Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của lỗ tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.01 KB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI








LÊ THỊ MỸ HẢO


HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA LỖ TẤN


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Hệ đào tạo: Chính quy
Khoá học: 2011 - 2015






ĐỒNG HỚI, NĂM 2015

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI









LÊ THỊ MỸ HẢO


HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA LỖ TẤN


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Hệ đào tạo: Chính quy
Khoá học: 2011 - 2015


NGƯỜI HƯỚNG DẪN
ThS. NGUYỄN THỊ QUẾ THANH










ĐỒNG HỚI, NĂM 2015
Li cm n
Li cm nLi cm n
Li cm n




Xin kính gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo – Th.S Nguyễn Thị Quế
Thanh đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình
thực hiện khóa luận.
Xin chân thành bày tỏ lòng kính biết ơn sâu sắc tới Quý Thầy, Cô giáo
Khoa Khoa học Xã hội, Quý Thầy, Cô giáo của Trường Đại học Quảng Bình
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em bồi dưỡng tri thức và hoàn thành khóa
học của mình.
Xin được bày tỏ lòng tri ân sâu nặng tới gia đình và bạn bè đã chia sẻ,
động viên, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
Trong quá trình thực hiện khóa luận này do điều kiện thời gian cũng
như năng lực còn hạn chế nên chắc chắn còn tồn tại nhiều thiếu sót, mong
nhận được sự góp ý của Quý Thầy, Cô giáo để đề tài hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả

Lê Thị Mỹ Hảo


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tôi thực hiện, dưới sự

hướng dẫn của cô giáo – Th.S Nguyễn Thị Quế Thanh. Các tài liệu, những nhận định
trong khoá luận là hoàn toàn trung thực. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội
dung khoa học của công trình này.
Đồng Hới, tháng 6 năm 2015
Tác giả khóa luận

Lê Thị Mỹ Hảo
MỤC LỤC

MỞ DẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Đóng góp của khóa luận 5
6. Bố cục khóa luận 5
NỘI DUNG 6
CHƯƠNG 1. GIỚI THUYẾT CHUNG 6
1.1. Khái niệm 6
1.1.1. Nhân vật văn học 6
1.1.2. Hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học 6
1.1.2.1. Hình tượng nhân vật 6
1.1.2.2. Hình tượng nhân vật nữ 7
1.2. Lỗ Tấn – bậc thầy về truyện ngắn 8
1.2.1. Vài nét về tiểu sử 8
1.2.2. Sự nghiệp văn học 10
1.2.3. Giới thuyết về truyện ngắn và truyện ngắn của Lỗ Tấn 12
CHƯƠNG 2. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ THỂ HIỆN TRONG QUAN
NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI 16
2.1. Số phận bất hạnh 17

2.1.1. Bất hạnh trong hôn nhân và gia đình 17
2.1.2. Bất hạnh bởi những hủ tục phong kiến 24
2.2. Phẩm chất tốt đẹp 30
2.2.1. Lòng nhân hậu và đức hi sinh 30
2.2.2. Niềm tin cuộc sống và khát khao hạnh phúc 33
2.2.3. Ý thức phản kháng 38
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 42
CHƯƠNG 3. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN
NGHỆ THUẬT 44
3.1. Nghệ thuật miêu tả 44
3.1.1. Miêu tả ngoại hình 44
3.1.2. Miêu tả hành động 50
3.1.3. Miêu tả cảnh vật 54
3.2. Ngôn ngữ nhân vật 57
3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại 58
3.2.2 Ngôn ngữ độc thoại 62
3.3. Giọng điệu 64
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 68
KẾT LUẬN 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72


1
MỞ DẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Trung Quốc có bề dày lịch sử hàng ngàn năm. Từ lâu, chúng ta được
tiếp xúc với các tác phẩm văn học Trung Quốc như: Vọng Lư sơn bộc bố, Tĩnh dạ tứ,
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lí Bạch, Mao ốc vị thu
phong sở phá ca, Thu hứng của Đỗ Phủ, Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Cố
hương, Thuốc của Lỗ Tấn… Và cái tên Lỗ Tấn đã trở nên rất gần gũi quen thuộc của

nhiều thế hệ độc giả Việt Nam.
Lỗ Tấn là một trong số không nhiều nhà văn có đề tài hấp dẫn độc giả bao thế
hệ. Lỗ Tấn không chỉ là gương mặt tiêu biểu của văn học hiện đại Trung Hoa mà còn
là nhà văn lớn của thế giới. Sáng tác của Lỗ Tấn đã góp phần giúp dân tộc mình thoát
khỏi “liệt căn tính quốc dân” và trở thành đề tài lớn của nhiều nhà nghiên cứu văn học.
Tìm hiểu về nhà văn Lỗ Tấn, chúng tôi nhận thấy đề tài người phụ nữ xuất hiện
khá nhiều trong sáng tác của Lỗ Tấn, đặc biệt là qua hai tập truyện ngắn “Gào thét” và
“Bàng hoàng”. Lỗ Tấn là nhà văn có cái nhìn tiến bộ về phụ nữ. Hình ảnh người phụ
nữ hiện lên trong tác phẩm của ông đầy bi kịch nhưng cũng tiềm ẩn sức mạnh của sự
phản kháng. Lỗ Tấn trân trọng, lên tiếng đòi quyền bình đẳng, tự do cho họ và gián
tiếp chỉ ra con đường giải phóng phụ nữ cũng là để giải phóng nhân dân.
Nghiên cứu đề tài “Hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn”
giúp chúng tôi nhận thức rõ hơn về hình ảnh người phụ nữ Trung Quốc nói chung và
phụ nữ trong sáng tác của Lỗ Tấn nói riêng. Đề tài này sẽ là nguồn tư liệu phục vụ cho
việc học tập và giảng dạy sau này. Mặt khác, trong quá trình nghiên cứu đề tài, người
viết sẽ học tập ở Lỗ Tấn một tấm lòng cao cả, tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, can đảm.
Với tất cả những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Hình tượng nhân vật nữ
trong truyện ngắn của Lỗ Tấn” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. Chúng tôi hy vọng
rằng đây sẽ là một tài liệu bổ ích giúp bạn đọc có nhu cầu tìm hiểu thế giới nhân vật vô
cùng phong phú và hấp dẫn trong truyện ngắn của Lỗ Tấn. Đồng thời giúp cho độc giả
cũng như bản thân người thực hiện đề tài thêm lòng kính yêu, quý trọng những tinh
hoa nghệ thuật được chắt lọc từ cuộc đời và tâm huyết của nhà văn Lỗ Tấn, cũng từ đó
việc học tập và nghiên cứu về Lỗ Tấn sẽ trở nên dễ dàng hơn.



2
2. Lịch sử vấn đề
Là nhà văn hiện thực vĩ đại của Trung Quốc, Lỗ Tấn đã để lại cho dân tộc
Trung Hoa nói riêng và nhân loại nói chung một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú,

đặc biệt là truyện ngắn với hai tập truyện tiêu biểu Gào thét và Bàng hoàng. Với
những giá trị vốn có của nó đã có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá, nhận xét về
truyện ngắn của ông và hầu như ở các công trình nghiên cứu đó đều có sự thống nhất
đặt ông ở vị trí “bậc thầy của truyện ngắn”. Xem xét tình hình nghiên cứu truyện ngắn
của Lỗ Tấn, có những công trình nghiên cứu giá trị nội dung, có công trình nghiên cứu
nghệ thuật biểu hiện. Riêng về hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn
có một số công trình nghiên cứu đề cập đến nhưng chưa thực sự hệ thống, trong đó
điển hình như:
Trong Lỗ Tấn – Tác phẩm và tư liệu, Anh Đức đã nói lên cảm xúc của mình khi
lần đầu tiên đọc Lễ cầu phúc. “Giữa cảnh tượng tưng bừng của lễ cầu phúc ấy, Lỗ Tấn
dẫn ta tới gặp một người vô phúc nhất, là chị Tường Lâm, với cái câu hỏi rùng rợn
của chị: Ông à… ông là người có chữ nghĩa, tôi muốn hỏi một điều: con người ta chết
rồi thì liệu còn linh hồn nữa không ông?” [17, 359]. Lỗ Tấn đã dành mối quan tâm đặc
biệt đến những con người có số phận bất hạnh trong xã hội. Và qua đó ta hiểu được
“bao trùm lên tất cả truyện ngắn Lỗ Tấn là tình yêu thương con người, là tinh thần
nhân đạo và nhân bản thấm đậm nơi ông” [17, 356].
Lương Duy Thứ trong Bài giảng Văn học Trung Quốc đã nhắc đến nỗi đau day dứt
tâm hồn thím Tường Lâm cho đến khi chết có thể nói là “muốn làm nô lệ mà không
được”. Trong giáo trình này, Lương Duy Thứ cũng đã khẳng định: “Lỗ Tấn đã nêu lên
một vấn đề có ý nghĩa: yêu cầu giải phóng cá tính và tự do hôn nhân không thể giải quyết
đơn độc và tách rời yêu cầu giải phóng xã hội. Cho nên, cô nữ sinh Tử Quân đã dũng cảm
đứng lên đấu tranh giành tình yêu tự do và hôn nhân tự chủ” [18, 311].
Trong Lỗ Tấn – Linh hồn dân tộc Trung Hoa hiện đại, Trần Lê Hoa Tranh cũng
đã đi vào tìm hiểu bi kịch của người phụ nữ qua truyện ngắn tiêu biểu của Lỗ Tấn. Ở
công trình này, tác giả đã khẳng định bằng ngòi bút của mình Lỗ Tấn không ngần ngại
hào hứng xây dựng hình ảnh người phụ nữ mới của Trung Quốc tương lai độc lập, tự
tin, không lệ thuộc vào người khác, có quyền làm chủ vận mệnh của mình. Trần Lê


3

Hoa Tranh cũng nhận định về những người phụ nữ biết đấu tranh cho quyền lợi của
mình: “Ái là người phụ nữ mạnh mẽ, đốp chát và triệt để. Cô quyết tâm đi tìm lẽ công
bằng cho cuộc hôn nhân đã tan vỡ của mình. Cô là hình tượng phụ nữ đầu tiên của Lỗ
Tấn dám đứng lên chống lại sự bất công, áp bức của lễ giáo phong kiến, sự đè nén vô
nhân đạo, sự tôn vinh chế độ nam quyền” [19, 60]. Và cũng ở công trình này, tác giả
Trần Lê Hoa Tranh tiếp tục nhấn mạnh về số phận bất hạnh của người nông dân trong
đó có hình ảnh của người phụ nữ: “Hình ảnh chị Tư Thiền và chị Tường Lâm đều là
chân dung những người phụ nữ nông dân bất hạnh nhất trong văn học hiện đại Trung
Quốc: chồng chết, ở vậy nuôi con, con chết, họ cô đơn ngay giữa đồng loại của mình
vì không tìm được sự cảm thông” [19, 59].
Trong Lí luận văn học Mác – Lênin tập III, Phương Lựu cho rằng: “viết “Lễ
cầu phúc”, nếu không liên hệ với mấy nghìn năm đen tối của thống trị phong kiến,
vạch ra sự đàn áp của những thứ tôn pháp lễ giáo, đạo đức, mê tín trong chế độ phong
kiến đối với người phụ nữ bình thường, mà chỉ căn cứ vào cuộc sống trước mắt, từ
tình cảm bơ vơ của một người phụ nữ nghèo khổ, rồi viết những chuyện như chị Tường
Lâm lo sợ, cúng tiền “quyên” ngạch cửa để chuộc tội, bị Lỗ Tấn khinh miệt… thì dẫu
có viết bi thảm hơn nữa, ý nghĩa câu chuyện nhất định cũng nghèo nàn” [8, 669]. Đọc
một vài truyện ngắn tiêu biểu của Lỗ Tấn, trước mắt người đọc hiện ra không phải chỉ
là một vài mẫu đoạn nhỏ trong đời người, mà buộc chúng ta phải liên tưởng đến một
giai đoạn lịch sử.
Trong giáo trình Văn học thế giới tập 2, khi giới thiệu về tập Bàng hoàng tác
giả có viết: “Hai loại nhân vật được chú ý khắc họa nhiều nhất ở trong tuyển tập này
là phụ nữ và trí thức” [22, 235]. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra nhận xét: “Lễ cầu phúc và
Ly hôn là hai tác phẩm xuất sắc của Lỗ Tấn viết về người phụ nữ nông thôn. Thím
Tường Lâm cũng như cô Ái là những người phụ nữ nông dân vốn mạnh mẽ, khát khao
hạnh phúc song cuối cùng đều chịu thất bại trước uy quyền của lễ giáo và pháp luật
phong kiến” [22, 235]. Qua đó cho thấy, tác giả đã miêu tả hết sức sinh động những
xung đột, mâu thuẫn của nhân dân và xã hội phong kiến, đồng thời nói lên không khí
ngột ngạt của xã hội đương thời.
Từ những tư liệu trên cho thấy, các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của

Lỗ Tấn thì rất nhiều, tuy nhiên chúng tôi chưa nhận thấy một công trình nghiên cứu
chuyên sâu và có hệ thống về hình tượng nhân vật nữ. Chúng tôi chọn đề tài “Hình


4
tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn” để góp thêm tiếng nói vào việc
nghiên cứu về nhà văn lỗi lạc này. Hi vọng khóa luận tốt nghiệp của chúng tôi sẽ đóng
góp một hướng tiếp cận mới khi nghiên cứu về truyện ngắn của Lỗ Tấn. Trong quá
trình triển khai đề tài chúng tôi sẽ tiếp thu có chọn lọc ý kiến của các thế hệ đi trước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Sáng tác của Lỗ Tấn rất phong phú và đa dạng. Do điều kiện nên chúng tôi chỉ
khảo sát hai tập truyện ngắn Gào thét và Bàng hoàng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này chúng tôi vận dụng phối hợp các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp lịch sử - xã hội
Khi nghiên cứu văn học chúng ta cần phải đặt vấn đề nghiên cứu vào thời điểm
mà hiện tượng văn chương đó ra đời và phát triển, xuất phát từ lịch sử - xã hội để khai
thác những nội dung lịch sử - xã hội của tác phẩm văn học. Có như vậy mới đảm bảo
tính khách quan khoa học, chống khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật và xuất phát
từ lập trường phục vụ chính trị, phục vụ đấu tranh xã hội.
4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Người viết sử dụng phương pháp này để so sánh, đối chiếu hình tượng nhân vật
nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn với các nhà văn khác nhằm chỉ ra những điểm tương
đồng cũng như sự sáng tạo, sự mới mẻ của Lỗ Tấn.
4.3. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Trên cơ sở những tư liệu đã được khảo sát, người viết tập trung đề cập vào
những vấn đề cần thiết nhất, có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Để làm sáng rõ các

luận điểm cần triển khai trong khóa luận, chúng tôi sẽ đi vào phân tích các dẫn chứng
bằng một số tác phẩm tiêu biểu, sau đó tiến hành tổng hợp, khái quát và đi đến khẳng
định vấn đề.


5
Ngoài những phương pháp nêu trên, người viết còn sử dụng một số phương
pháp bổ trợ khác như phương pháp khảo sát, phương pháp diễn dịch kết hợp quy nạp,
phương pháp chứng minh luận điểm… Những phương pháp này sẽ có tác dụng làm
cho những vấn đề đưa ra sẽ được giải quyết một cách rõ ràng, sâu sắc hơn và hoàn
thiện hơn.
5. Đóng góp của khóa luận
Qua khóa luận này, người viết muốn chỉ ra những đóng góp cũng như vị trí của
Lỗ Tấn đối với nền văn học hiện đại Trung Quốc. Phân tích những đặc trưng hình
tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của ông. Đồng thời đưa ra cách tiếp cận mới về
nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Lỗ Tấn.
Có được những đóng góp trên, khóa luận sẽ là một tài liệu bổ ích cho việc học
tập, nghiên cứu và giảng dạy truyện ngắn của Lỗ Tấn ở Việt Nam.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận được cấu trúc
thành ba chương như sau:
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Hình tượng nhân vật nữ thể hiện trong quan niệm nghệ thuật về con người
Chương 3: Hình tượng nhân vật nữ nhìn từ phương diện nghệ thuật


6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIỚI THUYẾT CHUNG

1.1. Khái niệm
1.1.1. Nhân vật văn học
“Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật. Nó mang tính ước lệ, không đồng
nhất với con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần
với nguyên mẫu có thật. Nhân vật là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về
con người; nó có thể được xây dựng trên cơ sở quan niệm ấy” [1, 242].
Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học.
Nhân vật có thể có tên riêng như Thúy Kiều, Kim Trọng, Xuân Tóc Đỏ, Chí Phèo, Bá
Kiến, A Phủ, Mị… hoặc không có tên riêng mà nhà văn đặt ra một cách ước lệ như
“thằng bán tơ” (trong Truyện Kiều của Nguyễn Du), “chị vợ nhặt” (trong Vợ nhặt của
Kim Lân)… Nhân vật không nhất thiết phải mang hình hài của con người mà có thể
đội lốt vật, muông thú, cây cỏ hay lốt của những sinh thể hoang đường, có khi được sử
dụng như một ẩn dụ, không chỉ một người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi
bật nào đó trong tác phẩm.
Là phương tiện nghệ thuật nhằm khai thác những nét thuộc đặc tính con người,
nhân vật có ý nghĩa trước hết ở các loại văn tự sự và kịch, ở sân khấu, điện ảnh, điêu
khắc, đồ họa. Các thành tố tạo nên nhân vật gồm: tinh thần của cá nhân, tư tưởng, các
lợi ích đời sống, thế giới cảm xúc, ý chí, các hình thái ý thức và hành động. Nhân vật
là phương tiện khái quát tính cách số phận con người.
1.1.2. Hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học
1.1.2.1. Hình tượng nhân vật
Theo góc độ văn học và nghệ thuật, hình tượng được hiểu là sự phản ánh hiện
thực một cách khái quát về nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh
động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính.
Hình tượng văn học trong tác phẩm luôn là phương tiện hình thức để nhà văn
bộc lộ giá trị tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình. Mỗi nhà văn khi cầm bút
phải không ngừng sáng tạo tìm tòi để xây dựng hình tượng nhân vật tiêu biểu đặc sắc.


7

Không phải tác phẩm văn học nào cũng có hình tượng văn học, không phải nhân vật
nào trong tác phẩm văn học đều trở thành hình tượng nhân vật văn học. Để trở thành
hình tượng nhân vật phải là: “tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình” [7, 161].
Nghĩa là nhân vật văn học ấy phải có sức tập trung khái quát cao. Nhân vật ấy phải có
những nét chung nhất của tầng lớp, giai cấp… mà mình đại diện. Và bối cảnh xã hội
mà nhân vật ấy xuất hiện phải là bối cảnh điển hình của một vùng, một nơi nào trong
một thời điểm nhất định.
Như vậy, hình tượng nhân vật là nhân vật điển hình trong tác phẩm văn học,
mang đậm nét khái quát của tầng lớp, giai cấp của nhân vật ấy, đồng thời là nhân vật
có những nét riêng đặc biệt, xuất hiện trong bối cảnh điển hình mà tác phẩm văn học
ấy thể hiện.
1.1.2.2. Hình tượng nhân vật nữ
Khi nhắc đến hình tượng nhân vật nữ, chúng ta chợt nhớ đến hai câu thơ bất hủ
của Nguyễn Du:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Nàng Kiều của Nguyễn Du, người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, chị
Dậu của Ngô Tất Tố hay nàng Anna Karenina của Lev Tonstoi, Tachiana của
Pushkin… mỗi người đều đau những nỗi đau riêng của mình, không có nỗi đau nào
giống với nỗi đau nào. Tất cả đều là những phận đàn bà bạc mệnh. Đã từ lâu trong văn
học thế giới cũng như văn học Trung Quốc, thân phận người phụ nữ luôn giữ một vị trí
trung tâm và là đối tượng chính để tác giả thể hiện quan niệm nhân sinh của mình. Từ
trong bản chất, văn chương bao giờ cũng gần gũi với nữ giới hơn là nam giới và bởi
thế, nhân vật bi kịch của văn học thường là nhân vật nữ, những số phận và nạn nhân
đau đớn của biết bao thế lực, cả hữu hình lẫn siêu hình. Hiểu ở một ý nghĩa có tính
chất khái quát hơn, thân phận người phụ nữ cũng chính là thân phận của con người nói
chung. Và quả thật, chúng ta không hiểu được văn chương tồn tại để làm gì, nếu không
nói lên được một cách trung thực tiếng nói của thân phận con người… Các tác giả đã
thể hiện sự bênh vực, cảm thông chia sẻ với người phụ nữ trước thế lực của xã hội
phong kiến – một xã hội trọng nam khinh nữ, để lại bao thiệt thòi cho họ. Điều này

ảnh hưởng lớn đến nhân vật nữ trong sáng tác của Lỗ Tấn.


8
Nhân vật nữ trong văn học ngày càng phong phú và đa dạng. Bên cạnh những
đức tính dịu dàng, cần cù chịu khó, họ còn là những người bản lĩnh, có niềm tin, luôn khát
khao hạnh phúc và có tinh thần phản kháng mạnh mẽ. Đó cũng chính là thông điệp mà Lỗ
Tấn đã gửi gắm qua hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của ông. Người viết đề tài
này cũng mong muốn với khả năng của mình giúp cho người đọc có được sự cảm thông
và chia sẻ đối với số phận bất hạnh của người phụ nữ, đồng thời cảm nhận được vẻ đẹp
tâm hồn người phụ nữ Trung Quốc nói riêng và người phụ nữ toàn thế giới nói chung.
1.2. Lỗ Tấn – bậc thầy về truyện ngắn
1.2.1. Vài nét về tiểu sử
Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, tự là Dự Tài, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881
trong một gia đình nho học tại phủ thành Thiệu Hưng thuộc tỉnh Chiết Giang. Năm
1881 tức là sau chiến tranh nha phiến bốn mươi năm, sau Hồng Dương cách mạng ba
mươi năm, bấy giờ bản thân phong kiến Trung Quốc đã hủ bại suy đồi, thế lực xâm
nhập của đế quốc như Anh, Pháp đã bắt đầu lan rộng nhiều nơi trong nước, nhân dân
đã thêm bần cùng thống khổ vì chịu sự bóc lột đè nén của cả hai phía. Lỗ Tấn trưởng
thành cũng là lúc triều đình Mãn Thanh càng ngày càng suy yếu đổ nát. Trung Quốc
dần dần trở thành một nước nửa thuộc địa.
Từ sáu tuổi đến mười bảy tuổi, ông đã đọc đủ các sách kinh sử, có vốn cựu học
chắc chắn. Năm mười sáu tuổi cha chết, cảnh nhà sa sút, bị người xung quanh khinh
rẻ, Lỗ Tấn bắt đầu có ý đoạn tuyệt với quê hương. Năm mười tám tuổi, nhờ bà mẹ
chạy cho được tám đồng bạc đi đến Nam Kinh, thi vào Thủy sư học đường, sau
chuyển sang Khoáng lộ học đường. Bốn năm tốt nghiệp, được tuyển đi du học Nhật
Bản. Trong bốn năm Lỗ Tấn học ở Nam Kinh ấy, Trung Quốc xảy ra ba việc lớn:
Chính biến Mậu Tuất năm 1898, Nghĩa hòa đoàn đấu tranh phản đế và liên quân tám
nước đánh Bắc Kinh năm 1990, ký điều ước Tân Sửu năm 1901. Một người thanh niên
mới ngoài hai mươi tuổi có học thức, có chí khí như Lỗ Tấn mà gặp những biến cố ấy

chắc phải suy nghĩ nhiều lắm.
Ở Nhật Bản học lớp dự bị hai năm rồi vào học thuốc ở trường y học Tiên Đài.
Được hai năm, bỏ học thuốc, bắt đầu có quyết tâm quay sang công tác văn nghệ. Bấy
giờ thanh niên Trung Quốc lưu học ở Nhật Bản đông lắm, và tại đó, hai phe chính trị
đối lập của Trung Quốc, phe cách mạng của Tôn Trung Sơn và phe bảo hoàng của


9
Lương Khải Siêu đều có cơ quan tuyên truyền, công kích nhau kịch liệt. Tất nhiên là
Lỗ Tấn đứng về phía phe cách mạng. Ông có gia nhập Quang phục hội là một đoàn thể
cách mạng.
Ở Nhật Bản cả thảy tám năm, đến năm 1909, Lỗ Tấn về nước. Vì gia đình
nghèo túng, gửi thư mong ông về giúp đỡ sự sống cho gia đình nên ông phải về. Về
nước rồi, ông làm giáo sư trong mấy trường trung học tỉnh nhà, dạy về vật lý học, hóa
học. Đến năm 1911 thì có cuộc Cách mạng Tân Hợi, Lỗ Tấn cũng có tham gia hoạt
động ít nhiều tại nơi mình ở. Năm 1912, sau khi chính phủ lâm thời thành lập tại Nam
Kinh, ông nhận lời mời của Thái Nguyên Bồi, bộ trưởng Bộ Giáo dục, đi làm một
chức viên trong bộ ấy theo chính phủ dời lên Bắc Kinh, ở đó cho đến năm 1926.
Trong khi làm chức viên ở Bộ Giáo dục, Lỗ Tấn có kiêm làm giảng sư ở mấy
trường đại học tại Bắc Kinh. Năm 1917, nhân việc Trương Huân "phục tích", ông phẫn
mà từ chức ở Bộ Giáo dục trong hai tuần lễ. Trương Huân thất bại, ông lại phục chức.
Tháng 8 năm 1925, nhân Chương Sĩ Chiêu, bộ trưởng Bộ Giáo dục đàn áp học sinh,
Lỗ Tấn phản đối ra mặt, bị Chương Sĩ Chiêu cách chức, nhưng sang đầu năm sau, sau
khi Chương Sĩ Chiêu hạ dã, ông được phục chức, làm việc ở Bộ Giáo dục như cũ.
Ngày 18 tháng 3 năm 1926, học sinh và công nhân Bắc Kinh có một cuộc biểu
tình, bị chính phủ Đoàn Kỳ Thụy thẳng tay đàn áp, bắn chết và bị thương hơn hai trăm
người. Chúng đổ cho cuộc biểu tình ấy là cuộc bạo động của Đảng cộng sản mà Lỗ
Tấn là một người trong đám lãnh đạo, ra sức trát nã. Ông phải lánh nạn trong mấy
bệnh viện ngoại quốc, đến tháng 5 mới trở về nhà. Và liệu không thể yên thân được,
tháng 8 ông bèn lìa Bắc Kinh, đi Phúc Kiến, làm giáo thụ ở trường Hạ Môn đại học.

Ở Phúc Kiến cũng không yên thân, tháng giêng năm 1927, ông đi đến Quảng
Châu, làm chủ nhiệm văn học hệ ở trường Trung Sơn đại học. Ngày 12 tháng 4, Tưởng
Giới Thạch làm phản Cách mạng, giết tại đó hơn ba ngàn người vừa đảng viên cộng
sản, vừa công nông tri thức. Ông chạy cứu cho những học sinh bị bắt mà không được,
bèn từ chức. Ở Quảng Châu, Lỗ Tấn thấy mình cũng có nguy cơ bị hại, tháng 10 trở
lên Thượng Hải. Năm ấy ông đã 47 tuổi.
Tháng 9 năm 1927, Lỗ Tấn rời khỏi Quảng Châu, tháng 10 ông định cư ở
Thượng Hải, ông chuyên viết báo, viết sách mà không dạy học nữa. Lúc bấy giờ chính
là lúc Tưởng Giới Thạch đàn áp Cách mạng nghiêm ngặt tàn khốc lắm, mà Lỗ Tấn lại


10

cứ hoạt động phản đối và cứ hay viết báo công kích, cho nên có ba lần sợ nguy hiểm
đến tính mạng, phải tạm lánh mình trong mấy tô giới. Năm 1932, Nhật Bản đánh
Thượng Hải, nhà trọ Lỗ Tấn ở ngay trong vòng lửa đạn, cũng phải dời ở tô giới Anh.
Năm 1936, ông lâm bệnh, ngày 19 tháng 10 qua đời tại nhà số 9 phố Đại Lục Thân
Thôn, Thượng Hải, hưởng thọ 56 tuổi.
1.2.2. Sự nghiệp văn học
Lỗ Tấn là nhà văn tiêu biểu của văn học Trung Quốc. Ông suốt đời trung thành với
lí tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi áp bức bóc lột của đế quốc và
phong kiến. Ông đã tình nguyện làm người “thầy thuốc” chữa bệnh tinh thần cho nhân
dân. Ông có ý thức dùng sức mạnh của văn học nghệ thuật để cải tạo xã hội, thức tỉnh
nhân dân, giúp họ trút bỏ những khuyết điểm, nhược điểm về tinh thần, truyền cho họ
niềm tin và nghị lực để đứng lên trong cuộc đấu tranh chống áp bức.
Ngòi bút của Lỗ Tấn là ngòi bút hiện thực tỉnh táo. Ông dũng cảm vạch trần tội ác,
bản chất xấu xa của giai cấp bóc lột. Ông cũng phê phán một cách sâu sắc những “bệnh
tật”, khuyết điểm tinh thần của nhân dân, của dân tộc với thái độ “ai kì bất hạnh, nộ kì bất
tranh” (thương họ bất hạnh, giận họ không đấu tranh).
Để đấu tranh chống kẻ thù, tự phê phán dân tộc mình, Lỗ Tấn đặc biệt thành công

trong nghệ thuật châm biếm.
Lỗ Tấn cũng là một nhà văn có ý thức kế thừa truyền thống nghệ thuật của dân tộc,
kết hợp với sự tiếp thu tinh hoa của văn học thế giới. Điều đó khiến cho phong cách nghệ
thuật của ông vừa hiện đại vừa rất “Tàu” [4, 103].
Đi sâu tìm hiểu sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn ta thấy toàn bộ sáng tác của ông chủ
yếu là ba tập truyện ngắn, 17 tập tạp văn (bình luận chính trị, xã hội, văn nghệ). Tất cả đều
tập trung phê phán các căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê muội, tiêu biểu là các
truyện AQ chính truyện, Thuốc, Lễ cầu phúc, Cố hương, Nhật kí người điên, Khổng Ất Kỷ,
Tiếc thương những ngày đã mất
Nếu Nga có Tchékhov, Pháp có Maupassant, Mỹ có O’Henry, Nhật Bản có
Kawabata thì Trung Quốc tự hào có Lỗ Tấn. Lỗ Tấn là chủ tướng của cách mạng văn
hóa Trung Quốc. Ông không chỉ là nhà văn lớn, mà còn là nhà tư tưởng, nhà cách
mạng vĩ đại. Lỗ Tấn kiên cường bất khuất, chưa một phút chịu khom lưng uốn gối. Đó
chính là tính cách vô cùng quý báu của nhân dân thuộc địa và nửa thuộc địa. Lỗ Tấn là


11

một anh hùng dân tộc: nhiệt tình nhất, trung thực nhất, kiên quyết nhất, đúng đắn nhất,
xông xáo mưu lược nhất trước kẻ thù trên mặt trận văn hóa. Ông đại diện cho số đông
của toàn dân tộc. Phương hướng của Lỗ Tấn chính là phương hướng của nền văn hóa
mới dân tộc Trung Hoa.
Truyện của Lỗ Tấn giàu tính sáng tạo, độc đáo, phong cách nổi bật, đầy đặn mà
chắt lọc, thâm thúy mà nhẹ nhàng, khôi hài mà hùng biện. Sự hình thành phong cách
đó xuất phát từ việc ông biết tiếp thu những tinh hoa của văn học cổ điển trong và
ngoài nước trên nhiều mức độ khác nhau. Lỗ Tấn khâm phục cách biểu hiện tinh tế sâu
sắc mà chất phác của nghệ thuật truyền thống Trung Quốc. Các sáng tác thuộc trường
phái hiện thực của Nga, Ba Lan và của các nước vùng Bancăng có ảnh hưởng lớn đối
với ông.
Khi bàn về nghệ thuật sáng tác của các nhà văn trong và ngoài nước, ông ca

ngợi phương pháp “tả đôi mắt” và “vẽ linh hồn”. Ông cho rằng nhà văn cần phải tập
trung miêu tả đặc trưng tính cách nhân vật với một lượng câu chữ vô cùng tiết kiệm:
“Nếu có vẻ cả bộ tóc, thì dù tinh tế như thật, cũng chẳng có ý nghĩa gì” [15, 542]. Lỗ
Tấn rất giỏi về thủ pháp vẽ rồng điểm mắt, chỉ sơ sài vài câu là đã lột tả được tư tưởng
tình cảm của nhân vật, và cũng vẽ ra được diện mạo và hình dáng của họ, để lại những
ấn tượng mạnh mẽ trong bạn đọc. Với ý nghĩa đó, Lỗ Tấn còn đòi hỏi bản thân phải
“mô tả được linh hồn người Trung Quốc thời hiện đại”.
Khi đề cập đến thủ pháp nghệ thuật của mình, Lỗ Tấn giải thích rằng: “Tôi hết
sức tránh hành văn lôi thôi. Nếu thấy đủ truyền đạt ý tứ của mình cho kẻ khác rồi thì
thôi, không cần thêm thắt, kéo dài nữa. Tuồng cũ Trung Quốc không có bối cảnh, trên
tờ giấy hoa năm mới mua cho trẻ con xem, chỉ có vài người chủ yếu, tôi tin sâu sắc
rằng, với mục đích của tôi, phương pháp đó rất thích hợp, cho nên tôi không tả gió
trăng, đối thoại cũng quyết không kéo dài” [15, 541]. Ở đây, Lỗ Tấn phản đối sự dài
dòng và lôi thôi, chứ tuyệt đối không bài trừ những chi tiết làm nền. Cách mô tả ấy
không tách rời các thủ pháp truyền thống của nghệ thuật cổ điển Trung Quốc. Đó là
đặc điểm trong cấu tứ nghệ thuật của truyện ngắn. Ông phản ánh chân thực những tư
tưởng và cuộc đời của một người Trung Quốc nào đó trong một thời kỳ lịch sử nhất
định. Điều này đã thể hiện được phong độ và khí chất của một nhà văn hiện thực
nghiêm túc.


12

Ngoài ra, bằng sự khái quát cao độ, bằng việc chắt lọc những tình huống từ
cuộc sống thường nhật, Lỗ Tấn đã nhằm đạt được mục đích “lôi hết bệnh tật của họ
ra, làm cho mọi người chú ý tìm cách chạy chữa” [15, 541]. Lỗ Tấn hiểu biết hiện thực
vô cùng sâu sắc. Ông đòi hỏi sáng tác nghệ thuật phải mang lại những ấn tượng mới
cho mọi người, đồng thời nói rõ ý nghĩa của những điều mới mẻ. Không phải chỗ nào
cũng phơi bày sự kỳ dị, tìm cái mới lạ mà nhiều khi Lỗ Tấn cũng đi sâu vào bản chất
cuộc sống. Trước khi bắt đầu sáng tác, bản thân ông đã phân tích một cách chi tiết xã

hội và lịch sử Trung Quốc. Trong nhiều vấn đề, ông đã hiểu biết khá sâu sắc và rõ
ràng. Tư tưởng cách mạng dân chủ triệt để đã rèn luyện và củng cố thêm khả năng
quan sát của ông. Vì thế, ông có thể từ đỉnh cao của sự phát triển lịch sử, khái quát
được hiện thực cuộc sống, từ những hiện tượng thường thấy, khai thác được những ý
nghĩa tiềm ẩn, nói ra những điều người khác chưa nói, khiến tác phẩm có nội dung sâu
đậm, thể hiện một sức mạnh tư tưởng có thể rung động lòng người.
1.2.3. Giới thuyết về truyện ngắn và truyện ngắn của Lỗ Tấn
Truyện ngắn là hình thức tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập
hầu hết đến các phương diện của đời sống con người và xã hội: đời tư, thế sự hay sử thi.
Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng: “tác phẩm truyện ngắn thích
hợp với việc người tiếp nhận đọc nó liền một mạch không nghỉ” [1, 345]. Truyện ngắn có
thể kể về cả một cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện hay một “chốc lát” trong cuộc
sống nhân vật, nhưng cái chính của truyện ngắn không phải ở hệ thống sự kiện, mà ở cái
nhìn tự sự đối với cuộc đời.
Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian, thời gian hạn
chế. Chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình
người. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhiều tuyến mà thường được
xây dựng theo nguyên tắc tương phản và hiện tượng. Bút pháp trần thuật của truyện ngắn
thường là chấm phá.
Truyện ngắn là một thể loại gần gũi với đời sống hằng ngày, súc tích, dễ đọc, lại
thường gắn với hoạt động báo chí, do đó có tác dụng ảnh hưởng kịp thời cho đời sống.
Nhiều nhà văn lớn đã đạt đến đỉnh cao của lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật chủ yếu bằng
những truyện ngắn xuất sắc của mình. Lỗ Tấn cũng là một nhà văn đã đạt đến đỉnh cao
đó. Đọc truyện ngắn của Lỗ Tấn ta bắt gặp một tài năng nghệ thuật độc đáo. Ông đã biến


13

ngòi bút của mình thành một loại vũ khí sắc bén, góp phần tham gia vào cuộc đấu tranh
của dân tộc, giúp ông thực hiện hoài bão lớn của cuộc đời. Ông đã dùng ngòi bút ấy vạch

trần bản chất xấu xa của chế độ phong kiến, đưa tội ác của bọn chúng ra ánh sáng, đồng
thời mổ xẻ thói hư tật xấu của xã hội mê muội. Cũng chính nhờ tinh thần chiến đấu mạnh
mẽ, nội dung tư tưởng sâu sắc và nghệ thuật độc đáo được thể hiện qua truyện ngắn của
mình, Lỗ Tấn xứng đáng ở vị trí bậc thầy về truyện ngắn.
Là một bậc thầy của truyện ngắn thế giới, Lỗ Tấn thấy rõ đặc điểm của truyện
ngắn và đánh giá cao tác dụng của nó. Ông cho rằng những tác phẩm trở thành tấm bia kỉ
niệm của một thời đại thường có ít trên văn đàn, mà dẫu có thì chín phần mười là những
trước tác lớn. Một thiên truyện ngắn có thể trở thành một tòa lâu đài chứa đựng cả tinh
thần thời đại thì thật là ít. Khi nghiên cứu tác phẩm Lỗ Tấn, nhà văn Liên Xô Fadée có
nói: “Lỗ Tấn là một danh thủ truyện ngắn. Ông giỏi biểu hiện ngắn gọn, rõ ràng một tư
tưởng trong một số hình tượng, một sự biến to lớn trong một giai đoạn ngắn, một điển
hình trong một nhân vật cá biệt” [8, 669].
Trong sự đối nghịch gay gắt giữa bạch thoại và văn ngôn vào thời Ngũ Tứ, Lỗ Tấn
là người đầu tiên viết tiểu thuyết bằng bạch thoại. Sau này, khi nhớ về quá trình đó, ông
từng nói: “Ở Trung Quốc, tiểu thuyết không được coi là văn học. Người viết tiểu thuyết
không được gọi là nhà văn, cho nên không ai muốn góp mặt với đời bằng con đường này.
Tôi cũng không có ý đưa tiểu thuyết vào “văn uyển”, chẳng qua là lợi dụng sức mạnh của
nó để cải tạo xã hội mà thôi” [15, 540]. Mục đích sáng tác ban đầu của Lỗ Tấn và nguyện
vọng tham gia văn nghệ của ông là thống nhất với nhau. Ông viết gần ba mươi thiên tiểu
thuyết, thể hiện đầy đủ những đặc điểm lịch sử của thời kỳ từ đêm trước cuộc Cách mạng
Tân Hợi đến trước cuộc nội chiến lần thứ nhất. Trong thời kỳ đó, sự yếu đuối bất lực của
giai cấp tư sản bộc lộ rõ ràng. Từ Ngũ Tứ bắt đầu nổi lên phong trào cách mạng dân chủ
mới do giai cấp vô sản lãnh đạo, nhưng giai cấp công nhân tạm thời chưa liên hiệp với
giai cấp nông dân. Đông đảo nhân dân vẫn phải sống cuộc đời nô lệ. Đó là thời đại đau
thương, là thời đại đan xen giữa hi vọng và thất vọng. Tác phẩm của Lỗ Tấn đã tập trung
vạch trần tội ác của phong kiến, phản ánh được bộ mặt đời sống nhân dân dưới hai tầng áp
bức bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, miêu tả được số phận của trí thức đang
quằn quại trong những mâu thuẫn xã hội gay gắt. Tất cả các tác phẩm ấy sau này được tập
hợp thành hai tập truyện ngắn Gào thét và Bàng hoàng. Không giống với cái gọi là tiểu
thuyết chính trị, tiểu thuyết xã hội mà các trí thức lớp trên thời kỳ dân chủ cũ đề xướng,



14

bằng ngôn ngữ nghệ thuật tuyệt vời, Lỗ Tấn đã chứng minh hùng hồn rằng bạch thoại
phải là ngôn ngữ mới của văn học dân tộc. Và với những thành tựu kinh tế mở rộng trận
địa cho bạch thoại, ngay từ buổi đầu đã gắn chặt văn học nghệ thuật với số phận của nhân
dân. Qua đó thể hiện được tư tưởng và đời sống của nhân dân bị áp bức, trong sáng tạo
hình tượng cụ thể bộc lộ những vấn đề xã hội sâu sắc, nêu một tấm gương xuất sắc cho
sáng tác văn học hiện đại.
Lỗ Tấn có ba tập truyện: Gào thét (xuất bản 1923), Bàng hoàng (xuất bản 1926) và
Chuyện cũ viết lại (xuất bản 1936).
Gào thét và Bàng hoàng thông qua các nhân vật và sự kiện cụ thể đã khắc họa trọn
vẹn một thời đại. Trong thời đại đó, thế lực phong kiến tuy ngày càng tan rã nhưng tạm
thời hãy còn mạnh, quần chúng nhân dân bị tai họa nặng nề nhưng vẫn chưa giác ngộ
rộng rãi, tầng lớp trí thức đầy những hoài nghi và hi vọng trên con đường tìm kiếm. Tuy
lực lượng giai cấp công nhân Trung Quốc thời cận đại chưa được phản ánh trong các tác
phẩm của Lỗ Tấn nhưng xuất phát từ cuộc sống quen thuộc của mình, ông đã tìm tòi,
khảo sát sâu sắc lực lượng cách mạng Trung Quốc. Ông tuyên án tử hình các thế lực
phong kiến, chỉ rõ sự yếu hèn bất lực của giai cấp tư sản, đòi hỏi trí thức phải thoát ra khỏi
sự “trống rỗng” và “dao động”, cải tạo tư tưởng và cuộc sống của mình, đồng thời lại gửi
gắm một niềm tin hi vọng tha thiết với nông dân. Những người nông dân xuất hiện trong
tác phẩm của ông dù còn lạc hậu, song vẫn giữ được tính cách kiên nhẫn trong đau khổ. Ở
họ vẫn ẩn chứa sức mạnh cách mạng tiềm tàng, sẽ có ngày bùng nổ. Chủ nghĩa hiện thực
của Lỗ Tấn đã bắt rễ sâu vào tư tưởng cách mạng dân chủ triệt để, do đó mà luôn luôn tự
giác đi cùng nhịp bước với các nhà cách mạng tiền bối. Bởi vậy trong sự mổ xẻ hiện thực
một cách nghiêm khắc, vẫn luôn lấp lánh một ánh sáng của lý tưởng. Thời đại cách mạng
dân chủ mới đang đến, đã để lại ấn tượng sâu sắc trong sáng tác của Lỗ Tấn.
Gào thét gồm 14 câu chuyện viết từ năm 1918 đến 1922. Đặt tên cho tập truyện
là Gào thét, tác giả muốn góp một tiếng hô to để cổ vũ, trợ chiến cho những chiến sĩ

cách mạng, làm cho họ hăng hái xông lên. Đây là “tiếng thét trợ uy cho lòng đồng cảm
với những người nhiệt tình”. Tác phẩm tràn đầy nhiệt tình chống phong kiến. Từ
khuynh hướng chung đến mô tả cụ thể đều thống nhất với tinh thần Ngũ Tứ, thể hiện
sắc thái của cách mạng văn hóa và cách mạng tư tưởng.


15

Bàng hoàng gồm 11 truyện viết lúc mặt trận văn hóa mới xảy ra mâu thuẫn.
Trong thời điểm ấy dường như nhiệt tình cách mạng trong mỗi con người bị nguội đi
và Lỗ Tấn thấy mình như bị tách ra khỏi cuộc sống, phải lủi thủi một mình. Khi viết
cuốn này, khác thường lệ, Lỗ Tấn không viết lời tựa mà trích dẫn hai khổ thơ trong Ly
tao của Khuất Nguyên như một đề từ nói giùm tâm sự của ông sau lúc nhóm Tân
thanh niên tan rã:
“Triệu phát nhận ư Thương Ngô hề,
Tịch dư chi hồ Huyền Phố;
Dục thiểu lưu thử linh hỏa tề,
Nhật hốt hốt kỳ tương mộ.
Ngô linh Hy Hòa nhị tiết hề
Vọng Am Tư nhi vật bách;
Lộ am am kỳ tu viễn hề
Ngô tương thướng há nhi cầu sách” [15, 468].
Bàng hoàng đã miêu tả những dự cảm bi quan, những dao động đó của Lỗ Tấn.
Từ Gào thét đến Bàng hoàng về nội dung đề tài và cấu tứ nghệ thuật, mỗi
truyện một kiểu. Đây không chỉ do quá trình sáng tác, Lỗ Tấn có sự nung nấu nhuần
nhuyễn, mà còn là kết quả của một quá trình lâu dài khảo sát cuộc sống và tìm tòi nghệ
thuật. Trong thể hiện, có lúc dùng thủ pháp tả chân như Miếng xà phòng, Cao phu tử,
có lúc nặng về trữ tình như Cố hương, Tiếc thương những ngày đã mất, có lúc là sự
kết hợp hữu cơ giữa tả chân và trữ tình như Lễ cầu phúc, Trong quán rượu, Con người
cô độc… Các tác phẩm đều được thí nghiệm và sáng tạo trên nhiều phương diện. Ngay

từ năm 1923, khi bình luận về Gào thét, Mao Thuẫn đã nói: “Hơn mười truyện ngắn,
hầu như mỗi truyện đều có một hình thức mới, mà các hình thức mới đó không cái nào
không gây ảnh hưởng to lớn trong các bạn đọc trẻ, tất nhiên đã có nhiều người thử
làm theo”. Sau này, khi nói về những sáng tác của mình, Lỗ Tấn cho rằng, kỹ xảo của
Bàng hoàng khá hơn Gào thét và tương đối “thuần thục”. Điều đó chứng minh cho sự
tìm tòi không hề mệt mỏi trên con đường nghệ thuật của một nhà văn vĩ đại – người
đặt nền móng cho văn học hiện đại Trung Quốc.



16

CHƯƠNG 2
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ THỂ HIỆN TRONG QUAN NIỆM
NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI
Văn chương là tiếng đàn muôn điệu của tâm hồn con người. Bên cạnh những
giai điệu tươi vui rộn ràng, ta còn nghe không ít những khúc nhạc buồn thương, ai oán.
Đó là nỗi lòng của những kiếp người bất hạnh, những cảnh đời trắc trở, éo le. Nổi bật
hơn cả là tiếng than của người phụ nữ. Biết bao nhiêu tâm sự, sầu đau, phiền muộn
không thể bày tỏ cùng ai. Có lẽ vì vậy mà văn chương đã khắc họa một cách chân thực
và đậm nét bi kịch của những thân phận người phụ nữ từ xưa đến nay. Đến với truyện
ngắn của Lỗ Tấn, ta bắt gặp vô vàn những nỗi đau của người phụ nữ, trong đó có nỗi
đau của những bi kịch cuộc sống, bi kịch hôn nhân, sự hà khắc của lễ giáo phong kiến,
áp bức bất công. Đó là những nỗi đau nhức nhối và dai dẳng nhất.
Thật ra không phải đợi đến Lỗ Tấn, vấn đề người phụ nữ mới được đề cập trong
tác phẩm văn học. Hàng nghìn năm trước, nhà thơ Bạch Cư Dị đã kêu gọi: “Tu tri phụ
nữ khổ - Tòng thử mạc tượng khinh” (Phải biết nỗi khổ của người phụ nữ - Để từ đây
không được coi khinh họ nữa). Sau này những tác giả cổ điển khác như Quan Hán
Khanh trong kịch Đậu Nga oan, Tào Tuyết Cần trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng đều
lớn tiếng bênh vực cho phụ nữ.

Nhân vật của Lỗ Tấn chẳng mấy ai đầy đủ diện mạo, đôi khi ông chỉ gọi là “anh
mặt lưỡi cày”, “anh trán rộng”, “anh mặt vuông”… Họ chỉ hiện lên với nét phác họa
đơn sơ nhưng đó đều là những điểm nhấn nhằm diễn tả tính cách của họ. Chủ yếu họ
hiện ra qua những hành động, lời nói và đôi khi là sự biểu thị nét mặt, qua những câu
chuyện khá cô đúc, chẳng mấy dài dòng, tình tiết lại hết sức đơn giản. Nhưng cái lôi
cuốn của Lỗ Tấn chính là sự tinh tế ở cách nhìn nhận và đánh giá vấn đề.
Sáng tác của Lỗ Tấn đã đáp ứng được yêu cầu đó ở một mức độ nhất định. Xuất
phát từ lòng yêu mến và sự quan tâm đến đời sống của phụ nữ, ngòi bút của Lỗ Tấn đã
dò xét tâm hồn họ trong bóng tối của vật chất để thấy được vẻ đẹp tâm hồn người phụ
nữ Trung Quốc nói chung và người phụ nữ trong truyện ngắn nói riêng.
Cùng với những người nông dân, những người trí thức, người phụ nữ cũng là
những đối tượng chính trong truyện của Lỗ Tấn. Trong các thiên truyện của Gào
thét và Bàng hoàng không có truyện nào không có sự xuất hiện của người phụ nữ. Khi
thì họ là nhân vật chính của câu chuyện, khi thì họ là những nhân vật phụ tham gia vào


17

các tình huống trong truyện. Và mỗi sự xuất hiện lại là một vẻ khác nhau. Nhân vật nữ
trong sáng tác của Lỗ Tấn đều có những hoàn cảnh khác nhau nhưng về cơ bản họ đều
là những con người bất hạnh trong xã hội phong kiến.
2.1. Số phận bất hạnh
Văn chương xét tới cùng là để thể hiện thân phận con người. Tác phẩm văn
chương chỉ có tác dụng khi người nghệ sĩ nhận thức rõ bản chất con người thực tại.
Quả thật, nhân vật nữ trong sáng tác của Lỗ Tấn là người phụ nữ đích thực của cuộc
sống thường ngày bị nén chìm trong vòng tròn im lặng của nỗi bất hạnh. Tinh tế và
nhạy cảm trong cách nhìn hiện thực tâm trạng, với bút pháp độc đáo và dòng vô thức
bản năng, nhà văn đã đi sâu vào nỗi bất hạnh tận cùng của những con người đa sầu, đa
cảm. Người phụ nữ cảm thấy cô đơn sau những ngày làm việc tưởng chừng như quên
mình. Họ lạc lõng trong hiện thực cuộc sống đầy rẫy những bất công, họ cảm thấy phủ

phàng khi sống không được là chính mình, không còn là chính mình.
Có biết bao nhiêu nỗi khổ mà người phụ nữ phải chịu đựng. Họ khổ bởi “ngày
ngày hai buổi trèo non”, “ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương”. Nhưng nỗi khổ lớn
nhất, xuất hiện với tần số cao nhất trong các tác phẩm văn học là nỗi khổ về tinh thần,
nỗi khổ của thân phận mong manh, bị động, nhỏ bé, ít giá trị. Con người bị “đồ vật
hóa”, được định giá theo giá trị sử dụng. Thân phận là cái gì lớn lao nhất đối với mỗi
con người thì lại được so sánh với “hạt mưa sa”, “chổi đầu hè”, “miếng cau khô”, “cọc
bờ rào”… Ta có thể cảm nhận được nỗi khổ xót xa của người phụ nữ khi đọc qua
những áng văn chương ấy. Cả đời họ chỉ lầm lũi, cam chịu trong sự đau khổ, nhọc
nhằn. Và dường như sự bất hạnh ấy của người phụ nữ là một hằng số chung cho tất cả.
2.1.1. Bất hạnh trong hôn nhân và gia đình
Cho đến bây giờ, Lỗ Tấn vẫn là nhà văn am hiểu sâu sắc nhất cuộc sống của
nhân dân lao động Trung Quốc dưới ách áp bức của chế độ phong kiến. Cách thể hiện
của ông về đề tài này có chiều sâu, có sức nặng vượt hẳn các nhà văn cùng thời đặc
biệt khi viết về hình ảnh người phụ nữ. Khi thể hiện nỗi đau của người phụ nữ bị áp
bức, bóc lột, ông không dừng lại ở bề ngoài, ông giỏi nắm lấy cái mâu thuẫn có tính
chất bi kịch trong tâm hồn họ. Ông không dừng lại ở những khổ đau về thể xác như
đói rét, bị đánh đập… Theo ông, người phụ nữ còn có những đau khổ đáng sợ hơn,
khó lòng chịu đựng hơn, ông đi sâu khám phá những khổ đau tinh thần.


18

Trong xã hội phong kiến chế độ phụ quyền tồn tại hàng ngàn năm với những
quan niệm bất công, khắt khe “tại giá tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (ở
nhà phải theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con). Quan niệm trọng nam
khinh nữ đã dành mọi ưu tiên cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị
thấp kém nhất trong gia đình cũng như trong xã hội.
Ngay từ trong gia đình, dù mới chỉ ở độ tuổi của thiếu nữ nhưng cái Thuận
(Trong quán rượu) đã phải chịu đựng những nỗi khổ đau, sự bất công. “Mẹ chết lúc

mười tuổi, một mình săn sóc hai đứa em dại, một trai, một gái, lại phải hầu hạ ông bố
nữa” [14, 267-268]. Thay mẹ chăm lo cho cả gia đình, chịu nhiều thiệt thòi nhưng cô
vẫn không hề kêu than. Vì muốn có một chiếc nơ mà cái Thuận đã “khóc non nửa
đêm, ông bố đánh cho một trận, mắt sưng húp hai ba ngày” [14, 268]. Chỉ lo công việc
gia đình nên cô đâm ra nhút nhát, trong nhà có khách, cô chỉ đứng ở xa xa góc nhà.
Cuộc sống vất vả, cái Thuận luôn chịu đựng một mình, không hề nói ra, thường ngồi
đâu khóc đấy, hỏi thì không nói gì. “Có khi khóc suốt đêm, đến nỗi ông Phú cũng phải
gắt lên, mắng là lớn rồi, chưa có chồng mà lại phát điên hay sao” [14, 271]. Mang
bệnh trong người nhưng cô vẫn cứ nhút nhát, không nói cho ai biết về bệnh tình của
mình hết. Lúc đầu bị cảm xoàng, song bệnh tình mỗi ngày một nặng hơn, phải nằm liệt
giường liệt chiếu nhưng cô vẫn cố giấu vì sợ bố lo lắng. Mãi đến mấy ngày trước khi
tắt thở cô mới chịu nói với ông Phú rằng “lâu nay thỉnh thoảng khạc ra máu, đêm đổ
mồ hôi trộm, y như mẹ nó ngày trước” [14, 271].
Cái Thuận không chỉ bất hạnh và chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống gia đình,
cô còn chịu sự bất hạnh bởi cuộc sống tiền hôn nhân. Phải chăng vì gánh nặng của
cuộc sống gia đình và cũng phải chăng vì gánh nặng của áp bức xã hội khiến cho cái
Thuận mất đi sự tự tin của một con người bình thường. Khi lão Trường Canh mượn
tiền nhưng cô không cho, lão cười lạt nói: “Mày đừng có lên mặt, chắc gì thằng chồng
mày đã được như tao” [14, 272-273] cô đã tin là thật. Và đến khi bố cô nói tốt về
người chồng chưa cưới thì cô không còn tin nữa. Sự cả tin đó làm cô đánh mất đi niềm
hạnh phúc mà vốn dĩ cô đáng được hưởng, làm cô có những suy nghĩ tiêu cực: “gì thì
gì cũng không thích nữa”. Điều đó làm cô mất niềm tin ở tương lai, làm hao mòn dần
sức sống khiến cô ngày càng tiều tuỵ đi. Thực ra chồng tương lai của cô là người: “Ăn
mặc tươm tất lắm, trông con người cũng ra dáng đáo để. Nước mắt lưng tròng kể lể
nào là đi chống thuyền bao nhiêu năm nay, làm ăn cực khổ, thắt lưng buộc bụng, cốt


19

dành tiền cưới vợ thì bỗng dưng vợ lăn đùng ra chết… Thì ra anh ta cũng tốt thật đấy

chứ” [14, 272]. Giá như cái Thuận đủ tỉnh táo để nhận ra đâu là lời dèm pha, đâu là lời
nói thật thì cô đã có động lực để vượt lên số mệnh, để có niềm tin mà chống chọi với
bệnh tật. Đằng này cô lại “đi tin những lời dèm pha của một thằng ăn trộm để chết đi
uổng cái đời” [14, 272]. Vì nhẹ dạ, cô đã đánh mất hạnh phúc của mình trong hôn
nhân, vì cam chịu cô đã để bệnh tật hành hạ, một mình thui thủi chịu đựng. Thật đáng
thương cho cái Thuận. Với độ tuổi như cô đáng lẽ phải được học hành tử tế, phải được
hưởng hạnh phúc thế mà cô phải sống cuộc sống tự lập, phải đối mặt, lo toan về cuộc
sống vật chất, phải đối diện với bệnh tật. Cô cảm thấy cô đơn sau những ngày làm việc
tưởng chừng như quên mình, cô lạc lõng trong hiện thực cuộc sống, cô cảm thấy phủ
phàng khi sống không được thể hiện khát vọng của bản thân.
Trong Tiếc thương những ngày đã mất, Lỗ Tấn cũng đặc biệt quan tâm đến Tử
Quân – một người trí thức. Cô nàng có lí tưởng song gánh nặng của cuộc sống gia đình
khiến cho nàng khó lòng có thể theo đuổi được. Nàng “bận lắm”, “bận việc cửa việc
nhà đến nỗi thì giờ nói chuyện gẫu với nhau cũng không có nữa, nói gì đến thì giờ đọc
sách và đi chơi!” [14, 384-385]. Tử Quân bây giờ chỉ còn xoay quanh chuyện vụn vặt
hằng ngày: “Công việc của Tử Quân hoàn toàn hình như ở chỗ cơm nước. Ăn xong lại
chạy tiền, chạy tiền được rồi thì lại ăn, lại còn phải cho con Tuỳ và đàn gà ăn nữa”
[14, 389]. Khi Quyên Sinh mất việc thì tình hình càng tồi tệ hơn. Tử Quân lúc này
không chỉ bị gánh nặng của cuộc sống mưu sinh mà nàng còn bị gánh nặng của những
áp lực xã hội. Tử Quân bây giờ lúc nào cũng cảm thấy lo lắng, sợ sệt hơn, lúc nào
cũng “cảm thấy buồn bực, chán nản, đến nỗi không buồn mở miệng nói năng gì cả”
[14, 391]. Qua Tiếc thương những ngày đã mất, Lỗ Tấn không chỉ đề cập đến nỗi khổ
của hình ảnh người phụ nữ - Tử Quân ở phương diện của những lo toan bởi gánh nặng
của cuộc mưu sinh mà tác giả còn đề cập về câu chuyện tình duyên giữa nàng Tử Quân
và chàng Quyên Sinh.
Tiếc thương những ngày đã mất là truyện viết về tình yêu duy nhất của Lỗ Tấn,
nhưng lại già dặn và đầy chất thơ, thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc của nhà văn. Cái hay
của Lỗ Tấn là đã lồng bi kịch tình yêu riêng tư vào một vấn đề chung của xã hội mà
không hề thô thiển, gượng ép. Tử Quân và Quyên Sinh yêu nhau, nhưng khi tìm được
hạnh phúc rồi thì Tử Quân lại quên rằng: “tình yêu phải được đổi mới, lớn dần lên và

phải sáng tạo” [14, 384]. Emerson từng nói: “Hạnh phúc là một mùi thơm mà người ta

×