thành nên nguồn nhân lực, được diễn ra trong một không
gian, thời gian và theo một chiều hướng nhất định. Đó là quá trình tổ chức và phân công lại
lực lượng lao động, qua đó làm thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận của nguồn nhân lực.
Chuyển dịch cơ cấu lao động có thể diễn ra theo hai hướng:
Thay đổi cung lao động: Phản ánh sự thay đổi về số lượng lao động được cung ứng ra
thị trường giữa các vùng, ngành, cũng như thay đổi về trình độ học vấn và chuyên môn của
lực lượng lao động…
Thay đổi cầu lao động : Phản ánh trong sự thay đổi về số lượng cầu lao động theo ngành
kinh tế, theo trình độ tay nghề và theo hình thức sở hữu…
Chuyển dịch cơ cấu lao động là vấn đề mang tính khách quan trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia và có thể diễu ra theo chiều hướng tốt hoặc không tốt nên cần có
sự quản lý và điều tiết của Nhà nước.
2. Phân loại chuyển dịch cơ cấu lao động
 !"#$%&'()$*+'",(-
Tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động của từng vùng phụ thuộc vào đặc điểm phát
triển kinh tế xã hội, tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nhân lực chuyên môn - kỹ
thuật của từng vùng.
Chuyển dịch lao động theo vùng lãnh thổ là các quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng


vận động, phát triển của nguồn lao động giữa các vùng và trong nội bộ vùng lãnh thổ. Đây là
kết quả của sự phát triển phân công lao động theo vùng và trong nội bộ vùng. Ưu thế cơ bản
của sự phân công này là đã tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh của từng vùng. Các Mác
đã khẳng định: “ Sự phân công lao động theo vùng làm cho một số ngành sản xuất nhất định
bị buộc chặt vào một số vùng nhất định trong nước”. Tuy nhiên, cũng cần thấy giữa chuyển
dịch lao động theo vùng và chuyển dịch lao động theo ngành, nghề trong thực tế không hoàn
toàn độc lập nhau, trái lại chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi lẽ, không có một cơ
sở ngành, nghề nào lại không được triển khai trên một vùng lãnh thổ nhất định, ngược lại
theo vùng lại chính là sự thể hiện chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành nghề trên vùng
lãnh thổ đó.
 !()$'./01!(
Nếu phân chia theo ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu lao động sẽ bao gồm: Lao động
nông nghiệp, lao động công nghiệp,xây dựng, lao động dịch vụ và lao động ngành nghề khác.
Trong nội bộ từng ngành, lao động lại được chia thành những ngành hẹp hơn, như:
Trong nông nghiệp có lao động trồng trọt, lao động chăn nuôi, trong công nghiệp, xây dựng
có lao động tiểu thủ công nghiệp, lao động công nghiệp chế biến, lao động cơ khí…
Từ các ngành hẹp, lao động lại tiếp tục được phân chia thành các nghề với chuyên
môn hẹp hơn… Kết quả cuối cùng sẽ tạo nên một cơ cấu lao động ngành nghề đa dạng với
chuyên môn sâu, thậm chí rất sâu. Đây chính là điều kiện cơ bản để phát triển kỹ năng nghề
nghiệp và nâng cao năng suất lao động của các ngành, nghề.
Phát triển ngành dịch vụ: Phát triển các ngành nghề dịch vụ như thông tin, thương
mại, ngân hàng, tài chính… Đặc biệt là phát triển lao động các ngành nghề dịch vụ điện
năng, thông tin, thương mại, chế biến nông - lâm- thuỷ sản, tiểu thủ công nghiệp và các hoạt
động phi nông nghiệp khác.
Tăng tỷ lệ lao động công nghiệp: Tăng chế biến nông lâm thuỷ sản, tiểu thủ công
nghiệp.
Giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp:Chuyển dịch lao động từ thuần nông sang các ngành
nghề khác, đặc biệt là khôi phục các ngành nghề truyền thống.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu theo ngành sản xuất còn chậm do một số nguyên nhân
chủ yếu như sau:

Tỷ lệ lao động nông thôn hàng năm bước vào tuổi lao động cao ( do tỷ lệ tăng dân số
nông thôn cao)
Các vùng nông thôn, trung du, miền núi chuyển chậm sang sản xuất hàng hoá, các loại
thị trường ít phát triển.
Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo còn thấp ( lao động nông thôn ít được đào tạo
nghề nghiệp), điều đó hạn chế khả năng phát triển các loại hình doanh nghiệp ở nông thôn
như : doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…
Ít thu hút được sự đầu tư của tư nhân và các công ty nước ngoài cho phát triển kinh tế
tại các vùng nông thôn có khó khăn về hạ tầng cơ sở và khó khăn về điều kiện tự nhiên
2 !"#$%&'()$(34%&5*!*.(34%&678
9:(;(
Chuyển đổi cơ cấu lao động theo trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật là xu
hướng tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước càng được đẩy mạnh, yêu cầu về trình độ chuyên môn kỹ thuật của
nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao.
Quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng biến động giữa các loại lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật khác nhau. Tiêu thức này cho biết tương quan trình độ phát triển về chất của nguồn
lao động, đây cũng được coi là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá trình độ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa hoạt động lao động.
Trong những năm gần đây, cùng với việc chuyển giao công nghệ với nước ngoài,
cùng với việc huy động nguồn vốn tập trung vào đầu tư phát triển sản xuất, trong đó có vốn
đầu tư nước ngoài, vì vậy nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ cao là cần thiết.
Ngày nay việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật kết
hợp với trình độ học vấn là rất cần thiết cho các ngành nghề đặc biệt là các làng nghề truyền
thống. Quá trình CNH-HĐH kéo theo sự phát triển của tất cả các ngành nghề, để đáp ứng
được nhu cầu đó các nghề truyền thống luôn cần một nguồn nhân lực vừa có trình độ chuyên
môn kỹ thuật ( tay nghề, kỹ thuật làm nghề) vừa có trình độ học vấn để có thể nhận thức
được sự tiến bộ của các khoa học kỹ thuật, các công nghệ hiện đại. Từ đó sẽ áp dụng một
cách hữu hiệu vào việc phát triển các làng nghề truyền thống hạn chế sự mai một của một
văn hóa lao động. Điều này không chỉ huy động, tạo điều kiện cho một nguồn lao động dồi

dào ở nông thông có việc làm mà còn thúc đẩy giá trị truyền thống đã tồn tại lâu đời ở Việt
Nam: “giữ gìn bản sắc Việt”
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động
Chuyển dịch cơ cấu lao động chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố:
- Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Đây là điều kiện tiền đề cho chuyển dịch cơ cấu lao động. Sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế càng mạnh mẽ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động càng nhanh.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ làm xuất hiện cân đối mới về nhu cầu lao động về
cả số lượng lẫn chất lượng. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ làm xuất hiện các
ngành mới trong cơ cấu ngành kinh tế của vùng.
Cùng với việc mở rộng khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ sẽ thu hút thêm lao
động nhất là lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Điều này làm cho cơ cấu lao động có
sự chuyển dịch từ ngành kinh tế này sang ngành kinh tế khác và có sự phân công lại lao động
theo lãnh thổ.
- Cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước
Khi nước ta còn ở trong thời kỳ bao cấp nền kinh tế chỉ tồn tại thành phần kinh tế
nhà nước và thành phần kinh tế tập thể thì lao động tập trung chủ yếu ở các thành phần kinh
tế này nhưng khi chuyển sang thành phần kinh tế thị trường với đủ các loại thành phần kinh
tế thì lao động sẽ chuyển một phần từ các thành phần kinh tế nhà nước và tập thể sang các
thành phần kinh tế khác.
- Điều kiện kinh tế xã hội và chính trị
Các điều kiện về kinh tế và xã hội cho phép biết được tình hình hiện tại cũng như dự
đoán được một tương lai gần. Mức thu nhập, các ưu đãi, trợ cấp, địa vị xã hội là động lực cho
người lao động lựa chọn ngành nghề, địa điểm lao động … ảnh hưởng đến việc chọn nghề
của người lao động, từ đó tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động.
Điều kiện chính trị ổn định số người tham gia vào các thành phần kinh tế tư nhân,
liên doanh, hộ gia đình càng tăng theo dẫn đến sự di chuyển lao động trong các thành phần
kinh tế.
Trong cơ chế thị trường, Nhà nước không can thiệp và không sắp xếp lao động theo
kế hoạch. Vì vậy, cơ cấu lao động được hình thành chủ yếu thông qua các quan hệ cung cầu

trên thị trường lao động.
4. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam hiện nay
Trong nông nghiệp, có sự dịch chuyển cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi…; tích cực trồng
cây nguyên liệu để phục vụ cho các cơ sở chế biến, chăn nuôi phát triển khá nhanh, nuôi trồng
thuỷ sản tiến bộ nhanh, sản xuất lương thực và tăng giá trị xuất khẩu, điều này có ý nghĩa to lớn
trong sự phát triển kinh tế ở nước ta, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc
dân.
Trong lĩnh vực phi nông nghiệp, ngành công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng khá cao, đặc
biệt là khu vực ngoài quốc doanh. Tuy vậy cơ cấu ngành kinh tế trong những năm đổi mới vừa
qua còn bộc lộ những yếu kém:
- Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại tương đối chậm, thể hiện ở: các
ngành công nghiệp, dịch vụ và chế biến nông sản trình độ công nghệ cao, hiện đại kể cả tin học,
điện tử… còn chiếm tỷ lệ nhỏ trong các ngành.
- Cơ cấu nội bộ trong ngành công nghiệp chuyển biến chậm. Đóng góp cho tăng trưởng
công nghiệp vẫn chủ yếu là ngành công nghiệp khai thác khoáng sản; Điều này cho thấy Việt Nam
đang khai thác các lợi thế về mặt tài nguyên để phục vụ mục tiêu xuất khẩu. Nhưng trong dài hạn,
để phát triển bền vững thì ngoài các nguồn thu từ xuất khẩu tài nguyên cần phải gia tăng các mặt
hàng xuất khẩu có tính cạnh tranh cao.
Sản phẩm công nghiệp vẫn chủ yếu là lắp ráp các linh kiện, cấu kiện, phụ tùng điện tử nhập
khẩu (chiếm 50-70%), giá trị tỷ trọng sản phẩm chế tạo, chế biến còn khiêm tốn. Thị trường đầu ra
của các doanh nghiệp Việt Nam, chủ yếu là thị trường trong nước Nhìn chung ngành công nghiệp
Việt Nam mới đang ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa.
Ngành công nghiệp phụ trợ (cung cấp nguyên liệu thô đầu vào trung gian…) để sản xuất
hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng chưa phát triển, gây cản trở cho sự phát triển nói chung của
ngành công nghiệp .
- Ngành dịch vụ tuy có sự phát triển vượt bậc so với trước thời kỳ đổi mới nhưng còn ở
mức thấp so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế và so với trình độ chung của khu vực và thế giới,
chưa phát triển được các ngành dịch vụ theo chiều sâu và bền vững như công nghệ thông tin, tư
vấn, giáo dục.
- Mối quan hệ tương tác giữa các ngành các bộ phận trong cơ cấu kinh tế còn rời rạc, kém

hiệu quả. Biểu hiện ở quan hệ hợp tác, liên kết kinh tế giữa các ngành, các doanh nghiệp chưa phát
triển. Các ngành, các doanh nghiệp vẫn nặng nề tư tưởng khép kín trong sản xuất kinh doanh,
chưa chú trọng hợp tác, liên kết giữa sản xuất nguyên liệu với chế biến; giữa sản xuất và thương
mại, tài chính, ngân hàng; giữa sản xuất với đào tạo và nghiên cứu khoa học…
Một số đề xuất nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động trong sự nghiệp CNH, HĐH ở
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
- Lựa chọn mô hình CNH theo hướng hội nhập quốc tế, đẩy mạnh hướng về xuất khẩu
đồng thời đẩy mạnh tham gia phân công lao động quốc tế.
- Tăng cường huy động vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu đầu tư đúng. Tập trung đầu tư nhiều
hơn vào những lĩnh vực, ngành có khả năng xuất khẩu tốt, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nhà
nước, khắc phục những hạn chế về đầu tư vào công trình nhiều vốn hơn là cần nhiều lao động như
hiện nay. Việc đầu tư cho nâng cấp cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao, cũng
phải hướng vào mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực, từng bước phát triển các ngành công
nghiệp và dịch vụ gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Sớm tạo lập đồng bộ các loại thị trường, việc phân bố nguồn lực theo sự điều tiết của cơ
chế thị trường. Có nhận thức đầy đủ hơn về chính sách bảo hộ thị trường nội địa. Cần xác định rõ
những mặt hàng cung cấp cho thị trường trong nước và những mặt hàng cần tập trung đầu tư để
phục vụ xuất khẩu. Nếu sản xuất trong nước chi phí quá cao so với hàng nhập khẩu thì hạn chế sản
xuất để dành cho các nguồn lực cho các mặt hàng xuất khẩu từ đó nhập khẩu những mặt hàng rẻ
của thế giới.
<=>?@ABCDAB
1. Phân công lao động ở Việt Nam hiện nay
Việt nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế phụ thuộc chặt chẽ vào sự phân công
lao động theo các loại hình khác nhau.
1.1. Phân công lao động theo giới
Phân công lao động chịu tác động đặc biệt bởi yếu tố giới tính luôn luôn tạo ra sự khác
nhau về lao động giữa nam và nữ. Phân công lao động gắn liền với sự phân hóa xã hội, phân
tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội, các quan niệm xã hội về vị thế, vai trò của nam và nữ mà
quan niệm ấy ăn sâu vào văn hóa trở thành các giá trị, chuẩn mực, khuôn mẫu được xã hội

hóa. Nếu các nhà lý thuyết xã hội học lao động thừa nhận phân công lao động tạo ra sự bất
bình đẳng thì phân công lao động theo giới cũng hàm chứa sự bất bình đẳng bởi sự chi phối
của thang giá trị xã hội khi đánh giá về phụ nữ và nam giới và bởi phân công lao động theo
giới là một bộ phận trong phân công lao động xã hội.
Trong nền kinh tế chính trị có giai cấp, sự phân công lao động nhằm đề cập đến sự
chuyên môn hóa của một tiến trình mang tính kỹ thuật và kinh tế, trong đó bao hàm cả sự
phân công lao động theo giới tính.
Đó là sự phân công hoạt động, vai trò trong xã hội cho nam và nữ. Sự phân công lao
động theo giới tính trong việc làm một phần là do sự khác nhau về cơ hội của nam và nữ. Ví
dụ, phụ nữ ít khi có điều kiện tiếp cận với các cấp học cao hơn, khoảng 2/5 sinh viên nữ tốt
nghiệp cử nhân nhưng chỉ có ¼ nữ theo học sau đại học. Mặt khác, phụ nữ có khuynh hướng
học một số ngành khoa học xã hội và thường tránh các ngành khoa học kỹ thuật. Sự lựa chọn
ngành học đã ảnh hưởng đến cơ hội việc làm dành cho phụ nữ. Sự bất lợi trong nghề nghiệp
của phụ nữ có liên quan chặt chẽ đến vai trò của phụ nữ trong gia đình. Khi gánh nặng lao
động gia đình rơi lên đôi vai của người phụ nữ thì họ sẽ bị giới hạn trong việc lựa chọn nghề
nghiệp.
Sự phân công lao động theo giới thường được giải thích là do sự khác nhau về sinh
học, phù hợp với chức năng sinh sản của phụ nữ, nhưng các nhà nghiên cứu theo trường phái
nữ quyền xem sự phân công lao động này là kết quả của chế độ phụ quyền phong kiến, phân
biệt đối xử với phụ nữ, bởi vì tư bản và phong kiến cho rằng lãnh địa thích hợp cho phụ nữ là
ở trong nhà và lãnh địa của nam giới là ở bên ngoài xã hội.
K.Marx và F.Engels trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức” đã viết “Sự phân công lao
động đầu tiên là sự phân công lao động giữa người đàn ông và người đàn bà trong việc sinh
đẻ con cái”. Nếu phân công lao động được chia thành hai loại hình cơ bản là sản xuất và tái
sản xuất thì:
- Lao động sản xuất bao gồm những công việc làm ra hàng hóa, dịch vụ để trao đổi
hoặc tiêu thụ. Cả nam và nữ cùng tham gia song hình thức và tiền công khác nhau.
-Lao động tái sản xuất
Tái sản xuất về sinh học: Trong khi nam giới sản xuất tinh trùng cho quá trình thụ thai
thì phụ nữ mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ.

Tái sản xuất ra sức lao động: là tất cả những công việc hỗ trợ cho người sản xuất cả khi
họ đang làm việc và khi họ không làm việc, tạo điều kiện cho họ nghỉ ngơi, bồi dưỡng để có
thể tiếp tục làm việc ngày hôm sau tốt hơn. Những việc này gồm nấu ăn, dọn dẹp, giặt giũ,
chăm sóc người ốm, người già, trẻ em… Những công việc này phần lớn do phụ nữ đảm nhận
trọng trách và không được trả công.
Theo báo cáo của Tổ chức lao động thế giới năm 2006: “Phụ nữ Việt Nam có vai trò
tích cực trong hoạt động kinh tế. Các chính sách xã hội chủ nghĩa cũng rất khuyến khích phụ
nữ tham gia lực lượng lao động và còn tạo điều kiện khuyến khích cả nam và nữ tiếp nhận
các cơ hội học vấn. Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao
động cao nhất trên thế giới”.
1.2. Phân công lao động theo độ tuổi
Các kết quả suy rộng mẫu chủ yếu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
vừa chính thức được Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương công bố. Theo
đó, Việt Nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, thời kỳ mà nhóm dân số trong độ tuổi
lao động cao gần gấp đôi nhóm dân số trong độ tuổi phụ thuộc.
Theo khuyến nghị của Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, thời
kỳ này chỉ diễn ra một lần trong một thế hệ và thường chỉ kéo dài trong vòng 15-30 năm,
hoặc 40 năm, tùy thuộc vào việc kiềm chế mức sinh. Chính vì vậy, trong thời kỳ này, Việt
Nam cần có các chính sách tạo nên một lực lượng lao động vàng, có chất lượng, đưa đất nước
phát triển.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân công lao động
- Phân hóa giàu nghèo là một vấn đề xã hội tất yếu của mọi xã hội loài người. Bởi lẽ
cứ có sự phân công lao động xã hội là có sự phân hóa giàu nghèo.
Sự phân hóa giàu nghèo có thể thấy dưới nhiều hình thức và ở khắp nơi. Đơn giản nhất
và dễ nhìn thấy nhất là những người giàu sống trong trung tâm thành phố và những người
nghèo, nhà nghèo sống ở ngoại ô thành phố, thậm chí sống ở những khu nhà tạm bợ, ổ
chuột…
Sự phân chia thành các giai cấp như: giai cấp công nhân, nông dân; các giai tầng như
tầng lớp trí thức, tầng lớp thương nhân, tầng lớp doanh nhân; các nhóm nghề nghiệp như bác
sỹ, giáo viên, người lao động và cả sự phân tầng xã hội thành những giai tầng xã hội như

tầng lãnh đạo, tầng quản lý và những giai tầng bị lãnh đạo, quản lý
- Các mối quan hệ cung - cầu lao động, thị trường lao động trong những điều kiện của
đường lối đổi mới, khung cảnh quốc tế, trong nước, phát triển KHCN và thực tiễn triển khai
thực hiện luật giáo dục, chiến lược phát triển nguồn nhân lực thúc đẩy sự hình thành, phát
triển và hoàn thiện thị trường lao động.
EXu thế toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa xét về bản chất là quá trình gia tăng mạnh mẽ
những mối liên hệ ảnh hưởng, tác động lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế,
xã hội, chính trị giữa các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới hình thành các công ty quốc
tế khổng lồ có ảnh hưởng ngày càng lớn đến quá trình phân công lao động
<=CFC@GHCIJKCCIJL
>
1. Khái niệm thị trường lao động
Hiện nay đang tồn tại nhiều định nghĩa về thị trường lao động từ các nguồn tài liệu
khác nhau:
- Theo Adam Smith, thị trường lao động là không gian trao đổi dịch vụ lao động (hàng
hóa sức lao động) giữa một bên là người mua sức lao động (chủ sử dụng lao động) và người
bán sức lao động (người lao động).
Định nghĩa này nhấn mạnh vào đối tượng trao đổi trên thị trường là dịch vụ lao
động, chứ không phải là người lao động.
- Theo Từ điển kinh tế MIT, thị trường lao động là nơi cung và cầu lao động tác động qua
lại với nhau. Định nghĩa này nhấn mạnh vào quan hệ trên thị trường lao động cũng là quan hệ
cung - cầu như bất kỳ một thị trường nào khác.
- Theo Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện Đại hội IX của Đảng, thị trường lao
động là: "Thị trường mua bán các dịch vụ của người lao động, về thực chất là mua bán sức
lao động, trong một phạm vi nhất định. Ở nước ta, hàng hóa sức lao động được sử dụng trong
các doanh nghiệp tư bản tư nhân, các doanh nghiệp tư bản nhà nước, các doanh nghiệp tiểu
chủ, và trong các hộ gia đình neo đơn thuê mướn, người làm dịch vụ trong nhà. Trong các
trường hợp đó có người đi thuê, có người làm thuê, có giá cả sức lao động dưới hình thức
tiền lương, tiền công.
(1)

Theo định nghĩa này, thị trường lao động chỉ bó hẹp trong một vài thành phần kinh tế
nhất định. Toàn bộ các quan hệ lao động trong khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tập
thể, và quan hệ lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp được đặt ra ngoài các quy luật
của thị trường.
- Mặc dù có nhiều điểm khác biệt, nhưng các định nghĩa hiện có về thị trường lao động
đều thống nhất với nhau về các nội dung cơ bản của thị trường lao động. Có thể tóm lược các
nội dung này thành một định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về thị trường lao động như sau:
Thị trường lao động (hoặc thị trường sức lao động) là nơi thực hiện các quan hệ xã
hội giữa người bán sức lao động (người lao động làm thuê) và người mua sức lao động
(người sử dụng sức lao động), thông qua các hình thức thỏa thuận về giá cả (tiền công, tiền
lương) và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng
miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thỏa thuận khác.
. 0!(M#((3NO'"#$%&'
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động là một loại hàng hóa, nó được mua, được
bán, có giá cả, giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng loại hàng này có một loạt những đặc biệt. Khi
1
mua và bán giá trị của hàng hóa được thanh toán, còn giá trị sử dụng được trưng tập, mặt
hàng đó được chuyển thành sở hữu của người mua.
Nghiên cứu thị trường lao động điều quan trọng nhất ở đây là, đối tượng mua và bán
không phải sức lao động, mà chính là lao động. Nhưng lao động là một quá trình, và nó
không thể là đối tượng của mua và bán. Lao động được chuyển đến và trung tập về cho
nguời mua, để từ đó chiếm hữu về mình những kết quả cụ thể của lao động.
Giá trị những kết quả lao động, do sức lao động tạo ra, sẽ phải lớn hơn giá trị sức lao
động, còn nếu không thì sẽ không có ai quan tâm để mua nó. C.Mác đã chỉ dẫn rằng, giá trị
sử dụng của sức lao động chính là ở chỗ, nó có khả năng tạo ra giá trị thặng dư và lợi nhuận
từ nguồn vốn đầu tư. Ba điều kiện sức lao động sẽ chuyển thành hàng hóa:
- Người lao động bị mất công cụ để sản xuất và phương tiện tồn tại.
- Người lao động phải được tự do về mặt pháp lý, có khả năng hoàn toàn làm chủ sức
lao động của mình.
- Trên thị trường có người nắm giữ tư liệu sản xuất, và đồng thời có khả năng mua sức

lao động.
Cùng với sự phát triển của Luật Lao động, người lao động là người chủ sở hữu sức
lao động đã nhận được sự đảm bảo về mặt pháp lý nhiều hơn trong quá trình đàm phán với
người thuê lao động về điều kiện thuê mướn. Ký kết hợp đồng thuê mướn cho phép người
làm thuê được tiếp cận tư liệu sản xuất, sức lao động được hoạt động, có nghĩa là quá trình
lao động được bắt đầu. Thêm vào đó, người lao động hoàn toàn không mất quyền sở hữu sức
lao động của mình, bao gồm quyền nắm giữ, làm chủ và quyền sử dụng. Theo các điều
kiện của hợp đồng thì người lao động chỉ chuyển quyền sử dụng sức lao động của mình trong
thời gian mà quá trình lao động diễn ra.
Trong thế kỷ XVIII-XIX, người lao động làm thuê không được pháp luật bảo vệ nên
phải làm việc 12- 14 giờ trong một ngày, và quyền sở hữu sức lao động của mình cũng chỉ là
hình thức. Thực tế, người lao động phải làm việc hết sức mình trong suất thời gian lao
động, về cơ bản sức lao động của anh ta bị người chủ chiếm đoạt. Người lao động chỉ được
hưởng một phần rất nhỏ thành quả lao động do mình làm ra (tương đương bằng tiền) để tái
sản xuất sức lao động của mình.
Người lao động có nhiều thời gian rỗi để tái tạo khả năng lao động của mình. Trong
những điều kiện đó sở hữu sức lao động đã tìm được những đặc điểm thực sự. Người lao
động thực tế chỉ chuyển quyền sử dụng sức lao động của mình trong một thời gian xác định.
Nhưng cũng từ đó, người sử dụng lao động bắt đầu quan tâm tới hiệu quả sử dụng sức lao
động, hiệu lực của hợp đồng cá nhân và thoả ước tập thể. Tiến bộ khoa học kỹ thuật, mở rộng
những khát vọng mới, ảnh hưởng của thời trang đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải thường
xuyên hoàn thiện sản xuất, tạo ra những mẫu mã sản phẩm mới, từ đó họ chú ý tới việc đưa
ra những yêu sách ngày càng tăng với sức lao động mà mình đã thuê mướn. Nhưng không
phải tất cả mọi người lao động đều có khả năng nắm bắt những kỹ thuật mới phức tạp để thoả
mãn những đòi hỏi của nền sản xuất hiện đại cũng như mong muốn ngày càng tăng của giới
chủ. Vì vậy, người thuê lao động có khuynh hướng sa thải một bộ phận sức lao động không
phù hợp, hợp đồng lao động với người làm thuê ngày càng được làm đơn giản hơn, trong thời
hạn ngắn hơn. Tất cả những điều đó dẫn đến sự phân định ranh giới rõ ràng hơn về quyền sở
hữu sức lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình lao động,
mặc dù quyền này không được ấn định trong văn bản của hợp đồng. Người lao động vẫn là

người nắm giữ sức lao động của mình, còn quyền làm chủ từng phần và sử dụng nó được
chuyển cho người thuê lao động trong quá trình lao động.
Những yếu tố cơ bản của thị trường lao động là: cầu sức lao động; cung sức lao
động; giá cả của sức lao động (tiền lương); cạnh tranh trên thị trường lao động; cơ sở hạ tầng
của thị trường lao động.
Thị trường lao động bao gồm những chủ thể sau: những người thuê lao động (người
mua) và đại diện của họ; những người làm thuê (người bán) và đại diện của họ; nhà nước và
các đại diện của mình; các tổ chức môi giới trung gian.
Trong các nền kinh tế thị trường mà một phần đáng kể các xí nghiệp và các tổ chức
là nhà nước (những xí nghiệp và các tổ chức này thuộc sở hữu nhà nước), nhà nước trong
trường hợp này tham gia như người thuê lao động. Nhưng vấn đề quan trọng là nhà nước
tham gia như một công cụ quan trọng để điều tiết thị trường lao động, xác định luật chơi cho
tất cả các chủ thể tham trên thị trường này.
Tất cả những lao động làm thuê khi gặp bối cảnh thuận lợi đều sẵn sàng thay đổi chỗ
làm việc. Ngược lại, những người thuê lao động thì chỉ lựa chọn cho mình những người làm
thuê xuất sắc trong số những người đang làm việc, chứ không phải những người thất nghiệp.
2P'%Q(3N'$R(%&'M#((3NO'"#$%&'
Trên cơ sở hoạt động của thị trường lao động, cũng giống như các yếu tố sản xuất
khác, nó cũng có những nguyên tắc làm cơ sở cho thị trường hàng hóa tiêu thụ và dịch vụ
phân tích quan hệ cung - cầu là phương pháp cơ bản để nghiên cứu hoạt động của thị trường
này hay thị trường kia. Tuy nhiên, hoạt động của thị trường lao động có nhiều đặc biệt, gắn
với tính chất và những đặc thù của quá trình tái sản xuất sức lao động.
- Không tách rời quyền sở hữu hàng hóa - sức lao động khỏi sở hữu chủ. Trên thị
trường lao động, người mua chỉ có quyền sử dụng và làm chủ từng phần khả năng lao động -
sức lao động, mà hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định. Nhưng người mua không
đơn giản là mua sức lao động như những loại hàng hóa khác, mà có quan hệ với người có
những quyền hạn nhất đỉnh như một cá nhân tự do, mà anh ta phải tuân thủ. Nếu vi phạm
những quyền hạn đó người mua phải chịu trách nhiệm pháp lý và có thể có những tổn thất về
kinh tế. Người mua sức lao động, chính xác hơn, được gọi là người thuê lao động (người sử
dụng lao động);

- Có trách nhiệm phối hợp hành động tương đối dài với nhau giữa người bán và
người mua nếu so sánh với thị trường hàng hóa, lương thực và thực phẩm. Đó là mối quan hệ
tương hỗ hai bên và đóng một vai trò không ít quan trọng trong khả năng cạnh tranh của công
ty. Người lao động, như một cá thể, có thể tự kiểm soát chất lượng công việc của mình với
những nỗ lực khác nhau, thể hiện mức độ trung thực khác nhau với công ty đã thuê họ.
Người thuê phải tính đến những yếu tố đó để quản lý sản xuất, nghĩa là phải xây dựng một cơ
chế đãi ngộ, kích thích, tạo động lực đối với người lao động một cách phù hợp như: điều kiện
làm việc, tiền lương, tiền thưởng và các phúc lợi xã hội khác;
- Chất lượng lao động ở từng người lao động có khác nhau theo giới tính, tuổi tác,
thể lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, động lực làm việc v.v… Vì vậy,
mức độ cá thể hóa cao khi ký kết giao kèo, gắn với trình độ chuyên môn khác nhau của sức
lao động, sự đa dạng của công nghệ và tổ chức lao động, nên việc đánh giá chất lượng lao
động khi tuyển dụng, trả công phù hợp cho từng người gặp nhiều khó khăn và phức tạp;
- Nhiều điểm độc đáo trong trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng hóa vật chất.
Quá trình trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu trong lĩnh vực
lưu thông hàng hóa - quyền sử dụng khả năng lao động được chuyển sang người mua theo
những gì đã được ấn định trong hợp đồng hay thoả ước tập thể. Quá trình trao đổi được tiếp
tục trong sản xuất dưới hình thức trao đổi sức lao động đang hoạt động, lao động thực tế
thành lương danh nghĩa và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông của cải vật chất, có nghĩa là trên
thị trường hàng hóa và dịch vụ được trao đổi lương danh nghĩa thành phương tiện sống. Việc
trao đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa vật
chất. Từ đặc điểm nói trên đưa đến 2 kết quả: thứ nhất, thị trường lao động liên kết xung
quanh mình các thị trường khác nhau; thứ hai, tiền công lao động thực tế được thực hiện
tương ứng với kết quả cuối cùng, có nghĩa là với giá sản phẩm mà lao động đó làm ra. Điểm
này đặt cầu sức lao động phụ thuộc vào cầu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng.
- Đối với người lao động, vấn đề quan trọng không chỉ là tiền công và tiền lương,
mà còn là nội dung và điều kiện lao động, bảo đảm duy trì chỗ làm việc, tương lai công việc
và triển vọng thăng tiến trong nghề nghiệp, bầu không khí làm việc trong tập thể và quan hệ
giữa người lao động với người thuê lao động v.v….
@ABGD@GAFASTC@ABGD?@ABCD

1. Việc làm và thất nghiệp
UVWWX7*WX".7
Khái niệm về việc làm lại có sự khác nhau, tuỳ vào từng thời kỳ, từng giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội.
Trước đây trong chế độ quan liêu bao cấp, ở nước ta thì việc làm được xem là những
hoạt động lao động trong các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã và các đơn vị kinh tế tập
thể. Tức là người lao động phải nằm trong biên chế nhà nước thì mới được xem là người có
việc làm.
Tuy nhiên khi nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự điều tiết và định hướng của Nhà nước thì quan niệm việc làm có thay đổi cho
phù hợp hơn với cơ chế mới. Ngày nay Nhà nước ta quy định rất rõ về việc làm trong bộ luật
Lao động là: "Việc làm là những hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm và đem lại
thu nhập cho người lao động"
Theo quan niệm của ILO, người có việc làm là những người làm việc gì đó được trả
tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào
các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được
nhận tiền công hoặc hiện vật. Còn người thất nghiệp là những người không có việc làm
nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc.
Ở Việt Nam, trong nền kinh tế hóa tập trung, NLĐ được coi là có việc làm và được
xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, quan niệm về việc làm và các vấn đề liên quan như thất
nghiệp, chính sách việc làm đã có những thay đổi căn bản. Cùng với việc tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm quốc tế vào hoàn cảnh Việt Nam, bộ luật lao động đã quy định“Mọi hoạt động
lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”
(Điều 13 Bộ luật lao động) Nếu như trước đây, trong các văn bản pháp luật vấn đề việc làm
chủ yếu được đề cập ở góc độ cơ chế, chính sách bảo đảm việc làm cho NLĐ thì đây là lần
đầu tiên khái niệm việc làm được ghi nhận trong văn bản pháp luật quan trọng của nhà nước.
Theo đó, việc làm được cấu thành bởi các yếu tố: 1.Các yếu tố cấu thành việc làm
,hoạt động lao động tạo ra thu nhập Hoạt động đó phải hợp pháp 2.Vai trò, ý nghĩa của việc
làm để đánh giá vai trò, ý nghĩa của việc làm có thể đứng ở nhiều góc độ khác nhau ví dụ

như: ý nghĩa của việc làm đứng dưới góc độ người lao động, người sử dụng lao động và nhà
nước hay ý nghĩa của việc làm dưới khía cạnh đối với mỗi cá nhân, trong quan hệ lao động
và phạm vi quốc gia…Tìm hiểu vai trò, ý nghĩa của việc làm trên ba bình diện sau: Trên bình
diện kinh tế xã hội Đối với bản thân NLĐ, có việc làm sẽ tạo cơ hội để NLĐ có thu nhập,
đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình đồng thời đóng góp cho xã hội. Đối với mỗi
quốc gia , giải quyết tốt vấn đề việc làm sẽ tạo điều kiện và cơ sở để triển khai các chính sách
xã hội khác như phát triển văn hóa, y tế, giáo dục góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát
triển xã hội. Về mặt kinh tế, việc làm luôn gắn liền với vấn đề sản xuất. Hiệu quả của
việc giải quyết tốt vấn đề việc làm cũng chính là hiệu quả của sản xuất. Về mặt xã hội, giải
quyết việc làm có mục tiêu hướng vào toàn dụng lao động, chống thất nghiệp và khắc phục
tình trạng thiếu việc làm bảo đảm thu nhập. Đối với Việt Nam, việc làm còn gắn với công
cuộc xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm là biện pháp quan trọng, thiết thực xóa đói
giảm nghèo. Trên bình diện chính trị- pháp lí Chính sách việc làm không phù hợp tất yếu sẽ
không hiệu quả đối với vấn đề lao động - việc làm nói riêng và các vấn đề xã hội nói chung.
Ở bất kì quốc gia nào, việc làm đã, đang và luôn là vấn đề gay cấn, nhạy cảm, nếu không
được giải quyết có thể dẫn đến những “điểm nóng” và trở thành vấn đề chính trị.
Trên bình diện pháp lí, việc làm là phạm trù thuộc quyền cơ bản của con người. Quyền
này đã được thừa nhận trong hiến pháp, luật và các công ước quốc tế. Vấn đề việc làm còn
gắn liền với chế độ pháp lí lao động, là cơ sở hình thành, duy trì và là nội dung của quan hệ
lao động. Trên bình diện quốc gia - quốc tế. Đối với mỗi quốc gia, chính sách việc làm và
giải quyết việc làm là bộ phận có vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ thống các chính sách xã
hội nói riêng và trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung. Chính sách
việc làm là chính sách cơ bản nhất của quốc gia, góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát
triển xã hội. Trong thời đại ngày nay, vấn đề lao động việc làm không chỉ dừng lại ở phạm vi
quốc gia mà nó còn có tính toàn cầu hóa, tính quốc tế sâu sắc. Trong xu thế hội nhập với kinh tế
khu vực và thế giới, các quốc gia không thể tránh khỏi áp lực ngày càng gia tăng của tiến trình tự
do hóa thương mại, mở cửa thị trường về phương diện kinh tế và phải đối mặt với các vấn đề
việc làm, chuyển dịch lao động quốc tế về vấn đề xã hội. Thị trường lao động không chỉ tồn tại
trong đường biên giới lãnh thổ quốc gia mà không ngừng được mở rộng sang các quốc gia khác
và trên phạm vi quốc tế. Chính vì vậy, từ góc độ pháp luật trong bối cảnh toàn cầu hóa, ngoài cơ

sở luật pháp quốc gia,vấn đề lao động - việc làm còn được điều chỉnh hoặc chịu sự ảnh hưởng
chi phối của các công ước quốc tế về lao động.
1.2. <Y"$RW*WX".7
Việc làm là hoạt động tạo ra giá trị, của cải vật chất chỉ thông qua hoạt động sản xuất
con người mới có điều kiện đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống. "Lao động là nguồn
gốc của mọi của cải lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người."
Ta có thể thấy việc làm được thể hiện dưới các dạng sau:
- Việc làm chính: Là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất hoặc có
thu nhập cao hơn các công việc khác.
- Việc làm phụ: Là công việc mà người lao động dành nhiều thời gian nhất sau công
việc chính.
- Việc làm hợp lý: Là công việc mà người thực hiện nhận thấy phù hợp với điều kiện
và năng lực của bản thân.
- Việc làm hiệu quả: Là công việc mà đem lại hiệu quả cao nhất đối với người lao
động.
Cũng từ cách phân chia như vậy, người ta phân chia:
- Việc làm đầy đủ: Là những người có việc làm ổn định và sử dụng hết thời gian làm
việc theo mức chuẩn quy định có thu nhập cao từ việc làm đó.
- Thiếu việc làm: Bao gồm những người có việc làm bấp bênh (không ổn định) hoặc
đang có việc làm (40 giờ trong 5 ngày trở lên) trong tuần lễ tham gia không đầy đủ thời gian
làm trong ngày, trong năm và hưởng thu nhập rất thấp không đủ sống từ việc làm đó nhưng
không thể kiếm được việc làm khác.
2CR$*WX".7$'NOW"#$%&'
Vấn đề tạo việc làm, thu hút con người tham gia vào quá trình lao động, phát triển kinh tế
có tầm quan trọng lớn, đặc biệt là ở nước ta với đặc trưng của nền kinh tế chậm phát triển. Tuy
nhiên muốn tạo việc làm thu hút con người vào quá trình lao động phải xét đến hàng loạt các vấn
đề có liên quan.
Đối tượng của tạo việc làm là những người thiếu việc làm, những người thất nghiệp
nhưng có nhu cầu làm việc. Hiện tượng tồn tại một lực lượng lao động thiếu việc làm và thất
nghiệp với tỷ lệ cao biểu hiện sự lãng phí nguồn lực quan trọng nhất trong quá trình phát

triển kinh tế. Hơn nữa thiếu việc làm và thất nghiệp còn gây ra một áp lực lớn đối với sự ổn
định chính trị và tiến bộ xã hội. Trong những năm gần đây, khi nước ta đang tiến hành công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên trong được xem là mục tiêu hàng đầu. Đặc biệt là nguồn lực con người cần tạo việc làm,
thu hút lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm tới mức thấp nhất lực lượng thất
nghiệp.
Xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với đói nghèo. Tỷ lệ thất nghiệp cao không
những gây tổn thất lớn cho nền kinh tế mà còn gây ra nhiều khó khăn cho cuộc sống cá nhân
người lao động. Những người thất nghiệp, họ không sản xuất ra sản phẩm nhưng họ vẫn phải
tiêu dùng một nguồn lực nhất định của xã hội đặc biệt ở tuổi trưởng thành, mức tiêu dùng
thường lớn hơn các độ tuổi khác. Đối với nước ta, những người thất nghiệp là những người
không có thu nhập và sống nhờ vào nguồn thu nhập của người khác trong gia đình. Hơn nữa
thường những người thất nghiệp là những người chủ gia đình, nguồn thu nhập của họ có ảnh
hưởng rất lớn tới đời sống của các thành viên trong gia đình, khi đời sống kinh tế của gia
đình khó khăn thì nó lại ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống gia đình. Đây chính là những
nguyên nhân sâu xa, phức tạp của những rối ren cho xã hội.
Lao động là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Giải quyết việc làm cho
người lao động vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn
quan tâm đến vấn đề việc làm cho người lao động. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định việc
giải quyết việc làm cho người lao động "Giải quyết việc làm và đảm bảo cho mọi người có
khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, các doanh nghiệp
và toàn xã hội". Nhà nước hàng năm đang nỗ lực tạo những điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài
chính, cho vay vốn hoặc miễn, giảm thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích để người
lao động có khả năng tự giải quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị và các cá nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu nhằm tạo việc làm cho ngày
càng nhiều người lao động có việc làm.
Như vậy, để có việc làm trước hết cần hai yếu tố là sức lao động và điều kiện cần thết
để sử dụng sức lao động, trong đó bao gồm cả yếu tố xã hội. Như vậy, việc làm là phạm trù
dùng để chỉ trạng thái phù hợp với sức lao động và những điều kiện sử dụng sức lao động đó.
Trạng thái phù hợp thể hiện thông qua tỷ lệ chi phí ban đầu với chi phí lao động. Quan hệ tỷ

lệ này phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi trình độ đó thay đổi thì tỷ
lệ đó cũng thay đổi theo. Chính vì vậy, quá trình tạo việc làm là quá trình tạo ra của cải vật
chất. Có thể mô phỏng quy mô tạo việc làm theo phương trình sau:
Y = f (C,V,X )
Trong đó:
Y: Số lượng việc làm được tạo ra.
C: Vốn đầu tư.
V: Sức lao động.
X: Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Chẳng hạn muốn tạo việc làm cho lao động trong lĩnh vực công nghiệp thì cần thiết
phải bỏ vốn đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị, công cụ, nguyên vật liệu,
thuê công nhân và thị trường cho sản phẩm đầu ra và sản phẩm đầu vào của quá trình sản
xuất. Hoặc tạo việc làm trong nông nghiệp cần tổ chức sản xuất thâm canh tăng vụ, sản xuất
thâm canh trồng màu và làm các ngành nghề truyền thống khi nông nhàn, tất nhiên các hoạt
động này cũng rất cần đến vốn, thị trường tiêu thụ.
1.3. @WX".7M#"#$%&'P
Ngày nay, trên thực tế tỷ lệ lao động nữ tham gia vào thị trường lao động ngày càng
tăng ở hầu hết các nước trên thế giới kể cả các nước đang phát triển. Song do đặc trưng và
chức năng giới là yếu tố cơ bản làm hạn chế cơ hội việc làm của lao động nữ. Tuy nhiên nhận
thấy sự quan trọng của việc tham gia lao động của lao động nữ vào sự phát triển chung của
nền kinh tế đất nước, Đảng và nhà nước đang ngày càng chú trọng hơn vào việc tạo điều kiên
thuận lợi cho lao động nữ và nâng cao khả năng và cống hiến của lao động nữ.
Tỷ lệ lao động nữ tham gia vào thị trường lao động thay đổi qua từng thời kỳ và tỷ
lệ lao động nữ trong cơ cấu lao động ngày càng cao. Điều này có thể xuất phát từ nhiều
nguyên nhân:
Thứ nhất, theo quy định của pháp luật, Nhà nước có trách nhiệm phân bổ việc làm
cho người dân. Đồng thời pháp luật cũng quy định, lao động vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm đối
với từng công dân.
Thứ hai, đại đa số phụ nữ có khả năng đều được tiếp cận hệ thống giáo dục và đào
tạo nghề nghiệp( trong nền kinh tế bao cấp không mất tiền).

Thứ ba, pháp luật bảo vệ quyền cho phụ nữ được nghỉ khi sinh con và chăm sóc con
mà vẫn được giữ chỗ làm việc. Khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang giai đoạn vận hành
theo cơ chế thị trường, tỷ lệ lao động nữ chiếm hơn 50% trong hầu hết các thành phần kinh
tế, thậm chí chiếm tới 72% số việc làm trong khu vực kinh tế nước ngoài.
Hiện nay tỷ lệ giữa lao động nữ còn có sự chênh lệch so với lao động nam về tiền
lương, tính chất công việc, cơ hội tiếp cận việc làm…Tình trạng bất bình đẳng giới trong thu
nhập diễn ra khá phổ biến, phụ nữ thường làm việc với thời gian nhiều hơn, nhưng thu nhập của
họ không cao bằng nam giới, trong quá trình làm việc, phân công công việc, nơi làm việc, việc
tiếp cận những ưu đãi do do pháp luật quy định…và khi có sự biến động tại nơi làm việc, phụ nữ
thường là những đối tượng bị loại bỏ, sa thải trước nam giới.
Việc làm của lao động nữ hiện nay còn nhiều khó khăn như:
- Bất bình đẳng giới mang tính phổ biến, biểu hiện về thu nhập so với nam giới;
trình độ chuyên môn và tay nghề của lao động nữ còn nhiều hạn chế; định kiến giới còn tồn
tại trong một số ngành nghề; hạn chế về thời gian làm việc vì phụ nữ còn thực hiện nghĩa vụ
làm vợ, làm mẹ trong gia đình; thiếu định hướng nghề nghiệp mang tính chiến lược.
- Lao động nữ hiện vẫn tập trung ở những ngành sử dụng chủ yếu sức lao động, làm
việc trong điều kiện chưa được cải thiện, thời gian lao động kéo dài, rủi ro cao.
- Lao động nữ thường là đối tượng của những nhà tuyển dụng muốn có chi phí thấp.
Đây là nguyên nhân khiến lao động nữ dễ rơi vào tình trạng bị bóc lột sức lao động và dễ bị
tổn thương.
- Thời gian rảnh rỗi của lao động nữ nhiều nhưng họ lại khó kiếm được việc làm
thêm, hoặc công việc ổn định.
2. Một số quan điểm giải quyết việc làm ở Việt Nam
Ở nước ta, quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra hàng loạt vấn đề bức xúc liên quan đến việc làm và
chính sách giải quyết việc làm. Đây là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lực
lao động, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-Giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng đối với mỗi quốc gia,
đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam; giải
quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan

trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế
kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, đường
lối thiết thực, hiệu quả nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo
nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ sử dụng thời
gian lao động ở nông thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định rõ: "Phát triển thị trường lao
động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực
của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm".
- Các cơ chế, chính sách về lao động - việc làm được kịp thời đánh giá, bổ sung và
sửa đổi đảm bảo ngày càng thông thoáng, phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập, đảm
bảo quyền và lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động và tuân thủ các quy luật
kinh tế thị trường.
- Hệ thống các văn bản quản lý nhà nước về lao động - việc làm ngày càng hoàn
thiện, nhiều luật mới ra đời và đi vào cuộc sống như Bộ luật lao động, luật dạy nghề, luật bảo
hiểm xã hội, luật người lao động VN đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng…nhiều văn
bản hướng dẫn được ban hành nhằm từng bước hoàn thiện thể chế tạo hành lang pháp lý cho
các hoạt động trong lĩnh vực lao động - việc làm.
- Nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường, Nhà nước đã thực hiện vai trò
bảo trợ thông qua việc ban hành các chính sách cho nhóm lao động yếu thế, như các chế độ ưu
đãi đối với lao động là người tàn tật, các cơ sở sản xuất kinh doanh của người tàn tật, lao động là
người dân tộc thiểu số, chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ lao động dôi
dư góp phần hỗ trợ người lao động tạo việc làm, nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường
đầu tư đã tạo động lực to lớn, đưa nền kinh tế nước ta ngày càng ổn định và phát triển, tốc độ
tăng trưởng kinh tế được duy trì liên tục ở mức cao (từ 7% - 7,5%/năm), hằng năm vốn đầu
tư chiếm trên 35% GDP, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh,
cùng với đó là các Chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; Chương trình phát triển

công nghiệp, dịch vụ; các chương trình, dự án trọng điểm kinh tế - xã hội của Nhà nước;
Chương trình xây dựng và phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công
nghệ cao được thực hiện góp phần giải phóng sức sản xuất, giải phóng sức lao động, tạo
môi trường lành mạnh để nhân dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tạo và tự tạo việc
làm, tận dụng tối đa nguồn nhân lực cho phát triển đất nước, từng bước nâng cao và cải thiện
đời sống của nhân dân.Thị trường lao động Việt Nam đã hình thành và phát triển, lực lượng
lao động được bổ sung đem lại lợi thế cho Việt Nam về nguồn nhân công dồi dào, giá nhân
công tương đối rẻ so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Để tận dụng tối đa nguồn nhân lực cho phát triển đất nước nhiều trung tâm giới
thiệu việc làm và hàng nghìn doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, giới thiệu việc
làm và cung ứng lao động. sẽ là động lực quan trọng phát triển đất nước bền vững theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển thị trường lao động, Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách tạo thuận lợi phát triển các hoạt động giao dịch trên thị trường. Hằng
năm các doanh nghiệp đã hoạt động và lên kế hoạch tư vấn, giới thiệu việc làm cho hàng
triệu lượt người. Các hội chợ việc làm, phiên chợ việc làm, tháng việc làm, điểm hẹn việc
làm, sàn giao dịch việc làm được tổ chức thường xuyên, tích cực gắn kết người lao động
và người sử dụng lao động; đã đưa thông tin đến tận người lao động ở nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, tạo cơ hội cho người lao động có khả năng tìm việc làm và có việc làm phù hợp với
khả năng, nguyện vọng của bản thân.
- Việc làm là hoạt động lao động của công dân gắn với việc thỏa mãn nhu cầu cá
nhân và xã hội. Người lao động được hưởng thụ tương ứng với giá trị lao động sáng tạo của
mình được bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, giá trị vật chất do cá nhân làm ra theo pháp luật nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống, mưu cầu hạnh phúc cho bản thân và đóng góp một phần cho
xã hội.
- Giải quyết việc làm phải dựa trên quan hệ cung - cầu của thị trường: Triệt để giải
phóng tiềm năng lao động; trả lại cho người lao động quyền tự do trong lao động; khuyến
khích người lao động tự tạo ra việc làm cho mình, tự chịu trách nhiệm về cuộc sống của
mình. Với quan điểm trên, chính sách giải quyết việc làm sẽ phát huy năng lực sáng tạo, tính
năng động của người lao động; nhà nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô trên thị trường lao

động, khuyến khích người dân tự tạo ra việc làm cho mình cho xã hội trong khuôn khổ pháp
lý.
- Thực hiện chính sách tự do di chuyển và di chuyển lao động trong không gian và
thời gian để thay đổi cơ cấu lao động - việc làm, tạo cơ hội cho cung và cầu gặp nhau, giảm
sức ép về việc làm giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, giữa các hình thức tổ
chức sản xuất - kinh doanh; khuyến khích ổn định lao động đặc biệt là lao động kỹ thuật cao
bằng cơ chế, chính sách.
- Lựa chọn mô hình định hướng ,giải quyết việc làm gắn với phát triển kinh tế, giải
quyết theo quan điểm phát triển vừa đảm bảo được công bằng xã hội. Đây là điều cốt lõi của
vấn đề bảo đảm ổn định, an toàn, công bằng và tiến bộ xã hội.

AZ[TC\ASTA

1. Khái niệm Di chuyển lao động
“Di chuyển lao động là quá trình tổ chức và phân công lại lực lượng lao động làm cho
lực lượng lao động thay đổi theo không gian và thời gian về số lượng và chất lượng. Di
chuyển lao động diễn ra theo hai hướng: thay đổi trong cung lao động và cầu lao động và sự
thay đổi này mang tính tương đối, có thể diễn ra theo chiều hướng tốt nhưng cũng có thể theo
chiều hướng không tốt nên rất cần sự quản lý và điều tiết của nhà nước”.
1. Phân loại di chuyển lao động
Một làdi chuyển lao động tại chỗZ đây là sự di chuyển của lao động nông nghiệp sang
các ngành kinh tế khác ngay trong địa bàn nông thôn. Đặc điểm cơ bản của sự di chuyển này
là không có sự di chuyển nơi sinh sống, nên không làm thay đổi cơ cấu, cũng như mật độ dân
cư sinh sống ở nông thôn, nhưng cơ cấu lao động ở đây lại có sự thay đổi rõ rệt. Đây chính là
phương thức di chuyển cơ cấu lao động tích cực nhất, đảm bảo được mục tiêu “Ly nông bất
ly hương'' mà nhiều quốc gia đang phát triển đặt ra.
Hai làdi chuyển lao động kèm theo sự di cư, đây là sự di chuyển lao động về mặt
không gian. Hậu quả là tạo ra các dòng di chuyển dân cư và lao động từ nông thôn ra thành
thị, nông thôn - nông thôn, từ vùng này, nơi này qua vùng khác, nơi khác hoặc từ quốc gia
này sang quốc gia khác. Đặc điểm của sự di chuyển này làm giảm quy mô cũng như cơ cấu

của nguồn lao động nơi ra đi, nhưng lại làm tăng quy mô cũng như cơ cấu của nguồn lao
động nơi đến. Để lý giải cho quá trình chuyển dịch phức tạp này, các nhà kinh tế đã đưa ra lý
thuyết về ''lực hút và lực đẩy”, đối với lao động.
Theo lý thuyết trên, một trong những yếu tố cơ bản tạo ra lực hút đối với lao động nơi
ra đi chính là do mức thu nhập dự kiến ở khu vực họ chuyển đến. Vì vậy, để giảm bớt áp lực
về đời sống, việc làm do hậu quả của việc di dân và lao động gây ra, cần phải có các giải

×