Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Thực trạng, phương hướng và giải pháp phát triển thương mại tại Bộ thương mại vụ kế hoạch và đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.6 KB, 30 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Căn cứ vào kế hoạch thực tập khoá 44 của khoa Kinh tế Kế hoạch và
Phát triển- Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, em được giáo viên hướng dẫn
thực tập Thầy Th.s Vũ thành Hưởng giới thiệu lên vụ kế hoạch và đầu tư- Bộ
Thương Mại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực tập trong thời
gian từ 04/01/2006 đến 30/04/2006.
Sau khi được sự đồng ý tiếp nhận và sự chỉ dẫn tại Bộ Thương Mại,
trong giai đoạn đầu của quá trình thực tập tại Bộ Thương Mại, dưới sự hướng
dẫn chỉ bảo tận tình của các chuyên viên trong vụ kế hoạch và đầu tư, em đã
được tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành quá trình thực tập của mình.
Báo cáo thực tập tổng hợp bao gồm các phần sau:
Phần I. Giới thiệu tổng quan về Bộ thương Mại- Vụ kế hoạch và
đầu tư
Phần II. Thực trạng, phương hướng và giải pháp phát triển
thương mại
Phần III. Phương pháp xây dựng kế hoạch phát triển thương mại
Sau đây, em đi vào trình bày chi tiết theo từng nội dung:
Phần I. Giới thiệu tổng quan về Bộ Thương Mại- Vụ kế hoạch
và đầu tư.
1.Lịch sử hình thành.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập vào ngày
02/09/1945 thì tổ chức bộ máy nhà nước được thành lập, trong đó có Bộ
Thương Mại và tiền thân của nó là Bộ Kinh Tế được thành lập vào ngày
26/11/1946. Đến tháng 05 năm 1951 đã đổi tên Bộ Kinh Tế thành Bộ Công
Thương, sau đó vào ngày 10/09/1955 Bộ Công Thương được tách ra thành Bộ
Công Nghiệp Và Bộ Thương Nghiệp. Vào ngày 29 tháng 04 năm 1958 khoá
họp thứ VIII Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Thủ tướng Chính
Phủ báo cáo đề án của Hội đồng Chính phủ nhằm tăng cường thêm một bước
Chính phủ và Bộ máy Nhà nước cấp trung ương đã thống nhất chia Bộ
Thương Nghiệp Thành hai Bộ: Bộ Ngoại Thương và Bộ Nội Thương. Và đến
đây đã thành lập Bộ Vật tư thay thế Tổng cục vật tư vào ngày 01/08/1969 và


thành lập Bộ Kinh tế đối ngoại trên cơ sở sát nhập Bộ Ngoại Thương và Uỷ
Ban kinh tế đối ngoại vào ngày 24/03/1988. Đến ngày 31/03/1990, Bộ
Thương Nghiệp đã được thành lập trên cơ sở Bộ Kinh tế đối ngoại, Bộ Nội
Thương và Bộ Vật tư để thống nhất quản lý nhà nước và các hoạt động
Thương Nghiệp và các dịch vụ. Tại họp thứ chín, Quốc hội khoá khoá VIII
ngày 12/08/1991 đã thông qua, chuyển chức năng quản lý nhà nước về du lịch
sang Bộ Thương Nghiệp và đổi tên Bộ Thương Nghiệp thành Bộ Thương Mại
và Du lịch. Đến ngày 17 tháng 10 năm 1992 Bộ Thương Mại và Du lịch đã
được đổi tên thành Bộ Thương Mại cho đến nay.
Sơ đồ hình thành Bộ Thương Mại

2.Cơ cấu tổ chức bộ máy.
Bộ Thương Mại gồm có 26 vụ và các phòng ban khác giúp Bộ trưởng thực
hiện chức năng quản lý nhà nước, các tổ chức sự nghiệp và các Doanh nghiệp
nhà nước thuộc Bộ.
a. Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
1. Vụ Xuất nhập khẩu
2. Vụ Chính sách thị trường trong nước
3. Vụ Thương mại miền núi và Mậu dịch biên giới
4. Vụ Thị trường Châu Á- Thái Bình Dương
5. Vụ Thị trường Châu Âu
6. Vụ Thị trường Châu Mỹ
7. vụ Thị trường Châu Phi, Tây Á và Nam Á
8. Vụ Chính sách thương mại Đa biên
9. Vụ Thương mại điện tử
10. Vụ kế hoạch và đầu tư
11. Vụ Tài chính- kế toán
12. Vụ Pháp chế
13. Vụ Tổ chức cán bộ
14. Cục Quản lý thị trường

15. Cục Quản lý cạnh tranh
16. Cục Xúc tiến thương mại
17. Thanh tra
18. Văn phòng Bộ
19. Văn phòng Bộ tại Thành phố Hồ Chí Minh
20. Ban Dệt may
21. Viện nghiên cứu thương mại
22. Trung tâm thông tin thương mại
23. Tạp chí thương mại
24. Báo thương mại
25. Báo Đối ngoại Vietnam Econnomic News
26. Trường cán bộ Thương mại trung ương
b. Các tổ chức sự nghiệp.
1. Viện kinh tế kỹ thuật thương mại
2. Viện Kinh tế đối ngoại
3. Các đơn vị sự nghiệp khác do Bộ trưởng Bộ Thương Mại tổ chức lại
trình Thủ tướng Chính phủ quyết định sau khi có ý kiến bằng văn bản của các
cơ quan có liên quan và ý kiến thẩm định của Ban tổ chức cán bộ Chính phủ.
c. Các Doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ( gồm 73 doanh nghiệp)
Bộ Thương Mại do Bộ trưởng lãnh đạo, giúp việc Bộ trưởng có các Thứ
trưởng. Bộ trưởng quy định nhiệm vụ quyền hạn và biên chế cụ thể của các
đơn vị trực thuộc Bộ trong tổng số biên chế được duyệt của Bộ.
Bộ trưởng Bộ Thương Mại chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Thủ
tướng Chính phủ về toàn bộ công tác của Bộ. Các Thứ trưởng chịu trách
nhiệm trước Bộ trưởng về công tác được phân công.
3.Chức năng và nhiệm vụ của Bộ Thương Mại.
a, Chức năng
Bộ Thương mại là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về thương mại; quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại
diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước

thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.
b, Nhiệm vụ
Bộ Thương mại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Nghị
định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2002 của chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ
và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
1. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh và các dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
2. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển,
kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm, chương trình, dự án quan trọng về
các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
3. Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư về các lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Bộ.
4. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về thương mại đã được
phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước cỷa Bộ.
4.Chức năng và nhiệm vụ của Vụ kế hoạch và đầu tư.
a, Chức năng
Vụ Kế hoạch và Đầu tư (được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba Vụ: Kế
hoạch Thống kê, Đầu tư, Khoa học) là tổ chức thuộc Bộ Thương mại có chức
năng tham mưu giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư, ứng dụng khoa học, công
nghệ, môi trường, tài chính- tiền tệ liên quan đến thương mại.
b, Nhiệm vụ
1. Về lĩnh vực chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án thương
mại:
1.1.Chủ trì phân tích và dự báo thay đổi trong quan hệ cung cầu hàng hoá và
dịch vụ trên thị trường trong và ngoài nước từng thời kỳ làm cơ sở xây dựng

chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án thương mại.
1.2. Chủ trì xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án
thương mại theo vùng kinh tế và trên toàn quốc để Bộ trình cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt; tổ chức và hướng dẫn thực hiện sau khi được duyệt.
1.3. Đầu mối tham gia, tổng hợp chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương
trình, dự án liên quan đến thương mại từ các Bộ, ngành, tổng công ty, công ty
lớn của Nhà nước, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các doanh
nghiệp thuộc Bộ để xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình,
dự án của ngành và của Bộ Thương mại trình lãnh đạo Bộ.
1.4. Đầu mối tổ chức các buổi làm việc giữa lãnh đạo Bộ và lãnh đạo với các
Sở Thương mại, các doanh nghiệp trực thuộc Bộ để thảo luận và quyết định
những vấn đề về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án về
thương mại.
1.5. Chủ trì xác lập cân đối cung cầu, điều tiết cung- cầu một số mặt hàng
thiết yếu, xác lập cán cân thương mại và cân đối ngoại tệ phục vụ sản xuất,
kinh doanh trong nước và xuất, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ.
1.6. Chủ trì nghiên cứu xác định nhu cầu dự trữ lưu thông và dự trữ quốc gia
trong từng thời kỳ.
1.7. Tham gia vào việc quy hoạch phát triển các ngành sản xuất nhằm bảo
đảm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng mặt hàng và kim ngạch xuất khẩu; căn
cứ kết quả hoạt động thương mại để tham gia vào các biện pháp quản lý vĩ mô
và quản lý các dịch vụ thương mại.
2. Về lĩnh vực đầu tư:
2.1. Chủ trì hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về đầu
tư liên quan đến thương mại (kể cả các hiệp định song phương, đa phương về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư); hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện
2.2. Thẩm định các dự án đầu tư của Việt nam ra nước ngoài và của nước
ngoài vào Việt nam theo thẩm quyền của Bộ Thương mại. Quản lý hoạt động
thương mại, xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
theo quy định của pháp luật.

2.3. Thẩm định các dự án nhóm A và các dự án khác do Thủ tướng Chính phủ
yêu cầu. Quản lý hoạt động xuất nhập khẩu máy móc, thiết bị để thực hiện các
dự án đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước, vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA). Quản lý hoạt động gia công với nước ngoài, thuê máy móc thiết bị
của nước ngoài theo quy định của pháp luật.
2.4. Chủ trì giúp Bộ trưởng phân bổ và quản lý nguồn vốn đầu tư từ ngân
sách; chỉ đạo quản lý hoạt động đầu tư xây dựng của các đơn vị trực thuộc Bộ
theo quy định của pháp luật.
3. Về lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và môi trường liên
quan đến thương mại:
3.1. Tổ chức xây dựng và hướng dẫn thực hiện kế hoạch, chính sách khoa
học, công nghệ và môi trường của nhà nước trong ngành thương mại.
3.2. Tổ chức nghiên cứu, nghiệm thu, quản lý và phổ biến kết quả nghiên cứu
các đề tài khoa học; tổ chức nghiên cứu sản xuất thử nghiệm, áp dụng tiến bộ
kỹ thuật, chuyển giao công nghệ mới và đề xuất với Bộ trưởng chủ trương,
giải pháp nhân rộng kết quả này vào sản xuất, kinh doanh và quản lý trong
ngành.
3.3. Tổ chức xây dựng, quản lý và áp dụng tiêu chuẩn Việt nam, tiêu chuẩn
ngành, các quy trình, quy phạm của nhà nước tại các đơn vị thuộc Bộ. Tổ
chức nghiên cứu và hướng dẫn, phổ biến các tiêu chuẩn thừa nhận trong
thương mại quốc tế và môi trường, đo lường, chất lượng, rào cản kỹ thuật
trong thương mại.
3.4. Quản lý công tác sửa chữa, xây dựng nhỏ và đầu tư trang thiết bị nhằm
tăng cường năng lực hoạt động khoa học, công nghệ, môi trường cho các đơn
vị thuộc Bộ.
3.5. Quản lý công tác hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ và môi trường
liên quan đến thương mại.
3.6. Thường trực Hội đồng khoa học, Hội đồng chức danh khoa học, Hội
đồng xét thưởng thành tích khoa học, công nghệ, môi trường liến quan đến
thương mại.

3.7. Phối hợp với Vụ Tài chính Kế toán trong việc quản lý kinh phí nghiên
cứu khoa học của Ngành.
4. Về lĩnh vực tài chính, tiền tệ:
4.1. Trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý các dự án ODA, các chương
trình, dự án, viện trợ của nước ngoài liên quan đến thương mại được Chính
phủ giao. Tham gia xây dựng phương án trả nợ, nhận nợ nước ngoài bằng
hàng hoá.
4.2. Làm đầu mối của Bộ Thương mại trong quan hệ với các tổ chức tài chính
quốc tế về các vấn đề liên quan đến thương mại.
4.3. Làm đầu mối tham gia với các Bộ, ngành xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật về chính sách tiền tệ và tài chính quốc tế liên quan đến
thương mại.
5. Về công tác báo cáo và cung cấp thông tin:
5.1. Chủ trì tổng hợp, phân tích, báo cáo định kỳ, đột xuất tình hình hoạt động
thương mại của toàn ngành và các doanh nghiệp trực thuộc Bộ theo quy định
và yêu cầu của cấp trên.
5.2. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác thống kê thương mại, chịu trách
nhiệm phát ngôn, cung cấp thông tin định kỳ hoặc đột xuất về kết quả hoạt
động thương mại theo nhiệm vụ được giao.
5.3. Tổng hợp báo cáo lãnh đạo Bộ về tình hình đầu tư liên quan đến thương
mại và đầu tư của các đơn vị thuộc Bộ.
5.4. Tổ chức, quản lý công tác thông tin khoa học, công nghệ, môi trường liên
quan đến thương mại đối với các đơn vị thuộc Bộ.
5.5.Tổng hợp, báo cáo tình hình thực hiện các chương trình, dự án, viện trợ
của nước ngoài liên quan đến thương mại; tình hình trả nợ, nhận nợ nước
ngoài bằng hàng hoá.
6. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Lãnh đạo Bộ giao.
Phần II. Thực trạng, phương hướng và giải pháp phát triển
thương mại
I. Thực trạng các hoạt động thương mại.

1.Những kết quả cơ bản về phát triển thương mại.
1.1.Tình hình hội nhập quốc tế.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, bắt đầu từ việc Việt Nam tham gia vào
ASEAN năm 1995, ASEM năm 1996, APEC năm 1998 và đàm phán gia nhập
tổ chức thương mại thế giới(WTO) từ năm 1995.
Việt Nam đã thực hiện hàng loạt cải cách về chính sách thương mại như
sau:
Phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh. Trước đây
về mặt quản lý không có ranh giới rõ ràng giữa hai khái niệm quản lý nhà
nước về ngoại thương và quản lý doanh ngoại thương.Bộ Ngoại thương vừa
được giao chức năng quản lý nhà nước về ngoại thương, vừa có nhiệm vụ chỉ
đạo kinh doanh ngoại thương. Với chức năng, nhiệm vụ như vậy, Bộ ngoại
thương có thể can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh ngoại thương, trực tiếp
chỉ đạo ngoại thương trực thuộc Bộ thương mọi lĩnh vực, kể cả nghiệp vụ
kinh doanh.
Xoá bỏ tính chất độc quyền ngoại thương của các công ty, các doanh nghiệp
nhà nước.Trước đây, trên nguyên tắc nhà nước độc quyền ngoại thương, mọi
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tập trung vào một số doanh
nghiệp nhà nước được chỉ định, còn các doanh nghiệp khác nếu có nhu cầu và
khả năng mà muốn mua bán hàng hoá với nước ngoài phải uỷ thác cho các
doanh nghiệp ngoại thương nên hiệu quả kinh tế không cao, doanh nghiệp
thiếu chủ động, sản xuất rất bị động.
Thương mại thời kỳ 1991-2000 đã đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc, trong đó
xuất khẩu là yếu tố quan trọng góp phần tăng GDP trên 7%. Đặc biệt, thời kỳ
2001-1005 nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, GDP tăng bình quân
gần 7.5%/năm, trong đó tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh(trên16%/năm
và tăng gấp đôi theo binh quân đầu người.
Tốc độ tăng trưởng : kim ngạch xuất khẩu năm 2004 đạt 26,5 tỷ USD, gấp
gần 12 lần kim ngạch xuất khẩu năm 1991.Cấn cân xuất -nhập khẩu được cải
thiện đáng kể, tỷ lệ nhập siêu lúc cao nhất so với kim ngạch xuất khẩu lên tới

53,6%(1996), năm 2000 8,2%
Xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tăng khá
nhanh cả về quy mô và tốc độ, chiếm tỷ trọng từ 4% năm 1994 lên50,4%
năm2003.
Cơ cấu nhóm, mặt hàng được cải thiện đáng kể: tỷ trọng các mặt hàng xuất
khẩu qua chế biến tăng dần. Nếu năm 1991 hàng nguyên liệu thô chiếm trên
92% thì năm 2000 chỉ còn 52% tổng kim ngạch xuất khẩu và tiếp tục giảm.
Tính đến năm 2004 ngoài 4 mặt hàng truyền thống có kim ngạch trên 1 tỷ
USD là dầu thô, dệt may,giày dép, thuỷ sản xuất hiện thêm 2 nhóm hàng có
kim ngạch xuất khẩu đạt 1 tỷ USD là linh kiện vi tính, điện tử và sản phẩm
gỗ.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng.Tổng kim ngạch xuất
khẩu của ta vào thị trương Liên Xô và Đông Âu đã giảm từ 57% năm 1985
xuống 2% năm 1998. Và thay vào đó là Châu Á(trước đây chỉ có Nhật Bản và
Singapore là chủ yếu) đã nhanh chóng trở thành thị trường xuất khẩu chính
của ta.Việt Nam hiện nay đã là nước xuất khẩu lớn thứ 4 vào thị trường Nhật
Bản.
Tỷ trọng thị trường EU tăng khá đều: năm 1991 chiếm 5,7%, năm 1992 khi
Việt Nam ký hiệp định khung về buôn bán hàng dệt may với EU, kim ngạch
xuất khẩu sang EU tăng rât nhanh: năm1995 đạt 405 triệu USD, năm 2004 đạt
4,5 tỷ USD tăng 24,36% so với 2003.
Tỷ trọng vốn đầu tư từ các nước ASEAN trong tổng số vốn đầu tư nước
ngoài (FDI) vào nước ta đạt mức khá, trung bình 18,5% giai đoạn 1995-2003.
Tuy nhiên do khung hoang kinh tế khu vực mà nhiều lúc nó dã giảm sut
nhưng đã dần phục hồi với tỷ trọng 19,7% năm 2003.
Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam phải đưa ra các cam
kết mở cửa thị trường và cải cách chính sách do vậy sẽ góp phần thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
Tăng khả năng cạnh tranh trong nước và đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu. Hội
nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá trình tự do hoá thương mại, theo đó các

hàng rào thuế quan và phi thuế quan được giảm và dần loại bỏ. Điều này dẫn
đến cạnh tranh trên thị trường nội địa sẽ ngày một gia tăng.
1.2.Về thị trường trong nước.
Về cơ bản đã xoá bỏ cơ chế lưu thông cũ, chuyển sang cơ chế lưu thông
mới: sự đổi mới chính sách thương nhân, chính sách mặt hàng và cơ chế,
chính sách khác có liên quan đã từng bước tạo dựng môi trường kinh doanh
thông thoáng và thuận lợi; hàng hoá tự do mua bán; thương nhân được tự do
hoạt động theo pháp luật và các quy luật của kinh tế thị trường.
Xoá bỏ ngăn cách thị trường theo khu vực hành chính, khắc phục được tình
trạng “ngăn sông, cấm chợ”, hình thành thị trường thống nhất, khá ổn định và
thông suốt trong cả nước: thị trường thành thị và nông thôn đã từng bước mở
rộng và phát triển mạnh.
Hàng hoá, dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng, trong đó nhiều mặt hàng
đã tăng được khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước nhờ cải
tiến mẫu mã, tăng chất lượng và giảm giá thành, phù hợp với thị hiếu và tập
quán tiêu dùng.
Kiềm chế được lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức hợp lý đã tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển kinh tế-xã hội. Nhờ giá cả phản ánh đúng hơn giá
trị và quan hệ cung -cầu trên thị trường, thực hiện cơ chế một giá mua và bán
bình thường vật tư hàng hoá nên đã giảm mạnh các nhu cầu giả tạo và nạn
đầu cơ, tích trữ vật tư, hàng hoá trong sản xuất và tiêu dùng.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội liên tục tăng qua các
năm: tính theo giá thực tế, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ năm 1989 là
12.1911 triệu đồng, bằng 78,5% so với năm 1988, và tới năm 2004 là 377
ngàn tỷ đồng, tăng 20,4% so với năm 2003.
Từng bước hình thành các kênh lưu thông một số mặt hàng chủ yếu như
xăng dầu, xi măng phân bón, gạo,cà phê, cao su và một số mặt hàng nông sản,
hàng công nghiệp tiêu dùng khác với sự tham gia đông đảo của các loại hình
thương nhân thuộc các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất hàng
hoá phát triển, gắn sản xuất với tiêu thụ, gắn thị trường trong nước với thị

trường quốc tế, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và bảo đảm các nhu cầu sản
xuất và đời sống trong nước.
Kết cấu hạ tầng thương mại ngày càng phát triển theo hướng văn minh, hiện
đại. Năm 1996 cả nước có gần 5.000 chợ đến cuối năm 2004 tăng lên 8.751
chợ với sự đa dạng của loại hình tổ chức kinh doanh và tổ chức quản lý, trong
đó đã và đang xuất hiện một số chợ đầu mối nông sản cấp vùng và cấp tỉnh và
chợ chuyên doanh.
Phát triển được một số đội ngũ thương nhân đông đảo và đa dạng, trình độ
quản lý kinh doanh và chất lượng đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp
ngày càng được cải thiện.
Quản lý nhà nước về thương mại từ trung ương đến địa phương đã có sự đổi
mới bước đầu cả về tư duy, nội dung và phương pháp quản lý. Hành lang
pháp lý cho lưu thông hàng hoá và hoạt động của thương nhân ngày càng
được bổ sung và hoàn thiện.
1.3.Về xuất nhập khẩu.
Hoạt động xuất khẩu liên tục được mở rộng và duy trì được mức phát triển,
tạo thế cho hoạt động ngoại thương Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển.
Tổng mức lưu chuyển ngoại thương từ 2,9 tỷ USD năm 1986 tăng 5,2 tỷ
USD năm 1990 và 58,4 tỷ USD năm 2004 và dự tính đến năm 2006 có thể đạt
79,1 tỷ USD. Trong bối cảnh tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều
biến động, xuất khẩu 2004 đạt mức kỷ lục từ trước tới nay là 26,5 tỷ USD
tăng 31,4% so với 2003, nhưng bên cạnh đó chúng ta còn nhập siêu.
Số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu đã tăng lên nhanh
chóng qua các thời kỳ. năm 1985 chỉ có 40 đơn vị do Nhà nước quản lý trực
tiếp xuất nhập khẩu, nhưng đến nay đã có trên 12000 doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế tham gia, trong đó có các doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thị trường xuất khẩu được mở rộng theo hướng đa dạng hó và đa phương
hoá các quan hệ kinh tế.Quan hệ thương mại mở rộng tới các Châu lục, các
khối kinh tế khu vực và quốc tế. Những năm gần đây do khai thông hai thị

trường mới là Châu Âu và Bắc Mỹ, tỷ trọng của Châu Á có phần giảm dần
nhưng vẫn ở mức cao là 49,4% vào năm 2004. Trong số các nước và vùng
lãnh thổ thuộc Châu Á thì thị trường Nhật Bản(13,2%) và các nước ASEAN
(14,6%) đóng vai trò lớn. Hiện nay, hàng hoá Việt Nam đã thâm nhập ngày
càng nhiều vào thị trường Nhật Bản, ASEAN, Đông Bắc Á, EU và Bắc Mỹ.
Thâm nhập vào thị trường EU, Nhật Bản và Bắc Mỹ đã đem lại hiệu quả cao
cho hoạt động ngoại thương và đã khẳng định sự vươn lên về chất lượng hàng
hoá của ta vì đáp ứng được yêu cầu của khách hàng ở những thị trường khó
tính.
Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu đã có những chuyển biến rất cơ bản tạo ra
nhiều triển vọng mới cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nhờ sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà tỷ trọng của các
nhóm mặt hàng đã qua chế biến tăng dần. Nếu như hàng hoá hàng nguyên liệu
thô năm 1991 chiếm trên 92% thì nay còn chiếm khoảng 43% tổng kim ngạch
xuất khẩu(2004). Chất lượng hàng xuất khẩu đã được nâng lên đáng kể, một
số mặt hàng đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và đã có tác động
tích cực tới chất lượng sản phẩm trong nước. Hiện nay, các mặt hàng gạo, dầu
thô, thuỷ hải sản, hàng dệt may, giày dép, cà phê… của nước ta đã được thừa
nhận đạt hoạc đạt sấp xỉ chất lượng quốc tế và được thị trường nhiều nước ưa
chuộng.
Hoạt động nhập khẩu thời kỳ mở cửa cũng đã có sự chuyển dịch tích cực và
tăng với tốc độ khá. Hiện nay, nước ta nhập khẩu hàng hoá từ trên 130 nước
và vùng lãnh thổ. Thị phần chủ yếu là các nước Châu Á, trong đó Nhật Bản
và Hàn Quốc chiếm vị trí quan trọng. Tỷ trọng thị trường nhập khẩu chủ yếu,
thời kỳ 1990-1995, Châu Á chiếm 66,9%; Đông Âu 10,5%; EU:10% và Mỹ là
0,7% . Và đến năm 2004 Châu Á là 79,1%, Châu Âu là 13,5%, Châu đại
dương: 1,8%, Châu Mỹ là 5%, Châu Phi là 0,6%.
2. Những mặt còn tồn tại và yếu kém.
2.1. Đối với thị trường trong nước.
Sự phát triển của thị trường trong nước còn mang nặng tính tự phát, thiếu

tính bền vững; các mô hình tổ chức thị trường thích hợp chậm chưa xác lập và
triển khai thực hiện. Nhìn chung, thị trường nội địa chưa xác lập được mô
hình tổ chức hoạt động thương mại có tính hệ thống, tính liên kết cao và ổn
định, gắn bó với sản xuất, bám sát với tiêu dùng, phù hợp với dung lượng thị
trường của từng địa bàn cụ thể, bảo đảm lưu thông thông suốt và ngày càng
mở rộng, bảo đảm mua bán thuận lợi và ngày càng phát triển theo hướng văn
minh, hiện đại. Nhiều hàng hoá chưa định hình được kênh lưu thông.
Thị trường và thương mại nộ địa phát triển không đều, chưa hợp lý trên các
địa bàn. Đến nay, trong hệ thống thị trường nội địa thì thị trường vùng Đông
Nam Bộ là phát triển nhất (chiếm 32% thị phần), tiếp theo là thị trương vùng
Đồng bằng Sông Hồng (18%), đồng bằng Sông Cửu Long(17%); các vùng thị
trường kém phát triển nhất là Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc
(10%).
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá nói chung còn yếu. Nhiều mặt hàng công
nghiệp còn đơn điệu, cũ kỹ về mẫu mã và quy cách, chất lượng thấp giá thành
cao; phần lớn mặt hàng nông sản cũng trong tình trạng tương tự, lại ít hoặc
chưa qua chế biến; do dó vị thế phổ biến của hàng hoá là khó cạnh tranh với
hàng nước ngoài, trên thị trường nước ngoài và khó tiêu thụ ngay cả thị
trường trong nước.
Thương nhân tuy đông nhưng chưa mạnh, năng lực và vị thế của đa số các
doanh nghiệp còn yếu: Đa số các doanh nghiệp thương mại thuộc loại doanh
nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít, mạng lưới cơ sở vật chất- kỹ thuật nhỏ bé và nghèo
nàn, công nghệ quản lý, kinh doanh lạc hậu và thiếu các chiến lược phát triển
kinh doanh.
Kết cấu hạ tầng thương mại có bước phát triển nhưng chưa đáp ứng được
yêu cầu. Tuy số chợ phát triển tương đối nhanh, nhất là từ khi có Nghị định
02/2003/NĐ-CP ngày 14/1/2003 của chính phủ về phát triển quản lý chợ
nhưng chủ yếu là chợ hạng III ( cấp độ nhỏ nhất). Hiện tại, còn gần 3.500 xã
chưa có chợ . Trong tổng số chợ đang hoạt động, nhiều chợ đã xuống cấp, cơ
sở vật chất- kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu.

Thể chế quản lý về lưu thông hàng hoá và thị trường trong nước chưa hoàn
chỉnh: Như công tác dự báo cung cầu và giá cả chưa đáp ứng tốt yêu cầu chỉ
đạo điều hành điều tiết về lưu thông hàng hoá ở thị trường trong nước cũng
như cầu của doanh nghiệp và của người sản xuất. Thiếu những quy định cụ
thể về cơ chế, chính sách phát triển các mô hình tổ chức thị trường và các
kênh lưu thông. Trật tự thị trường và văn minh thương mại vẫn còn nhiều tồn
tại và bức xúc; kỷ cương, pháp luật trong kinh doanh còn bị vi phạm; tình
trạng buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất
lượng…
2.2. Đối với xuất- nhập khẩu.
Dù đã đạt được những thành quả to lớn, sự nghiệp đổi mới cơ chế, chính
sách xuất- nhập khẩu vẫn còn những tồn tại nhất định:
Chậm ban hành các chính sách ưu đại đầu tư cho sản xuất hàng xuất
khẩu.Thiếu nhất quán trong đổi mới xuất nhập khẩu có lúc mở rộng, lúc thu
hẹp, có lúc thiếu công khai, minh bạch, thay đổi hàng năm (từ2001về trước),
cơ chế phân giao chỉ tiêu gây khó khăn, bị động cho doanh nghiệp và cơ quan
quản lý.
Các biện pháp bảo hộ phi thuế quan quá dài đối với một số mặt hàng sản
xuất trong nước (đường, thép xây dựng, ô tô ) đã gây tư tưởng ỷ lại, làm giảm
sức cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước, làm ảnh hưởng đến lợi ích
người tiêu dùng.
Đào tạo cán bộ có trình độ về kinh tế thị trường, kinh doanh quốc tế, pháp
luật kinh doanh quốc tế và tư vấn pháp luật kinh doanh quốc tế chưa được
nhà nước thực sự quan tâm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu đổi mới trong hoạt
động xuất nhập khẩ; làm cho các doanh nghiệp Việt Nam ngại tham gia các
vụ kiện trong thương maik quốc tế.
Các cơ quan quản lý, cơ quan chủ quản vẫn còn có thói quen trực tiếp can
thiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, gây khó khăn,làm doanh nghiệp thiếu tự
chủ trong kinh doanh.
Chưa theo kịp và đáp ứng các yêu cầu của doanh nghiệp, các ngân hàng

thương mại chưa thực sự coi doanh nghiệp là khách hàng, chua phát huy đầy
đủ vai trò phục vụ hoạt động tín dụng xuất khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm
nhập siêu.
Công tác thông tin dự báo về tình hình thị trường, diễn biến của quan hệ
cung cầu và các yếu tố tác động đến giá cả chưa được tổ chức thành hệ thống,
chưa phục vụ tốt hoạt động xuất nhập khẩu, làm cho doanh nghiệp Việt Nam
chịu nhiều thua thiệt về giá.
Được hình thành ở tring ương và một số tỉnh, công tác xúc tiến thương mại
chủ yếu mới ở khâu tổ chức hội chợ triển lãm và tham quan khảo sát thị
trường, chưa có chính sách xúc tiến dài hạn, còn nhiều lúng túng trong việc tư
vấn cho doanh nghiệp, xây dựng và quản bá thương hiệu hàng Việt Nam trên
thị trường thế giới, chưa làm gia tăng giá trị của hang xuất khẩu của Việt
Nam.
2.3. Đối với hội nhập quốc tê.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chưa vững chắc, tỷ trọng nhập siêu vẫn lớn:
tỷ lệ tăng trưởng giữa các năm còn nhiều chênh lệch, tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu 5 năm 1996-2000 đạt 21,5%, thấp hơn 6,5% so với mức đề ra (28%).
Sự chuyển dịch tỷ trọng giữa các thị trường còn hạn chế: tuy nhiên Việt
Nam đã có quan hệ thương mại với tất cả các châu lục nhưng thị trường thị
trường Châu Á vẫn chiếm tỷ lệ cao: khoảng 48% giá trị xuất khẩu và trên
70% giá trị nhập khẩu.
Khả năng cạnh tranh còn yếu cả ở tầm quốc gia lẫn doanh nghiệp và sản
phẩm: phần lớn hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đều có sức cạnh tranh yếu
do công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, giá thành cao, chất lượng không ổn
định, mẫu mã, chủng loại nghèo nàn, khả năng giao hàng không vững chắc,
dịch vụ kém.
Công tác nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại còn yếu: các doanh
nghiệp của Việt Nam còn rất lúng túng và thụ động trong sản xuất và kinh
doanh do thiếu thông tin về thị trường, xúc tiến thương mại chưa được quan
tâm đúng mức, chính sách xúc tiến thương mại hiện hành vẫn tồn tại khá

nhiều bất cập và trồng chéo nên ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của
công tác xúc tiến.
II. Phương hướng và giải pháp phát triển thương mại trong nhưng năm
tiếp theo.
1.Về thị trường trong nước.
Theo quyết định 311/QĐ-TTg ngày càng 20/03/2003 của thủ tướng chính
phủ, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển thị trường và thương mại nội địa đến
năm 2010 là:”Sắp xếp, mở rộng thị trường trong nước trong nước gắn với
ngoài nước, bảo đảm lưu thông hàng hoá thông suốt, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu sản xuất và đời sống; đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá, nhất là nông
sản, thúc đẩy phát triển sản xuất, xuất khẩu; phát huy vai trò tích cực của các
mô hình thương mại tiên tiến, các loại hình thương nhân thuộc các thành phần
kinh tế; tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, an toàn và thuận lợi, góp
phần thực hiện lộ trình hội nhâp khu vực và thế giới, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế- xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, trong đó một số mục tiêu và
nhiệm vụ cụ thể cần đạt: Duy trì nhịp độ tăng trưởng về tổng mức bán lẻ 14-
15%/năm thời kỳ 2006-2010; tạo ra nhiều mặt hàng đủ sức cạnh tranh trên thị
trường trong và ngoài nước; chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 5%/năm, hạn
chế mức độ gia tăng cánh kéo giữa giá hàng công nghiệp dịch vụ với hàng
nông sản. Và để thực hiện các mục tiêu nêu trên, cần thực hiện những giải
pháp chủ yếu sau.
Xây dựng và phát triển các mô hình tổ chức thị trường nội địa phù hợp với
từng địa bàn và từng mặt hàng: Xây dựng mô hình các hệ thống tổ chức lưu
thông liên kết dọc theo nghành, nhóm hoạc mặt hàng với nòng cốt là các
doanh nghiệp lớn có khả năng tích tụ và tập trung vốn, có mạng lưới mua bán
gắn sản xuất với tiêu dùng, có mối liên kết ổn định và lâu dài.
Phát triển rộng mạng lưới kinh doanh, có nhiệm vụ mua gom nông sản và
bán lẻ vật tư và hàng tiêu dùng cho nông dân, tạo tiền đề về cơ sở vật chất- kỹ
thuật để triển khai thực hiện các phương thức mua bán theo hợp đồng, giữa

các doanh nghiệp với người sản xuất, trở thành lực lượng quan trọng tham gia
vào các hoạt động của các chợ, các siêu thị, trung tâm thương mại và trung
tâm bán buôn, bán lẻ.
Hình thành và phát triển các hệ thống phân phối hàng hoá đối với những
mặt hàng thiết yếu như thép, phân bón, thuốc chữa bệnh…với sự tham gia của
các thương nhân thuộc các thành phần kinh tế , có doanh nghiệp nòng cốt
trong lĩnh vực tiêu thụ nông sản và phân trung tâm phối hợp vật tư, hàng tiêu
dùng đến các xã.
Hình thành từng bước các tập đoàn, các tổng công ty thương mại lớn theo
hướng văn minh, hiện đại về mạng lưới kinh doanh, cớ cấu tổ chức, phương
thức hoạt động và công nghệ quản lý, được tổ chức hệ thống, kinh doanh đa
ngành hoặc chuyên ngành, vừa ở thị trường nội địa vừa xuất nhập khẩu, thực
hiện các mối liên kết nội bộ của hệ thống và giữa hệ thống với sản xuất.
Đổi mới tổ chức hoạt động của các hợp tác xã thương mại- dịch vụ theo
hướng: khuyến khích phát triển các mô hình HTX đa chức năng, kinh doanh
tổng hợp, HTX dịch vụ, HTX kinh doanh và quản lý chợ…
Khuyến khích, tạo điều kiện các loại hình thương mại tư nhân phát triển
một cách ổn định, lâu dài, bền vững, có hiệu quả; chú trọng các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể trên thị trường nông thôn ( huyện, xã);
Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống kết cấu hạ tầng phục
vụ thương mại trên địa bàn, khẩn trương quy hoạch, phát triển mạng lưới chợ,
siêu thị, trung tâm thương mại…đối với thị trường nông thôn, ở thị xã và
thành phố.
Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin thị trường và xúc tiến thương mại
và trong nước bao gồm các công thông tin về thị trường quốc tế và thị trường
nội địa phục vụ các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội, các tổng công ty,
công ty lớn; tập trung hình thành trung tâm phân tích, xử lý và cung cấp thông
tin thị trường đến các doanh nghiệp và người sản xuất kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về thương mại. Cần sớm
ban hành các Nghị định hướng dẫn Luật Thương mại( sửa đổi ), Luật

HTX(sữa đổi), Luật cạnh tranh…Nâng cao chất lượng, hiệu quả điều tiết, điều
hành vĩ mô đối với thị trường trong nước, nhất là thị trường và giá cả các mặt
hàng thiết yếu, đề xuất giải pháp hợp lý, có tính khả thi để xử lý các biến
động của thị trường khi cần thiết.
2.Về hội nhập quốc tế.
Theo Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị đã đề ra chín nhiệm vụ quan trọng
cần được thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Tiến hành rộng
rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích về hội nhập kinh tế quốc tế .
Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể về hội
nhập kinh tế quốc tế
Chủ động và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ
và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh phục vụ hội nhập kinh tế
quốc tế. Tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Lập kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối
ngoại với kinh tế đối ngoại. Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với
nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng.
Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới(WTO).
Và để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên thì cần thực hiện tốt các định hướng
sau:
Tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh tế của Nhà
nước: là hai quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau,
đổi mới bên trong tạo tiền đề và điều kiện thúc đầy hội nhập; hội nhập đặt ra
yêu cầu phải đẩy mạnh đổi mới, cải cách bên trong, tạo điều kiện thuận lợi
thúc đầy quá trình đổi mới đó.
Cải thiện chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính
chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.

Giải quyết vấn đề mất việc làm và thay đổi ngành nghề của người lao
động.
Tăng cường cải cách hành chính.
3.Về xuất nhập- khẩu
Định hướng xây dựng cơ chế quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá sau
năm 2005. Trên cơ sở Luật Thương mại bổ sung sửa đổi năm 2005, lộ trình
hội nhập kinh tế quốc tế, nhịp độ tăng trưởng cao của nền kinh tế trong nước,
kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, yêu
cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải xây dựng một cơ chế điều hành
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá ổn định, lâu dài có hiệu lực thi hành, bổ sung
sửa đổi khi cần thiết cho những năm sau.
Nguyên tắc cơ bản xây dựng cơ chế quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá là liên tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng xoá bỏ các thủ tục
phiền hà, thực hiện công khai, minh bạch, ổn định môi trương pháp lý
Tổ chức thực hiện các pháp lệnh về tự vệ, pháp lệnh về chống trợ cấp hàng
hoá nhập khẩu vào nước ta, pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá. Sử dụng
hữu hiệu các công cụ điều hành nhập khẩu như hạn ngạch thuế quan, hàng
rào kỹ thuật theo các định chế của WTO về hàng rào kỹ thuật, chống trợ cấp,
chống phá giá.
Có các chính sách hỗ trợ xuất khẩu phù hợp với quy định của WTO về trợ
cấp xuất khẩu và trợ cấp nông nghiệp nhằm giúp các cá doanh nghiệp trong
khâu nghiên cứu khoa học, công nghệ mới, giống mới …
Hệ thống hoá, tuyên truyền nâng cao nhận thức về các loại rào cản của các
nước nhập khẩu cho các nhà sản, xuất khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu , cải thiện chất lượng hàng hoá tránh rủi ro cho doanh nghiệp khi thực
hiện các hợp đồng xuất khẩu.
Phần III. Phương pháp xây dựng kế hoạch phát triển
thương mại.
I.Phương pháp xây dựng kế hoạch.
1. Khái niệm.

Kế hoạch phát triển thương mại là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch
hoá phát triển kinh tế- xã hội, nó đưa ra các mục tiêu về tài chính thương mại
quốc tế cần đạt được trong một thời kỳ kế hoạch và những giải pháp chính
sách cần thiết nhằm cải thiện cán cân Thương Mại và Tài chính quốc tế.
Nhiệm vụ: Xác định định hướng phát triển ngoại thương.
Xác định mục tiêu, chỉ tiêu về xuất khẩu hàng háo.
Xuất định các mục tiêu, chỉ tiêu nhập khẩu hàng hoá
Xác định các mục tiêu về cán cân thương mại quốc tế
Phương pháp xây dựng kế hoạch phát triển thương mại sử dụng các
phương pháp sau:
- Xây dựng kế hoạch 5 năm
- Xây dựng kế hoạch hàng năm
- Xây dựng kế hoạch ngành
- Xây dựng kế hoạch Xuất nhập khẩu…
Các kế hoạch thường được xây dựng vào thời điểm cuối năm cụ thể là
thể là tháng 12 phải xây dựng song, kế hoạch cho tháng 1 và cho cả năm đối
với kế hoạch hàng năm. Kế hoạch năm thứ nhất và cho cả 5 năm đối với kế
hoạch 5 năm.
Kế hoạch được xây dưng do một đơn vị thực hiện cùng với các thành
phần tham gia, như kế hoạch Xuất nhập khẩu thành phần tham gia như vụ Kế
hoạch và đầu tư, vụ Xuất nhập khẩu, vụ Thị trường…Sau khi kế hoạch được
xây dựng sẽ được đưa lên Bộ trưởng Bộ Thương Mại quyết và sau đó được
Bộ trưởng Bộ Thương Mại trình lên Chính phủ duyệt.
2.Kế hoạch Xuất khẩu.
Kế hoạch Xuất khẩu đưa ra các chỉ tiêu về quy mô và cơ cấu, tỷ trọng
của kim ngạch xuất khẩu, tổng kim ngạch xuât khẩu, tốc độ tăng kim ngạch
xuât khẩu, mức tăng kim ngạch xuất khẩu trong kỳ kế hoạch.
Để xây dựng kế hoạch thì có thể sử dụng các phương pháp như sau:
* Phương pháp xu thế: đó là xây dựng hệ thống số liệu các kỳ gốc.
(Xo)

Thực hiện hồi quy bậc nhất và xác đinh tốc độ tăng trưởng trung bình
(g)
• Căn cứ vào chiến lược và kế hoạch dài hạn về phát triển xuất
khẩu để xác định tốc độ tăng
• Xác định các danh mục mặt hàng chủ yếu xuất khẩu.
- Nhóm sản phẩm thô.
+ Nhóm khai thác tài nguyên khoáng sản: dầu mỏ, khí đốt, than, các loại
quặng
+ Sản phẩm các ngành Nông- Lâm- Ngư nghiệp
- Nhóm sản phẩm chế biến.
+ Dệt may
+ Giầy da
+ Hàng chế biến Nông sản, thuỷ sản
+ Hàng cơ khí, Kim khí
+ Hàng thủ công mỹ nghệ
• Xác định danh mục thị trường xuất khẩu
Mỗi nhóm sản phẩm hay sản phẩm nào đều có thị trường riêng cho nó và
tại thị trương này thì nó có thể phát huy lợi thế về nó: có các loại thị trường;
thị trường Truyền thống; thị Trường tiềm năng, thị Trường mới. Và đối với
mỗi loại thị trường và ứng với nó là nhóm sản phẩm thì nó có các công tác
xúc tiến hợp lý.
- Thị trư Truyền thống thì có thể khôi phục ( Nga, Đông Âu )
- Thị trường Mới thì nên mở rộng
- Cần chú trọng thị Trương tiềm năng.
II.Thực trạng hoạt động xuất khẩu của ngành thuỷ sản.
Từ khi nước ta chưyển đổi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp
sang cơ chế thị trường đã tạo nên động lực mạnh mẽ cho các thành phần kinh
tế ở Việt Nam phát triển trong đó có Thuỷ Sản. Và đặc biệt, từ sau Đại hội
Đảng lần thứ 6 và sau nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 5 khoá 7, ngành thuỷ sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn trong sự

nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế của đất nước. Ngành thuỷ sản đã trở
thành ngành kinh tế có giá trị xuất khẩu lớn nhất ở nước ta, có những đóng
góp rất lớn đối với nền kinh tế. Năm 1996, Việt Nam đã đứng thứ 25 trong
hàng ngũ các nước xuất khẩu lớn nhất thế giới và chiếm tỷ trọng 1,5% xuất
khẩu thuỷ sản thế giới, và đến năm 2001, xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,777 tỷ
USD, gấp 158 lần năm 1980. Vươn lên đứng hàng thứ 2 Đông Nam Á ( sau
Thái Lan) về xuất khẩu thuỷ sản.
* Về kim ngạch và tỷ trọng so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Về sản lượng thuỷ sản đã tăng lên từ 558.743 tấn vào năm 1981 tăng lên
tới 890.600 tấn vào năm 1990. Xuất khẩu thuỷ sản cũng tăng nhanh, từ 11 tr
USD năm 1980 lên 239 tr USD năm 1990, và nó đã trở thành một trong ba
mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam cùng với Dầu thô và gạo. Năm 1991,
về giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã đứng hàng thứ 31 thế giới và thứ
năm trong khối ASEAN.
Kim ngạch xuất khẩu tăng và ổn định, giai đoạn 1991-1995 giá trị kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng 2,2 lần từ 285,4 tr USD lên 621, 4 tr USD; giai
đoạn 1996-2000 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cũng đạt mức tăng gấp đôi.

×