Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Giáo dục môi trường qua các hoạt động ngoại khoá môn TNXH cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 111 trang )

Lêi c¶m ¬n
Thực hiện khóa luận là một việc làm rất cần thiết và bổ ích. Đối với
tôi,đây thực sự là những tháng ngày quý giá và có ý nghĩa.Qua đây tôi xin bày
tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Đoàn Kim Phúc, người luôn tận tình động
viên, giúp đỡ, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành
tốt đề tài này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các giảng viên trong khoa Sư
phạm Tiểu học- Mầm non, Trường Đại học Quảng Bình luôn có những góp ý
chân thành cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Mặc dù đề tài đã hoàn thành. Tuy nhiên, sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót, kính mong các thầy giáo cô giáo và các bạn sinh viên góp ý, bổ sung để đề
tài được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, kính chúc các thầy cô giáo sức khỏe, hạnh phúc và thành công
trong công việc.
Đồng Hới, năm 2015
Người thực hiện khóa luận


Trần Thị Phương Loan









LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và


kết quả nghiên cứu nêu trong khóa luận là trung thực, khách quan và chưa từng
công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Đồng Hới, tháng 6 năm 2015
Tác giả

Trần Thị Phương Loan




















MỤC LỤC
Lời cảm ơn
LỜI CAM ĐOAN
PHẦN MỞ ĐẦU 1

I. Lý do chọn đề tài 1
II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
III. Mục đích nghiên cứu 4
IV. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của đề tài 4
1. Khách thể nghiên cứu: 4
2. Đối tượng nghiên cứu: 4
V. Giả thuyết khoa học 4
VI. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
VII. Phương pháp nghiên cứu của đề tài 4
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 4
2. Phương pháp điều tra, khảo sát 5
3. Phương pháp thực nghiệm 5
4.Phương pháp thống kê toán học 5
VIII. Đóng góp của đề tài 5
IX. Cấu trúc của đề tài 5
PHẦN NỘI DUNG 7
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ GDMT MÔN TNXH 7
I. Cơ sở lí luận 7
1. Một số vấn đề về GDMT 7
1.1 Các khái niệm cơ bản 7
1.1.1 Môi trường 7
1.1.2 Bảo vệ môi trường 8
1.1.3 Giáo dục môi trường 9
1.2. Giáo dục môi trường trong trường tiểu học 10
1.2.1 Vị trí, vai trò của GDMT đối với học sinh tiểu học 10
1.2.2 Các nguyên tắc GDMT ở trường tiểu học 11
1.2.3 Mục tiêu GDMT ở trường tiểu học 12
2. Hoạt động ngoại khoá ở trường tiểu học 13
2.1 Khái niệm 13

2.2 Vai trò của các hoạt động ngoại khoá trong nhà trường tiểu học 14
2.3. Đặc điểm của hoạt động ngoại khoá GDMT 15
3. Môn TNXH trong nhà trường tiểu học 16
3.1. Mục tiêu của môn Tự nhiên và Xã hội 16
3.2 Đặc điểm của môn TNXH lớp 3 18
4. Đặc điểm tâm lí và trình độ nhận thức của học sinh lớp 3 19
II. Cơ sở thực tiễn 21
1. Nhận thức và hành vi của học sinh tiểu học về môi trường và bảo vệ môi
trường 21
2. Thực trạng tổ chức các hoạt động ngoại khoá GDMT môn TNXH trong nhà
trường tiểu học 24
CHƯƠNG II : CÁC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA NHẰM GIÁO DỤC MÔI
TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3 30
2.1.Những vấn đề chung của các hoạt động ngoại khóa GDMT qua môn TNXH
cho học sinh tiểu học. 30
2.1.1 Khai thác tối đa nội dung GDMT trong chương trình sách giáo khoa môn
Tự nhiên và Xã hội lớp 3 30
2.1.2. Tăng cường GDMT qua các hoạt động ngoài lớp 31
2.1.3. Huy động tối đa sự tham gia của HS vào hoạt động học tập và BVMT 31
2.2. Khả năng vận dụng TCHT để GDMT trong dạy học môn TNXH lớp 3 32
2.2.1. Mục tiêu môn học 32
2.2. 2. Đặc điểm của chương trình môn TNXH lớp 3 34
2.2.3. Những nội dung về môi trường và bảo vệ môi trường có trong chương
trình và SGK môn TNXH lớp 3. 35
2.3.Các hình thức hoạt động ngoại khóa để giáo dục môi trường trong dạy học
môn tự nhiên và xã hội lớp 3. 36
2.3.1. Phân loại các hình thức hoạt động ngoại khoá GDMT 36
2.3.2. Các hình thức hoạt động ngoại khóa GDMT qua môn TNXH 38
2.3.2.1 Thi sáng tác (tranh, tượng, văn thơ…), làm báo ảnh về môi trường. 38
2.3.2.2 Thi viết về môi trường 40

2.3.2.3.Trò chơi, đố vui, hái hoa dân chủ…với nội dung giáo dục môi trường. 41
2.3.2.4. Đọc sách, báo, nói chuyện về MT 45
2.3.2.5. Làm kế hoạch nhỏ: thu gom sắt vụn, giấy loại, chai lọ,tiền tiết kiệm… 46
2.3.2.6. Tổng vệ sinh trường, lớp, đường phố 47
2.3.2.7. Trồng và chăm sóc cây 49
CHƯƠNG III: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ GDMT CHO HỌC
SINH TIỂU HỌC QUA MÔN TNXH LỚP 3 51
3.1. Các nguyên tắc của việc tổ chức hoạt động ngoại khoá GDMT 51
3.1.1. Nguyên tắc tự nguyện 51
3.1.2. Nguyên tắc hấp dẫn 51
3.1.3. Nguyên tắc bổ trợ chính khoá 52
3.2. Khả năng tổ chức các hoạt động ngoại khoá GDMT môn TNXH lớp 3 52
3.3. Các hình thức hoạt động ngoại khoá GDMT môn TNXH 54
3.3.1. Quy trình tổ chức các hoạt động ngoại khoá GDMT môn TNXH 54
3.3.2.Thiết kế một số hình thức tổ chức ngoại khoá GDMT môn TNXH lớp 3 55
3.3.2.1 .Hình thức 1: Điều tra, tìm hiểu về môi trường ở địa phương 56
3.3.2.2.Hình thức 2: Tổ chức tham quan, dã ngoại 59
3.3.2.3. Hình thức 3: Dạ hội môi trường 63
3.3.2.4 .Hình thức 4: Câu lạc bộ môi trường 76
KẾT LUẬN 89
I. Kết quả nghiên cứu của đề tài 89
II. Một số kiến nghị 90
1. Đối với công tác quản lí chỉ đạo chuyên môn 90
2. Đối với giáo viên tiểu học 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
PHỤ LỤC 2: PHIẾU ĐIỀU TRA (dành cho học sinh tiểu học)
PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ CÂU CHUYỆN CÓ NỘI DUNG GDMT DÀNH CHO
GIÁO VIÊN THAM KHẢO



























CÁC

CHỮ


VIẾT

TẮT



TRONG

ĐỀ

TÀI

STT Kí hiệu Chú giải
1
GDMT

Giáo dục môi trường

2

MT

Môi trường
3

TNXH Tự nhiên và Xã hội
4

NXB Nhà xuất bản
5


NXBGD Nhà xuất bản Giáo dục
6

HS Học Sinh
7

GV Gíao viên
8

TCHT Trò chơi học tập






1
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Vấn đề môi trường trong mấy thập kỉ gần đây đã nổi lên như một trong
những mối quan tâm hàng đầu của nhân loại. Cùng với sự phát triển kinh tế ồ ạt,
dưới tác động của khoa học - kĩ thuật và sự gia tăng dân số quá nhanh, con
người đã khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tàn phá môi
trường, gây nên những tác động nặng nề đến môi trường trên nhiều phương
diện. Có thể nói, môi trường ngày nay đang thực sự lâm vào khủng hoảng với
quy mô toàn cầu và trở thành nguy cơ trực tiếp ảnh hưởng tới cuộc sống hiện tại
và sự tồn vong của xã hội loài người trong tương lai.
GDMT có thể được tiến hành thông qua nhiều cấp học khác nhau, song
GDMT ở trường tiểu học chiếm vị trí đặc biệt bởi vì trường tiểu học là nơi đào

tạo thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước. Họ cần phải được giáo
dục một cách có hệ thống về tư tưởng, thái độ, tình cảm, ngay từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trường. GDMT cho học sinh tiểu học vừa đạt lợi ích trước mắt, vừa
có lợi ích lâu dài, và vì vậy mà việc làm này được xem là có tác dụng rộng lớn,
sâu sắc và lâu bền nhất.
Môn TNXH, đặc biệt là môn TNXH lớp 3 là môn học có rất nhiều nội
dung GDMT gắn liền với tự nhiên và xã hội được lồng ghép. Các em được học
môn TNXH chính là được học về tự nhiên, học về cuộc sống đang hàng ngày,
hàng giờ diễn ra xung quanh các em.
Có thể nói rằng, nâng cao hiểu biết về tự nhiên, xã hội và các vấn đề môi
trường thông qua các hoạt động ngoại khoá chính là biện pháp hiệu quả nhất để
kích thích nghiên cứu, quan sát, phân tích, suy luận và đánh giá có phê phán để
hình thành khả năng tiếp nhận thông tin và thu thập bằng chứng, giải quyết vấn
đề theo hướng phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, những
tài liệu nghiên cứu về cách thức tổ chức các hoạt động ngoại khoá còn chưa
nhiều, các mẫu thiết kế các hoạt động phần lớn mới chỉ dừng lại ở mô hình lí
thuyết, chung chung, gây khó khăn cho giáo viên trong quá trình tổ chức các
2
hoạt động, như thế sẽ không phát huy hết tác dụng của các hoạt động ngoại khoá
trong việc GDMT qua môn TNXH.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Giáo
dục môi trường qua các hoạt động ngoại khoá môn TNXH cho học sinh lớp 3”.
II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đứng trước nguy cơ môi trường đang biến đổi ngày càng xấu đi trên phạm
vi toàn cầu, thế giới nói chung và mỗi quốc gia nói riêng ngày càng quan tâm
hơn đến vấn đề GDMT.
Trên thế giới:Từ năm 1972, khi Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên về Môi
trường con người diễn ra tại Stockhôm - Thuỵ Điển, các hoạt động giáo dục môi
trường được tiến hành một cách tích cực khắp nơi trên thế giới. Hội nghị đã
tuyên bố: GDMT rất cần thiết để làm cơ sở cho nhận thức và hành vi có trách

nhiệm của cá nhân và các tổ chức trong việc bảo vệ và cải thiện môi trường. Nó
như một yếu tố quyết định tấn công vào cuộc khủng hoảng môi trường thế giới.
Cũng tại hội nghị này, các thành viên đã nhất trí : Việc bảo vệ thiên nhiên và
môi trường là một trong hai nhiệm vụ hàng đầu của nhân loại.
Đặc biệt, sau hội nghị quốc tế về GDMT tại Belgrade (Nam Tư) năm
1975, hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều thấy được vai trò, vị trí của
GDMT trong chương trình giảng dạy từ bậc trung học đến đại học.
Tháng 6 năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về “MT và phát triển”
diễn ra tại Rio de Janeiro (Brazil) đã xác định chiến lược hoạt động về môi
trường và phát triển ở thế kỉ 21, trong đó nêu rõ sự cần thiết phải đưa GDMT
vào chương trình đào tạo của mọi cấp học và lớp học.
Ở Việt Nam, vấn đề GDMT mới được bắt đầu từ cuộc cải cách giáo dục lần
thứ 3 với một số nội dung của sách giáo khoa được cải tiến. Đặc biệt vào năm
1986, tác giả Nguyễn Dược đã đề cập đến việc GDMT trong nhà trường phổ
thông, trong đó khẳng định tầm quan trọng của GDMT ở Việt Nam. Từ đó trở
đi, công tác GDMT trong nhà trường phổ thông mới thực sự được chú trọng và
GDMT mới được lồng ghép vào môn TNXH trong nhà trường tiểu học.
3
Từ công trình khởi đầu đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu đáng chú ý
đề cập đến GDMT.
* Đối với bậc Tiểu học, có nhiều công trình nghiên cứu đáng chú ý nghiên
cứu về mục tiêu, nội dung và các phương pháp nhằm nâng cao chất lượng
GDMT cho học sinh tiểu học, như: “Vị trí và bước đầu định hướng nội dung,
biện pháp GDMT ở bậc tiểu học ở Việt Nam” của tác giả Phạm Đình Thái.
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng GDMT cho học sinh tiểu học” của
tác giả Nguyễn Thị Vân Hương; “Hai phạm vi của khái niệm GDMT và mục
tiêu GDMT ở trường tiểu học” và “Về phương pháp tiếp cận trong GDMT” của
tác giả Nguyễn Thị Thấn hay các dự án Quốc gia về GDMT “Các hướng dẫn
chung về giáo dục môi trường dành cho người đào tạo giáo viên tiểu học”, (Dự
án quốc gia VIE/ 95/ 041).

* Riêng với nội dung: GDMT qua các hoạt động ngoại khoá môn TNXH ở
trường tiểu học, nghiên cứu về nội dung và cách thức tổ chức các hoạt động
ngoại khoá GDMT qua môn TNXH, qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy vấn đề này
chưa nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Các công trình
nghiên cứu về hoạt động ngoại khoá GDMT qua môn TNXH vẫn còn khiêm tốn,
chủ yếu đi sâu nghiên cứu cơ sở lí luận và xây dựng các mẫu thiết kế hoạt động
ở mức độ chung chung, các giải pháp mang tính định hướng chung, còn thiếu
những gợi ý cụ thể cho giáo viên. Cũng đã có một số công trình nghiên cứu về
vấn đề GDMT qua môn TNXH nhưng chủ yếu đi sâu phân tích, xây dựng kế
hoạch dạy học cho một bài học cụ thể trong các giê học nội khoá như: “Các mẫu
hoạt động GDMT dùng cho trường tiểu học” (Dự án VIE/95/ 041, GDMT trong
nhà trường phổ thông Việt Nam); “Thiết kế mẫu mô - đun giáo dục môi trường
ở trường phổ thông”, (Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) &
DANIDA).
Bên cạnh đó, qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy, có rất ít công trình nghiên
cứu đi sâu tìm hiểu và xây dựng quy trình tổ chức chung cho các hoạt động
ngoại khoá qua môn TNXH. Điều này sẽ gây khó khăn cho người giáo viên tiểu
học khi tiến hành các hoạt động ngoại khoá GDMT cho học sinh, hạn chế chất
4
lượng GDMT qua mỗi hoạt động ngoại khoá. Chính vì vậy, tôi lựa chọn nghiên
cứu loại hình tổ chức dạy học này, mong sao sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của
việc dạy học môn TNXH nói chung và việc GDMT nói riêng.
III. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu vai trò, ý nghĩa của việc tổ chức các hoạt động ngoại khoá
GDMT cho học sinh qua môn TNXH.
- Nghiên cứu cách tổ chức các hoạt động ngoại khoá GDMT cho học sinh
lớp 3 qua môn TNXH.
IV. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của đề tài
1.Khách thể nghiên cứu:
Quá trình giáo dục môi trường cho học sinh tiểu học thông qua môn

TNXH.
2.Đối tượng nghiên cứu:
GDMT qua hình thức tổ chức các hoạt động ngoại khoá môn TNXH lớp 3.
V. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế và tổ chức tốt các hoạt động ngoại khoá GDMT qua môn
TNXH sẽ nâng cao được chất lượng GDMT cho học sinh lớp 3.
VI. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề GDMT và việc tổ chức
các hoạt động ngoại khoá GDMT qua môn TNXH lớp 3.
- Nghiên cứu cách tổ chức một số hoạt động ngoại khoá GDMT qua môn
TNXH cho học sinh lớp 3.
VII. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để hoàn thành các nhiệm vụ trên của đề tài, chúng tôi đã sử dụng kết hợp
các phương pháp sau:
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tôi tiến hành nghiên cứu các tài liệu về môi trường, giáo dục môi trường,
các tài liệu về tâm lí học… và các tài liệu bàn về vấn đề tổ chức các hoạt động
ngoại khoá. Việc nghiên cứu cơ sở lí luận này giúp tôi có căn cứ để xác định
5
được các khả năng, tiêu chí lựa chọn các hình thức tổ chức các hoạt động ngoại
khoá GDMT qua môn TNXH lớp 3.
2. Phương pháp điều tra, khảo sát
Tôi tiến hành dự giờ, lập các phiếu điều tra thực trạng nhận thức và hành vi
của giáo viên và học sinh về vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường, tìm hiểu
thực trạng vấn đề tổ chức các hoạt động ngoại khoá GDMT trong nhà trường
tiểu học nhằm tìm ra những khó khăn, hạn chế của giáo viên khi tiến hành các
hoạt động ngoại khoá GDMT. Đây chính là cơ sở thực tiễn cho việc thiết kế các
hình thức tổ chức hoạt động ngoại khoá GDMT phù hợp với trình độ, năng lực
của giáo viên cũng như của học sinh.
3. Phương pháp thực nghiệm

Đây là phương pháp được sử dụng để kiểm tra tính đúng đắn của mục đích
đã đề ra, kiểm định tính khả thi và hiệu quả của các hình thức hoạt động ngoại
khoá GDMT.
4. Phương pháp thống kê toán học
Được dùng để phân tích và xử lí các kết quả thu được qua điều tra và thực
nghiệm.
VIII. Đóng góp của đề tài
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận về GDMT và hoạt động ngoại khoá.
- Khái quát được một số vấn đề về thực trạng dạy và học các nội dung
GDMT, đặc biệt là thông qua các hoạt động ngoại khoá.
- Thống kê được những nội dung TNXH lớp 3 có thể tích hợp các hoạt
động ngoại khoá GDMT.
- Xây dựng được cách thức tổ chức các hoạt động ngoại khoá GDMT môn
TNXH lớp 3
- Thiết kế một số hình thức tổ chức hoạt động ngoại khoá GDMT qua môn
TNXH lớp 3.
IX. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo thì phần nội dung gồm có
3 chương.
6
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tổ chức hoạt động ngoại khóa
GDMT qua môn TNXH cho học sinh lớp 3
Chương II: Các hoạt động ngoại khóa để giáo dục môi trường trong dạy
học môn tự nhiên và xã hội lớp
Chương III: Tổ chức hoạt động ngoại khoá GDMT qua môn TNXH cho
học sinh lớp 3

























7
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ GDMT MÔN TNXH

I. Cơ sở lí luận
1. Một số vấn đề về GDMT
1.1 Các khái niệm cơ bản
1.1.1 Môi trường
Theo nghĩa rộng, MT được hiểu là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có

ảnh hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện. Bất cứ một vật thể, một sự kiện nào
cũng tồn tại và diễn biến trong một môi trường nhất định. Nói cách khác, MT là
một phần của ngoại cảnh, bao gồm các hiện tượng và các thực thể của tự nhiên
mà ở đó cá thể, quần thể, loài có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp bằng các phản
ứng thích nghi của mình.
Trong các nghiên cứu về môi trường người ta quan tâm nhiều đến thuật
ngữ “Môi trường sống”. Theo Caude A Villee et all, 1989, thì “môi trường sống
là một phần môi trường mà trong đó một sinh vật hay một quần thể sinh vật sinh
sống” (Dự án quốc gia VIE/95/041, 1998).
Đối với con người, môi trường quan trọng nhất là “Môi trường sống của
con người” hay còn gọi là “Môi trường con người”
Theo nghĩa hẹp, MT sống của con người bao gồm toàn bộ các điều kiện tự
nhiên, điều kiện nhân tạo và điều kiện kinh tế - xã hội bao quanh con người, có
ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của từng cá thể cũng như toàn bộ loài
người.
Theo định nghĩa của UNESCO (năm 1981) thì : “Môi trường con người
bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra
trong đó con người sống và bằng lao động của mình, khai thác các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu cầu của con người”.
Qua các khái niệm trên chúng ta có thể nhận thấy môi trường sống của
con người là một hệ thống rất phức tạp và đa dạng, bao gồm môi trường tự
8
nhiên, môi trường nhân tạo và môi trường kinh tế - xã hội. Chúng có quan hệ
chặt chẽ, gắn bó hài hoà với nhau. Đặc biệt là sau hội nghị Môi trường và phát
triển của Liên Hợp Quốc tại Rio De Janero (Braxin) năm 1992, khái niệm môi
trường được mở rộng hơn, đó là khái niệm “Môi trường bền vững”. Khái niệm
này nhấn mạnh đến việc giải quyết những mâu thuẫn giữa sự phát triển kinh tế,
xã hội mà không ảnh hưởng đến môi trường sống của con người, tạo sự hài hoà
lâu dài và bền vững giữa sự phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường.
Các khái niệm về MT rất phong phú và đa đạng. Tuy nhiên, trong phạm vi

đề tài này, thuật ngữ “Môi trường” được hiểu theo khái niệm MT tương đối rõ
ràng và đầy đủ trong “Luật bảo vệ môi trường” của nước ta ban hành tháng 1
năm 1994 như sau: “Môi trường bao gồm toàn bộ các yếu tố tự nhiên và yếu tố
vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau bao quanh con người, có ảnh
hưởng đến đời sống vật chất, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và
thiên nhiên” (Điều 1).
1.1.2. Bảo vệ môi trường
F.Ănghen đã nói “Bản thân con người là sản phẩm của tự nhiên, con
người tồn tại trong môi trường tự nhiên và cùng phát triển với môi trường tự
nhiên đó”. Do đó, BVMT là yêu cầu cấp thiết của con người, cho con người và
vì con người.
Thuật ngữ “Bảo vệ môi trường” mới chỉ được xuất hiện trong những năm
đầu của thế kỉ XX. Lần đầu tiên khái niệm này chỉ được dừng lại ở mức độ là
“bảo vệ tự nhiên” và được giải thích là “ý muốn chung hướng tới sự bảo tồn
những di sản của thiên nhiên và việc chăm sóc chúng….”. Về sau, nội dung của
khái niệm này được mở rộng và cụ thể hoá thêm. BVTN không chỉ là bảo tồn
những đối tượng hiếm, đặc biệt của tự nhiên để chúng khỏi bị tiêu diệt và tuyệt
chủng, mà còn là việc sử dụng một cách hợp lí các nguồn tài nguyên thiên nhiên,
bảo vệ môi trường khỏi bị ô nhiễm, làm giàu thêm các nguồn tài nguyên, gìn giữ
và bảo tồn phong cảnh, các di tích văn hoá - lịch sử…và khái niệm “Bảo vệ tự
nhiên” được thay thế bằng khái niệm “Bảo vệ môi trường”
9
Khái niệm “Bảo vệ môi trường” được luật “Bảo vệ môi trường” của Việt
Nam, 1993, ghi rõ : “Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ gìn cho môi
trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái,
ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra
cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lí và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên”
Như vậy, BVMT không hạn chế quá trình phát triển kinh tế - xã hội mà
chính là đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn, đồng thời bảo vệ được chất
lượng cuộc sống của mỗi chúng ta. Ngược lại, chúng ta phải phát triển kinh tế -

xã hội mà không tàn phá, huỷ hoại môi trường thiên nhiên, không giảm thiểu
tiềm năng tương lai, bảo vệ môi trường sống và nâng cao không ngừng chất
lượng cuộc sống.
1.1.3 Giáo dục môi trường
Đứng trước sự phát triển như vũ bão của kinh tế - xã hội, vấn đề môi
trường và bảo vệ môi trường càng trở nên bức xúc và được quan tâm hơn bao
giờ hết. Và đi kèm với những phương hướng gìn giữ môi trường bền vững, thuật
ngữ “Giáo dục môi trường” được nhắc tới ngày càng nhiều, thông qua các tài
liệu hội thảo quốc tế và khu vực về bảo vệ môi trường.
Văn bản Hội nghị Tbilisi được tổ chức vào năm 1978 đã đưa ra khái niệm
GDMT như sau: “GDMT là làm cho từng người và cộng đồng hiểu được bản
chất của môi trường tự nhiên và nhân tạo, hiểu được quan hệ tương tác của các
mặt sinh học, vật lí, hoá học, xã hội, kinh tế, văn hoá, có được tri thức, thái độ
và kĩ năng thực tế để tham gia có hiệu quả và có trách nhiệm vào việc tiên đoán
và giải quyết các vấn đề môi trường và quản lí chất lượng của môi trường.
Trong kế hoạch hành động ASEAN 2000 - 2005, GDMT được xác định là một
quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy, giúp
con người có được sự hiểu biết, có kĩ năng và các giá trị cho phép họ tham gia
vào việc phát triển xã hội bền vững về sinh thái và công bằng về xã hội, với tư
cách là những người công dân năng động và có tri thức.
Hiểu một cách rõ ràng và đầy đủ về thuật ngữ này thì GDMT là một quá
trình thường xuyên để tạo cho con người những tri thức, kĩ năng, ý thức, kinh
10
nghiệm và các quyết tâm cho phép họ giải quyết những vấn đề môi trường hiện
tại và tương lai, cũng như đáp ứng những nhu cầu của bản thân và xã hội mà
không làm ảnh hưởng đến thế hệ mai sau.
Như vậy, GDMT là một bộ phận trong việc giáo dục nhân cách con người
mới. Thực chất của GDMT là hình thành văn hoá sinh thái cho thế hệ trẻ, cụ thể
đó là: về mặt tri thức, phải từng bước làm cho học sinh nắm được những tri thức
cơ sở của sinh thái học. Về niềm tin và hành vi BVMT, ở đây có nghĩa là chỉ

cho mỗi cá nhân thấy rằng mỗi việc làm của họ đều ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến
môi trường và họ có nghĩa vụ giữ gìn, bảo vệ và cải thiện môi trường cho hôm
nay và cho thế hệ mai sau bằng những hành động cụ thể. Mục đích cuối cùng
của GDMT chính là để bảo vệ môi trường.
1.2. Giáo dục môi trường trong trường tiểu học
1.2.1. Vị trí, vai trò của GDMT đối với học sinh tiểu học
Từ hàng chục năm nay, chúng ta đã bằng cách này hay cách khác, bằng
con đường này hay con đường khác, bằng phương tiện này hay phương tiện
khác, đã cố gắng bảo vệ môi trường, song kết quả còn nhiều hạn chế. Có lẽ,
chính thực trạng môi trường hiện nay buộc chúng ta phải có nhiều cách làm mới,
nghĩa là chúng ta không thể chỉ dừng lại ở mức độ bảo vệ môi trường về mặt kĩ
thuật mà phải đặt ra vấn đề ý thức trách nhiệm và tình cảm vì môi trường, bởi ý
thức và tình cảm vì môi trường sẽ giúp con người tự giác, tích cực bảo về môi
trường bằng mọi cách. Để đạt được điều này, chúng ta phải thực hiện hàng loạt
các biện pháp, trong đó GDMT được coi là một trong các biện pháp có hiệu quả
nhất. GDMT cần thiết cho mọi thành phần trong xã hội và là cơ sở cho mọi hoạt
động bảo vệ môi trường. Thông qua GDMT để cung cấp cho mỗi cá nhân một
năng lực biết suy xét và xử lí thông tin dùa trên khía cạnh sinh thái, thẩm mĩ và
đạo đức. Điều quan trọng hơn, GDMT thúc đẩy mạnh mẽ sự thay đổi hành vi,
giúp chúng ta biết quyết định và biết tham gia bảo vệ môi trường một cách tự
giác và tích cực.
Bậc tiểu học là bậc học đầu tiên và được xác định là “Bậc học nền tảng
của hệ thống giáo dục quốc dân”, (Điều 2, Luật phổ cập giáo dục tiểu học). Đó
11
là bậc học của 100% dân cư để tạo ra những bước đi rất cơ bản và bền vững cho
trẻ, hình thành những nét ban đầu về tính cách và nhân cách. Những tri thức, kĩ
năng và hành vi được hình thành ở bậc tiểu học sẽ rất bền vững, theo suốt cuộc
đời của mỗi cá nhân học sinh. Vì thế, hàng chục triệu trẻ em, khi được trang bị
đầy đủ hành trang tri thức bảo vệ môi trường sẽ là một lực lượng hùng hậu, đóng
vai trò nòng cốt trong mọi hoạt động cải thiện môi trường, bảo vệ tài nguyên

thiên nhiên của đất nước hôm nay và ngày mai.
Học sinh tiểu học, lứa tuổi dễ tiếp thu những định hướng giá trị mới, giàu
cảm xúc, đó là một thuận lợi cơ bản để xây dựng ở các em tình yêu thiên nhiên,
trân trọng và tha thiết bảo vệ môi trường. Đồng thời trẻ ở lứa tuổi này có tính
tích cực cao, dễ hưng phấn, hiếu động, nghịch ngợm, nếu không được giáo dục
về môi trường một cách nghiêm túc và đầy đủ thì có thể chính các em sẽ trở
thành những kẻ phá hoại môi trường một cách vô ý thức hoặc có ý thức.
Thực tế đã cho thấy GDMT cho thế hệ trẻ một cách có hiệu quả nhất là
thông qua hệ thống trường học, vì trường học có khả năng thực hiện chương
trình học tập theo khuôn khổ chính quy, có cấu trúc và được hỗ trợ chính thức.
1.2.2 Các nguyên tắc GDMT ở trường tiểu học
Hiện nay, với cách nhìn mới nhất, GDMT được coi là một quá trình,
không coi là một môn học. Như vậy, GDMT thực sự là một quá trình giáo dục
giao thoa với tất cả các môn học trong nhà trường, tạo ra những cơ hội thuận lợi
để giáo viên, học sinh, phụ huynh nhận thức được bản chất của môi trường và
các vấn đề liên quan đến môi trường. Việc đưa GDMT vào các môn văn hoá ở
trường học cần tuân thủ những nguyên tắc nhất định sau:
- GDMT được lồng ghép vào tất cả các môn học nhưng không làm thay đổi
chương trình và quỹ thời gian của môn học, nhằm trang bị cho học sinh một hệ
thống kiến thức tương đối đầy đủ về môi trường cũng như các phương pháp bảo
vệ môi trường (dựa vào đặc thù của từng môn học mà đưa nội dung GDMT vào
ở các mức độ phù hợp).
- Nội dung GDMT phải được đưa vào chương trình dạy học của toàn bộ hệ
thống giáo dục chính quy và không chính quy.
12
- Nội dung GDMT phải ưu tiên khai thác tình hình môi trường địa phương
và của đất nước cùng với những biện pháp ngăn ngừa những tác động xấu tới
môi trường đó.
- Nội dung và phương pháp GDMT phải phù hợp với mục tiêu dạy học của
trường tiểu học và đặc điểm của học sinh theo các lứa tuổi khác nhau.

+ Ở bậc tiểu học: nội dung GDMT có thể được đề cập thông qua các chủ đề
như: khí hậu, nước, không khí, thực vật, tăng trưởng dân số, con người và động
vật…
1.2.3 Mục tiêu GDMT ở trường tiểu học
Dựa trên đặc điểm lứa tuổi, trình độ nhận thức và khả năng hành động của
từng cấp học theo tiêu chuẩn quan trọng là “hành động tích cực của cá nhân và
tập thể trong việc cải thiện chất lượng môi trường”, các nhà nghiên cứu về
GDMT đã đưa ra những mục tiêu cụ thể trong GDMT mà học sinh tiểu học cần
đạt được như sau:
* Trang bị hệ thống những kiến thức cơ bản ban đầu về môi trường phù
hợp với độ tuổi và tâm sinh lí cho học sinh. Cụ thể:
- Có những hiểu biết cơ bản ban đầu về tự nhiên, về môi trường.
- Nhận thức được mối quan hệ khăng khít, tác động lẫn nhau giữa con
người – tự nhiên - xã hội.
* Hình thành ý thức, thái độ quan tâm, có trách nhiệm đối với môi trường.
Cụ thể:
- Từng bước bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quý thiên nhiên, tình cảm
trân trọng tự nhiên, tha thiết muốn bảo vệ môi trường.
- Có ý thức về tầm quan trọng của môi trường trong sạch đối với sức khoẻ
con người, phát triển thái độ tích cực đối với môi trường, không khoan nhượng
với thái độ và việc làm gây ảnh hưởng tới môi trường.
- Có ý thức tuyên truyền, vận động mọi người cùng tham gia bảo vệ môi
trường sống.
* Trang bị cho học sinh những kĩ năng và hành vi tích cực đối với môi
trường.
13
- Kĩ năng đánh giá những tác động của con người tới tự nhiên, dự đoán
được những hậu quả của những tác động đó.
- Kĩ năng đề ra cách giải quyết đúng, những biện pháp nhằm bảo vệ và cải
thiện môi trường.

- Tham gia tích cực và có hiệu quả vào các hoạt động giữ gìn vệ sinh, bảo
đảm sự trong sạch của môi trường sống, bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên.
Như vậy, GDMT trong nhà trường phổ thông nhằm đạt đến mục đích cuối
cùng là: mỗi trẻ được trang bị một ý thức trách nhiệm đối với sự phát triển bền
vững của trái đất, một khả năng đánh giá vẻ đẹp của thiên nhiên và một giá trị
nhân cách được khắc sâu bởi một nền tảng đạo lí về môi trường.
Cốt lõi của GDMT chính là hướng học sinh đến sự quan tâm với môi
trường, giáo dục ý thức và tình cảm đối với môi trường. Chính những ý thức và
tình cảm với môi trường sẽ mở ra khả năng bảo vệ môi trường một cách vững
chắc và lâu bền nhất.
2. Hoạt động ngoại khoá ở trường tiểu học
2.1. Khái niệm
Giáo dục môi trường thông qua các môn học góp phần không nhỏ vào
việc hình thành các nhận thức về môi trường và bảo vệ môi trường cho học sinh.
Song những tri thức đó sẽ không được vững chắc, không thể biến thành hành
động và thói quen nếu không được củng cố, rèn luyện thông qua các hoạt động.
Vậy, hoạt động ngoại khoá là gì? Ngay bản thân khái niệm “ngoại khoá” cũng
cho đến nay vẫn chưa được lí giải cặn kẽ, thấu đáo và nhất quán: Ngoại khoá là
hình thức học tập hay vui chơi? Là chính khoá hay ngoài chính khoá?
Hoạt động ngoại khoá được hiểu là một hình thức tổ chức học tập ngoài
lớp có tổ chức, có kế hoạch có phương hướng xác định,không bắt buộc trong
chương trình, được học sinh tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện dưới sự điều
khiển, hướng dẫn của giáo viên nhằm bổ sung, củng cố, nâng cao những kiến
thức, kĩ năng học tập về môi trường và bảo vệ môi trường đã được học trong
chương trình chính khoá.
14
Với cách hiểu như trên, hoạt động ngoại khoá được xem là một hình thức
tổ chức dạy học quan trọng, là một trong những con đường để thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng: “phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lứa tuổi, môn học, bồi dưỡng

phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thó học tập cho học sinh”(Điều 24.2,
Luật giáo dục).
Như vậy, việc học tập trên lớp và học tập ngoài lớp là hai bộ phận hữu cơ
hợp thành một thể thống nhất trong quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục của
nhà trường phổ thông. Các hình thức tổ chức học tập ngoại khoá phải được đặt
trong mối quan hệ biện chứng với học tập chính khoá.
2.2 Vai trò của các hoạt động ngoại khoá trong nhà trường tiểu học
Trong nhà trường tiểu học, hoạt động môi trường và giáo dục ý thức về
môi trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, mà đội ngũ
giáo viên là lực lượng nòng cốt quyết định chất lượng dạy học trong GDMT.
Tuy nhiên, những kiến thức nhằm GDMT được lồng ghép trong chương trình
nội khoá chưa được giáo viên chú ý khai thác, mở rộng trừ những kiến thức môi
trường có sẵn trong sách giáo khoa.
Để tiến hành GDMT cần khuyến khích các phương pháp giảng dạy và
học tập có tính chất kích thích nghiên cứu, quan sát, phân tích, suy luận và đánh
giá có phê phán để hình thành khả năng tiếp nhận thông tin và thu thập bằng
chứng, giải quyết vấn đề theo hướng phát huy tính tích cực, sáng tạo của học
sinh. Vì thế, ngoại khoá là một trong những cách thức, con đường hiệu quả giúp
học sinh bổ sung, mở rộng, tích luỹ thêm những kiến thức về môi trường, có
nhận thức đúng đắn, có thái độ và hành vi tích cực khi giải quyết các vấn đề môi
trường trong cuộc sống.
Các hoạt động ngoại khoá GDMT góp phần hình thành tinh thần trách
nhiệm, ý thức gắn bó với tập thể ở học sinh. Thông qua các hoạt động ngoại
khoá, học sinh sẽ hoà nhập vào môi trường, vào cuộc sống tập thể một cách vui
vẻ, tự nguyện và tự tin, có hứng thú học tập và có lòng yêu thiên nhiên, yêu quê
15
hương, đất nước. Đó là những tiền đề quan trọng để rèn luyện các em trở thành
những con người lao động mới, đáp ứng mục tiêu giáo dục hiện nay.
Đặc biệt, trong quá trình tham gia ngoại khoá GDMT, tính độc lập và sáng

tạo của học sinh được phát huy, các kĩ năng làm việc độc lập hay tập thể được
rèn luyện. Như vậy, hoạt động ngoại khoá sẽ phát huy được tính tích cực, tự
giác, chủ động và sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế để các em có thể tham gia các hoạt
động bảo vệ môi trường ở địa phương.
Như chúng ta đã biết, trong thời đại ngày nay, với quan điểm học tập suốt
đời và xã hội hoá học tập, những bài học trên lớp không còn giữ vị trí độc
quyền. Nhiều cơ hội học tập mới xuất hiện với những tiềm năng và tác dụng to
lớn. Hoạt động ngoại khoá GDMT cũng chính là một trong những cơ hội đó, tạo
điều kiện cho việc tiến hành một xã hội học tập.
Với vai trò to lớn như trên, nếu người giáo viên tổ chức tốt được các hoạt
động ngoại khoá GDMT cho học sinh thì có thể tạo nên chiếc cầu nối, sự liên
kết chặt chẽ giữa lí thuyết và thực hành, giữa những kiến thức GDMT trong sách
vở với những hoạt động thực tiễn bảo vệ môi trường trong đời sống xã hội. Như
vậy, hoạt động ngoại khóa là một hình thức dạy học mang tính tích hợp cao, có
tác dụng phát triển ở học sinh không chỉ kiến thức mà còn rèn luyện kĩ năng,
phát triển thái độ và hành vi tích cực đối với môi trường.
2.3. Đặc điểm của hoạt động ngoại khoá GDMT
Hoạt động ngoại khoá GDMT được phân biệt với các hình thức tổ chức
dạy học khác dùa trên những đặc điểm chủ yếu sau:
- Là hoạt động ngoài giờ lên lớp, không được quy định trong chương trình
chính khoá.
- Là hoạt động tự nguyện cá nhân hay một nhóm học sinh có cùng hứng
thú, sở thích, mối quan tâm về một vấn đề nào đó của nội dung học tập, không
phân biệt học sinh giỏi hay yếu kém.
- Giáo viên không trực tiếp tham gia cùng học sinh mà là người hướng dẫn,
tổ chức, tư vấn hay chỉ đạo, điều khiển các buổi hoạt động ngoại khoá này.
16
- Nội dung hoạt động ngoại khoá thường liên quan tới nội dung đã được
học tập trên lớp, phù hợp với hoàn cảnh từng địa phương và đặc điểm của đối

tượng tham gia.
- Không tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động ngoại khoá của học
bằng điểm số mà đánh giá dựa trên các yếu tố sau:
+ Sản phẩm của buổi hoạt động ngoại khoá.
+ Tính tích cực và tự lực sáng tạo của học sinh.
Những kết quả này phải được tiến hành công khai, cho học sinh có cơ hội
tự đánh giá mình, đánh giá bạn. Giáo viên tuy không cho điểm nhưng cần có
hình thức động viên, khích lệ kịp thời như biểu dương, tặng phần thưởng…
Như vậy, hoạt động ngoại khoá GDMT là một hình thức tổ chức học tập
đặc thù, dựa trên tinh thần tự nguyện, sự hứng thú, say mê của học sinh. Từ đó
cũng đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho người giáo viên là phải có nhận thức đầy đủ
về vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường, có năng lực tổ chức các hoạt động
để thu hút, tạo được hứng thú ở người học. Chỉ có dưới sự điều khiển, hướng
dẫn đầy sáng tạo của thầy, tất cả học sinh mới được cuốn hút vào cuộc chơi “vui
mà học, học mà vui”. Và học sinh phải được vui chơi thực sự thì hoạt động
ngoại khoá mới có kết quả, mới phát huy được hết tác dụng của nó.
3. Môn TNXH trong nhà trường tiểu học
3.1. Mục tiêu của môn Tự nhiên và Xã hội
Sau khi học xong môn TNXH lớp 3, học sinh sẽ:
- Biết tên, chức năng và biết giữ vệ sinh các cơ quan hô hấp, tuần hoàn, bài
tiết nước tiểu và thần kinh. Biết tên và cách phòng tránh một số bệnh thường gặp
ở cơ quan hô hấp, tuần hoàn và bài tiết nước tiểu.
- Biết mối quan hệ họ hàng nội ngoại. Biết phòng tránh cháy khi ở nhà.
Biết được những hoạt động chủ yếu của nhà trường và giữ an toàn khi ở trường.
Biết tên một số cơ quan hành chính, văn hoá, giáo dục, y tế và một số hoạt động
thông tin liên lạc, nông nghiệp, công nghiệp, thương mại ở tỉnh (thành phố) nơi
học sinh ở. Biết một số quy tắc đối với người đi xe đạp. Biết về cuộc sống trước
kia và hiện nay ở địa phương và giữ vệ sinh môi trường.
17
- Biết được sự đa dạng,phong phú của thực vật và động vật, chức năng của

thân, rễ, lá, hoa, quả đối với đời sống của cây và ích lợi đối với con người. Biết
vai trò của Mặt Trời đối với Trái Đất và đời sống con người,vị trí và sự chuyển
động của Trái Đất trong hệ Mặt Trời, sự chuyển động của Mặt Trăng quanh Trái
Đất, hình dạng và đặc điểm bề mặt Trái Đất, biết ngày đêm, năm tháng, các
mùa.
Về vấn đề hình thành và phát triển những thái độ và hành vi, mục tiêu môn
TNXH chỉ rõ:
- Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia
đình và cộng đồng.
- Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học và quê hương.
Với mục tiêu giáo dục như trên, ta nhận thấy môn TNXH, đặc biệt là môn
TNXH lớp 3 là môn học có rất nhiều nội dung GDMT gắn liền với tự nhiên và
xã hội được lồng ghép. Có thể hiểu các em được học môn TNXH chính là được
học về tự nhiên, học về cuộc sống đang hàng ngày, hàng giờ diễn ra xung quanh
các em. Những bài học trên lớp sẽ hình thành chủ yếu cho học sinh kiến thức về
tự nhiên (sự đa dạng của tự nhiên), về cuộc sống xung quanh các em, về cách
giữ gìn và bảo vệ môi trường, còn hoạt động ngoại khoá GDMT sẽ đưa các em
tiếp cận chính cuộc sống tự nhiên đó. Ở đó, các em được vui chơi, được tìm hiểu
và khám phá những điều mới lạ. Điều đó không chỉ giúp củng cố, mở rộng kiến
thức về tự nhiên, về cuộc sống, mà còn giúp hình thành ở học sinh tình yêu, sự
gắn bó với thiên nhiên, biết yêu cái đẹp, bảo vệ cái đẹp và hơn thế nữa, nó giúp
hình thành ở các em những kĩ năng và hành vi bảo vệ tự nhiên hay chính là bảo
vệ cuộc sống của chính các em, một mục tiêu mà những buổi học trên lớp không
thể đạt được.
Như vậy, để đạt được mục tiêu GDMT qua môn TNXH cho học sinh lớp
3, việc dạy học kết hợp nội khoá và ngoại khoá là hết sức hiệu quả và thực sự
cần thiết nhằm phát huy được hết những ưu điểm của nội dung chương trình và
đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra.

18

3.2 Đặc điểm của môn TNXH lớp 3
Như chúng ta đã biết, cùng với sự đổi mới trên mọi phương diện của giáo
dục tiểu học, từ năm 2002 - 2003, môn TNXH đã được đổi mới trên cơ sở kế
thừa và phát triển những ưu điểm của chương trình cũ và xây dựng thêm một số
điểm mới nhằm giáo dục toàn diện con người Việt Nam theo kịp sự phát triển
của xã hội. Tuy nhiên, dù là chương trình cũ hay chương trình mới thì cùng với
môn Tiếng Việt và Toán học, môn Tự nhiên và Xã hội là một trong ba môn học
quan trọng nhất trong chương trình Tiểu học.
Về nội dung, môn TNXH cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản
và ban đầu về các sự vật, sự kiện, hiện tượng và mối quan hệ giữa chúng trong
tự nhiên, con người và xã hội, về cách vận dụng kiến thức đó trong đời sống và
sản xuất. Nội dung này rất phù hợp cho việc xây dựng và tổ chức các hoạt động
ngoại khoá để các em có thể học giữa thiên nhiên, tìm hiểu thiên nhiên và hoà
nhập cùng thiên nhiên nhằm đạt được mục tiêu giáo dục tốt nhất.
Bên cạnh đó, phương pháp dạy học mới cũng hướng người giáo viên đến
với những cách tiếp cận mới, cách dạy mới với việc sử dụng nhiều phương pháp
dạy học kích thích được sự năng động, sáng tạo của học sinh nhằm tạo nên một
không khí học tập nhẹ nhàng, vui tươi, tránh cho học sinh cách học vẹt, loại bỏ
cách áp đặt, cứng nhắc một chiều.
Thêm vào đó, quan điểm chỉ đạo xây dựng chương trình mới môn TNXH
được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra là cần xây dựng một chương trình mang
tính mềm dẻo cao. Sự “mềm dẻo” ở đây không chỉ dừng lại ở nội dung như:
chương trình cũ, ở chủ đề động vật giới thiệu một số động vật cụ thể: tôm, cá,
vịt, chim bồ câu, bò, dê còn trong chương trình mới chỉ nêu loài động vật như
côn trùng, cá, chim, thó để người giáo viên có thể lựa chọn con vật phổ biến ở
địa phương mình thuộc từng loài động vật trên để dạy, mà còn được thể hiện ở
việc người giáo viên có thể lựa chọn và áp dụng sáng tạo các phương pháp dạy
học phù hợp với mục tiêu môn học, trình độ học sinh cũng như điều kiện, hoàn
cảnh địa phương. Với sự “mềm dẻo” trên, người giáo viên hoàn toàn có thể lựa
chọn, sử dụng kết hợp nhiều hình thức dạy học khác nhau như nội khoá hay

×