TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC - MẦM NON
CAO THỊ TUYẾT TRINH
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC NĂM 1945
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH: GIÁO DỤC TIỂU HỌC
HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY
KHÓA HỌC: 2011 - 2015
QUẢNG BÌNH, NĂM 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA: SP TIỂU HỌC – MẦM NON
CAO THỊ TUYẾT TRINH
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC NĂM 1945
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH: GIÁO DỤC TIỂU HỌC
HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY
KHÓA HỌC: 2011 - 2015
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN KHÓA LUẬN
TS. MAI THỊ LIÊN GIANG
QUẢNG BÌNH, NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là chính xác, trung thực,
được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng công bố trong bất kì
một công trình nào khác !
Tác giả
Cao Thị Tuyết Trinh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo trong khoa Sư phạm
Tiểu học - Mầm non; xin cảm ơn Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn và
đồng nghiệp trường Đại học Quảng Bình đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo, tiến sĩ Mai Thị Liên
Giang đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận.
Xin cảm ơn tấm lòng của những người thân trong gia đình đã
giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện
khoá luận.
Tác giả
Cao Thị Tuyết Trinh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng nghiên cứu 5
4. Phạm vi nghiên cứu 5
5. Nhiệm vụ 5
6. Phương pháp nghiên cứu 5
7. Đóng góp của đề tài 6
8. Kết cấu của đề tài 6
PHẦN NỘI DUNG 7
CHƯƠNG 1: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC NĂM 1945 8
1.1. Một số quan điểm của Tô Hoài về sáng tác có liên quan đến nghệ thuật xây
dựng nhân vật 8
1.1.1. Quan điểm của Tô Hoài về sáng tác văn chương 8
1.1.2. Quan điểm của Tô Hoài về nghệ thuật 10
1.2. Nhân vật và các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945 11
1.2.1. Cách hiểu về nhân vật 11
1.2.2. Phân loại nhân vật 13
1.3. Các hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945 17
1.3.1. Hình tượng các loài vật 17
1.3.2. Hình tượng nhân vật người nông dân, thợ thủ công 24
1.3.3. Hình tượng nhân vật trí thức 31
1.3.4. Hình tượng nhân vật trẻ em 33
1.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945 35
1.4.1. Xây dựng nhân vật thông qua đặc điểm ngoại hình, hành động, lời n
ói 36
1.4.2. Xây dựng nhân vật bằng hình ảnh so sánh đặc sắc 40
1.4.3. Xây dựng nhân vật gắn với môi trường lao động, sinh hoạt 41
1.4.4. Xây dựng nhân vật dựa trên những chi tiết phong tục, tập quán 42
CHƯƠNG 2 : NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG KẾT CẤU VÀ TÌNH HUỐNG
TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC NĂM 1945 45
2.1. Kết cấu và chức năng của kết cấu trong tác phẩm văn học 45
2.1.1. Cách hiểu về kết cấu. 45
2.1.2. Chức năng của kết cấu. 45
2.2.Các kiểu kết cấu trong truyện ngắn của Tô Hoài trước năm 1945 47
2.2.1. Kết cấu theo trình tự thời gian 48
2.2.2. Kết cấu đảo lộn trình tự thời gian của sự kiện 50
2.2.3. Kết cấu với kết thúc bất ngờ, dang dở 52
2.3. Tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945 54
2.3.1. Cách hiểu về tình huống 54
3.2.2. Các kiểu tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945 55
2.3.2.1. Tình huống bỏ làng ra đi 55
2.3.2.2. Tình huống thường nhật 56
2.3.2.3. Tình huống chia li 57
CHƯƠNG 3: THẾ GIỚI NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN
NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC NĂM 1945 59
3.1. Thế giới ngôn ngữ trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945 59
3.1.1. Cách hiểu về ngôn ngữ văn học 59
3.1.2. Ngôn ngữ trong truyện ngắn của Tô Hoài trước năm 1945 59
3.1.2.1. Ngôn ngữ dân dã 60
3.1.2.2. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình 62
3.1.2.3. Ngôn ngữ đa thanh 68
3.2.2.4. Ngôn ngữ ấn tượng 69
3.2. Giọng điệu trần thuật 72
3.2.1. Cách hiểu về giọng điệu trần thuật 72
3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945 73
3.2.2.1. Giọng điệu khách quan 73
3.2.2.2. Giọng điệu hài hước, dí dỏm 75
3.2.2.3. Giọng điệu suồng sã, tự nhiên 78
3.2.2.4. Giọng điệu trữ tình 79
PHẦN KẾT LUẬN 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
PHỤ LỤC 89
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tô Hoài là viên ngọc sáng, là nhà văn của đời thường. Ông là cây đại thụ
trong khu rừng văn học hiện đại Việt Nam được đông đảo bộ phận độc giả yêu
mến. Đến với con đường nghệ thuật từ những năm ba mươi cho đến nay, Tô
Hoài đã sáng tác được một lượng tác phẩm đồ sộ . Như một chùm đèn màu được
nạm bằng kim cương, tác phẩm Tô Hoài đã làm bao tâm hồn của thế hệ trẻ phải
say mê, sáng tác của ông đã vượt trùng dương đến với bạn đọc của hơn 14 nước
trên thế giới. Trong quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật bền bỉ, ông đã có
những đóng góp lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong bài báo “Với Tô
Hoài” trích ở Tuyển tập mười năm tạp chí Văn học và Tuổi trẻ số 38, nhà văn
Xuân Trường đoán định Tô Hoài là người viết nhiều nhất ở nước ta với khoảng
140 đầu sách vào năm 1991. Đến nay, theo nhiều nhà nghiên cứu thống kê, số
lượng tác phẩm của Tô Hoài đã lên tới con số gần 200 đầu sách. Có mặt trong
suốt hai giai đoạn sáng tác: trước và sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài viết
nhiều thể loại và thể loại nào cũng đạt được những thành công xuất sắc. Ông là
một người có cách sống, cách làm việc phù hợp với nghề, do đó, đời cầm bút
thật bền mà cũng thật hiệu quả. Sau hơn 50 năm lao động chữ nghĩa, con người
đó vẫn sống làm việc đều đặn tưởng như có viết vài chục năm nữa cũng không
hết việc. Qua đó, chúng ta có thể thấy khả năng lao động nghệ thuật rất đáng
khâm phục của tác giả. Có thể nói, sáng tác của Tô Hoài là những món quà xinh
xắn, quý giá mà ai cũng muốn cất giữ, nâng niu.
Tài năng văn chương của Tô Hoài ngay từ những năm 40 của thế kỷ trước
đã được bạn đọc chú ý. Ông cùng thế hệ với các nhà văn nổi tiếng như Nguyễn
Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyên
Hồng Đó là những cây bút xuất sắc của khuynh hướng văn học hiện thực phê
phán. Sách của ông thu hút lượng độc giả lớn. Qua giọng văn hóm hỉnh, nhẹ
nhàng, ngôn từ dí dỏm, trong sáng, những tác phẩm của Tô Hoài đã hấp dẫn bao
thế hệ độc giả trong và ngoài nước, góp phần hình thành tâm hồn, trí tuệ và nhân
cách cho con người trong cuộc sống. Cuốn sách nào của Tô Hoài ra đời cũng
2
đều được bạn đọc chú ý không phải chỉ vì văn chương hay, hấp dẫn bạn đọc mà
còn vì những vấn đề xã hội Tô Hoài đặt ra cho tập sách của mình. Ở phương
diện nào, ông cũng tạo lập được một giá trị riêng, một gương mặt riêng không
thể nhòe lẫn, để lại dấu ấn trong lòng người đọc; ở thể loại nào ông cũng có sự
tiên phong, đóng góp riêng nhằm thúc đẩy sự phát triển chung của nền văn xuôi
Việt Nam hiện đại. Từ những phương diện lí luận, Tô Hoài đã ghi tên mình vào
làng Văn học Việt Nam với một phong cách thuần hậu, gần gũi. Ông là một nhà
văn đa tài. Nghiên cứu nghệ thuật văn chương Tô Hoài sẽ giúp chúng ta đánh
giá được đầy đủ hơn những đóng góp của ông với nền văn học nước nhà.
Trước năm 1945, một trong những lĩnh vực thành công của Tô Hoài là
mảng truyện ngắn. Tuy nhiên, ở mảng truyện này vẫn chưa có một công trình
nghiên cứu nào mang tính chuyên sâu, hệ thống và toàn diện. Đa số các bài viết
tập trung nghiên cứu, đánh giá về cuộc đời, sự nghiệp văn chương cùng một số
sáng tác nổi bật của Tô Hoài về đề tài miền núi, về Hà Nội cùng một bộ phận
sáng tác dành cho thiếu nhi. Ở mảng truyện ngắn chỉ được đề cập đến rất ít.
Thông thường, khi nói đến Tô Hoài, người đọc nghĩ ngay đến “Dế mèn phiêu
lưu ký”, “Vợ chồng A Phủ”. Điều đó đúng nhưng chưa đủ, thực ra ở nhà văn
này còn có rất nhiều điều để bàn và để nghĩ. Với những thành công đáng ghi
nhận của mình, truyện của Tô Hoài đáng để chúng ta tìm hiểu sâu. Đặc biệt là
thế giới nghệ thuật trong truyện của ông mang những nét độc đáo và bản sắc rất
đặc trưng. Đó là những lí do khiến chúng tôi lựa chọn đề tài: Thế giới nghệ thuật
trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945 để nghiên cứu. Cũng gần như là một
Rô-bin-xơn đi khai hoang vùng đất quý, với đề tài trên, chúng tôi muốn có cái
nhìn đầy đủ và trọn vẹn về những đóng góp của Tô Hoài đối với quá trình vận
động và phát triển của văn học Việt Nam hiện đại nói chung và ở thể loại truyện
ngắn nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài cũng như tác
phẩm của ông. Những ý kiến đánh giá phê bình về truyện ngắn của Tô Hoài
được tập trung trong cuốn Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, nhà xuất bản Giáo
3
dục, năm 2007 được tái bản nhiều lần, do Phong Lê (giới thiệu) và Vân Thanh
(tuyển chọn). Phong Lê đã chỉ ra chân dung: “Một Tô Hoài không lẫn với bất cứ
ai, một Tô Hoài hết mình, hóm hỉnh và thông minh. Nhẹ nhõm mà có sức nặng,
cứ như đùa mà thật nghiêm chỉnh. Nhũn nhặn, khiêm nhường mà thật dũng cảm,
chẳng biết sợ là gì ” [7 ; tr 41]. Có thể nói Tô Hoài là một nhà văn lớn, có
nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Tuy nhiên, qua tìm hiểu, tôi nhận
thấy những công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Tô Hoài chưa được nhiều
và còn khá mới lạ. Từ góc độ nghiên cứu, hầu như chưa có công trình nào mang
tính chất toàn diện và hệ thống về truyện ngắn của Tô Hoài. Có chăng đa phần
cũng chỉ là các bài viết ngắn, các bài phỏng vấn, bài đánh giá được đăng tải trên
một số phương tiện thông tin đại chúng, trên diễn đàn internet.
Năm 2006, Mai Thị Nhung cho ra đời cuốn sách Phong cách nghệ thuật Tô
Hoài và bài viết Đặc điểm thế giới nhân vật Tô Hoài trên tạp chí văn học. Trong
đó, tác giả cũng đã thu thập rất nhiều ý kiến về nghệ thuật viết văn Tô Hoài.
Luận văn Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 1945 của
Hoàng Minh Đức, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Luận văn tìm
hiểu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Tô Hoài nhằm tìm ra phong cách tự sự
độc đáo của nhà văn cũng như bình diện mới trong nghệ thuật tự sự ở truyện
ngắn Tô Hoài sau 1945. Đi sâu nghiên cứu nghệ thuật tự sự ở truyện ngắn Tô
Hoài sau năm 1945 trên các khía cạnh: Người kể chuyện; Cốt truyện - kết cấu tự
sự; Ngôn ngữ - giọng điệu tự sự.
Luận văn Truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài, của Nguyễn Thị Thu
Hiền, Trường Đại học Huế đã nghiên cứu truyện của Tô Hoài theo dòng chảy
của văn học thiếu nhi, phân loại truyện và làm rõ nét về đặc điểm truyện viết
dành cho thiếu nhi của Tô Hoài theo thế giới nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật và
các biện pháp nghệ thuật.
Luận văn Đặc điểm truyện ngắn của các thế hệ nhà văn 198X trong văn
học Việt Nam đương đại của Nguyễn Thị Hoài Thu là một trong số ít các công
trình nghiên cứu về truyện ngắn Việt Nam. Luận văn đã đưa ra những nhận xét
tổng thể về truyện ngắn Việt Nam đương đại. Năm 2007, cuốn Truyện ngắn Việt
Nam lịch sử-thi pháp- chân dung do tác giả Phan Cự Đệ chủ biên đã viết về quá
4
trình ra đời, phát triển của truyện ngắn Việt Nam cùng với những gương mặt nhà
văn tiêu biểu. Trong đó, Tô Hoài đựơc nhắc đến cùng với các tác giả tên tuổi
như Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao Người viết đã nhấn mạnh
một số đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài như: lối viết thông mình, hóm
hỉnh, thậm chí tinh quái, một đôi nét tâm lí và triết lí đượm sắc thái buồn pha
chút mùi vị chua chát kiểu Nam Cao.
Bài viết “Tô Hoài - người sinh ra để viết” của Nguyễn Đăng Diệp, đăng
trên trang web Nghệ sĩ quân đội vào ngày 08 tháng 07 năm 2014. Trong bài viết
này, Nguyễn Đăng Diệp đã đánh giá cao những sáng tác và sự đóng góp tích cực
của Tô Hoài cho nền văn học Việt Nam những năm qua : “Không hiểu ông đã
làm đầy cái bồ chữ của mình từ bao giờ để có được sự trường sức đáng nể ấy.
Mà nhìn ông, cấm có thấy cái vẻ ta đây đang suy nghĩ về những vấn đề lớn lao
vĩ đại hay đăm chiêu như thể đang ấp ủ một sự nghiệp văn chương khiến thiên
hạ phải lác mắt. Đơn giản, viết, với ông, như hít thở khí trời, như một hình thức
dưỡng sinh. Bởi thế, bề ngoài ông vẫn nhỏ nhẹ, nụ cười vẫn tủm tỉm Thi
thoảng, ta mới bắt gặp trong đôi mắt ông lóe lên những ánh nhìn tinh quái. Thần
tướng của ông có lẽ bắt đầu những những cái lóe nhìn ấy chăng?”. [ 55, tr 68]
Cũng có nhiều công trình, bài viết nói về Tô Hoài, tuy nhiên, các công
trình nghiên cứu trên chưa phân tích mang tính chuyên sâu, hệ thống và toàn
diện về thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn ông. Đa số các bài viết tập trung
nghiên cứu, đánh giá về cuộc đời, sự nghiệp văn chương cùng một số sáng tác
nổi bật của nhà văn về đề tài dành cho thiếu nhi. Với việc giải quyết các luận
điểm trong đề tài “Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm
1945”, chúng tôi muốn đem đến cái nhìn đầy đủ và trọn vẹn về những đóng góp
của nhà văn tác giả đối với quá trình vận động và phát triển của văn học Việt
Nam hiện đại nói chung và ở thể loại truyện ngắn nói riêng; hi vọng giúp bạn
đọc có cái nhìn đúng về đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Tô Hoài và giá trị
của nó đối với bạn đọc.
Tính đến thời điểm tháng 1 năm 2015, “Thế giới nghệ thuật trong truyện
ngắn Tô Hoài trước năm 1945” là đề tài chưa có nhà nghiên cứu nào đi sâu tìm
hiểu. Với việc giải quyết các luận điểm trong đề tài trên, chúng tôi hi vọng sẽ
5
giúp bạn đọc có cái nhìn đúng đắn về đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn Tô
Hoài cũng như đóng góp của ông đối với nền Văn học nước nhà.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
Tô Hoài trước năm 1945.
4. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu truyện ngắn Tô Hoài trong sách Tuyển tập Tô Hoài,
NXB Văn học, 1987, sách do giáo sư Hà Minh Đức sưu tầm, tuyển chọn.
5. Nhiệm vụ
Khái quát những đặc điểm nổi bật về truyện ngắn của Tô Hoài giai đoạn
trước năm 1945.
Đánh giá được những đóng góp của ông trong sự nghiệp văn chương của
mình đối với nền văn học Việt Nam và đặc biệt là mảng truyện ngắn giai đoạn
trước năm 1945.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để đáp ứng yêu cầu đặt ra của đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
6.1. Phương pháp tổng hợp, thống kê
Khảo sát thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945 là
một chỉnh thể sáng tạo bao gồm các truyện ngắn trong giai đoạn trước Cách
mạng, mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố nội dung và hình thức theo các
bình diện nghiên cứu đã xác định.
6.2. Phương pháp phân tích tác phẩm
Phân tích các truyện ngắn tiêu biểu có liên quan trực tiếp đến vấn đề
nghiên cứu theo các khía cạnh nội dung, hình thức cũng như phương thức nghệ
thuật của những tác phẩm đó.
6.3. Phương pháp so sánh
So sánh thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945
với các sáng tác của các nhà văn khác trong nền văn học Việt Nam để tìm ra sự
tương đồng và khác biệt vốn tạo nên phong cách nghệ thuật của ông. Đồng thời
6
so sánh sáng tác của chính tác giả qua các giai đoạn để chỉ ra điểm tiếp biến
trong thế giới nghệ thuật của truyện.
6.4. Phương pháp nghiên cứu xã hội học
Nghiên cứu nhà văn chủ yếu từ góc độ xã hội, trên bình diện xã hội để
thấy được những ảnh hưởng của các yếu tố nghề nghiệp, nơi sinh, môi trường
sinh sống, làm việc đến tác phẩm và quá trình sáng tác của nhà văn.
7. Đóng góp của đề tài
7.1. Đề tài có thể xem là công trình khảo sát tương đối có hệ thống về các tác
phẩm truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945, góp phần chỉ ra sự thành công của
nhà văn trong nghệ thuật sáng tác truyện ngắn. Từ đó khẳng định vị trí, vai trò
của một nhà văn tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam.
7.2. Đề tài còn thể hiện mối quan tâm đến thể loại truyện ngắn – mảng văn học
văn xuôi góp phần quan trọng góp phần làm phong phú đời sống tâm hồn cho
bạn đọc.
7.3. Bên cạnh đó, khoá luận thành công sẽ trở thành tài liệu học tập quan trọng
và bổ ích đối với sinh viên trường Đại học Quảng Bình, khoa Tiểu học- Mầm
non. Đồng thời, đề tài còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho bạn đọc yêu quý nhà
văn Tô Hoài.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Phần nội dung
khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Tô
Hoài trước năm 1945.
Chương 2. Nghệ thuật xây dựng kết cấu và tình huống trong truyện ngắn Tô
Hoài trước năm 1945.
Chương 3. Thế giới ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Tô Hoài trước
năm 1945.
7
PHẦN NỘI DUNG
Khái niệm về thế giới nghệ thuật thường được dụng khi con người có nhu
cầu diễn đạt về cái chỉnh thể bên trong của sáng tác nghệ thuật ( một tác phẩm,
một loại hình tác phẩm, sáng tác của một tác giả, một trào lưu…). Có nhiều cách
lí giải về thế giới nghệ thuật. Theo Từ điển nghệ thuật văn học : “Thế giới nghệ
thuật là một thế giới được tạo ra trong nghệ thuật. Nó hoàn toàn khác với thế
giới thực vật hay vật chất hay thế giới tâm lí của con người mặc dù nó phản ánh
thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế
giới riêng được tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật. Mỗi thế giới
nghệ thuật như một mô hình nghệ thuật trong việc phản ánh thế giới, ứng với
một cách quan niệm về thế giới, một cách cắt nghĩa về thế giới” [21, tr 302]. Thế
giới nghệ thuật bao gồm nhân vật, kết cấu và tình huống truyện, ngôn ngữ và
giọng điệu của tác phẩm. Nghiên cứu thế giới nghệ thuật của tác phẩm giúp
chúng ta khám phá được tính chỉnh thể ấy có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm
hiểu cảm nhận thế giới cũng như quan niệm tư tưởng của nhà văn.
Mỗi nhà văn, mội thời đại văn học sáng tạo ra một thế giới nghệ thuật
riêng. Tiếp nhận được thế giới này là cơ sở để hiểu tư tưởng – nghệ thuật của tác
phẩm, cảm nhận được những gì mà nhà văn miêu tả, cũng như cái nhìn, quan
niệm của nhà văn về con người, cuộc sống. Thế giới nghệ thuật không đơn thuần
là vấn đề hình thức mà trong tính chỉnh thể của nó, hình thức thẩm mĩ đó luôn
được thẩm thấu, chuyển hoá trong một nội dung thích hợp. Thông qua thế giới
nghệ thuật của nhà văn, ta có thể phân biệt được chỗ sâu sắc, tư tưởng nghệ
thuật độc đáo của nhà văn ấy với các nhà văn khác. Vậy, Thế giới nghệ thuật
vừa là thế giới được tạo thành trong tác phẩm qua cách cảm nhận riêng của tác
giả, vừa là hình thức biểu hiện của thế giới ấy, một hình thức thích hợp duy nhất
để nội dung được biểu hiện trọn vẹn và đầy đủ. Với Thế giới nghệ thuật trong
truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945, chúng tôi tập trung nghiên cứu nghệ thuật
xây dựng nhân vật, nghệ thuật xây dựng kết cấu và tình huống truyện, thế giới
ngôn ngữ và giọng điệu. Từ đó thấy được phong cách nghệ thuật truyện ngắn Tô
Hoài trong dòng chảy văn học Việt Nam. Cách hiểu trên đây về thế giới nghệ
thuật là cơ sở để chúng tôi nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Tô
Hoài trước năm 1945 trên 3 bình diện tương ứng với ba chương sau:
8
CHƯƠNG 1: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC NĂM 1945
1.1. Một số quan điểm của Tô Hoài về sáng tác có liên quan đến nghệ thuật
xây dựng nhân vật
1.1.1. Quan điểm của Tô Hoài về sáng tác văn chương
Nhà văn Tô Hoài sinh năm 1920, tên thật là Nguyễn Sen. Ngoài tên thật khi
viết báo, ông còn dùng những bút danh khác như: Mắt biển, Mai Trang, Duy
Phương Quê nội ông ở thị trấn Kim Bài huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nhưng
nhà văn lại sinh ra và lớn lên và rất gắn bó với quê ngoại ở làng Nghĩa Đô, phủ
Hoài Đức tỉnh Hà Đông Cũ (nay là phường Nghĩa Đô quận Cầu Giấy, Hà Nội).
Cái tên Tô Hoài đã trở nên gần gũi với bạn đọc suốt 70 năm qua, 70 năm viết
trong một đời người. Giai đoạn trước 1945, truyện ngắn của ông in đậm cảm
quan nghệ thuật và giọng điệu riêng của ông – một cây bút sung sức, đứng bên
cạnh Nam Cao, làm nên dấu ấn đặc trưng cho trào lưu văn học hiện thực Việt
nam những năm tiền Cách mạng.
Nếu Hoài Thanh, đại diện cho phái Nghệ thuật vị nghệ thuật cho rằng văn
chương là thứ vật quý trong chân tướng lộng lẫy, là sự kết tinh, sự thăng hoa của
tâm hồn nghệ sĩ trước cái đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên và nỗi buồn vui muôn
thuở của kiếp người thì Hải Triều, nhà văn đại diện cho phái Nghệ thuật vị nhân
sinh lại quan niệm văn chương không chỉ cốt viết cho đẹp, cho khéo lời, văn
chương du dương mà phải cảm cái cảnh đau đớn của những hạng người vì cái
sống vô cùng khốn khổ. Bản chất của văn chương là sự sáng tạo, bởi văn
chương không chấp nhận sự rập khuôn dễ dãi. Nếu nhà văn không tìm tòi,
không sáng tạo thì không có văn chương. Tư tưởng này cũng đã được Nam Cao
bày tỏ qua phát ngôn của nhân vật Hộ: “Văn chương không cần đến những
người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung
nạp những người biết đào sâu tìm tòi, khơi những gì chưa ai khơi và sáng tạo
những gì chưa ai có” [35, tr35]. Với Tô Hoài, là người có sở trường viết truyện
ngắn, ông đã có những quan điểm rõ ràng nhất quán về thể loại này trong suốt
cuộc đời hoạt động văn chương của mình: Nhà văn tâm sự: “Mình không được
9
học như Huy Cận, Xuân Diệu nên ít chịu ảnh hưởng Tây học và không biết
nhiều về sự hình thành các khuynh hướng văn học. Chỉ là tự nhiên, mình thích
viết về cuộc đời thực” [10, tr 28]. Tô Hoài là nhà văn có sức viết dẻo dai, sung
sức. Năm 1945 ông viết như chạy thi được năm truyện dài, truyện vừa, ba tập
truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế Mèn thì mấy chục truyện, cái in, cái
chưa in, vương vãi lung tung đến nỗi "không nhớ hết". Cũng chẳng có gì lạ. Viết
để kiếm miếng sống lúc ấy tất phải cuốc khỏe như vậy đấy. Quan niệm văn
chương phải bắt nguồn từ cuộc sống đã chi phối toàn bộ các sáng tác của Tô
Hoài. Ông quan niệm chỉ viết về những điều mà ông nhìn thấy ở quanh mình, ở
chính mình, viết những sự thực xảy ra trong nhà, trong làng quanh mình. Bởi vì
văn học là tấm gương phản ảnh hiện thực cuộc sống với đối tượng trung tâm là
con người qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Trước Cách mạng, trong
sáng tác nhà văn có quan niệm viết về cái tốt đẹp, khẳng định cái thiện trong
cuộc sống, bày tỏ mong muốn một cuộc sống hạnh phúc, bình yên trong xã hội,
một cuộc sống tốt đẹp mang tính không tưởng. Truyện của Tô Hoài ở giai đoạn
này in đậm cảm quan nghệ thuật và giọng điệu riêng của ông – một cây bút sung
sức đứng bên Nam Cao, làm nên dấu ấn đặc trưng cho trào lưu văn học hiện
thực Việt Nam những năm tiền Cách mạng. Tô Hoài còn tâm sự: “Chưa bao giờ
tôi bắt chước theo truyện của Khái Hưng, mặc dầu tôi thích đọc những truyện
ấy. Bởi lẽ giản dị: viết truyện viển vông giang hồ kỳ hiệp, ai cũng có thể tưởng
tượng, nhưng viết cái giống thật thì nhân vật trong truyện của các ông nhà giàu
con quan có đồn điền như thế, tôi không viết những kiểu người ấy, không bắt
chước được” [11, tr 218]. Lời thổ lộ chân tình ấy của Tô Hoài đã bộc lộ rất rõ
quan niệm của ông về văn chương. Tô Hoài không thi vị hoá đời sống, không
viết về những đôi lứa “lá ngọc cành vàng”. Tô Hoài chỉ viết những điều mà ông
nhìn thấy ở quanh mình, ở chính mình: “Đời sống xã hội quanh tôi, tư tưởng và
hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả những sáng tác của tôi, ý nghĩ tự nhiên của tôi
bấy giờ là viết những sự thực xảy ra trong nhà, trong làng quanh mình” [14, tr
219]. Tô Hoài sống gần gũi quen thuộc với những người bình dân, những con
người lam lũ, nghèo khổ, nhếch nhác. Nhà văn từng bộc bạch: “Đời không
10
suông nhạt của mảnh cổ tích nhăng cuội, ở những chuyện trai gái thông thường
đem bôi nhèm trên giấy. Tôi có thể viết vô vàn truyện mơ mộng hoa lá. Mà tôi
viết không được. Xưa nay, tôi chỉ quen với những gì vụn vặt, nhem nhọ” [14, tr
118]. Trước cuộc sống hiện thực muôn màu muôn vẻ, nhà văn đặc biệt quan tâm
và có niềm say mê mãnh liệt với con người và cuộc sống đời thường - đó là cuộc
sống sinh hoạt, quan hệ thế sự, là những sinh hoạt phong tục, tập quán trong
cuộc sống bình thường của lớp người lao động bình dân và lớp dân nghèo thành
thị. Trước 1945, trong sách Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Tô Hoài được
xếp vào nhóm các tác gia tả chân. Là người đỡ đầu cho Tô Hoài vào nghề văn,
Vũ Ngọc Phan nhận thấy rõ những đặc sắc, những điểm mạnh - yếu trong văn
Tô Hoài. Ông cho thấy cùng với năng lực miêu tả thế giới loài vật, Tô Hoài còn
là “nhà văn có biệt tài viết về những cảnh nghèo nàn của dân quê”. Nhà phê bình
cũng đã sớm phát hiện giọng điệu “trào lộng và khinh bạc” ở Tô Hoài. Nhìn
chung với 70 năm viết, dẫu trong sôi nổi hoặc trầm lắng của dư luận, Tô Hoài
vẫn luôn là người cùng thời và cùng đồng hành với bạn đọc.
1.1.2. Quan điểm của Tô Hoài về nghệ thuật
Trong Sổ tay viết truyện ngắn, Tô Hoài đã từng bày tỏ niềm say mê của
mình với truyện ngắn: “Tôi thích truyện ngắn, bao giờ cũng tìm đọc truyện ngắn
bởi nó là thể loại có tính chiến đấu mạnh mẽ” vì tôi quan niệm truyện ngắn là
“cưa lấy một khúc đời sống” nhưng không thể vì ngắn gọn mà làm mất đi “chất
khoẻ khoắn của đời sống” [13, tr 8]. Ông đã hiểu được hiểu được tính hiệu quả
của truyện ngắn. Theo nhà văn, với truyện ngắn, người viết phải biết tận dụng
từng chữ, lo săn sóc từng chữ. Truyện ngắn là nơi nhà văn có thể thử tìm phong
cách cho mình.
Tô Hoài đã từng trăn trở về “truyện ngắn hay nhất, làm thế nào để viết
ngắn rút ngắn, rút ngắn nữa. Cho chặt, cho chắc, cho tinh tế” [12, tr 100]. Và tác
phẩm ấy phải chứa đựng những suy nghĩ của người viết về cuộc đời: “Cái truyện
ngắn hay nhất bao giờ cũng là truyện sẽ viết. Người viết thấy ra cái khó ấy, cái
đau khổ ấy, niềm hy vọng không cùng ấy trong lúc cầm bút” [12, tr 101]. Như
với các thể loại khác, Tô Hoài khẳng định người viết truyện ngắn cũng phải để
11
lại cho bạn đọc một dư âm nào đó trong lòng, tránh lối viết nhạt nhẽo: “Chúng
mình làm nghề viết, thành nghề viết rồi, có thể viết cái gì viết cũng có thể được
in, ít nhất thì cũng tàm tạm sạch nước cản. Nhưng, anh cứ tưởng tượng xem,
một sáng tác ra đời, bạn đọc xong rồi, dư luận im lặng. Nghe như hòn gạch ném
xuống giếng, sau tiếng rơi bõm vào lòng giếng, là cái im lặng mênh mông. Đối
với người cầm bút không có gì ghê rợn hơn, thất vọng hơn gặp phải cảnh như
thế” [14, tr 65]. Quan niệm của Tô Hoài cũng giống với các nhà viết truyện ngắn
khác. Song Tô Hoài nhấn mạnh hơn yếu tố ngắn gọn. Đồng thời, ông khẳng định
một tác phẩm truyện ngắn có giá trị phải phản ánh hiện thực cuộc sống và sự
sáng tạo, hoài bão của nhà văn.
Như vậy, theo nhà văn Tô Hoài truyện ngắn trước hết phải súc tích. Người
viết không được kể dài dòng. Các chi tiết hết sức tinh lọc, gây ám ảnh với người
đọc, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ và những liên tưởng. Dung lượng và cốt truyện
tập trung một vài biến cố, trong một khoảng thời gian nhất định. Nhân vật thường
đựơc làm sáng tỏ thể hiện một trạng thái tâm thế con người thời đại. Chi tiết đóng
vai trò quan trọng mang tính biểu tượng. Truyện ngắn của ông có khả năng miêu
tả sinh động cuộc sống và những vui buồn và khát vọng của con người.
1.2. Nhân vật và các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm
1945
1.2.1. Cách hiểu về nhân vật
Có thể nói rằng, nhân vật chính là linh hồn của tác phẩm, là con đẻ tinh
thần của nhà văn. Thông qua thế giới hình tượng trong tác phẩm, nhà văn bộc lộ
cảm quan của mình trước cuộc sống, gửi gắm vào nhân vật những tư tưởng mơ
ước khát vọng hay những tâm sự thầm kín của mình. Nhân vật cũng là nơi để
nhà văn thể hiện quan điểm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của chính bản thân
mình về con người. Bản thân Tô Hoài cũng cho rằng: “Nhân vật là nơi duy nhất,
tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác” [10, tr 45]. Mỗi một
nhà văn tuỳ theo cảm quan hiện thực đời sống, tuỳ theo quan niệm của mình mà
có những kiểu nhân vật riêng.
12
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng
phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược,
sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng
lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác
phẩm. Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân,
Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng ), có thể là những người không có tên (như
thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia ) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào
đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại,
như mình- ta trong ca dao ). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một
cách rộng rãi trên 2 phương diện: số lượng: hầu hết các tác phẩm từ văn học dân
gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất
lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỷ, đồ vật nhưng lại gán cho nó
những phẩm chất của con người. Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật
được sử dụng một cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác
phẩm. Chẳng hạn, người ta thường nói đến nhân dân như là một nhân vật trung
tâm trong Chiến tranh và hòa bình của L.Tônxtôi, Ca-cao là nhân vật chính
trong Ðất dữ của G.Amađô, chiếc quan tài là nhân vật trong tác phẩm Chiếc
quan tài của Nguyễn Công Hoan Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan tài: Trong
truyện ngắn Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải là
người mà là một chiếc quan tài. Nhưng chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô tri
mà là một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc.
Như vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân vật. Tuy vậy, nhìn chung, nhân
vật vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm văn học. Nhìn chung, nhân
vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu hiệu để
nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm
riêng Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường,
sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới thiệu ban đầu
đó. Có nhiều khái niệm về nhân vật, tuy nhiên chúng tôi thấy khái niệm: “Nhân
vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về
sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người,
nhân vật văn học có đôi khi là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang
13
đường được gắn cho những đặc điểm giống với con người” [49, tr 249] khá phù
hợp với đặc điểm nhân vật trong tác phẩm truyện ngắn của Tô Hoài.
1.2.2. Phân loại nhân vật
Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng. Những nhân vật
được xây dựng thành công từ xưa đến nay bao giờ cũng là những sáng tạo độc
đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, xét về mặt nội dung tư tưởng, kết cấu, chất lượng
miêu tả , có thể thấy những hiện tượng lặp đi lặp lại tạo thành các loại nhân vật
khác nhau. Ðể nắm bắt được thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, có thể tiến
hành phân loại chúng ở nhiều góc độ khác nhau.
- Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật.
Từ góc độ này, có thể nói đến các loại nhân vật chính diện (nhân vật tích
cực), nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực). Nhân vật chính diện là nhân vật đại
diện cho lực lượng chính nghĩa trong xã hội, cho cái thiện, cái tiến bộ. Khi nhân
vật chính diện được xây dựng với những phẩm chất hoàn hảo, có tính chất tiêu
biểu cho tinh hoa của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại, mang những mầm
mống lí tưởng trong cuộc sống có thể được coi là nhân vật lí tưởng. Ở đây,
cũng cần phân biệt nhân vật lí tưởng với nhân vật lí tưởng hóa. Nhân vật phản
diện là nhân vật đại diện cho lực lượng phi nghĩa, cho cái ác, cái lạc hậu, phản
động, cần bị lên án. Trong quá trình phát triển của văn học, trong mỗi giai đoạn
lịch sử khác nhau, việc xây dựng các loại nhân vật trên cũng khác nhau. Nếu
như trong thần thoại chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân vật chính diện và
nhân vật phản diện thì trong truyện cổ tích, các truyện thơ Nôm, các nhân vật
thường được xây dựng thành 2 tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng quyết liệt. Ở
đây, hễ là nhân vật chính diện thường tập trung những đức tính tốt đẹp còn nhân
vật phản diện thì hoàn toàn ngược lại. Trong văn học hiện đại, nhiều khi khó
phân biệt đâu là nhân vật chính diện, đâu là nhân vật phản diện. Việc miêu tả
này phù hợp với quan niệm cho rằng hiện thực nói chung và con người nói riêng
không phải chỉ mang một phẩm chất thẩm mĩ mà bao hàm nhiều phẩm chất
thẩm mĩ khác nhau, cái nhìn của chủ thể đối với sự vật nhiều chiều, phức hợp
chứ không đơn điệu Những nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở, Tám Bính, Năm
14
Sài Gòn là những nhân vật có bản chất tốt nhưng đó không phải là phẩm chất
duy nhất của nhân vật. Bakhtin cho rằng: cần phải thống nhất trong bản thân
mình vừa các đặc điểm chính diện lẫn phản diện, vừa cái tầm thường lẫn cái cao
cả, vừa cái buồn cười lẫn cái nghiêm túc. Chính vì vậy, ở đây, sự phân biệt
chính diện, phản diện chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi đặt nhân vật vào loại nào để
nghiên cứu, cần phải xét khuynh hướng chủ đạo của nó đồng thời phải chú ý đến
các khuynh hướng, phẩm chất thẩm mĩ khác nữa. Trong giai đoạn trước, những
nhân vật như Kiều, Hoạn Thư, Thúc Sinh cũng được Nguyễn Du miêu tả ở
nhiều góc độ, với nhiều phẩm chất khác nhau chứ không phải chỉ có một phẩm
chất chính diện hoặc phản diện.
- Xét từ tầm quan trọng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm.
Xem xét chức năng và vị trí của nhân vật trong tác phẩm, có thể chia
thành các loại nhân vật: nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ.
Nhân vật chính là nhân vật giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức và triển
khai tác phẩm. Ở đây, nhà văn thường tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại
hình, nội tâm, quá trình phát triển tính cách của nhân vật. Qua nhân vật chính,
nhà văn thường nêu lên những vấn đề và những mâu thuẫn cơ bản trong tác
phẩm và từ đó giải quyết vấn đề, bộc lộ cảm hứng tư tưởng và tình điệu thẩm
mĩ. Nhân vật chính có thể có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và
những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Với những tác phẩm lớn có nhiều nhân vật
chính thì nhân vật chính quan trọng nhất xuyên suốt toàn bộ tác phẩm được gọi
là nhân vật trung tâm. Trong không ít trường hợp, nhà văn dùng tên nhân vật
trung tâm để đặt tên cho tác phẩm. Ví dụ: Ðông Kísốt của Cervantes, Anna
Karênina của L. Tônxtôi, A.Q chính truyện của Lỗ Tấn, Truyện Kiều của
Nguyễn Du Trừ một hoặc một số nhân vật chính, những nhân vật còn lại đều
là những nhân vật phụ ở các cấp độ khác nhau. Ðó là những nhân vật giữ vị trí
thứ yếu so với nhân vật chính trong quá trình diễn biến của cốt truyện, của việc
thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật phụ phải góp phần hỗ trợ, bổ
sung cho nhân vật chính nhưng không được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có
nhiều nhân vật phụ vẫn được các nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính
15
cách riêng, cùng với những nhân vật khác tạo nên một bức tranh đời sống sinh
động và hoàn chỉnh.
- Xét từ góc độ thể loại
Có thể phân thành các nhân vật: nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự, nhân vật
kịch. Nhân vật trữ tình là hình tượng con người trực tiếp thổ lộ tình cảm, tâm
trạng, suy nghĩ, cảm xúc trong lời ca, cách xưng hô biểu hiện các trạng thái tình
cảm khác nhau, đồng thời là một cách ẩn mình của tác giả khi không muốn biểu
lộ trực tiếp. Nhân vật ấy có thể sẽ không có tên, không có tuổi, nhưng những
dòng cảm xúc lại được thể hiện rất rõ nét, qua đó ta thấy được quan niệm, cách
nhìn, suy nghĩ, cảm xúc hiện tại của nhà văn. Nhân vật trữ tình biểu tượng là con
người mượn các biểu tượng có trong các hiện tượng tự nhiên và các vật thể nhân
tạo, để bộc bạch những tâm sự, tình cảm, tình yêu. Nhân vật trong tác phẩm trữ
tình là đối tượng để tác giả gửi gắm tâm sự, cảm xúc, suy nghĩ của mình, là
nguyên nhân trực tiếp khêu gợi nguồn cảm hứng. Nhân vật trữ tình không phải
là đối tượng để nhà văn miêu tả mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm,
tâm trạng, suy tư về lẽ sống và con người được thể hiện trong tác phẩm. Khi
đọc một tác phẩm, trước mắt chúng ta không chỉ xuất hiện những cảnh thiên
nhiên, sinh hoạt, những con người mà còn một hình tượng của một ai đó đang
ngắm nhìn, rung động, suy tư về chúng, về cuộc sống nói chung. Hình tượng ấy
chính là nhân vật trữ tình, đó là tâm hồn, nỗi niềm, tấm lòng mà người đọc cảm
nhận được qua tác phẩm. Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện với tư cách là
những tình cảm, tâm trạng, suy tư của chính bản thân nhà văn. Tuy nhiên, có
nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của tác giả. Do tính
chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà văn có thể tưởng tượng,
hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo quy luật điển hình
hóa trong sáng tạo nghệ thuật. Còn nhân vật tự sự lại là kết quả của một quá
trình khám phá, chiêm nghiệm, nó là sản phẩm từ sự tổng hợp, nhào nặn, nhân
vật tự sự mang dấu ấn của cá nhân sáng tạo ra nó. Trong tác phẩm tự sự, nhà văn
“nói" thông qua nhân vật. Nhân vật tự sự chính là nơi mang chỗ nội dung phản
ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm là nơi kí thác quan niệm về con người, về
nhân sinh của nhà văn. Một nhân vật tự sự bao giờ cũng thể hiện một số phận,
16
một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội,
một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó. Khác với 2 kiểu nhân vật trên, nhân
vật kịch lại được hiểu theo một khía cạnh khác. Nhân vật kịch phải thể hiện tính
cách bằng lời nói và hành động không có lời mách bảo, gợi ý của tác giả. Các
nhân vật kịch được hình thành là do lời lẽ của họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ
ấy mà thôi nghĩa là tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ
không phải bằng ngôn ngữ miêu tả. Do đó, tính cách nhân vật kịch tập trung, nổi
bật và xác định nhằm gây ấn tượng mãnh liệt và sâu sắc, hiển nhiên sự nổi bật,
tập trung đó không có nghĩa là đơn giản, một chiều. Nhân vật kịch thường chứa
đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do đặc trưng của kịch là xung đột nên khi
đứng trước những xung đột đó, con người bắt buộc phải hành động và vì vậy,
con người không thể không đắn đo, suy nghĩ, cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt Dĩ
nhiên đặc trưng này cũng được thể hiện trong các loại văn học khác nhưng rõ
ràng được thể hiện tập trung và phổ biến nhất trong kịch. Chính từ đặc điểm này,
nhiều tác giả kịch đã dùng biện pháp lưỡng hóa nhân vật nhằm biểu hiện cuộc
đấu tranh nội tâm của chính nhân vật đó.
- Xét từ góc độ chất lượng miêu tả.
Có thể phân thành các loại: nhân vật, tính cách, điển hình. Nhân vật là
những con người nói chung được miêu tả trong tác phẩm. Nhà văn có thể chỉ
mới nêu lên một vài chi tiết về ngôn ngữ, cử chỉ, hành động cũng có thể miêu
tả kĩ và đậm nét. Tính cách là nhân vật được khắc họa với một chiều sâu bên
trong. Nó như một điểm quy tụ mà từ đó có thể giải thích được mọi biểu hiện
muôn màu, muôn vẻ sinh động bên ngoài của nhân vật. Ðiển hình là tính cách đã
đạt đến độ thực sự sâu sắc, là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái khái
quát và cái cá thể Nói một cách nghiêm ngặt, thuật ngữ này chỉ được áp dụng
từ chủ nghĩa hiện thực phê phán trở về sau. Ngoài ra, có thể nêu lên một số khái
niệm khác về nhân vật qua các trào lưu văn học khác nhau. Chẳng hạn, khái
niệm nhân vật bé nhỏ trong văn học hiện thực phê phán, khái niệm nhân vật-con
vật người trong chủ nghĩa tự nhiên, nhân vật - phi nhân vật trong các trào lưu
văn học hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây. Như vậy, từ mỗi góc độ, các nhà biện
17
luận đã có cách phân loại khác nhau. Tuy nhiên, khi khảo sát hình tượng nhân
vật trong truyện ngắn Tô Hoài chúng tôi xem xét theo hướng cụ thể.
1.3. Các hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài trước năm 1945
Trước năm 1945, Tô Hoài “viết như chạy thi”. Đặc sắc của nhà văn ở giai
đoạn này là truyện ngắn, gồm truyện ngắn về loài vật và truyện ngắn về cảnh và
người một vùng quê ven đô. Truyện ngắn của ông phản ánh chân thực, sâu sắc
cuộc sống của người dân Việt Nam nói chung và người dân làng Nghĩa Đô nói
riêng. Ông quen viết về những nhân vật, những cảnh đời hồn nhiên như hơi thở
của sự sống,khỏe mạnh, thuần phác, lạc quan như những con người trong truyện
cổ tích, trữ tình trong sáng, đẹp và ý vị như ca dao. Chân dung con người trong
truyện ngắn của Tô Hoài là cả một dòng sông cuộc đời trôi chảy của bao nhiêu
sự việc, câu chuyện về cuộc sống. Tô Hoài đi sâu hơn vào các cảnh ngộ và theo
dõi dài hơn những cuộc hành trình của các nhân vật. Vì vậy, các kiểu nhân vật
trong truyện ngắn của ông không xa lạ, họ chính là những người nông dân,
người thợ thủ công, những người trí thức sống ở chính quê hương mình. Ngay
cả đến loài vật cũng hết sức bình thường, gần gũi trong cuộc sống hàng ngày.
Ngòi bút Tô Hoài luôn hướng đến những mảnh đời đơn sơ và mộc mạc như thế
nhưng lại đủ sức dẫn dắt độc giả chúng ta đi vào nhiều ngõ ngách bất ngờ. Sự
vận động và kết hợp một cách linh hoạt các chi tiết hàng ngày với các chi tiết
tiêu biểu giúp nhà văn dựng nên những nhân vật, những tính cách tiêu biểu.
1.3.1. Hình tượng các loài vật
Nếu ví văn học thiếu nhi như một khu vườn thì nhà văn Tô Hoài như một
cây đa lớn, là tác giả của những tác phẩm văn học thiếu nhi hàng đầu. Đối với
giới sáng tác cho thiếu nhi, nhà văn Tô Hoài như một người cha, một người anh,
một thủ lĩnh. Tô Hoài từng kể về tuổi thơ của mình trong truyện ngắn Chiều
chiều: “ Cái thuở bé sao mà lâu thế, dài thế. Bắt châu chấu bán cho người chơi
chim họa mi. Bán không hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt, rang khan với muối, ăn
vã. Rồi thì kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán đều ngon…” [1, tr
25]. Có lẽ chính tuổi thơ trong trẻo, hồn nhiên ấy đã vun đắp cho tâm hồn nhà
văn sự giàu có về thế giới tự nhiên, giúp cho trang viết về các loài vật của Tô
18
Hoài luôn lôi cuốn được người đọc. Viết về thế giới loài vật, chất văn của ông
hiền như củ khoai, con kiến, như bài đồng dao, như con chim sẻ ríu rít giữa trưa
hè Tô Hoài được đánh giá là nhà văn Việt Nam đầu tiên bắt đầu cho nhịp
chảy của dòng văn học thiếu nhi nước nhà. Có thể nói ông là một trong những
nhà văn viết về loài vật thành công nhất, hấp dẫn nhất về các loài vật. Không bị
nhoè lẫn bởi bất kì một nhà văn nào, truyện của ông có những tính chất nửa tâm
lí, nửa triết lý, miêu tả chân về cuộc sống của các loài vật tuy bề ngoài ra vẻ lặng
lẽ nhưng cũng lắm ồn ào. Bởi tất cả các loài vật đi vào trang văn của Tô Hoài
đều có suy nghĩ, có lí tưởng, có ước mơ và có trái tim như bao người trên thế
giới. Mỗi một loài động vật, nhà văn lại dùng ngòi bút của mình để lột tả rõ nét
tính cách và đời sống riêng của chúng, để từ đó bày tỏ quan niệm của chính tác
giả về nhân sinh, về khát vọng của người lao động, về một cuộc sống hòa bình,
yên vui và sự đoàn kết. Nhà văn miêu tả những con vật hết sức bình dị, quen
thuộc với cuộc sống người dân. Với cách quan sát, cái nhìn tinh tế về loài vật,
kết hợp với những nhận xét thông minh, hóm hỉnh, nhà văn đã đưa độc giả đến
với thế giới loài vật sinh động và cũng đầy yêu thương. Ông đã vẽ lên khung
cảnh cuộc sống thật sinh động, ngộ nghĩnh, có tính cách, số phận khác nhau cho
những đứa con tinh thần của mình. Chúng nói lên thân phận của những người
dân làng Nghĩa Đô, những con người nghèo đói, tần tảo, chịu thương, chịu khó,
những con người thuần hậu. Ẩn chứa trong mỗi trang truyện về loài vật là câu
chuyện về con người, về xã hội. Viết về loài vật, Tô Hoài đã dành khá nhiều
trang để thể hiện chân thật, sinh động họ nhà chuột. Các chủng loại chuột như
chuột nhắt, chuột cống, chuột cộc, chuột bạch, chuột xù , xuất hiện trong các
tác phẩm của ông với những đặc điểm, thói quen riêng và cả những mối quan hệ
của chúng. Cùng với chuột, nhiều loài vật khác như gà, vịt, ngan, dế…. qua ngòi
bút của Tô Hoài tạo cho người đọc dấu ấn lâu bền. Một thế giới loài vật qua
cách nhìn của người để được nhân hoá, hay nói cách khác, con vật hoá thân
thành con người để thể hiện tâm tư, nguyện vọng của con người.
Nhưng loài vật vẫn là nó, với tất cả các đặc tính bên trong và bên ngoài
đặc trưng riêng có. Một thế giới nhân vật sống chung với nhau trong sân, vườn,
19
nhà, có tranh đua, có xô xát, có gây sự với nhau nhưng vẫn có hoà thuận với
nhau vì lợi ích của… người. Và chính sự tồn tại bản năng của chúng, kiểu nhân
vật này hiện lên vừa tự nhiên, vừa mang tính xã hội đặc biệt, vì được nhìn qua
con mắt người, và cố nhiên, qua Tô Hoài. Trong cái sân đông đúc gà, vịt, ngan,
ngỗng ấy xem ra gà là loại tinh anh và cao đẳng hơn cả. Có lẽ vì nó gần…người
hơn và có nhiều bản tính… người hơn, ít ra là so với ngan. Mụ ngan lạch bạch đi
kiếm ăn. Hai con của mụ bỗng bị diều hâu quắp, thế mà mụ vẫn cứ vô tư như
không. Mụ vô tâm quá! Tô Hoài khẳng định : “Phải tay mụ gà thì không bao giờ
mụ chịu đứng im như vậy. Dù sống dù chết mụ cũng xù lông ra, nhảy lên đánh
nhau với quân thù. Đằng này có thể như không bao giờ mụ ngan nghĩ đến cái
điều phiền nhiễu đó. Mụ đủng đỉnh dẫn một con long thong về, mỏ và mắt thản
nhiên như lúc ra đi” [1, tr 85]. Ấy là so với gà, còn so với vịt thì ngan lại hơn ở
sự “dũng cảm” và “lỳ lợm”. Ngan không nhát như mấy anh vịt, lúc nào cũng
đứng ngẩn tò tè ra nghe ngóng để rình chạy. Cái “ngẩn tò tè” này quả thật là nét
tính cách riêng của vịt, nhưng phải chờ đến Tô Hoài ta mới định danh được nó.
Hay O Chuột là cả một tập truyện gồm 8 truyện, trong đó 7 truyện viết về loài
vật, lấy truyện O chuột làm tên chung. Sao lại là o ? Hoá ra, đây không phải là
đại từ mà là động từ. Chuyện một gã mèo mướp cùng lũ chuột tá túc, kiếm sống
trong nhà. Đối với gã, chuột nhắt là giống gây khó chịu nhất vì chúng thường
lăng quăng, bắng nhắng làm ngứa mắt. Mướp bắt chúng chẳng phải để chén –
chén chúng thì được mấy nả thịt, mà là để vờn đùa cho thoả cái thú nhìn con mồi
trước cái chết. Thế mà cũng lắm lúc bọn nhóc thoát được. Thành ra mướp là nỗi
sợ của toàn họ nhà chuột, nhưng xem chừng mướp cũng thất bại trong việc đi
lung chuột nhắt để vờn đùa. “Cơ chừng gã mèo mướp phải dành tất cả cái hoa
niên của mình để chỉ luẩn quẩn đi o chuột”. [1, tr 101]. Cả cái xã hội chuột này
rồi còn trở lại với sự quan tâm của Tô Hoài trong truyện Chuột thành phố. Cả
một xã hội xã hội chuột gồm nhiều chủng loại nương náu, rúc ráy khắp mọi ngõ
ngách, cơ ngơi thành phố. Giữa chúng thường diễn ra những cuộc chiến tranh để
giành nơi ở và miếng ăn. Nhân vật chính trong truyện là một gã chuột cộc, nhờ
vào đức dũng cảm, thông minh và đoàn kết mà thoát được mọi hiểm nguy, kể cả