Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Đánh giá thực trạng công tác quản lý và sử dụng nguồn nước tại bản thớ tỷ, xã ta ma, huyện tuần giáo, tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.52 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BÁC




“Đánh giá thực trạng công tác quản lý và sử dụng nguồn nước tại bản
Thớ Tỷ, xã Ta Ma, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên”.
Lớp: K52-ĐH QLTNR & BVMT (A)
BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN
Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Minh Châu
Sơn La, năm 2014
1
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 4.1. Chu trình tuần hoàn của nước Error: Reference source not found
Hình 4.2. Sơ đồ thể hiện số lượng sông suối trong bản. Error: Reference
source not found
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước là nguồn tài nguyên tái tạo, là nhu cầu cơ bản của mọi sự sống trên
Trái đất và rất cần thiết cho các hoạt động kinh tế - xã hội của loài người. ở đâu
có nước, ở đó có sự sống. Trong cơ thể sống, nước chiếm khoảng 70% khốii
lượng cơ thể con người trưỏng thành. Nước còn được coi như một tiêu điểm để
đánh giá mức sống, sự phát triển của mỗi quốc gia hoặc mỗi khu vực. Thậm chí
nước - còn là nguyên nhân của chiến tranh, của tranh chấp và chia rẽ.
Nước sạch đưa vào cơ thể con người nhiều nguyên tố cần thiết như: Fe, F,
Zn, Cu, ngược lại nước nhiễm bẩn lại đưa vào cơ thể nhiều vi khuẩn gây
bênh. Nước bẩn chứa nhiều các chất độc hại như: Pb, Hg, As, thuốc trừ sâu, các
hoá chất gây ung thư khác.
Do đó, nước dùng cho cuộc sống phải đủ về số lượng và đảm bảo an toàn


về chất lượng.
Trên phạm vi toàn cầu, tài nguyên nước đang chịu những áp lực ngày
càng nặng nề. Sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế đã dẫn đến những cạnh
tranh và mâu thuẫn gay gắt trong quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên
nước, nhất là đối với những dòng sông liên quốc gia. Bên cạnh đó, việc khai
thác quá mức tài nguyên đất và tài nguyên rừng cũng đã dẫn đến những tác động
tiêu cực đối với tài nguyên nước như tăng dòng chảy lũ, giảm dòng chảy cạn,
tăng mức độ xói mòn lưu vực, gây bồi lắng và làm giảm tuổi thọ của các hồ
chứa, đập dâng. Sự thiếu hiểu biết và thiếu những biện pháp phòng chống ô
nhiễm cần thiết làm cho tài nguyên nước bị suy thoái thêm về chất. Trong bối
cảnh đó, việc nhận thức được tầm quan trọng của tài nguyên nước, nắm vững
những quy luật đặc thù và tiềm năng về tài nguyên nước cũng như phương pháp
quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng hợp lý, bền vững tài nguyên nước của Việt
Nam.
Chính vì những lí do trên mà tôi tiến hình chọn đề tài “Đánh giá thực
trạng công tác quản lý và sử dụng nguồn nước tại bản Thớ Tỷ, xã Ta Ma,
huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên”. Để đưa ra những biện pháp và hướng đi sử
dụng tài nguyên nước bền vững và hợp lí cho người dân ở đây.
3
PHẦN I:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Vấn dề môi trường nông thôn và cụ thể là vấn đề nước sạch cũng như bảo vệ
tài nguyên nước trong từ những thập niên đầu của thế kỉ XXI đã trở thành đề tài
nóng của rất nhiều đề tài nghiên cứu và các chương trình quốc gia. Cụ thể:
Thứ nhất, Chương trình cấp nước, vệ sinh đô thị và nông thôn của
Ngân hàng thế giới (WB), tổ chức Ngân hàng thế giới đã thực hiện chương
trình này trên hơn 30 quốc gai ở châu Á và châu Phi, với hình thức chủ yếu là
khảo sát địa điểm và đầu tư cho hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng: nhà máy xử
lý, khoa học- kĩ thuật bảo vệ môi trường, hỗ trợ nhân dân xây dựng các công
trình vệ sinh đúng quy chuẩn,… với mục đích để người dân nông thôn được sử

dụng nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh, đảm bảo sức khỏe cho nhân dân trong
môi trường trong sạch nhất. Chương trình dùng nguồn vốn để kiến thiết cơ sở hạ
tầng là chủ yếu, đã đặt được hiệu quả ở rất nhiều nước, song ở nước ta chương
trình này vẫn chưa đạt được hiệu quả nhanh chóng, bởi nó chưa thực sự bám sát
vào đặc điểm phong tục tập quán, mức sống cũng như thói quen sinh hoạt của
dân nông thôn vốn đã có nhiều điểm khác biệt ở mỗi vùng miền. Vì vậy nhà
máy và các công trình kĩ thuật và những khoản đầu tư của chương trình này vẫn
đang trong tình trạng chưa triệt để, chưa làm đến nơi.
1.1. Ở Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên nước xếp vào loại trung bình khá
trên thế giới nhưng có nhiều yếu tố không bền vững. Nước ta có khoảng 830 tỷ
m
3
nước

mặt, trong đó chỉ có 310 tỷ m
3
được tạo ra do mưa rơi trong lãnh thổ,
chiếm 37%; còn 63% do lượng mưa ngoài lãnh thổ chảy vào. Tổng trữ lượng
tiềm tàng nước dưới đất có khả năng khai thác, chưa kể phần hải đảo tính 60 tỷ
m
3
/năm. Nếu kể cả nước mặt và nước dưới đất trên phạm vi lãnh thổ thì bình
quân đầu người đạt 4.400 m
3
/người/năm, so với thế giới là 7.400 m
3
/người/năm.
Lượng nước sản sinh từ ngoài lãnh thổ chiếm gần 2/3 tổng lượng nước có
được. Sự phân bố của cả nước mặt lẫn nước dưới đất không đều. Theo không

4
gian, nơi có lượng mưa nhiều nhất là Bạch Mã 8.000mm/năm; Bắc Qang, Bà Nà
khoảng 5.000mm/ năm, trong khi cửa Phan Rí chỉ đạt xấp xỉ 400mm/năm. Theo
thời gian, mủa lũ chỉ kéo dài từ 3-5 tháng, nhưng chiếm tới 70 – 80% lượng
nước cả năm. Mùa lũ, lượng mưa lớn nhất đạt trên 1.500mm/ ngày, song mùa
cạn nhiều tháng lại không có mưa.
Sự không thuận lợi của tài nguyên nước trong sử dụng và khai thác. Nước
ta có khoảng 2.360 con sông có chiều dài hơn 10km. Trong số 13 lưu vực chính
và nhánh có diện tích lớn hơn 10.000km
2
thì đến 10/13 sông có quan hệ với
nước láng giềng, trong đó 3/13 sông thượng nguồn ở Việt Nam, hạ nguồn chảy
sang nước láng giềng; 7 sông thượng nguồn ở nước láng giềng, hạ nguồn ở Việt
Nam. Điều này cho thấy Việt Nam không những bị ràng buộc nguồn lợi về nước
của quốc gia thứ hai, thứ ba chia sẻ, mà thường bị động.
Sự cạn kiệt tài nguyên nước ngày càng tăng. Dân số tăng, chỉ số lượng
nước trên đầu người giảm. Mặt khác, nạn phá rừng ngày một tăng cao để trồng
cà phê, phá rừng để lấy gỗ để lấy gỗ, lấy củi, lấy đất làm nương rẫy,… khó kiểm
soát đã làm nhiều sông, suối khô kiệt về mùa cạn; làm tăng tốc độ xói mòn đất,
tăng tính trầm trọng của lũ lụt về mùa mưa. Ô nhiễm nước ngày một trầm trọng
do tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày một tăng nhanh trong
khi nước thải, rác thải chưa được kiểm soát chặt chẽ. Việc sử dụng hóa chất bảo
vệ thực vật, phân bón hóa học ngày một tăng, khó kiểm soát, ô nhiễm nước do
nước thải, chất thải của các ao nuôi thủy sản xả trực tiếp không qua xử lý vào
nguồn nước.
Tình trạng ô nhiễm nước do nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp
đã trở thành vấn đề quan trọng tại nhiều thành phố, thị xã, đặc biệt là tại các
thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hải Phong, Hà Nội, và các khu công nghiệp. Ô
nhiễm nước do hoạt động nông nghiệp cũng là vấn đề nghiêm trọng tại nhiều
vùng nông thôn, đặc biệt tại châu thổ sông hồng và sông Cửu Long. Hiện tượng

nhiễm mặn, hay chua do quá trinhg tự nhiên và do hoạt động của con người
đang là vấn đề nghiêm trọng ở vùng châu thổ sông Cửu Long.
5
Việt Nam là nước Đông Nam Á có chi phí nhiều nhất cho thủy lợi. Cả nước
hiện có 75 hệ thống thủy nông, với 659 hồ, đập lớn và vừa, trên 3.500 hồ, đập
nhỏ, 1.000 cống tiêu, trên 2.000 trạm bơm lớn nhỏ, trên 10.000 máy bơm các
loại, có khả năng cung cấp 60 - 70 tỷ m3/năm. Tuy nhiên, nhiều hệ thống thuỷ
nông đã xuống cấp nghiêm trọng, chỉ đáp ứng được 50 - 60% công suất thiết kế.
Lượng nước sử dụng hàng năm cho nông nghiệp khoảng 93 tỷ m
3
, cho công
nghiệp là 17,3 tỷ m
3
, cho dịch vụ là 2 tỷ m
3
, cho sinh hoạt là 3,09 tỷ m
3
. Dự tính
tới năm 2030 dân số cả nước đạt 129 triệu trong đó dân thành phố lên 60 triệu,
kinh tế tăng trưởng 10 lần, GDP đầu người tăng 7 lần, diện tích tưới tăng
3,4%/năm, chuẩn cấp nước tăng gấp đôi, 150 lít/ngày/người, 100% dân được
cấp nước sạch vào năm 2020. Cơ cấu dùng nước sẽ thay đổi theo xu hướng nông
nghiệp 75%, công nghiệp 16%, tiêu dùng 9%. Nhu cầu nước dùng sẽ tăng gấp
đôi, chiếm khoảng 1/10 tổng lượng nước sông ngòi, 1/3 lượng nước nội địa, 1/3
lượng dòng chảy ổn định.
Nước ta có trên 700 đô thị từ cấp I đến cấp V, nhu cầu cấp nước sinh hoạt
trong các đô thị ngày càng gia tăng. Hiện nay, tiêu chuẩn cấp nước đô thị là 150
đến 200l/người dân. Trong số gần 2 triệu m
3
nước cấp cho dân đô thị mỗi ngày,

khoảng 30% lượng nước này được khai thác từ nguồn đất. Ở nông thôn, vấn đề
nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đang là vấn đề nan giải do những
khó khăn tự nhiên và kinh tế xã hội của vùng. Có trên 50% hộ dân đang dùng
nước giếng khơi, 25% dùng nước sông suối, trên 10% dùng nước mưa. Ước
tính, mới có khoảng 30% dân số có nguồn nước tương đối sạch, trong đó chỉ có
khoảng 10% đạt tiêu chuẩn quốc gia. Cả khu vực nông thôn có khoảng 80%
lượng nước được cấp với tiêu chuẩn 50 đến 80l/người dân. Tuy nhiên, cả đô thị
lẫn khu vực nông thôn nguồn nước được cấp chỉ đảm bảo 50 đến 85%. Còn các
hộ gia đình, cơ sở sản xuất phải tự tìm kiếm, khai thác nguồn nước và tự xử lý
để sử dụng. Vì vậy sự tổn thất nước trong các hoạt động này rất lớn.
Do lượng mưa lớn, địa hình dốc, nước ta là một trong 14 nước có tiềm năng
thủy điện lớn. Các nhà máy thủy điện hiện nay sản xuất khoảng 11 tỷ kWh,
chiếm 72 đến 75% sản lượng điện cả nước. Với tổng chiều dài các sông và kênh
6
khoảng 40.000km, đã đưa vào khai thác vận tải 15.00km, trong đó quản lý trên
8.00km. Những song suối tự nhiên, thác nước, … được sử dụng làm điểm tham
quan, du lịch. Những vùng đất ngập nước, nơi quần tụ các loại động vật hoang
dã là những nơi sinh thái lý tưởng… Về nuôi trồng thủy hải sản, nước ta có 1
triệu ha mặt nước ngọt, 400.000 ha mặt nước lợ và 1.470.000 ha mặt nước sông
ngòi, có hơn 14 triệu ha mặt nước nội thủy và lãnh hải. Tuy nhiên cho đến nay
mới sử dụng 12,5% diện tích mặt nước lợ, nước mặn và 31% diện tích mặt nước
ngọt.
• Thực trạng tày nguyên nước của Viêt Nam.
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2005 (16/12/2005, Hà Nội)
có nêu “Nguồn nước dưới đất bị ô nhiễm do việc chôn lấp gia cầm bị dịch
không đúng quy cách. Tính đến cuối năm 2004, hơn 40 triệu gia cầm đã bị tiêu
hủy, chiếm gần 20% tổng đàn trên cả nước. Nguy cơ ô nhiễm nước dưới đất từ
các hốc chôn lấp, tiêu hủy gia cầm là rất cao, đặc biệt trong mùa mưa… Chỉ
4,26% lượng nước thải Công nghiệp được xử lý đảm bảo tiêu chuẩn môi
trường; tình trạng phú dưỡng ở nước do ô nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật;

nước còn ô nhiễm từ gia cầm ”
- Ô nhiễm nguồn nước từ chăn nuôi gia súc gia cầm:
Việc chăn nuôi gia súc gia cầm ở hộ gia đình vùng nông thôn chưa có ý
thức tiết kiệm nguồn nước trong việc vệ sinh chuồng trại chưa có hệ thống xử lý
chất thải đã thải vào ao hồ, bể tự hoại để thấm vào đất gây ô nhiễm môi trường
đặc biệt là nguồn nước ngầm. Nước dưới đất xung quanh khu vực chôn lấp gia
cầm nhiễm bệnh bị ô nhiễm do nguyên nhân chủ yếu là nước thải sinh ra trong
quá trình phân hủy gia cầm phát tán ra bên ngoài hố chôn lấp do lót đáy không
kỹ hoặc không lót đáy.
Ngoài ra, do không được đầu tư đúng mức nên hệ thống cống thoát nước
chưa được xây dựng hoàn chỉnh, hầu hết các cống không có nắp nên ô nhiễm
môi trường là không thể tránh khỏi. Mỗi gia đình có trung bình từ 4 – 5 người;
chuồng lợn có từ 2 – 4 con; chuồng trâu, bò có từ 1 – 2 con; chuồng gà với
7
khoảng 10 – 15 con, 10 – 20 con ngan vịt. Có một đến hai ao nhỏ để thả cá.
Nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải này rất cao, tương đương với nước
rác rò rỉ trong thời gian phân hủy của gà trong hố sẽ kéo dài có thể tới một vài
năm.
- Ô nhiễm từ nguồn nước thải sinh hoạt.
Ở Việt Nam hiện nay, mức tăng dân số nhanh chóng đã đưa nước ta vào
hàng thứ 12 trong số các quốc gia có số dân đông của thế giới. Với mức tăng
dân nhanh như thế, mỗi năm nước ta tăng thêm 1,4 triệu người và dự báo đến
năm 2015 sẽ là 100 triệu người. Dự báo đến năm 2020 sẽ có 50% số dân sống ở
các vùng đô thị. Dân số tăng, nhu cầu nước cho mọi hoạt động sinh hoạt và phát
triển kinh tế tăng lên, các nguồn chất thải tăng lên sự ô nhiễm môi trường nước
cũng tăng lên.
Hầu hết, nước thải đô thị đều chưa được xử lý trước khi xả thải ra môi
trường. Ngoài ra, nước rò rỉ từ các bãi rác cũng là nguồn gây ô nhiễm nguồn
nước mặt và nước ngầm nghiêm trọng vì đặc trưng của loại nước thải này có
hàm lượng chất gây ô nhiễm cao, độ màu lớn. Trong khi đó cả nước mới chỉ có

một vài bãi chôn lấp rác có hệ thống xử lý nước rác hoạt động thường xuyên và
đảm bảo tiêu chuẩn môi trường.
Nước thải sinh hoạt bao gồm từ khu nhà bếp và nhà vệ sinh nên chứa rất
nhiều chất hữu cơ và sinh vật gây bệnh. Ngoài ra, trong nước thải sinh hoạt còn
có nhiều loại hóa chất khác nhau, đặc biệt là chất tẩy rửa. Nước thải thường ứ
đọng trong các hệ thống cống lâu ngày nên càng độc hại và có mùi hôi thối. Đây
là nguồn ô nhiễm đáng chú ý đối với các thủy vực tiếp nhận (ao, hồ, sông,…).
Trong đó, nguy hiểm hơn cả là sự gây ra cho nguồn ô nhiễm nước ngầm bởi các
dòng thấm không kiểm soát được từ nguồn ô nhiễm hoặc bị nhiễm bẩn qua tầng
đất đá ô nhiễm,
- Nước thải công nghiệp.
Công nghiệp là nghành làm ô nhiễm nước quan trọng, mỗi nghành có một
loại nước thải khác nhau. Khu công nghiệp Thái Nguyên thải nước biến sông
Cầu thành màu đen, mặt nước sủi bọt trên chiều dài hàng chục km. Khu công
8
nghiệp Việt Trì xả mỗi ngày hàng ngàn m
3
nước thải của nhà máy hóa chất,
thuốc trừ sâu, giấy, dệt xuống sông Hồng làm cho nước bị ô nhiễm đáng kể.
Nước thải Công nghiệp xâm nhập gây ô nhiễm các tầng chứa nước dưới đất
cũng là nguy cơ gây ô nhiễm kim loại nặng, nitơ và asen trong nước ngầm.
Theo thống kê sơ bộ thì chỉ khoảng 4,26% lượng nước thải công nghiệp được xử
lý đảm bảo tiêu chuẩn môi trường (năm 2005). Với lượng chất thải khá lớn từ
các nhà máy, xí nghiệp, nước thải công nghiệp chiếm một lượng lớn trong tổng
lượng nước thải hằng ngày ở thành phố lớn, hơn nữa mức độ gây ô nhiễm của
nước thải công nghiệp cao hơn nhiều so với nước thải sinh hoạt do chứa nhiều
hóa chất độc hại khó phân hủy . Do kinh phí còn hạn hẹp, điều kiện chưa cho
phép nên hầu hết nước thải thẳng ra hệ thống kênh rạch, sông ngòi mà chưa qua
xử lý gây nên tình trạng ô nhiễm trầm trọng cho các nguồn này, ngoài ra còn
nhiều nguồn gây ô nhiễn khác như: Nước thải nông nghiệp, nước thải từ các

bệnh viện.
1.2. Bản Thớ Tỷ, xã Ta Ma.
Bản Thớ tỷ, xã Ta Ma, huyện tuần giáo tỉnh điện biên là một trong những
bản khó khăn về kinh tế, với dân cư là người dân tộc H mông trình độ dân chí
thấp, kinh tế gia đình chủ yếu dựa vào tự cung tự cấp là chính, địa hình dốc, số
lượng suối rất ít, lượng nước chảy mặt thường cạn kiệt vào mùa khô làm cho
người dân ở đây thiếu nước vào mùa khô vì vậy người dân sống chủ yếu dựa
vào canh tác nương rẫy là chính. Có những hộ gia đình có thu nhập cao hơn thì
đầu tư mua dây ống dẫn nước hơn chục km dẫn về nhưng lượng nước dẫn về
cũng chỉ đủ cho 2 – 3 gia đình dùng vì lượng nước chảy trong ống rất nhỏ.
Trong tình trạng thiếu nước của bản cuối năm 2007 chương trình 135 đã xây
dựng bể dẫn nước về cho bản đã đỡ cho người dân phần nào nhưng lượng do
nước chảy rất ít nên cũng không đáp ứng được hết nhu cầu sinh hoạt của người
dân, ống dẫn nước và bể chỉ hoạt động được gần 3 năm thì người dân đã phá
hỏng hết, do đó cho thấy ý thức tự bảo vệ tài sản chung của người dân ở đây rất
thấp. chương trình dẫn nước về cho bản chia làm hai đợt nhưng cho đến nay bể
nước và ống dẫn đã xuống cấp hết.
9
Một trong những nguyên nhân làm cho người dân ở đây sống trong cảnh
thiếu nước hàng ngày là do: Nạn phá rừng làm nương rẫy, phá rừng đầu nguồn,
đốt rừng làm cho lượng nước chảy mặt ngày càng ít đi, không những thế mà
lượng nước chảy mặt ngày càng bị ô nhiễn nhiều.
Hiện nay trong tình trạng thiếu nước của bản đưa ra những phương pháp sử
dụng nguồn nước bền vững và hợp lí cho bản là rất cần thiết.
10
PHẦN II:
MỤC TIÊU, PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU.
2. 1. Mục tiêu nghiên cứu.
2.1.1. Mục tiêu chung.

Tìm ra phương pháp sử dụng nguồn nước bền vững có hiệu quả cho bản
Thớ tỷ, xã Ta Ma, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể.
Đánh giá thực trạng công tác quản lý và sử dụng nguồn nước tại xã Ta Ma,
huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.
2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là các vấn đề liên quan đến công tác
quản lí và sử dụng nguồn nước.
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu.
Chuyên đề nghiên cứu tại bản Thớ Tý, xã Ta Ma, huyện Tuần Giáo, tỉnh
Điện Biên.
2.3. Nội dung nghiên cứu.
2.3.1. Điều tra tình hình sử dụng và công tác quản lí nguồn nước.
- Đánh giá tình hình sử dụng nguồn nước của địa phương.
+ Đánh giá nhu cầu sử dụng nguồn nước của người dân.
- Đánh giá công tác quản lí nguồn nước tại địa phương.
- Những thuận lợi và khó khăn trong công tác quản lí nguồn nước.
- Các nguồn gây ô nhiễn chính và những nguyên nhân dẫn đến nguồn
nước ngày càng cạn kiệt.
2.3.2. Đưa ra những giải pháp và hướng đi cụ thể cho địa phương.
2.4. Phương pháp nghiên cứu.
Chuyên đề sử dụng kết hợp một số phương pháp sau:
- Phương pháp phỏng vấn các hộ gia đình trong bản: Bản có 56 hộ tiến hình
phỏng vấn 30 hộ, nội dung hỏi xoay quanh vấn đề sử dụng nước của người dân
và bảo vệ nguồn nước.
11
- Phương pháp quan sát, điểu tra.
Quan sát một số biểu hiện bên ngoài về kinh tế ( vật chất) của các hộ gia
đình được phỏng vấn. Cụ thể: quan sát vị trí nhà ở, nguồn nước họ đang sử

dụng, bể nước, vị trí lắp đặt ông nước sạch( nếu có)…, quan sát tổng quan về cả
bản.
- Phương pháp phân tích tài liệu.
+ Sử dụng tài liệu của địa bàn nghiên cứu như: báo cáo cáo tình hình Kinh
tế xã hội của UBND xã năm 2014.
+ Luật Tài nguyên Nước ( sửa đổi và bổ sung- 2008)
+ Sử dụng các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như sách, báo, tạp
chí, mạng Internet,….
PHẦN III:
ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC NGHIÊN CỨU.
3.1. Điều kiện tự nhiên.
12
Bản Thớ Tỷ xã Ta Ma là bản vùng cao nằm ở phía Đông Bác của huyện
Tuần Giáo với tổng diện tích tự nhiên 3112ha chiếm 29,1%% tổng diện tích tự
nhiên của xã. Có 56 hộ với 349 khẩu là người dân tộc H’mông.
3.1.1. Vị trí địa lý:
+ Phía Tây Bác giáp xã Rạng Đông huyện tuần Giáo.
+ Phía Tây Nam giáp xã Quài Nưa huyện Tuần Giáo
+ Phía Nam giáp xã Tòa Tình huyện Tuần Giáo
+ Phía Đông giáp trung tâm xã Ta Ma
+ Phía Tây giáp xã Pú Nhung huyện Tuần Giáo
Bản có địa hình bao bọc bởi nhiều dãy núi đá xen lẫn với thung lũng và
khe suối. Địa hình chia cát phức tạp là địa hình cater nên thấm nước nhanh trên
bề mặt dẫn đến khô hạn, với nhiều đỉnh núi cao có độ dốc trung bình 20
0
đến 25
0
hướng dốc của địa hìnhTây Nam – Đông Bác.
3.1.2. Đặc điểm khí hậu,thủy văn
3.1.2.1. Khí hậu:

Bản có khí hậu nhiệt đới núi cao, được chia thành hai mùa rõ rệt là mùa
khô và mùa mưa. Đây là vùng ít chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nhưng
chịu ảnh hưởng mạnh của gió Lào vào tháng 3 và tháng 4 hàng năm có đặc diểm
là khô và nóng. Tốc độ gió trung bình là 0.8 m/s. Lượng mưa trung bình năm
thấp, chia làm hai mùa rõ rệt.
Bản chịu ảnh hưởng của tiểu vùng khí hậu trên cao nguyên Sơn La và
thượng nguồn Sông Mã, nhiệt độ trung bình là 21
0
C nhiệt độ trung bình tối cao
cả năm là 27,6
0
C; nhiệt độ tối thấp trung bình cả năm 17,2
0
C; nhiệt độ tối thấp
tuyệt đối (tháng 10) là 1,3
0
C; lượng mưa trung bình cả năm trên 1.631 mm, tập
trung vào các tháng 6, 7, 8; độ ẩm trung bình cả năm 84%; số giờ nắng trung
bình cả năm dao động từ 1.789 đến 1.869 giờ, có biên độ nhiệt độ chênh lệch
giữa ngày và đêm khá lớn.
Bản ít bị ảnh hưởng của gió bão, nhưng lại bị ảnh hưởng của gió Tây Nam
khô nóng thường xuất hiện giông, mưa đá vào mùa hè và sương muối vào mùa
13
đông. Đây là những hiện tượng thời tiết bất lợi cho đới sống và sản xuất, nhất là
sản xuất nông nghiệp nên cần có biện pháp phòng tránh để giảm thiểu thiêt hại.
3.1.2.2.Thủy văn
Bản Thớ Tỷ là vùng cao nên hệ thống thủy văn chủ yếu là các khe suối
nhỏ cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Do địa hình núi cao
ảnh hưởng của casTer nên việc phân bố lượng nước không đồng đều và cạn
nước vào mùa khô.

3.1.3. Các nguồn tài nguyên khác.
3.1.3.1. Tài nguyên đất
Theo tài liệu đánh giá tài nguyên đất bản có 5 nhóm đất chính là: Nhóm
đất phù sa, nhóm đất đen, nhóm đất Feralit mùn vàng đỏ trên núi, nhóm đất
thung lũng do sản phẩm dốc tụ.
3.1.3.2 Tài nguyên nước
- Nguồn nước Mặt: Nguồn nước mặt chủ yếu của bản là hệ thống ao hồ và
khe suối nhỏ, do đặc điểm địa hình cater, các khe suối thường cạn vào mùa khô
nên nước cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất gặp nhiều khó khăn.
- Nguồn nước ngầm: Nước ngầm chữa trong các khe nứt của đá được hình
thành do đá bị phong hóa mạnh và nước mưa ngấm qua đất trữ vào kẽ nứt trên
bề mặt, nhiều nguồn nước ngầm đã xuất lộ ra ngoài thành dòng chảy, lưu lượng
dao động theo mùa ( từ 1 – 2 l/s đến 15 l/s.
Nguồn nước ngầm caster: Được tàng trữ trong các hàng động caster hình
thành từ núi đá vôi,phân bố sâu, ít vận động, các mạch suất lộ từ nguồn caster
thường có lưu lượng nhỏ, động thái không ổn định.
Trong vùng có các ngòi suối, mó nước cung cấp cho sản xuất sinh hoạt.
Nước caster là loại nước cứng, khi sử dụng trong sinh hoạt cần được khử vôi,
các biện pháp sủ lí để đảm bảo an toàn cho sức khỏe.
3.1.3.3. Hệ thống thủy lợi và nước sinh hoạt.
Các công trình cung cấp nước hợp vệ sinh cho sinh hoạt bằng nguồn vốn
135 đã xây tại bản: Gồm 4 bể nước, nhưng hiện nay các bể nước đã xuống cấp.
14
Do địa hình dạng caster, có độ dốc lớn khả năng giữ nước trên bề mặt
kém do vậy, nguồn nước để cung cấp cho sinh hoạt gặp nhiều khó khăn, cạn vào
mùa khô.
3.2. Những thuận lợi và khó khăn của khu vực nghiên cứu.
3.2.1.Thuận lợi.
- Người dân mua ống và tự dẫn nước về, bằng hình thức tự cung tự cấp
nên không phải mất tiền.

- Tình hình an ninh – chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định. Nhân dân
trong bản đồng tình ủng hộ, tin tưởng vào chủ trương, đường lối chính sách của
Đảng và nhà nước.
3.2.2. Khó khăn.
- Địa hình phức tạp, chia cát, các con suối phân bố rải rác, lưu lượng dòng
chảy nho, thiếu nước sinh hoạt vào mùa khô.
- Người dân sống chủ yếu dựa vào canh tác nương rẫy nên cuộc sống còn
gặp nhiều khó khăn.
- Thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp, không có điều kiện xây dựng thủy
lợi do điều kiện địa hình casTer.
- Cơ sở vật chất hạ tầng còn thiếu,canh mương, đập chữa nước chưa đáp
ứng để phát triển kinh tế - xã hội trong thời kì đổi mới.
3.3. Một số khái niệm.
3.3.1. Khái niệm môi trườn, ô nhiễn môi trường.
“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo
quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống,
sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên.”( Theo Điều 1,
Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam). Môi trường sống của con người theo
chức năng được chia thành các loại:
Theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam: “ Ô nhiễm môi trường là sự làm
thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường”. Ô nhiễm
môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi
trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khỏe con người, đến sự phát triển
15
sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân ô nhiễm bao
gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng( nước thải), rắn( chất thải rắn) chứa
hóa chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ,
bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được xem là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm
lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt mức có khẳ năng tác động

xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
3.3.2. Vai trò của nước, một số khái niệm.
-Nước là yếu tố chủ yếu của hệ sinh thái, là nhu cầu của mọi sự sống trên
trái đất và cần thiết cho các hoạt động kinh tế xã hội của loài người. Cùng với
các dạng tài nguyên thiên nhiên khác tài nguyên nước là một trong bốn nguồn
lực cơ bản để phát triển kinh tế-xã hội, là đối tượng lao động và là yếu tố cấu
thành của lực lượng sản xuất.
- Nước là tài nguyên tái tạo được, sau một thời gian nhất định được dùng
lại. Nước là thành phần cấu tạo nên sinh quyển. Trong cơ thể sống chiếm tỉ lệ
lớn - 70% khối lượng cơ thể trưởng thành. Nếu mất 6% - 8% nước trong cơ thể
con người sẻ mệt mỏi, nếu mất 12% lượng nước trong cơ thể con người sẽ chết.
Nước tác động đến thạch quyển, khí quyển dẫn tới sự biến đổi của khí hậu, thời
tiết.
- Tài nguyên nước bao gồm nước trong khí quyển nước mặt, nước dưới mặt
đất, nước biển và đại dương. Nguồn nước hầu hết là tài nguyên tái tạo, nằm
trong chu trình tuần hoàn của nước dưới các dạng : Mây, mưa, trong các vật thể
chứa nước, sông suối, đầm…, nước dưới đất có áp và không có áp, ở tầng nông
hay tầng sâu của đất và nước ở vùng biển và đại dương trên thế giới.
- Mặc dù lượng nước trên trái đất là khổng lồ, song lượng nước ngọt cho
phép con người sử dụng chỉ chiếm một phần rất nhỏ ( dưới 1/100.000 ). Hơn
nữa sự phân bố của các nguồn nước ngọt lại không đều theo không gian và thời
gian mà khiến cho nước trở thành một dạng tài nguyên đặc biệt cần phải bảo vệ
và sử dụng hợp lí.
- Nước tự nhiên gồm có nước mưa và nước mặt:
16
+ Nước mặt thường xuyên được bổ xung từ nguồn nước mưa, nước mặt
do có mặt thoáng tiếp xúc nên tiếp nhận ôxy từ không khí vào khuyếch tán diễn
ra dễ dàng. Ngoài ra, nước mặt còn tiếp nhận các chất ô nhiễm không khí do
mưa mang theo. Nhìn chung, chất lượng nước mặt phụ thuộc nhiều vào yếu tố
như: Cấu trúc địa chất, địa hình, các hoạt động của con người, thảm thực vật, xói

mòn trái đất…và hiện tượng ô nhiễm không khí.
- Nước ngầm: Tồn tại trong các khoảng trống ở dưới đất, trong các khe
nứt, thấm trong đất đá, có thể tâp trung thành từng bồn, từng bể, thành dòng
chảy trong lòng đất. Trong nước này có chứa các hợp chất hoà tan từ lớp đất đá
mà nó chảy qua, một phần nước do mưa thấm trục tiếp xuống sau những trận
mưa. Nhờ quá trình đó nước ngầm được cải thiện đáng kể, các hạt lơ lửng được
loại do tác dụng lọc của các lớp đất. Mặt khác, nó còn phụ thuộc vào nơi nó
chảy qua. Chính vì vậy nước ngầm khá da dạng: Nước chảy qua vùng có các
khoáng chất gọi là nước khoáng…
- Theo dịch tễ học nước sạch là nước không màu không mùi không vị và
không có sự hiện diện các vi sinh vật nhìn thấy bằng mắt thường.
- Nước ô nhiễm khi tính chất lí học, hóa học và điều kiện vi sinh của
nước bị thay đổi. Sự thay đổi này có tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển
của con người và sinh vật.
Hình 4.1. Chu trình tuần hoàn của nước
17
PHẦN IV:
18
KẾT QUẢ THẢO LUẬN.
4.1. Điều tra điều kiện cơ bản của đối tượng cần nghiên cứu.
4.1.1. Đánh giá về hiện trạng sử dụng nguồn nước trong bản.
- Địa hình dốc nhiều núi đá, số lượng sông suối ít lưu lượng dòng chảy
nhỏ nên chủ yếu người dân sử dụng nước vào sinh hoạt là chủ yếu, nền nông
nghiệp lúa nước không phát triển được.
- Người dân ở đây chỉ sử dụng nước vào hai mục đích là: Thứ nhất là sinh
hoạt, thứ hai là làm ruộng.
- Trong bản có 4 con suối, 1 con suối chạy qua ngay trung tâm bản nhưng
lưu lượng dòng chảy nhỏ, thường cạn vào mùa khô không đáp ứng được nhu cầu
của người dân, 2 con suối, suối Ha đe Sua, suối đe to Po, cách bản hơn 1 km, tuy
không cạn vào mùa khô nhưng lưu lượng dòng chảy nhỏ, hai con suối nằm ở vị

trí cao hơn so với bản nên người dân thường dẫn nước từ hai con suối này về sử
dụng vào sinh hoạt, còn suối Ha De, nằm thấp hơn so với bản thường cạn vào
mùa khô nên người dân sử dụng con suối này để làm một số thửa ruộng nhỏ vào
mùa mưa.
- Số lượng ống dẫn nước từ hai con suối: Suối Ha đe Sua (3 ống), suối Đe
to Po (4 ống) dẫn nước, chủ yếu là dẫn về phụ vụ nhu cầu sinh hoạt, nhưng vào
mùa khô lưu lượng dòng chảy nhỏ nên lượng nước chạy trong một số ống rất
nhỏ.
- Nguồn nước trong bản càng ngày càng bị ô nhiễn, do rác thải sinh hoạt
hàng ngày của người dân, và thuốc bảo vệ thực vật như: thuốc trừ cỏ.
- Ý thức tham gia bảo vệ môi trường và bảo vệ nguồn nước còn chưa cao.
- Chăm thả gia súc bừa bãi gây ô nhiên nguồn nước.
19
Hình 4.2. Sơ đồ thể hiện số lượng sông suối trong bản.
4.1.1.1. Sử dụng nước trong nông nghiệp.
- Do địa hình dốc nhiều đá khó mở rộng diện tích ruộng bậc thang cộng
với lại lưu lượng dòng chảy nhỏ nên diện tích ruộng bậc thang trong bản rất ít
chỉ có một số hộ gia đình có đất ở gần sông suối đất bằng phẳng mới có ít mảnh
ruộng, Sau đây là số hộ gia đình có ruộng trong bản.
Biểu 4.1: Số hộ gia đình có diện tích ruộng trong bản.
STT Tên hộ gia đinh Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
1 Vàng Chờ Lù 0.5 29.94
2 Vàng Chứ Dơ 0.4 23.95
3 Vàng Nhìa Súa 0.3 17.96
4 Giàng A Thu 0.1 5.99
4 Sùng Tráng Xà 0.1 5.99
5 Giàng Nhìa Chứ 0.09 5.39
6 Sùng Vản chu 0.06 3.59
7 Giàng Sái Dơ 0.07 4.19
8 Giàng Vản Lù 0.05 2.99

Tổng 1.67 100.00
(Nguồn: Điều tra trực tiếp từ các hộ dân)
20
- Qua biểu trên ta thấy diện tích ruộng rất ít (1.67 ha), điều đó chứng tỏ
rằng lượng nước được sử dụng vào trong nền nông nghiệp cũng không nhiều,
mặc dù lưu lượng dòng chảy của các con suối vào mùa mưa cũng khá to nhưng
người dân vẫn chưa thật sự biết tận dụng hết vào nền sản xuất lúa nước. Do vậy
cần mở rộng diện tích ruộng bậc thang để tận dụng lượng nước vào mùa mưa,
tiết kiện nước vào mùa khô.
4.1.1.2. Sử dụng nước trong nuôi trồng thủy sản.
Lượng nước được sử dụng vào nuôi trồng thủy sản cũng không nhiều bởi
vì lượng ao trong bản rất ít và diện tích rất nhỏ, chủ yếu là nuôi để phục vụ gia
đình, nước cũng không đảm bảo liên tục cho ao khi mùa khô đến. Chỉ có một số
hộ gia đình có đất gần đầu nguồn hoặc có điều kiện mua ống dẫn nước thì mới
có ao nhưng rất nhỏ, ngoài ra còn có một số hộ tận dụng nước mưa để làm ao cá
nhưng chỉ nuôi được vào thời gian mùa mưa, không đảm bảo tính liên tục.
Biểu 4.2: Số hộ gia đình có ao trong bản
STT Tên hộ gia đinh Số lượng ao Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
1 Giàng Vản Lù 2 0.025 18.80
2 Sùng Vản chu 1 0.02 15.04
3 Giàng Sái Dơ 1 0.01 7.52
4 Sùng Tráng Xà 1 0.02 15.04
5 Vàng Nụ Súa 1 0.02 15.04
6 Sùng Nhìa Súa 1 0.01 7.52
7 Giàng Thánh Chua 1 0.018 13.53
8 Vàng Chờ Lù 1 0.01 7.52
Tổng 9 0.13 100.00
Qua biểu trên cho ta thấy số lượng ao trong bản chỉ có 9 ao, diện tích là
0.13 ha. Số ao trong bản chủ yếu nằm ở con suối Ha đe Sua, còn một số ao trong
bản thì dẫn nước thì dẫn nước từ hai con suối, Đe to Po, Ha đe Sua về, Lượng

nước được sử dụng vào để nuôi ao cá trong bản là cũng ít, nguyên nhân là do
bản Thớ Tỷ là bản Vùng Cao chủ yếu nuôi cá để phụ vụ cho gia đình với lưu
lượng dòng chảy của các con suối là rất nhỏ không đủ nước cho số lượng ao cá
nhiều. Để đảm bảo nước cho nuôi trồng thủy sản thì khi đào ao phải đào sâu tận
dụng nước mưa khi mùa mưa đến đảm bảo dự trữ nước cho mùa khô.
21
4.1.1.3. Sử dụng nước cho sinh hoạt hằng ngày.
Người dân trong bản 100% số hộ gia đình sử dụng nước chưa qua sử lí mà
sử dụng trực tiếp từ các ống dẫn nước về hoặc từ các mó nước, nước caster có
chữa nhiều sỏi đá không đảm bảo an toàn cho sức khỏe, người dân trong bản sử
dụng ba loại nước chính đó là nước mưa và nước sông suối, nước mó, nấu
nướng chủ yếu là sử dụng nước suối, giặt rũ kết hợp sử dụng cả nước mưa và
nước suối, Các chương trình cung cấp bước sạch bằng nguồn vốn 135 của nhà
nước đầu tư vào bản gồm 4 bể nước nhưng hiện nay đã xuống cấp hết đường
ống dẫn nước cũng đã hỏng, số lượng bể của các hộ trong bản gồm có 6 bể
nhưng chủ yếu là bể nhỏ, người dân luôn sống trong hoàn cảnh thiếu nước vào
mùa khô, Bản có địa hình dốc nhiều khe núi đá nhiều mạch nước ngầm nhưng
chỉ xuất hiện vào mùa mưa không đảm bảo tính liên tục của dòng chảy.
• Đánh giá về mức độ sử dụng các loại nước: Nước mưa, nước ao hồ, sông
suối, nước mó, trong bản.
- Sử dụng công cụ PRA để phỏng vấn 30 hộ dân trong bản với mức độ sử
dụng loại nước nao nhiều nhất là than điểm 10, thấp nhất là 0 điểm.
Biểu 4.3. Biểu tổng hợp phỏng vấn 30 hộ dân về mức độ sử dụng các
loại nước.
Chỉ tiêu Mức độ sử
dụng (điểm)
Tỷ lệ (%) Xếp hạng
Nước mó 240 37.3 1
Nước mưa 218 33.9 2
Nước ao hồ, sông suối 186 28.9 3

Tổng điểm 644 100
22
Qua biểu trên ya thấy người dân trong bản sử dụng loại nước mó là nhiều
nhất 240 (điểm), chiếm tỉ lệ 37.3%, xếp hạng thứ nhất, xếp thứ hai là nước mưa
218 (điểm), chiếm 33.9%, thứ 3 là nước ao hồ, sông suối 186 (điểm), chiếm 28.0
%. Loại nước ao hồ, sông suối là loại nước không đảm bảo an toàn về nước sạch
nhưng người dân cũng phải sử dụng, khi mùa khô đến lượng nước mó cạn dần
và nước mưa khô hết.
4.1.1.4. Sử dụng nước cho chăm nuôi.
Chăm nuôi chỉ mang tính tự cung tự cấp nên lượng nước sử dụng cho
chăm nuôi cũng không nhiều.
4.1.2. Đánh giá về công tác quản lí nguồn nước của người dân trong
bản.
- Người dân đã tích cực tham gia bảo vệ rừng đầu nguồn, cấm chặt phá
rừng đầu nguồn.
- Nhưng bên cạnh đó vẫn còn có nhiều người gây ô nhiễn nguồn nước,
như vức các rác khó phân hủy và rửa bình phun có thuôc độc hại lên nguồn
nước.
- Ý thức tham gia bảo vệ rừng đầu nguồn bảo vệ môi trường của một số
người còn thấp.
- Tình trạng ô nhiễn nguồn nước ngày càng tăng, do chưa có một biện
pháp quản lí hiệu quả.
- Vẫn còn một số hộ gia đình sống trên vùng đầu nguồn, làm nhiễn bẩn
nguồn nước mà tất cả mọi người sử dụng.
- Hiện tượng làm nương rẫy trên vùng đầu nguồn vẫn còn nhiều.
- Trong bản chưa xây dựng các hương ước về công tác quàn lí nguồn nước
và bảo vệ môi trường.
- Vức xác chết động vật gần nguồn nước, gây ô nhiễn nước.
- Cùng với sự gia tăng dân số ngày càng gây áp lực nặng nề đến môi
trường. Trên thực tế việc khai thác nước để phục vụ cho sinh hoạt của người dân

đang rất tràn lan, không có một biện pháp sử dụng nước hiêu quả. Ngoài ra, các
sông, ngòi, ao, hồ đều có nguy cơ ô nhiễm từ rác thải, nước thải, thuốc bảo vệ
23
thực vật và sẽ rất nguy hiểm cho nguồn nước. Nhận thức của người dân về vấn
đề môi trường chưa cao, đáng chú ý là sự bất cập trong hoạy động quản lý, bảo
vệ môi trường, nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức
và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước còn chưa sâu
sắc và đầy đủ, chưa thấy rõ được về ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm
nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người
cũng như sự phát triển bền vững của đất nước.
- Người dân trong bản chưa nhận thức được sự cần thiết phải bảo vệ nguồn
nước bảo vệ môi trường, họ chưa có cái nhìn rộng và xa hơn, vì vậy họ chỉ tính
nhu cầu hiện tại của họ và làm những gì mình muốn.
- Họ vẫn chưa biết được là một khi nguồn nước bị ô nhiễn sễ gây ra những
tác hại nghiên trọng, hậu quả của việc thiếu nước trong tương lai.
- chưa xây dựng và phổ biến các văn bản luật, nghị định về sử dụng và bảo
vệ tài nguyên nước.
- Các khu rừng đầu nguồn chưa được bảo vệ nghiên ngặt.
- Hiện tượng phun thuốc trừ cỏ trên vùng đầu nguồn là phổ biến nhất trong
bản.
• Sau đây là kết quả tổng hợp phỏng vấn của 30 người dân trong bản về
mức độ tham gia quản lí nguồn nước và bảo vệ môi trường.
Biểu 4.4: Mức độ quan tâm tới nguồn nước và bảo vệ môi trường cửa người
dân.
Mức độ quan tâm Tần suất (người) Tỷ lệ (%)
Rất quan tâm 6 20.00
Quan tâm 8 26.67
Quan tâm chút ít 10 33.33
Hoàn toàn không quan tâm 6 20.00
Tổng 30 100

24
Qua biểu trên ta thấy số người dân quan tâm chút ít tới môi trường là nhiều
nhất 10 (người), chiếm 33.33%, quan tâm là (8 người), chiếm 26.67 %, rất quan
tâm và hoàn toàn không quan tâm là như nhau. Điều này cho thấy người dân nơi
đây vẫn chưa thật sự sự quan tâm tới nguồn nước và bảo vệ môi trường nhiều,
nhưng không chỉ riêng bản Thớ Tỷ mà cả nước Việt Nam vẫn nhiều người chưa
có sự quan tâm tới môi trường, nhưng bên cạnh đó cũng đã có những người rất ý
thức và quan tâm tới môi trường.
4.1.3. Những thuận lợi và khó khó khăn trong công tác quản lí nguồn
nước tại bản.
4.1.3.1. Thuận lợi.
- Nhu cầu bảo vệ môi trường là của chung tất cả mọi người và người dân nơi đây cũng vậy.
Họ quan tâm rất nhiều tới môi trường và cũng quan tâm tới sức khỏe của bản thân cũng như của các
thành viên trong gia đình nên việc tham gia đầy đủ các buổi tuyên truyền và phát động thực hiện các
hoạt động bảo vệ môi trường đều được người dân tham gia đầy đủ.
- Người dân luôn lắng nghê ý kiếm chỉ đạo của các cấp chính quyền trong
bản.
- Các gia đình luôn có ý thức bảo vệ các mó nước.
- Luôn sãn sàn thăm gia các buổi tổng hợp vệ sinh xung quanh bản.
- Đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, đã có ý thức tiết kiệm nước hơn.
4.1.3.2. Khó khăn.
- Trình độ dân chí thấp tiếp thu chậm, khó triển khai các vấn đề về môi
trường cho người dân trong thời gian ngắn.
- Một số người dân còn chưa có ý thức cao trong việc bảo vệ môi trường,
nguồn nước.
- Số lượng các con suối phân bố rải rác, khó khăn trong việc quản lí.
- Các văn bản pháp luật về luật môi trường, luật tày nguyên người dân còn
chưa biết, nên khó khăn trong việc áp dụng pháp luật vào quản lí. – Vấn đề đánh
giá tài nguyên nước chưa thật sự sát sao.
- Sự tham gia vào kế hoạch quản lý của người dân còn chưa cao.

- Khung thể chế, pháp chế, tổ chức về tài nguyên nước còn thấp.
25

×