Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

lễ hội nguyễn trung trực với việc phát triển du lịch tỉnh kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 48 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN LỊCH SỬ - ĐỊA LÝ – DU LỊCH
- - -    - - -









LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH DU LỊCH


LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC
PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH KIÊN GIANG






Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
HUỲNH TƯƠNG ÁI TRẦN THỊ MAI HƯƠNG
MSSV: 6106723
Cần Thơ 11/ 2013
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH


KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 1 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH KIÊN
GIANG

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Con cháu dân tộc Việt Nam luôn tự hào về ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước, trong suốt bề dày lịch sử đó, với bao biến đổi thăng trầm đã đúc kết lại thành một
nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó không thể không nhắc đến lễ hội
– một nét sinh hoạt văn hóa nhân gian. Đây cũng là thành tố quan trọng góp phần tọa nên
bức tranh văn hóa đặc sắc đa dạng trong tổng thể dân tộc Việt Nam.
Lễ hội truyền thống có giá trị đặc biệt trong sự cô kết cộng đồng, đồng thời là cầu
nối giữa quá khứ với hiện tại; là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau hiểu
được công lao của tổ tiên, bày tỏ lòng tri ân công đức các vị anh hùng dân tộc, các bậc
tiền bối đã có công dựng nước, giữ nước và đấu tranh giải phóng dân tộc. Việc bảo tồn và
tổ chức lễ hội truyền thống còn góp phần tích cực trong giao lưu, hòa nhập với các nền
văn hóa thế giới, tạo nền tảng vững chắc cho văn hoá vùng đất Tổ nói riêng và văn hóa
Việt Nam nói chung đủ sức chống lại sự ảnh hưởng tiêu cực của văn hoá ngoại lai. Bên
cạnh những giá trị thiên liêng trên, lễ hội truyền thống là một nguồn tài nguyên du lịch vô
cùng quý giá, là “nam châm” hút khách ngành du lịch. Hiện nay nhiều địa phương trong
cả nước đã và đang vận dụng nguồn tài nguyên nhân văn này để đưa vào hoạt động du
lịch, góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy ngành kinh tế phát triển, và bảo tồn nâng cao
các lễ hôi truyền thống nên tầm cao mới. Với thống kê năm 2004 của cục Văn hóa Thể
thao cơ sở và bộ Văn hóa Thể thao, cả nước có 8.902 lễ hội lớn nhỏ và được phân bố rộng
khắp cả nước.
Nằm ở phía Nam của tổ quốc, thuộc đồng bằng Sông Cửu Long, Kiên Giang là
vùng đất đa dạng về địa hình và phong phú về di sản văn hóa. Toàn tỉnh hiện có hơn 360

cơ sở thờ tự, 38 danh thắng - di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng. Hiện nay, toàn tỉnh có
389 lễ hội, trong đó có 235 lễ hội tôn giáo, 91 lễ hội dân gian, 62 lễ hội lịch sử cách mạng
và một số lễ hội khác. Đặc biệt là lễ hội anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực (TP Rạch
Giá) thu hút hàng ngàn du khách. Tuy nhiên việc tổ chức lễ hội ở nơi đây chỉ mang tính
chất văn hóa thuần túy “uống nước nhớ nguồn”, lễ hội được diễn ra với tính chất là một lễ
giỗ, mà chưa có sự mở rộng lễ hội thành vật hút của ngành du lịch, hay có cũng chỉ là một
cách hời hợt còn thiếu sự đầu tư cũng như quan tâm. Bên cạnh đó vẫn chưa có sự kết hợp
lễ hội với tài nguyên khác của địa phương để phát triển mạnh mẽ hoạt động du lịch. Hay
nói cách khác việc sử dụng tài nguyên văn hóa lễ hội đưa vào khai thác trong du lịch của
tỉnh Kiên Giang còn hạn chế và chưa được hiệu quả.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi chọn đề tài “ Lễ hội anh hùng dân tộc Nguyễn Trung
Trực với việc phát triển du lịch tỉnh Kiên Giang” để thực hiện luận văn tốt nghiệp của
mình, với mong muốn góp một phần nhỏ công sức vào việc giới thiệu, bảo tồn và khai
thác những giá trị văn hóa của lễ hội để phát triển du lịch địa phương.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 2 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Khi nhắc đến lễ hội AHDT Nguyễn Trung Trực, người ta chỉ nghĩ nó như là một
ngày giỗ lớn mang tính chất vùng miền, mà chưa biết nó là một lễ hội mang gía trị truyền
thống vô cùng to lớn cũng như một nguồn tài nguyên khai thác du lịch hiệu quả.
Là người con của địa phương việc tìm hiểu về hoạt đông cũng như thực trạng của
lễ hội giúp tôi hiểu rõ hơn về lễ hội AHDT Nguyễn Trung Trực, đồng thời với việc
nghiên cứu sẽ đưa ra các giải pháp nhằm: Tác động vào ý thức của người dân địa phương
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống; đưa lễ hội địa phương trở thành tài
nguyên phục vụ cho ngành du lịch, góp phần nâng cao thu nhập và hiệu quả kinh tế cho
tỉnh.
3. ĐỐI TƯỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là lễ hội AHDT Nguyễn Trung Trực có thể phát triển để
phục vụ hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiềm hiểu khái quát về vị trí địa lí, lịch sử, kinh tế xã hội, văn hóa con người
của tỉnh Kiên Giang qua đó hiểu được tác động của nó đối với lễ hội AHDT Nguyễn
Trung Trực
Ngoài ra đề tài còn nghiên cứu về thực trạng thu hút khách du lịch tại lễ hội và
phương thức khai thác lễ hội này đưa vào phát triển du lịch tỉnh, đồng thời đưa ra một số
định hướng phát triển lâu dài.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Khi thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
4.1 Phương pháp phân tích tổng hợp:
Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích tổng hợp các dữ liệu, thông tin
liên quan đến đề tài giúp chủ thể khái quát hóa, mô hình hóa các vấn đề nghiên cứu đạt
được mục tiêu đề ra.
4.2 Phương pháp thống kê:
Các số liệu, tư liệu được sưu tầm ở nhiều nguồn khác nhau và thời gian dài ngắn
cũng không giống nhau vì thế các dữ liệu này cần được thống kê và xử lý có hệ thống,
phục vụ cho quá trình nghiên cứu đạt được kết quả cao.
4.3 Phương pháp khảo sát thực địa:
Sử dụng phương pháp này để lấy được số liệu, thông tin phục vụ cho việc trình bài
luận cứ, đồng thời kiểm nghiệm độ chính xác để kết quả nghiên cứu có tính xác thực và
thuyết phục, phương pháp này đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến độ chính xác của
đề tài.
4.4 Phương pháp phỏng vấn:
Đưa ra các câu hỏi đối thoại liên quan đến lễ hội cho các vị khách tham gia lễ hội,
người quản lí, người dân địa phương, người làm du lịch để thu thập thêm thông tin.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
5.1 Về mặt khoa học:
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH

KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 3 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Nghiên cứu lễ hội AHDT Nguyễn Trung Trực góp phần phát họa lên bức tranh
tổng thể về lễ hội văn hóa truyền thống tiêu biểu trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội
về du lịch của tỉnh.
5.2 Về mặt thực tiễn:
Đề tài hoàn thành sẽ góp phần giới thiệu, quảng bá hình ảnh lễ hội AHDT Nguyễn
Trung Trực. Đồng thời để các cơ quan chính quyền địa phương quan tâm chú trọng phát
triển lễ hội hơn nữa. Bên cạnh đó đề tài còn đưa ra những đề xuất định hướng trong việc
bảo tồn và giữ gìn khai thác giá trị tâm linh để phát triển du lịch.
6. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Ở ĐB sông Cửu Long, nói đến lễ hội Anh hùng dân tộc(AHDT) Nguyễn trung
Trực thì ai cũng biết, nhưng trên phương diện nghiên cứu thì không được nhiều, bởi đây
là một lễ hội vô cùng lớn ở ĐB sông Cửu Long, những nghiên cứu về vấn đề này chủ yếu
là báo chí, cũng như tạp chí, chỉ một số ích chọn làm đề tài nghiên cứu khoa học, mà đáng
nói đến là TS Nguyễn Đình Thống (Trường Đại học KHXH TP Hồ Chí Minh) nghiên cứu
với tác hphẩm “Phát tảo ý tưởng một lễ hội về người anh hùng Nguyễn Trung Trực”, hay
một tác phẩm khá hay khác là “ Lễ hội anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực nét đẹp văn
hóa truyền thống Việt Nam ” của giảng viên Nguyễn Thị Thùy Nhung (Khoa Lịch Sử
DDHVH Huế).

























LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 4 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP




CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH
1.1.1 Khái niệm du lịch
Nói về du lịch đã có rất nhiều quan niệm khác nhau, mỗi định nghĩa đứng trên một
góc độ, một khía cạnh, như: Nhìn từ gó độ kinh tế: Du lịch là một tập hợp các hoạt động
kinh tế và dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ cho nhu cầu tahm quan giải trí, nhu cầu nghỉ
nghơi, có hoặc không kết hợp với hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và

nhu cầu khác.
Nhìn chung, các khái niệm về du lịch là không giống nhau, tuỳ thuộc góc độ của
chủ thể và tuỳ thuộc các mốc thời gian khác mà khái niệm về du lịch có sự khác nhau.
Đối với Việt Nam, theo Luật du lịch năm 2006 định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, tìm
hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”
1.1.1.2 Du lịch văn hóa
Du lịch văn hóa là một phạm trù khoa hoa học rông, thể hiện toàn bộ những giá
trị văn hóa của hoạt động du lịch. Tất cả những hoạt động của từng bộ phận, những sản
phẩm du lịch trong quá trình tạo dựng đều hướng vào mục đích hình thành nên những nét
đặc trưng riêng mang bản sắc văn hoá dân tộc, sẽ giúp hình thành nên một văn hoá du lịch
đặc trưng riêng cho đất nước. Hay nói một cách ngắn gọn du lịch văn hóa là hình thức du
lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh,
du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục… Gần đây du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm
đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa
chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả
những phong tục tín ngưỡng… Để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp
nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và
phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ.
Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương – nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn
hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo. Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn
những lễ hội của các nước để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Ở Việt Nam,
nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên những đặc điểm của vùng miền.
Chương trình Lễ hội đất Phương Nam (Lễ hội văn hóa dân gian vùng Đồng bằng Nam
bộ), Du lịch Điện Biên (Lễ hội văn hóa Tây Bắc kết hợp với sự kiện chính trị: 50 năm
chiến thắng Điện Biên Phủ), Con đường Di sản miền Trung (Lễ hội dân gian kết hợp
tham quan những di sản văn hóa được UNESCO công nhận)… Là những hoạt động của
du lịch văn hóa, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.

LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 5 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Trong số đó, Festival Huế được xem là hoạt động du lịch văn hóa đặc sắc nhất
Việt Nam. Lễ hội được tổ chức thường xuyên 2 năm một lần, với sự hỗ trợ của Chính phủ
Pháp. Festival Huế 2004 là lần thứ ba VN có dịp giới thiệu với du khách về lễ hội dân
gian của miền Trung, đặc biệt là Nhã nhạc cung đình Huế - một di sản phi vật thể vừa
được UNESCO cộng nhận; và Lễ tế đàn Nam Giao – một lễ hội vương triều thất truyền từ
hàng chục năm nay. Ngoài ra, lễ hội dân gian này còn có sự tham gia của các nước Pháp,
Trung Quốc…
Du lịch tâm linh là hình thức du lịch đề cập đến các tính ngưỡng, tôn giáo, các lễ
hội tôn giáo, lễ hội nhân gian, lễ hội chùa, lễ hội đình, lễ hội vía các vị phật, thần….Mà
động cơ chính xuất phát từ tâm linh của khách du lịch và mức độ hưởng thụ của khách du
lịch tâm linh luôn cùng một mức độ mặc dù đi với động cơ nào
1.1.2.3 Tài nguyên du lịch:
Là những yếu tố tự nhiên hoặc nhân tạo có khả năng khai thác và sử dụng để thõa
mãng nhu cầu du lịch. Có hai loại tài nguyên du lịch là tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
nguyên du lịch nhân văn.
 Tài nguyên du lịch nhân văn: TNDLNV nói một cách ngắn gọn, là các đối tượng,
hiện tượng do con người tạo ra trong suốt quá trình tồn tại và có giá trị phục vụ
cho nhu cầu du lịch.
 Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí
hậu, cảnh quan, hệ sinh thái tự nhiên có thể sử dụng mục đích du lịch.
Trong các dạng TNDLNV, lễ hội truyền thống là tài nguyên có giá trị rất lớn. Lễ
hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá đặc sắc phán ánh đời sống tâm linh của mỗi dân
tộc. Là một hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày lao động vất vả hoặc
là một dịp để mọi người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, hoặc liên
quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, hoặc chỉ đơn thuần là những hoạt
động có tính chất vui chơi giải trí. Nhìn chung, các lễ hội nổi tiếng có tính hấp dẫn rất lớn

đối với du khách.
1.1.2 Khái niệm khách du lịch
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2006): Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết
hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi
đến. Khách du lịch được phân loại theo hai tiêu chí: Phạm vi lãnh thổ và loại hình du lịch.
Phân loại theo phạm vi lãnh thổ có du khách: Quốc tế và nội địa. Phân theo loại hình du
lịch thì có du khách du lịch sinh thái và du khách du lịch văn hóa.
1.1.3 Một số khái niệm khác
 Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là sự kết hợp hàng hóa và dịch vụ trên cơ sở khai thác hợp lý tài
nguyên du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cho du khách trong hoạt động du lịch. Sản
phẩm du lịch = tài nguyên du lịch + hàng hóa và dịch vụ du lịch.
Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút du khách
đến tham quan du lịch.
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 6 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
 Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch với ưu thế nổi bật về cảnh quan thiên nhiên,
được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của du khách,
đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
 Tuyến du lịch là lộ trình nối các điểm du lịch, khu du lịch khác nhau về chức năng
nhằm đáp ứng cho nhu cầu đi tham quan du lịch của du khách.
 Đơn vị cung ứng du lịch Là một cơ sở kinh doanh cung cấp cho du khách một phần
hoặc toàn bộ sản phẩm du lịch. Đơn vị cung ứng du lịch bao gồm: Điểm vui chơi giải
trí cung ứng các loại hình và dịch vụ vui chơi giải trí; khách sạn cung ứng dịch vụ
lưu trú, ăn uống; nhà hàng chuyên dịch vụ ăn uống cho du khách;…
 Lữ hành là việc thực hiện chuyến đi du lịch theo kế hoạch, lộ trình, chương trình
định trước.
 Cơ sở lưu trú du lịch Là cơ sở kinh doanh buồng, giường và các dịch vụ khác phục

vụ du khách. Cơ sở lưu trú du lịch bao gồm khách sạn, làng du lịch, biệt thự, căn hộ,
lều, bãi cắm trại cho thuê, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú chủ yếu
1.1.4 Các loại hình du lịch
Khái niệm loại hình du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có
những đặc điểm giống nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn những nhu cầu, động cơ du lịch
tương tự, hoặc được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một
cách phân phối, một cách tổ chức như nhau hoặc được xếp chung theo một giá bán nào
đó. Phân loại các loại hình du lịch dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân
du lịch thành các loại du lịch khác nhau. Trong các ấn phẩm về du lịch đã được phát hành,
khi phân các loại hình du lịch các tiêu thức phân loại thường được sử dụng như sau:
* Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch
Dựa vào tiêu chí này, du lịch được chia thành hai loại: Loại hình du lịch quốc tế là
hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của khách nằm ở lãnh thổ các quốc
gia khác nhau, bao gồm có du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế bị động; loại hình
du lịch nội địa là hình thức đi du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của khách cùng nằm
trong lãnh thổ của một quốc gia.
* Căn cứ vào nhu cầu và động cơ làm nảy sinh hoạt động du lịch
Căn cứ vào tiêu chí này, người ta chia ra thành các loại hình: Du lịch chữa bệnh;
du lịch nghỉ ngơi, giải trí; du lịch thể thao; du lịch văn hoá; du lịch lịch sử; du lịch sinh
thái; du lịch công vụ; du lịch tôn giáo; du lịch thăm hỏi, du lịch quê hương; du lịch quá
cảnh. Các loại hình du lịch kể trên thường không thể hiện nguyên một dạng nào đầy đủ và
rõ rệt, ta thường gặp sự kết hợp của một vài thể loại một lúc như du lịch nghỉ ngơi và du
lịch văn hoá, du lịch công vụ với du lịch văn hoá,…
* Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi
Căn cứ vào hình thức chuyến đi người ta chia thành: Du lịch theo đoàn và du lịch
cá nhân. Ngoài ra, còn căn cứ vào các tiêu chí khác như: Phương tiện giao thông được sử
dụng, phương tiện lưu trú, thời gian đi du lịch của khách, vị trí địa lí của nơi đến đi du
lịch,… mà tương ứng nhiều loại hình khác nhau
1.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến du lịch
* Yếu tố về chế độ chính trị - xã hội

LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 7 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Du lịch chỉ có thể phát triển được trong hòa bình, hữu nghị giữa các quốc gia và
các dân tộc. Ở những nước và những vùng có chế độ chính trị ổn định, tình hình trật tự an
toàn xã hội đảm bảo tạo lực hút rất lớn lượng du khách đến tham quan du lịch. Ngược lại,
ở những nước, những vùng có sự bất ổn về chính trị, xung đột, chiến tranh sẽ gây ảnh
hưởng rất xấu hoặc dẫn đến sự ngừng trệ các hoạt động du lịch. Các hiện tượng thiên tai
như bão, lũ lụt, động đất, hoặc các bệnh dịch như sida, tả, lỵ, sốt rét cũng gây ảnh hưởng
xấu đến phát triển du lịch. Một xã hội văn minh, lịch sự, có những nét đẹp trong phong
tục tập quán cũng là yếu tốt hấp dẫn du khách do đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh du lịch. Đôi khi bản thân chế độ chính trị hiện tại cũng trở thành đối
tượng thăm viếng của du khách bởi họ muốn có những nhận xét khách quan nhất về nó.
* Yếu tố kinh tế
Ngành du lịch của một quốc gia hay vùng phát triển tỉ lệ thuận với trình độ phát
triển kinh tế của quốc gia hay vùng đó. Thu nhập bình quân đầu người là chỉ số tác động
trực tiếp đến lượng nhu cầu trong du lịch. Các nhà kinh tế đã thống kê rằng ở các nước có
nền kinh tế phát triển, nếu thu nhập tăng lên 1% thì chi phí của nhân dân dành cho du lịch
tăng lên 1,5%. Mức thu nhập là nhân tố kinh tế quan trọng nhất ảnh hưởng tới nhu cầu du
lịch.
* Yếu tố giao thông vận tải
Giao thông du lịch có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của ngành du lịch.
Sự phát triển của giao thông vận tải thể hiện trên hai mặt: Phát triển về số lượng hình
thành nhiều loại giao thông và sự tăng lên một cách nhanh chóng số lượng phương tiện
vận chuyển, tạo khả năng vận chuyển số lượng lớn du khách trên thế giới đi du lịch. Phát
triển về chất lượng của phương tiện giao thông vận tải tốc độ vận chuyển, đảm bảo an
toàn trong vận chuyển, đảm bảo tiện nghi trong vận chuyển, vận chuyển với giá rẻ.
* Chính sách phát triển du lịch
Chiến lược và chính sách phát triển du lịch của một quốc gia, vùng có ý nghĩa cực

kì quan trọng, nó tạo động lực thúc đẩy sự phát triển du lịch. Chiến lược phát triển du lịch
xác định phương hướng phát triển du lịch dài ngày, đề cập đến những vấn đề tổng thể của
phát triển du lịch như chiến lược sản phẩm du lịch, chiến lược nâng cao chất lượng các
dịch vụ du lịch, chiến lược giữ gìn tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch, môi trường,
chiến lược đầu tư du lịch, chiến lược giáo dục và đào tạo du lịch, chiến lược thị trường du
lịch.
* Thời gian rỗi
Các chuyến đi du lịch đều được thực hiện trong thời gian nhàn rỗi của con người
(ngày nghỉ cuối tuần, kỳ nghỉ phép, thời gain nghỉ lễ…) Mặc dù có khả năng chi tiêu, có
nhu cầu, con người cũng không đi du lịch được nếu không có thời gian rỗi.
2.1.1 Sự sẵn sàng đón tiếp khách
Các cơ sở vật chất – kĩ thuật và cơ sở hạ tầng là phương tiện vật chất tham gia vào
việc tạo ra và thực hiện nhiệm vụ hàng hóa du lịch. Thành phần của cơ sở kĩ thuật vật chất
bao gồm: Cơ sở công trình kĩ thuật thuộc ngành du lịch; các cơ sở công trình thuộc ngành
khác có tham gia vào hoạt động du lịch như giao thông, thương nghiệp, dịch vụ công
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 8 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
nghiệp; tài nguyên du lịch là thành phần đặc biệt của cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, chúng
là phương tiện vật chất để thõa mãn nhu cầu du khách.
2.1 KHÁI QUÁT LỄ HỘI
2.1.1 Khái niệm lễ hội
Lễ hội gồm 2 phần: phần lễ và hội.
2.1.1.1 Khái niệm “Lễ”
Lễ theo từ điển tiếng Việt là những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu một sự
việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó.
Khái niệm “Lễ” có thể được hiểu là một hệ thống hành vi, động tác nhằm thể hiện
lòng tôn kính của con người đối với bề trên, với bậc anh hùng siêu nhiên, thần linh nhằm
phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà khả năng họ chưa

thể làm được.Các lễ hội dù lớn hay nhỏ đều có phần nghi lễ với nghi thức nghiêm túc,
trọng thể mở đầu ngày hội theo thời gian và không gian. Tuỳ theo tính chất của lễ hội mà
nội dung của phần lễ sẽ mang ý nghĩa riêng.
Phần lễ mở đầu ngày hội bao giờ cũng mang tính tưởng niệm lịch sử, hướng về một sự
kiện lịch sử trọng đại, một vị anh hùng dân tộc có ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội.
Nghi thức tế lễ nhằm tỏ lòng tôn kính vớ các bậc thánh hiền và thần linh, cầu
mong được thiên thời, địa lợi, nhân hoà.
Nghi lễ tạo thành nền móng vững chắc, tạo một yếu tố văn hoá thiêng liêng, một
giá trị thẩm mỹ đối với toàn thể cộng đồng người đi hội trước khi chuyển sang phần xem
hội.
2.1.1.2 Khái niệm “Hội”
Hội có thể hiểu là đám vui đông người gồm hai đặc điểm là đông người, tập trung
trong một địa điểm và vui chơi với nhau
Khái niệm “Hội”: Hội là sinh hoạt tôn giáo văn hóa nghệ thuật của cộng đồng xuất
phát từ nhu cầu cuộc sống, sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng
cá nhân hạnh phúc, cho từng gia đình, từng dòng họ.
Mặc dù cũng hàm chứa những yếu tố văn hoá truyền thống, nhưng phạm vi nội
dung của nó thường không khuôn cứng mà hết sức linh hoạt, luôn luôn được bổ sung bởi
những yếu tố văn hoá mới. Tuy nhiên những nơi nào bảo tồn và phát triển được những
nét truyền thống trong phần hội với những trò chơi mang tính dân gian thì lễ hội nơi đó
có giá trị cao và có sức hấp dẫn du khách. Thông thường phần hội gắn với tình yêu, giao
duyên nam nữ (hội Lim…).
2.1.2 KHÁI QUÁT VỀ LỄ VÀ HỘI
Qua các lễ hội truyền thống ở Việt Nam ta có thể rút ra mối quan hệ khắng khít
giữa “Lễ” và “Hội”. Trên thực tế mối quan hệ giữa lễ và hội khó có thể tách rời, chúng
luôn hòa quyện với nhau, nếu chỉ có hội mà không có lễ thì mất vẻ cung kính trang
nghiêm, và ngược lại nếu chỉ có lễ mà không có hội thì mất phần vui vẻ.
Cũng có những lễ hội ở đó cả phần lễ và phần hội hoà quyện vào nhau, trong đó trọng
tâm là phần hội, nhưng bản thân phần hội mang tính tâm linh của phần lễ (hội trọi trâu ở
Đồ Sơn…).

Hội làng của người Việt ở đồng bằng sông Hồng là loại lễ hội truyền thống rất
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 9 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
tiêu biểu cho xã hội nông thôn Việt Nam. Có quan điểm cho rằng đồng bằng sông Hồng
là quê hương của văn hoá lúa nước, của hội làng.
Như vậy để tìm hiểu văn hoá Việt Nam, văn hoá làng xã cũng như văn hoá lúa
nước, người ta có thể tìm hiểu qua lễ hội, hoặc trực tiếp tham gia vào lễ hội. Từ đó có thể
thấy lễ hội là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo.
- Ở nước ta trong một năm có nhiều lễ hội, tập trung chủ yếu vào mùa xuân, ngoài
ra còn có hội thu. Các lễ hội thường gắn với sinh hoạt văn hoá dân gian như hát đối đáp
của dân tộc Mường; ném cò, múa xoè của người Thái; hát Sli, hát lượn, hát then của
người Nùng; lễ đâm trâu, hát trường ca thần thoại của các dân tộc Tây Nguyên…
Về quy mô, có những lễ hội diễn ra trên một vùng rộng lớn, ngược lại có lễ hội chỉ
bó hẹp trong vài (thậm chí một) làng (xã). Có lễ hội kéo dài tới 3 tháng (như lễ hội chùa
Hương), nhưng có lễ hội chỉ một vài ba ngày. Một số lễ hội tiêu biểu thu hút đông đảo du
khách và người hành hương từ nhiều vùng tới: hội Đền Hùng (Phú Thọ), lễ hội chùa
Hương (Hà Tây), hội Đền Bà (Tây Ninh)…
Như vậy ta có thể thấy lễ và hội có mối quan hệ khắng khít chặt chẽ và luôn luôn
song hành cùng nhau, ở đâu có lễ thì ở đó có hội và ngược lại.
2.1.3 Phân loại lễ hội
Để phân chia lễ hội người ta dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau, dưới đây là cách
phân loại lễ hội theo mục đích tổ chức và thời gian hình thành của lễ hội.
 Căn cứ theo mục đích tổ chức:
- Lễ hội với mục đích tính ngưỡng cầu mùa: Nội dung lễ hội được thể hiện với các
nghi thức liên quan đến quá trình sản xuất nông nghiệp.
- Lễ hội với mục đích tưởng niệm công lao các vị danh nhân văn hóa, anh hùng
dân tộc, các vị thành hoàng và các chư vị thánh vật, với mục đích của lễ hội la thờ cúng,
tưởng niệm, phát họa lại quá trình đấu tranh của các vị anh hùng này.

 Căn cứ vào thời gian hình thành và phát triển của lễ hội
- Lễ hội truyền thống: Là lễ hội sinh hoạt văn hóa sản phẩm tinh thần của con
người là dịp con người được trở về với cội nguồn tự nhiên, cội nguồn dân tộc điều mang
ý nghĩa thiêng liêng của mỗi người. Không gian lễ hội linh thiêng mọi người có thể cầu
mong những điều may mắn, cuộc sống hạnh phuc ấm no.
- Lễ hội hiện đại: là lễ hội mang tính kinh tế thương mại cao, thông thường nội
dung gắn với các anh hùng dân tộc lịch sử, liên quan đến cách mạng và kháng chiến, là
các cuộc cho liên hoan triển lảm du lịch.
1.3 MỐI QUAN HỆ GIỮA LỄ VÀ HỘI
1.3.1 Tác động của lễ hội đến du lịch.
Trong điều luật 79 của luật du lịch Việt Nam đã xác định rõ, Nhà nước tổ chức
hoạt động hướng dẫn du lịch xúc tiến du lịch với các nội dung tuyên truyền giao tiếp rông
rãi về đất nước, con người Việt Nam, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử…Do đó lễ hội
sẽ làm cho du lịch phát triển hơn, lễ hội làm cho du lịch trở nên hấp dẫn, tạo cho số lượng
du khách đông hơn.
Hiện nay nước ta phát triển du lịch theo xu hướng du lịch văn hóa, và tất nhiên
muốn phát triển phải khai thác sử dụng giá trị văn hóa truyền thống, cách tân hiện đại hóa
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 10 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
sao cho phù hợp, hiệu quả. Trong đó có kho tàng lễ hội truyền thống, đây là một thành tố
đặc sắc văn hóa Việt Nam, cho nên phát triển du lịch lễ hội chính là lễ hội sử dụng ưu thế
của du lịch Việt Nam trong việc thu hút và phục vụ khách du lịch. Mùa lễ hội cũng là
mùa du lịch tạo nên hình thức du lịch lễ hội mang đậm bản săc văn hóa dan tộc được thể
hiện qua các săc thái văn hóa địa phương, vùng miền phong phú đặc sắc.
1.3.2 Tác động của du lịch đến lễ hội
Lễ hội và du lịch luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau và cùng nhau phát triển làm
hoàn thiện hơn trong việc phát triển ngành du lịch. Trước tiên hoạt động du lịch có nhiều
tác động tích cực đến lễ hội. Du lịch có nhiều đặc trưng riêng làm hấp dẫn hơn lễ hội

truyền thống. Du lịch mang đến nguồn lợi kinh tế không nhỏ cho các địa phương có lễ
hội truyền thống như tạo việc làm cho người dân địa phương thông qua các dịch vụ như
vận chuyển khách, bán quà lưu niệm, hàng hóa ăn uống…Nhân dân vùng có lễ hội vừa
quảng bá hình ảnh văn hóa về đời sống mọi mặt của địa phương mình, vừa có thể giao
lưu học hỏi tinh hoa văn hóa của khách du lịch mang đến từ địa phương khác.
Bên cạnh những tác động tích cực của du lịch mang đến còn có những tác động
tiêu cực đối với lễ hội. Những đặc thù riêng của ngành du lịch có thể làm biến dạng các
lễ hội truyền thống như phá vỡ khuôn mẫu truyền thống địa phương có lễ hội, các hoạt
động thương mại hóa của lễ hội như: Lừa đảo, bắt chẹt khách để thu lợi nhuận tạo hình
ảnh xấu làm cho du khách hụt hẫn trước mọi không gian linh thiêng mà tính tôn nghiêm
vẫn chưa được kiểm soát chặt chẽ, làm cho khách không muốn quay lại lần sau. Du
khách đến lễ hội kéo theo những nhu cầu mất cân đối trong cung cầu dẫn đến ô nhiễm
môi trường sinh thái nhân văn. Bản sắc văn hóa trước mắt của vùng miền có nguy cơ bị
“mờ’ do kết quả của sự giao thoa văn háo thiếu lành mạnh không thể tránh khỏi đem đến
từ du khách.



















LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 11 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG II. LỄ HỘI ANH HÙNG DÂN TỘC Ở KIÊN GIANG
2.1 TỈNH KIÊN GIANG VÀ TIỀM NĂNG DU LỊCH
2.1.1 Khái quát tỉnh Kiên Giang:
Vị trí Kiên Giang trên bản đồ

2.1.1.1 Vị trí địa lý:
Kiên Giang là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long - phía Tây Nam của Tổ
quốc: phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia; phía Nam giáp tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu;
phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang; phía
Tây giáp Vịnh Thái Lan.
 Vị trí địa lý của Kiên Giang có tiềm năng lớn cho phát triển kinh tế - xã hội tổng
hợp, là cửa ngõ hướng ra biển Tây của tỉnh cũng như của vùng đồng bằng sông
Cửu Long, có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế biển, đảo và giao lưu với các
nước trong khu vực và quốc tế với các ngành mũi nhọn như du lịch, thương mại,
dịch vụ công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản…
2.1.1.2 lịch sử hình thành tỉnh Kiên Giang:
Từ những năm 1757, Kiên Giang là một đạo ở vùng Rạch Giá thuộc Trấn Hà Tiên
do mạc Thiên Tích lập.
Đến năm 1808 (Gia Long năm thứ 7), đạo Kiên Giang được đổi thành huyện Kiên
Giang. Triều Minh Mạng, Kiên Giang thuộc phủ An Biên, tỉnh Hà Tiên. Từ ngày
15/6/1867, đổi thành hạt Thanh tra Kiên Giang. Ngày 16/8/1867 đổi tên thành hạt Kiên
Giang, thuộc tỉnh Rạch Giá.
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH

KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 12 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Năm 1956, theo Sắc lệnh số 143-NV, tỉnh Hà Tiên bị bãi bỏ và 4 quận (gồm Châu
Thành, Hòn Chông, Giang Thành, Phú Quốc) được sáp nhập vào tỉnh Rạch Giá để thành
lập tỉnh Kiên Giang. Đến tháng 5/1965, tỉnh Hà Tiên được tái lập lại.
Năm 1957, theo Nghị định số 281-BNV/HC/NĐ ấn định các đơn vị hành chính
tỉnh Kiên Giang gồm 6 quận (Kiên Thành, Kiên Tân, Kiên Bình, Kiên An, Hà Tiên, Phú
Quốc); có 7 tổng; 58 xã.
Theo Nghị định số 368-BNV/HC/NĐ ngày 27/12/1957 bổ túc Nghị định số 281-
BNV/HC/NĐ ấn định các đơn vị hành chánh tỉnh Kiên Giang. Điều 1 của Nghị định này
nêu rõ, quận Kiên An gồm thêm xã Vĩnh Tuy.
Ngày 13/6/1958, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành ban hành Nghị định
314-BNV/HC/NĐ về việc sửa đổi đơn vị hành chính tỉnh Kiên Giang. Tại điều 1 của
Nghị định này quy định tách quận Kiên Bình thành 2 quận: Kiên Bình và Kiên Hưng.
Như vậy vào thời điểm năm 1958, tỉnh Kiên Giang có 7 quận và 7 tổng, theo niên
giám Hành chính 1971 của Việt nam Cộng hòa thì tỉnh Kiên Giang gồm 7 quận: Kiên
Thành, Kiên Tân, Kiên Bình, Kiên An, Kiên Lương, Hà Tiên, Phú Quốc; 42 xã; 247 ấp.
Năm 1973, tỉnh Kiên Giang có 8 quận (Kiên Thành, Kiên Tân, Kiên Bình, Kiên
An, Kiên Lương, Hà Tiên, Phú Quốc, Hiếu Lễ).
Ngày nay, tỉnh Kiên Giang có 15 huyện, thị xã, thành phố (thành phố Rạch Giá, thị
xã Hà Tiên, các huyện An Biên, An Minh, Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Quao, Hòn Đất,
Kiên Hải, Kiên Lương, Phú Quốc, Tân Hiệp, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng) và 145 xã,
phường, thị trấn.
2.1.2 Điều kiện tự nhiên và xã hội
Kiên Giang có tổng diện tích tự nhiên 6.346,27 km2.
Đơn vị hành chính: Kiên Giang có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, thị: Thành phố
Rạch Giá, thị Xã Hà Tiên, huyện Kiên Lương; huyện Hòn Đất, huyện Tân Hiệp, huyện
Châu Thành, huyện Giồng Riềng, huyện Gò Quao, huyện An Biên, huyện An Minh,
huyện Vĩnh Thuận, huyện Phú Quốc, huyện Kiên Hải, huyện U Minh Thượng và huyện

Giang Thành.
* Điều kiện tự nhiên:
Tài nguyên đất: Tổng diện tích đất tự nhiên của Kiên Giang là 634.627,21 ha, trong
đó: Nhóm đất nông nghiệp 575.697,49 ha chiếm 90,71% đất tự nhiên (riêng đất lúa
354.011,93 ha chiếm 61,49% đất nông nghiệp); nhóm đất phi nông nghiệp 53.238,38 ha,
chiếm 8,39% diện tích tự nhiên; nhóm đất chưa sử dụng 5.691,34 ha, chiếm 0,90% diện
tích tự nhiên; đất có mặt nước ven biển 13.781,11 ha (là chỉ tiêu quan sát không tính vào
diện tích đất tự nhiên). Nhìn chung đất đai ở Kiên Giang phù hợp cho việc phát triển nông
lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Tài nguyên nước: Nguồn nước mặt khá dồi dào, nhưng đến mùa mưa (từ tháng 5
đến tháng 10) phần lớn nước mặt của tỉnh đều bị nhiễm phèn mặn, do vị trí ở cuối nguồn
nước ngọt của nhánh sông Hậu, nhưng lại ở đầu nguồn nước mặn của vịnh Rạch Giá.
Toàn tỉnh có 3 con sông chảy qua: Sông Cái Lớn (60 km), sông Cái Bé (70 km) và sông
Giang Thành (27,5 km) và hệ thống kênh rạch chủ yếu để tiêu nước về mùa lũ và giao
thông đi lại, đồng thời có tác dụng tưới nước vào mùa khô.
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 13 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Tài nguyên biển: Kiên Giang có 200 km bờ biển với ngư trường khai thác thủy sản
rộng 63.290 km2. Biển Kiên Giang có 143 hòn đảo, với 105 hòn đảo nổi lớn, nhỏ, trong
đó có 43 hòn đảo có dân cư sinh sống; nhiều cửa sông, kênh rạch đổ ra biển, tạo nguồn
thức ăn tự nhiên phong phú cung cấp cho các loài hải sản cư trú và sinh sản, là ngư trường
khai thác trọng điểm của cả nước.
Tài nguyên khoáng sản: Có thể nói Kiên Giang là tỉnh có nguồn khoáng sản dồi
dào bậc nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Qua thăm dò điều tra địa chất tuy chưa
đầy đủ nhưng đã xác định được 152 điểm quặng và mỏ của 23 loại khoáng sản thuộc các
nhóm như: Nhóm nhiên liệu (than bùn), nhóm không kim loại (đá vôi, đá xây dựng, đất
sét…), nhóm kim loại (sắt, Laterit sắt…), nhóm đá bán quý (huyền thạch anh - opal…),
trong đó chiếm chủ yếu là khoáng sản không kim loại dùng sản xuất vật liệu xây dựng, xi

măng. Theo điều tra của Liên đoàn Địa chất, trữ lượng đá vôi trên địa bàn tỉnh khoảng
hơn 440 triệu tấn. Theo quy họach của tỉnh, trữ lượng đá vôi cho khai thác sản xuất vật
liệu xây dựng là 255 triệu tấn, đảm bảo đủ nguyên liệu cho các nhà máy xi măng, với
công suất 3 triệu tấn/năm trong thời gian khoảng 50 năm.
* Xã hội:
Giao thông: Kiên Giang nằm cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km đường
bộ về phía tây nam, hệ thống giao thông ở tỉnh tương đối thuận tiện, bao gồm đường
bộ, đường thuỷ và đường hàng không. Trong đó, Hệ thống giao thông đường bộ không
ngừng phát triển. Giao thông nội bộ các thành phố, thị xã được nâng cấp và tráng nhựa.
Các tuyến đường huyết mạch trên địa bàn tỉnh làQuốc lộ 80, Quốc lộ 61, Quốc lộ 63 và
Tỉnh lộ 11 Mạng lưới giao thông đường thuỷ của tỉnh cũng tương đối hoàn chỉnh. Về
giao thông vận tải theo đường hàng không thì Kiên Giang có Sân bay Rạch Giá và Sân
bay Phú Quốc, rất thuận lợi về việc lưu thông trong tỉnh và trong nước.
Dân số:Theo kết quả điều tra ngày 01/04/2009, dân số tỉnh Kiên Giang là
1.683.149 người, mật độ 267 người/km², khu vực nông thôn 73,1%, thành thị 26,9%; dân
tộc chủ yếu là người Kinh, Khmer, Hoa. Dân số của tỉnh phân bố không đều, thường tập
trung ở ven trục lộ giao thông, kênh rạch, sông ngòi và một số đảo, quy mô dân số đến
năm 2010 dự kiến dưới 1,8 triệu người.
Về dân tộc và tôn giáo: Kiên Giang là địa bàn cư trú của hơn 15 dân tộc khác nhau.
Trong đó, người Kinh chiếm khoảng 85,5%, Người Khmer chiếm khoảng 12,2% dân số
tập trung chủ yếu ở các huyện Châu Thành, Gò Quao. Người Hoa chiếm khoảng 2,2%
dân số sinh sống ở thành phố Rạch Giá và huyện Châu Thành. Còn lại là một số dân tộc
khác như: Chăm, Tày, Mường, Nùng Về tôn giáo, theo số liệu tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 1999, trên địa bàn tỉnh có 489.609 người theo tôn giáo, chiếm khoảng 32,7%
tổng số dân, trong đó Phật giáo chiếm 25%, Công giáo chiếm 5,7%, còn lại là các tôn
giáo khác như Cao Đài, phật giáo Hoà Hảo, Hồi giáo
Kiên Giang nằm tận cùng về phía tây nam của Việt Nam, nơi giao thoa văn hóa của
nhiều vùng miền cả nước, bản sắc văn hoá tỉnh nhà cũng vì thế mà rất phong phú, đa
dạng, thể hiện qua các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, ẩm thực, lễ hội, làng nghề truyền
thống Văn hóa ẩm thực ở đây cũng rất phong phú, đa dạng với hàng trăm món ăn các

LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 14 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
loại với các đặc sản như Cá nhồng, Nước mắm Phú Quốc, Cháo môn, Sò huyết Hà
Tiên, Bún cá Kiên Giang
Hằng năm trên địa bàn tỉnh diễn ra nhiều lễ hội, nhưng đặc sắc nhất là lễ hội anh
hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực diễn ra vào tháng tháng Tám âm lịch thu hút hàng ngàn
lượt khách trong và ngoài tỉnh đến tham gia. các làng nghề truyền thống rất đặc sắc như
đan đệm bàng, dệt chiếu Tà Niên, nắn nồi Hòn Đất, làm hàng thủ công mỹ nghệ bằng đồi
mồi, làm huyền phách ở Hà Tiên…
2.1.3 Tiềm năng du lịch
2.1.3.1 Tiềm năng du lịch tự nhiên
* Phú Quốc: có địa hình độc đáo gồm dãy núi nối liền chạy từ Bắc xuống Nam đảo,
có rừng nguyên sinh với hệ động thực vật phong phú, có nhiều bãi tắm đẹp như Bãi
Trường (dài 20 km), Bãi Cửa Lấp – Bà Kèo, Bãi Sao, Bãi Đại, Bãi Hòn Thơm và xung
quanh còn có 26 đảo lớn nhỏ khác nhau. Theo chủ trương của Chính phủ đảo Phú Quốc
được xây dựng thành trung tâm du lịch nghỉ dưỡng quốc tế chất lượng cao. Phú Quốc và
hai quần đảo An Thới, Thổ Châu là vùng lý tưởng cho việc phát triển du lịch biển đảo
như: tham quan, cấm trại, tắm biển, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, các lọai hình thể thao
nước. Phú Quốc có truyền thống văn hóa lâu đời và nhiều đặc sản nổi tiếng, như: nước
mắm phú Quốc, hồ tiêu, ngọc trai, rượu sim, cá trích, nấm tràm Chính từ sự phong phú,
đa dạng của Phú Quốc, hàng năm khách du lịch đến Phú Quốc tăng nhanh, năm 2008 đã
thu hút trên 200.000 lượt khách du lịch, trong đó khách quốc tế trên 55.000 lượt.
* Vùng Hà Tiên – Kiên Lương: Nhiều thắng cảnh biển, núi non của Hà Tiên –
Kiên Lương như: Mũi Nai, Thạch Động, núi Tô Châu, núi Đá Dựng, đầm Đông Hồ, di
tích lịch sử văn hoá núi Bình San, chùa Hang, hòn Phụ Tử, bãi Dương, núi MoSo, hòn
Trẹm, quần đảo Hải Tặc và đảo Bà Lụa rất thích hợp cho phát triển du lịch tham quan
thắng cảnh, nghỉ dưỡng. Những thắng cảnh như núi Tô Châu, đầm Đông Hồ, sông Giang
Thành, khu du lịch Núi Đèn đang được đưa vào khai thác du lịch chính thức. Hà Tiên có

truyền thống lịch sử văn hóa, văn học - nghệ thuật, với những lễ hội cổ truyền như Tết
Nguyên tiêu, kỷ niệm ngày thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các, lễ giỗ Mạc Cửu, chùa Phù
Dung, đình Thành Hoàng… Hiện nay, Kiên Giang đã có tour du lịch đến nước bạn
Campuchia qua đường cửa khẩu Quốc tế Hà Tiên. Đây là cánh cửa mở ra để vùng Kiên
Lương - Hà Tiên nối liền với các nước Đông Nam Á; đồng thời mở tuyến du lịch xuyên
ba nước, từ Phú Quốc đến Shianouk Ville (Campuchia) và tỉnh Chanthaburi (Thái Lan)
bằng đường biển và đường bộ.
* Vùng U Minh Thượng: Với đặc thù sinh thái rừng tràm ngập nước trên đất than
bùn, Vườn Quốc gia U Minh Thượng – khu căn cứ địa cách mạng, khu dự trữ sinh quyển
thế giới, đã mở cửa phục vụ khách tham quan du lịch sinh thái. Khu du lịch Vườn Quốc
gia U Minh Thượng phục vụ khách tham quan du lịch sinh thái kết hợp với tìm hiểu văn
hóa nhân văn sông nước vùng bán đảo Cà Mau và du lịch nghiên cứu di chỉ khảo cổ Ốc
Eo – Phù Nam (Cạnh Đền, Nền Vua, Kè Một). Quần thể di tích căn cứ địa cách mạng U
Minh Thượng với di tích Ngã Ba Cây Bàng, Ngã Ba Tàu, Thứ Mười Một, Rừng tràm Ban
Biện Phú, khu tập kết 200 ngày kinh xáng Chắc Băng, là điểm thu hút du khách tìm hiểu
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 15 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
lịch sử cách mạng… đồng thời, tỉnh vừa khởi công xây dựng một số công trình theo Đề
án phục dựng Khu căn cứ Tỉnh uỷ trong kháng chiến tại huyện Vĩnh Thuận.
Ngoài 4 vùng du lịch trọng điểm, Kiên Giang hiện có khu Dự trữ sinh quyển với
diện tích hơn 1,1 triệu ha. Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang chứa đựng sự phong phú, đa
dạng và đặc sắc về cảnh quan và hệ sinh thái, có giá trị lớn về mặt nghiên cứu, cũng như
du lịch. Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang trùm lên địa phận các huyện Phú Quốc, An
Minh, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận, Kiên Lương và Kiên Hải, gồm 3 vùng lõi thuộc
Vườn Quốc gia U Minh Thượng, Vườn Quốc gia Phú Quốc và rừng phòng hộ ven biển
Kiên Lương, Kiên Hải.
2.1.3.2 Tiềm năng du lịch nhân văn
* Thành phố Rạch Giá : Thành phố Rạch Giá là trung tâm hành chính của tỉnh

Kiên Giang, có bờ biển dài 7 km, giao thông thủy, bộ và hàng không rất thuận tiện. Rạch
Giá có cơ sở hạ tầng tốt, nhiều di tích lịch sử văn hóa, là điểm dừng chân để đi tiếp đến
Hà Tiên, Phú Quốc và các vùng khác trong tỉnh. Do đó, có lợi thế trong phát triển các
dịch vụ như: lưu trú, ăn uống, các dịch vụ vui chơi giải trí về đêm; có 2 hệ thống siêu thị
quy mô lớn đảm bảo nhu cầu mua sắm của người dân thành phố và du khách (siêu thị
Citimart khu lấn biển và siêu thị Co.op Mart Rạch Sỏi). Thành phố Rạch Giá là nơi đầu
tiên ở Việt Nam tiến hành việc lấn biển để xây dựng đô thị mới, trung tâm với việc diễn ra
lễ hội đình Nguyễn Trung Trực hàng năm. Khu lấn biển mở rộng thành phố thành một
trong những khu đô thị mới lớn nhất vùng Tây Nam bộ. Hiện tại thành phố đang và chuẩn
bị đầu tư nhiều công trình quan trọng như: khu đô thị mới Vĩnh Hiệp, khu đô thị phức hợp
lấn biển, 2 cầu nối liền khu lấn biển và khu 16 ha, cầu Lạc Hồng Một số khu vực phụ
cận của Rạch Giá như huyện đảo Kiên Hải, Hòn Đất, U Minh Thượng cũng có nhiều tiềm
năng phát triển du lịch. Kiên Hải đang khai thác các tour khám phá biển đảo đi - về trong
ngày. Đây là vùng thắng cảnh biển - đảo với đặc thù nghề truyền thống đi biển, làm nước
mắm, chế biến hải sản, tạo thành nét sinh hoạt văn hóa riêng biệt.

* Hòn Đất: Từ TP Rạch Giá (Kiên Giang) theo quốc lộ 80 về Hà Tiên chừng 30 cây
số, tới thị trấn Hòn Đất sẽ gặp được mộ Chị Sứ (anh hùng liệt sĩ Phan Thị Ràng). Phía
trước mộ Chị Sứ là cái hồ trồng bông súng lớn vốn là một hố bom. Từ mộ đi theo mé trái
là tới suối Lươn, gần hang Ông Cọp. Vườn xoài rợp mát suốt con đường. Nơi Chị Sứ hi
sinh là khu vực vườn xoài này, cách ngôi mộ vài trăm mét. Phía sau mộ chị Sứ là bậc
thang cao lên sườn đồi, có bức phù điêu lớn bằng đá hoa cương, trên khắc tên 960 liệt sĩ
cùng tượng đài chiến thắng của quân dân Hòn Đất. Đây là nơi diễn ra những trận đánh
khốc liệt thời chống Mỹ. Những hang hốc nằm rải rác trên sườn núi là nơi anh em du kích
rút vào cố thủ. Đây là một điểm du lịch nhân văn vô cùng qý giá của Kiên Giang có giá trị
lịch sử, là nơi để con cháu sau này thể hiện lòng biết ơn với các bậc hi sinh.
* Chợ đêm Dinh Cậu
Nếu chợ đêm An Hòa của thành phố Rạch Giá được xem như là địa điểm sinh hoạt, vui
chơi, giải trí của người dân thành phố về đêm với nhiều món ẩm thực mang đậm dấu ấn
của miền Tây Nam bộ thì những ai đã từng một lần đặt chân đến Phú Quốc sẽ không quên

LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 16 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
những món đặc sản đậm nét văn hóa cùng hương vị đặc trưng của biển, tạo thêm một sức
thu hút mới từ hòn đảo ngọc này.
Ngôi chợ nằm sát bên bờ biển nơi trung tâm của thị trấn Dương Đông này có hơn
100 gian hàng vẫn với các món ăn bình dân, dân dã. Ra đời muộn hơn so với chợ đêm An
Hòa, thế nhưng, chợ đêm Dinh Cậu đã tạo dựng được cho mình một phong cách phục vụ
riêng, đủ để làm hài lòng người dân nơi đây cũng như du khách đến tham quan.
* Tám lễ hội tiêu biểu thu hút khách du lịch ở Kiên Giang
1. Lễ hội Nguyễn Trung Trực – TP. Rạch Giá
Nguyễn Trung Trực, vị anh hùng dân tộc mà tên tuổi gắn liền với những chiến công vang
dội đã đi vào trang sử hào hùng, đó là: trận đốt cháy tàu Espérance trên vàm Nhật Tảo
năm 1861 và lần đầu tiên tiêu diệt đồn lũy đầu não của giặc Pháp ngay tại tỉnh lỵ Rạch
Giá vào năm 1868. Nhà thơ yêu nước Huỳnh Mẫn Đạt đã tự hào ca ngợi khí phách anh
hùng của Nguyễn Trung Trực “hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên địa/ Kiếm bạt Kiên Giang
khấp quỷ thần”, thể hiện ý chí độc lập tự do của người dân phương Nam nói riêng, dân
tộc Việt Nam nói chung. Ở tỉnh Kiên Giang có khoảng 20 đền thờ Cụ Nguyễn tại thành
phố Rạch Giá, xã Mỹ Lâm (huyện Hòn Đất), đình Tà Niên (huyện Châu Thành)
Với truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, hàng năm, vào ngày 26, 27 và 28 tháng Tám
(âm lịch), nhân dân Kiên Giang và đồng bào khắp nơi lại hội tụ về đây tổ chức kỷ niệm
ngày hy sinh của Cụ để bày tỏ lòng tri ân, thành kính đối với người con bất khuất, kiên
trung của đất nước. Nhiều năm qua, Lễ hội truyền thống Nguyễn Trung Trực đã có sức
lan toả ngày càng a
Lễ hội gồm hai phần, phần nghi lễ trang trọng và thành kính theo nghi thức cổ truyền như:
lễ dâng hương, lễ thượng đài kỳ, lễ tế đàn cả, rước sắc thần; phần hội có nhiều hoạt động
văn hóa, văn nghệ sôi động, hấp dẫn: trò chơi dân gian, đua xuồng, đập nồi, biểu diễn võ
thuật, chơi cờ người, thi múa Lân – Sư – Rồng, thả đèn hoa đăng, thi ẩm thực, triển lãm
thư pháp, triển lãm ảnh đường phố, giao lưu văn nghệ giữa 03 dân tộc Kinh, Hoa,

Khmer Mỗi năm số lượng người dân về dự lễ hội ngày càng tăng. Năm 2006 có hơn 500
ngàn, năm 2007 có gần 600 ngàn, năm 2008 có hơn 600 ngàn và năm 2009 có 750 ngàn,
năm 2011 có trên 1 triệu lượt người tham dự.
2. Lễ hội Tao Đàn Chiêu Anh Các – Hà Tiên
Đã nhiều năm qua, mỗi dịp Tết Nguyên tiêu, rằm tháng Giêng hàng năm, tại Lăng Mạc
Cửu, Hà Tiên lại tổ chức Lễ hội kỷ niệm Tao đàn Chiêu Anh Các. Vào mùa xuân năm
Bính Thìn 1736, tại trấn Hà Tiên xưa, Tổng binh đại đô đốc Mạc Thiên Tích, hiệu Sĩ Lân
đã cùng 32 danh sĩ tài hoa đương thời lập nên Tao Đàn Chiêu Anh Các. Không chỉ là nơi
tập trung sáng tác, đàm luận văn thơ mà còn là nơi đào tạo nhân tài, cổ vũ tinh thần yêu
nước, mở mang văn hóa của một trấn xa xôi. Hình thành trong giai đoạn phát triển rực rỡ
nhất của Hà Tiên xưa, Tao đàn Chiêu Anh Các sản sinh ra một khối lượng văn chương
khá đồ sộ, trong đó có tuyệt tác “Hà Tiên Thập vịnh” với hơn 300 bài thơ bằng chữ Nôm.
Lễ hội có nhiều hoạt động phong phú, đa dạng như: dâng hương tế Trời Đất, thi họa thơ
Chiêu Anh Các, thi ứng tác câu đối, thi sáng tác thơ mới, viết thư pháp Lễ hội trùng với
Ngày thơ Việt Nam nên có rất đông những người yêu thơ, văn nghệ sĩ Nam Bộ và du
khách về đây dự lễ.
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 17 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
3. Lễ hội Oóc–om–bok – Gò Quao
Lễ hội Oóc–om–bok hay còn gọi là lễ cúng Trăng được tổ chức thống nhất vào đêm 15/10
âm lịch. Các vật cúng trong lễ hội là cốm dẹp, khoai, đậu, dừa… Đồng bào phật tử tập
hợp lại xung quanh sân chánh điện, chờ đến khi mặt trăng lên đến đỉnh là mọi người đều
khấn vái để tưởng nhớ đến công ơn của mặt trăng. Người Khmer coi mặt trăng như là một
vị thần điều tiết mùa màng, đã giúp cho họ có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đặc biệt
sôi nổi nhất trong những ngày này là hội đua ghe ngo. Kể từ năm 2007, lễ hội Oóc – om –
bok được nâng lên thành Ngày hội văn hóa - thể thao dân tộc Khmer tỉnh Kiên Giang đã
khẳng định quy mô và chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Ngày hội có nhiều loại
hình hoạt động đa dạng, phong phú được chọn lọc; kết hợp tính dân tộc, tính hiện đại, tính

cộng đồng và độc đáo tạo ra một không gian đầy ắp hương vị, sắc màu đậm đà và rực rỡ
của đồng bào dân tộc Khmer Kiên Giang.
4. Lễ hội giỗ 4 nhà sư liệt sĩ – Châu Thành
Cứ vào ngày 10/6 dương lịch hàng năm, tại Tháp 4 sư, nằm ở xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện
Châu Thành các vị sư sãi ở các nơi trong tỉnh tập trung về tiến hành làm lễ cầu siêu cho 4
vị sư người Khmer: Danh Hùng, Danh Hom, Danh Tấp, Danh Hoi. Bốn vị sư đã hy sinh
anh dũng trong cuộc biểu tình chống Mỹ và bọn tay sai vào năm 1974 tại Rạch Giá. Cuộc
biểu tình đã gây nên tiếng vang lớn làm cho địch hoang mang và không dám bắt sư sãi đi
lính nữa. Tháp 4 sư liệt sĩ đã được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đây là lễ hội
truyền thống cách mạng lớn nhất của đồng bào dân tộc Khmer trong tỉnh.
5. Lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương – Tân Hiệp
Lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10-3 âm lịch chính thức trở thành ngày Quốc lễ, ngày
hội lớn quy tụ cả cộng đồng các dân tộc Việt Na m. Ở Kiên Giang, hàng năm cứ đến ngày
10/3, hàng chục ngàn người con đang sinh sống, học tập, làm việc ở mảnh đất Kiên Giang
và các tỉnh, thành trong khu vực đều hội tụ về Tân Hiệp dâng một nén nhang thành kính
lên Quốc Tổ Vua Hùng
Đền Hùng quốc tổ huyện Tân Hiệp do người dân ấp Đông Bình tự nguyện đóng góp
thành lập từ năm 1957. Đền ban đầu chỉ bằng vật liệu đơn sơ, nơi thờ cúng các vị Vua
Hùng và nhớ về đất tổ. Lễ hội diễn ra trong hai ngày 30-31/3 (mùng 9-10/3 ÂL). Phần hội
được tổ chức vào ngày 30/3 với các hoạt động văn hóa, văn nghệ và nhiều trò chơi dân
gian. Hoạt động diễn ra tưng bừng, náo nhiệt trong khuân viên đền.
Buổi sáng ngày 31/3 nghi lễ tưởng niệm các Vua Hùng được tổ chức trang trọng theo ghi
thức hàng năm. Qua các hoạt động trên, nhằm giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ
nguồn” cho các thế hệ trẻ và ý chí đoàn kết tự lực vươn lên xây dựng quê hương Kiên
Giang ngày càng giàu đẹp.
6. Lễ hội giỗ đức khai trấn Mạc Cửu – Hà Tiên
Đã trở thành truyền thống hàng năm, Hà Tiên đều tổ chức lễ hội giỗ đức khai trấn Mạc
Cửu, là người có công đầu trong việc khai phá nên vùng đất Hà Tiên cách đây đã hơn 300
năm. Vào đầu thế kỷ thứ 18, Mạc Cửu trên đường tha hương lập nghiệp, ông đã đặt chân
đến Hà Tiên, còn gọi là Phương Thành, một vùng đất có vị trí thông thương thuận lợi,

phong cảnh hữu tình. Ông đã quyết định dừng chân nơi đây bắt đầu cho công cuộc mở
đất.
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 18 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Phần lễ được giữ theo thông lệ với các nghi lễ truyền thống như cúng tiền hiền, hậu hiền,
chiêm bái. Tại Đền thờ họ Mạc, mọi người tổ chức lễ thỉnh sắc và dâng hương tại Tượng
đài Mạc Cửu. Ngoài ra phần hội được mở rộng với các hoạt động phong phú như: Hội
chợ thương mại, biểu diễn võ thuật, biểu diễn lân sư rồng, biểu diễn văn nghệ và các trò
chơi dân gian…
7. Lễ hội Phan Thị Ràng (Chị Sứ) – Hòn Đất
Lễ hội kỷ niệm ngày hy sinh của AHLLVTND Phan Thị Ràng sẽ diễn ra từ ngày 07 đến
ngày 09/01 dương lịch hàng năm tại khu di tích lịch sử Hòn Đất. Phần hội sẽ diễn ra trong
hai ngày 07-08/01, với nhiều hoạt động như: chương văn nghệ của các đoàn nghệ thuật,
thi tìm hiểu “Lịch sử Hòn Đất Kiên Giang” và “Nữ anh hùng liệt sỹ Phan Thị Ràng”; hội
chợ; triển lãm ảnh; chiếu phim phóng sự về Hòn Đất; tọa đàm; các trò chơi dân gian; giải
bóng chuyền, giải Việt dã và giải đua bò Đêm ngày 08/01 là chương trình sân khấu hóa
khai mạc lễ hội để phục vụ công chúng trong tỉnh.
Phần lễ dâng hương diễn ra vào sáng ngày 09/01, với màn trống hội khai lễ. Sau đó là sự
tham gia của các đoàn đại biểu mang theo mâm ngũ quả, đọc diễn văn chào mừng và ôn
lại truyền thống lịch sử của Hòn Đất cùng nữ Anh hùng liệt sỹ Phan Thị Ràng. Kỷ niệm
50 năm ngày hy sinh của AHLLVTND Phan Thị Ràng (9/1/1962-9/1/2012) lần đầu tiên
huyện Hòn Đất tổ chức nâng cấp quy mô cấp lễ hội và thu hút đông đảo quần chúng nhân
dân trong khu vực về dự.
8. Lễ hội Nghinh Ông – Kiên Hải
Lễ hội Nghinh Ông là một nét đẹp văn hóa của người dân đất đảo Lại Sơn – Kiên Hải
được tổ chức long trọng, trang nghiêm hàng năm vào ngày 15 – 16 tháng 10 (âm lịch) để
bày tỏ sự tri ân, sự phù trợ của cá Ông và các vị tiền nhân đã có công mở đất. Tập tục thờ
cá Ông là nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng của cư dân miền duyên hải. Lễ cúng cá Ông ở

Lại Sơn tồn tại hơn 100 năm. Đây cũng là loại hình lễ hội cầu ngư, cầu cho mưa thuận gió
hòa, làm ăn trên biển thuận lợi, là dịp để bà con tổng kết lại những chuyến đi biển trong
năm. Phần lễ là lễ cúng thỉnh (cung nghinh) các vị thần. Lễ Nghinh Ông và Chánh tế được
tiến hành với sự tham gia đông đảo của tất cả ngư dân trên đảo. Ngoài ra, phần hội còn có
các trò chơi dân gian như bịt mắt đập niêu, đua xuồng chèo, kéo co, thi ẩm thực với các
món ăn miền biển, đờn ca tài tử.
2.1.4 Hợp tác phát triển thương mại – du lịch với Kam-Pốt (Campuchia)
Văn bản hợp tác thương mại – du lịch giữa tỉnh Kiên Giang với tỉnh Kam-Pốt và
Thành phố Kép – thuộc Vương Quốc Campuchia đã được ký kết từ tháng 6-2002. Qua
nhiều năm thực hiện, việc hợp tác này đã cho những kết quả khả quan, đồng thời mở ra
một hướng đi mới cho cả hai bên.
Trong thời gian qua, tỉnh Kiên Giang, tỉnh Kampot và thành Phố Kép (Campuchia)
đã tăng cường đoàn kết, hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau đặc biệt là trên lĩnh vực thương mại
du lịch. Lãnh đạo hai bên cũng đã thoả thuận đề nghị chính phủ của hai nước cho phép
nâng cấp cửa khẩu Quốc gia Xà Xía và cửa khẩu Prêk-chak lên thành cửa khẩu quốc tế,
xây dựng kho chứa hàng hoá hai bên cửa khẩu, thành lập tổ liên ngành để kịp thời tháo gỡ
những vướng mắc trên mọi lĩnh vực, đồng thời tăng cường xúc tiến thương mại và phát
triển du lịch.
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 19 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Thời gian gần đây, việc hợp tác giữa Kiên Giang với tỉnh Kam-Pốt và thành phố
Kép được tăng cường hơn nữa qua các tour du lịch qua nước bạn do Trung tâm du lịch lữ
hành Kiên Giang tổ chức. Không chỉ đưa khách du lịch đến các địa điểm du lịch nổi tiếng
của hai tỉnh, thành phố này là suối nước ngọt Teuk-chou, cảng Kom-pong-som, thảo cầm
viên và vườn cây ăn trái ở Thành phố Kép, Trung tâm du lịch lữ hành Kiên Giang còn
hướng dẫn du khách tham quan thắng cảnh thủ đô Phnôm-Pênh, đặc biệt là kỳ quan thế
giới là ngôi đền Ăng-co vat tại tỉnh Xiêm-riệp, với sự hỗ trợ về thủ tục và đảm bảo an
ninh của lực lượng cảnh sát Hoàng gia Campuchia. Những tour du lịch này đã tạo cho du

khách hiểu thêm về con người và đất nước Chùa Tháp xinh đẹp, đồng thời thắt chặt tình
đoàn kết hữu nghị, láng giềng thân thiện giữa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia .
2.2 AHDT NGUYỄN TRUNG TRỰC
2.2.1 AHDT Nguyễn Trung Trực
2.2.1.1 Cuộc đời.
Nguyễn Trung Trực (1839 – 1868) là vị thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp
ở Tân An (nay thuộc Long An) và Rạch Giá (nay thuộc Kiên Giang), gần cuối thế kỷ 19
tại Nam Kỳ.
Sinh ra dưới thời Minh Mạng, thuở nhỏ ông có tên là Chơn, từ năm Kỷ Mùi 1859
đổi là Lịch (Nguyễn Văn Lịch), và cũng từ tên Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, nên
thầy dạy học của ông đặt tên hiệu cho ông là Trung
Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát, tỉnh Bình
Định. Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng tức Thăng, mẹ là bà Lê
Kim Hồng.
Sau khi hải quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia đình ông phải
phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm trước đây chuyên nghề chài lưới),
làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An (nay thuộc ngoại ô thị xã
Tân An, tỉnh Long An.) và sinh sống bằng nghề chài lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ.
Không rõ năm nào, lại dời lần nữa xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên.(nay là xã Tân
Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.)
Lúc nhỏ, ông rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ông là người có thể lực khoẻ
mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm, mưu lược.
Tháng 2 năm 1859, Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Vốn xuất thân là dân
chài, nằm trong hệ thống lính đồn điền của kinh lược Nguyễn Tri Phương, nên ông sốt
sắng theo và còn chiêu mộ được một số nông dân vào lính để gìn giữ đại đồn Chí Hòa,
dưới quyền chỉ huy của Trương Định.
Năm 1861, nhờ lập được công lao, nên ông được triều đình phong chức Quyền
sung Quản đạo” nên còn được gọi là ''Quản Chơn'' hay ''Quản Lịch''.
Nghĩa quân dưới quyền lãnh đạo của ông gồm một số nhà yêu nước: Lâm Quang
Ky, Hoàng Khắc Nhượng, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Học, Hồ Quang v.v…

2.2.1.2 Sự nghiệp
Sự nghiệp của Nguyễn Trung Trực đã được khẳng định qua hai chiến công tiêu
biểu nhất, đó là: đốt tàu Pháp tại vàm sông Nhật Tảo (1861) và đánh chiếm đồn Tây Kiên
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 20 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Giang (1868) mà nhân dân luôn tỏ lòng kính trọng đối với ông, một người suốt cuộc đời
dâng hiến cho đất nước và dân tộc.
2.2.2 Đặc thù hoàn cảnh để trở thành AHDT
2.2.2.1 Tình hình chính trị Việt Nam thời kì Nguyễn trung Trực khởi nghĩa.
Chính sách bế quan toả cảng của triều đình Huế, từ chối mọi giao dịch với Tây
Phương, sứ thần và đại diện các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ nhiều lần đến nước ta dâng
quốc thư và tặng phẩm để xin việc mua bán đều bị các vua từ chối . .
Trong khi đó Triều đình Huế thiển cận không có chánh sách ngoại giao hợp thời
hầu canh tân nước nhà, đã dẫn đến việc Pháp lấy cớ giết hại các giáo sĩ và tín đồ Thiên
chúa để xâm lăng nước ta.
Năm 1847 hải quân Pháp đến Đà Nẵng gởi lên Triều đình Huế bức thư xin bãi bỏ
việc cấm đạo. Trong khi hai bên đang thương thuyết, quân sĩ ta chuẩn bị đề phòng bất trắc
thì các tàu Pháp bắn vào các hải đồn của ta rồi bỏ đi
Năm 1858 hải quân Pháp, với một lực lượng hùng hậu hơn, tấn công Đà Nẵng,
quân ta chống trả quyết liệt. Pháp thấy không thể tấn công triều đình Huế là đầu não của
cả nước hầu bức bách nhà Vua để dễ dàng thôn tính nước ta nên họ để lại một số tàu
chiến còn bao nhiêu di chuyển xuống tấn công Nam Kỳ.
Nam Kỳ đất rộng, phì nhiêu, dân cư thưa thớt lại nhiều sông rộng thuận tiện cho tàu chiến
tiến sâu vào nội địa
Quân Pháp hạ nhiều thành lũy của ta ở miền nam. Vua Tự Đức sai ông Nguyễn
Tri Phương vào Gia Định đắp đồn Kỳ Hòa để chống giữ quân Pháp. Khi chiến tranh với
Trung Hoa kết thúc, Pháp tập trung tàu chiến đánh ta.
Tháng 1-1861 Charner (một tướng chỉ huy của quân đội pháp)đem 2200 quân, 600

phu, 2 chiến hạm, 4 tàu chiến, 16 thông bảo hạm, 17 tàu vận tải cùng với 900 thủy binh và
200 lính Y Pha Nho (ngày nay là Tây Ban Nha) tấn công đồn Kỳ Hòa (nay gọi là đồn Chí
Hòa). Sau hai ngày kịch chiến thì đồn vỡ, thừa thắng quân Pháp đánh lấy tỉnh Định
Tường (nay là Tiền Giang).
2.2.2.2 Đốt tàu Pháp trên sông Nhật Tảo(1861)
- Quân Pháp đem quân đánh chiếm Gia Định (18-2-1859). Hai năm sau chúng lại
đánh chiếm đồn Chí Hòa(25-2-1861) và thừa thắng chúng chiếm lấy Định Tường (Mỹ
Tho ngày nay) (14-2-1861). Quân triều đình phải rút lui về Vĩnh Long.
Lúc bấy giờ, quân Pháp có lợi thế nhiều về chiến cụ như tàu sắt và súng tầm xa
hiện đại cùng với ý chí xâm lược cao độ quyết chiếm lấy miền Tây Nam Bộ. Trên bộ nơi
nào chiếm được thành thì chúng lập ngay xã tề và xây dựng đồn bốt. Dưới sông chúng
cho tàu thủy lợi nhỏ tuần tra ghe thuyền qua lại với cớ là ngăn chặn nghĩa quân làm loạn.
Nhưng đó chính là cái cớ để vơ quét tiền của, lúa gạo của nhân dân.
- Tại ngã ba đầu sông Nhật Tảo và sông Vàm cỏ, chúng đặt một chiếc hạm tên là
Esperace (Hy Vọng) nằm án ngử nơi đó để đón ghe thuyền qua lại tra xét. Chỉ huy trưởng
tàu này là trung úy Parfait. Dưới tàu có trang bị khẩu súng đại bác với 25 quân lính Pháp,
đầy đủ súng ống và đạn dược. Trên bờ sông chúng còn cho đóng một cái đồn với 20 lính
Mã Tà canh gác bảo vệ tàu.
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 21 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
- Đây là một bước cản rất lớn cho hoạt động của nghĩa quân, cụ Nguyễn Trung
trực biết rõ thế, nên bằng mọi cách ông quyết định tiêu diệt con tàu này. Qua nhiều ngyaf
trằn trọc nghiên cứu tình hình địch, nắm được khá chính xác hoạt động của địch. Ông chia
nghĩa quân làm 2 toán :
Toán 1: Cho 30 người nằm phục kích bao vây đồn Mã Tà trên bờ, nếu nghe hiệu
lệnh thì tấn công ngay không để chúng ra tiếp viện.
Toán 2: Cho 59 người bố chí 5 ghe và nằm chờ sẳn trong khoan ghe có đầy đủ củi
rơm, khi nghe hiệu lệnh thì phi nhanh qua tàu, phóng hảo và tiêu diệt địch.

- Ngoài ra cụ Nguyễn Trung trực còn vân động một số dân chúng quanh vùng tham
gia cuộc chiến. Ông trang bị cho họ các dụng cụ như chiêng, mõ, thổi tù làm tiếng động
chọc tức Pháp, bắt buộc chúng phải chia lực lượng dưới tàu ra để phân tán lực lượng, như
thế nghĩa quân sẽ dễ dàng thắng lợi hơn.

- Đúng giờ Ngọ (12h trưa) ngày 10-12-1861, ông cho toán quân dân đánh chiêng,
mõ, thổi tù, cất tiếng này vang lên làm vang động một góc trời, lúc này tên trung úy
Paraitf dưới tàu nghe tiếng động và tức giận cho quân lính truy đuổi theo mãi càng lúc
càng xa tàu.
- Lúc này ông cho toán quân dưới ghe chia thành 5 ghe, với kế sách là giả làm
thương buôn (có tài liệu ghi là giả làm một đám cưới) đẻ tiếp cân tàu Pháp khi Pháp cho
quân lính thu thuế, tận dụng thời cơ lúc quân Pháp chủ quan ông ra lệnh cho nghĩa quân
thực hiện kế hoạch và bất ngờ đánh vào thuyền, cho đốt thuyền, lúc này bọn lính Pháp
hoản loạn, và nhanh chân tháo chạy, trong đó có cả trung úy Paraitf.
Trận này nghĩa quân toàn thắng, dìm được tiểu hạm Esperance chìm sâu dưới sông Vàm
Cỏ, mang theo 17 xác quân địch.
Sau khi đại tháng trận Vàm cỏ nghĩa quân thừa thắng xông lên, đánh chiếm được
các đồn như Cần Giuộc, Sông Tra, Cái Bè….
Ngọn lửa Nhật Tảo đã nâng cao thanh danh của AHDT Nguyễn Trung Trực trong cả
nước, làm bừng sáng lòng yêu nước của nhân dân cũng như của những lãnh tụ cách mạng
địa phương. Đồng thời cũng là động cơ thúc đẩy chống xâm lăng ở khắp nơi miền Tây
Nam Bộ.
2.2.2.3 Đánh chiếm đồn Tây Kiên Giang( Kiếm bạc Kiên Giang)
- Sau khi được sắc chỉ vua Tự Đức phong chức thành thủ Chấn Ủy Hà Tiên, ông
đến Hà Tiên nhậm chức thì quân Pháp đã chiếm Hà tiên mất rồi (24-6-1867), ông liền lui
về hòn Chông ( Cách Hà Tiên 20km) lập căn cứ chống Pháp. Ông liên hệ với các lãnh tụ
địa phương thành lập lực lượng kháng chiến lâu dài. Ở Rạch Giá có Lâm Quang Ky, ở
Minh Lương có Xã Lý, ở Phú Quốc có Quản Thứ…. Ngoài ra ông còn vận động một số
người Hoa, người Khơme như cô Ba Đỏ cùng tham gia kháng chiến chống Pháp.
- Ông làm Chủ tướng, còn Lâm Quang Ky làm Phó tướng. Địa bàn hoạt động của

nghĩa quân do ông lãnh đạo cũng rất rộng lớn từ Cà Mau đến Hà Tiên, Phú Quốc và vùng
Núi Sập (An Giang). Ông có 3 trường luyện võ cho nghĩa quân: Tà Niên (Rạch Giá), Hòn
Chông (Hà Tiên) và Sân Chim (Cà Mau). Ông cũng thường đi khắp nơi như Cái Nước,
Chắc Băng, Thầy Ngươn, Tân Hội, Vĩnh Trạch v.v để thuyết giải bối cảnh lịch sử cho
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 22 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
đồng bào nghe, đồng thời vận động những người có cùng chí hướng tham gia đánh đuổi
xâm lăng, giành lại quê hương đất nước. Đâu đâu ông cũng rất được nhân dân mến yêu và
kính phục.
Còn đối với bọn Pháp, sau khi đã chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây rồi, chúng mở rộng
vòng tay đàn áp, truy lùng bắt bớ nghĩa quân hòng tiêu diệt lực lượng yêu nước của
Nguyễn Trung Trực. Chúng thiết lập cơ sở chánh quyền xã tề và xây dựng đồn bót khắp
nơi. Mặt biển ở Rạch Giá chúng thiết lập Ty Thương Chánh để thu gom tiền bạc của các
thương thuyền ngoại quốc vào đây buôn bán. Trong sông rạch chúng cho canh suốt ngày
chạy khắp nơi đón ghe thuyền xét tra thu thuế.
Nhân dân Kiên Giang bấy giờ đang gánh chịu nhiều điều khốn khổ. Một số lãnh
tụ như Quản Thứ, Xã Lý, Cô Ba Đỏ yêu cầu ông sớm điều quân để tiêu diệt bọn chúng.
Đây là cơ hội thuận lợi nhất vì đã có Quản Cầu, chỉ huy đồn Mã Tà Kiên Giang chịu làm
nội ứng. Nguyễn Trung Trực từ chối vì chưa có thời cơ thuận lợi và cũng chưa có điều
nghiên kỹ tình hình địch nên không thể động binh được. Cô Ba Đỏ nghe ông nói vậy cho
rằng ông sợ địch nên viện lý này lẽ nọ?. Cô nóng nảy lớn tiếng nói khích ông rằng:
“Không ngờ ông là đàn ông không có d ". Một câu với dụng ý ngầm chê ông là đàn bà.
Tuy thế ông không buồn giận mà còn ôn tồn dẫn giải nữa. Ông nói: "Trong binh thư có
dạy, phàm làm tướng cầm quân ra trận mà tính khí nóng vội chưa rõ được ta và địch mà
xuất kích thì chắc chắn sẽ quân hao, tướng bại, chẳng lợi ích gì mà còn làm nản chí quân
binh". Tất cả nghe qua đều hết lòng khâm phục.
Sau đó ít lâu, Nguyễn Trung Trực triệu tập các vị chỉ huy lại để bàn kế hoạch đánh
đồn Kiên Giang. Nhưng thật đáng tiếc, trong cơ quân có những kẻ phản bội như Đội

Lượm (Chú thích: Đội Lượm: có tài liệu nói là tên Lượng), Xã Ngươn ở Tân Hội ra đầu
Pháp, báo cáo cho tên Chủ tỉnh biết. Tên Chủ tỉnh liền ra lịnh bắt ngay Quản Cầu, Xã Lý
và cô Ba Đỏ nhốt vào khám lớn. Làm như vậy, chúng tin rằng Nguyễn Trung Trực không
còn có cơ hội đánh đồn được. Nhưng tương kế tựu kế, Nguyễn Trung Trực vẫn thực hiện.
Trước khi tiến công 2 ngày, ông cho lực lượng nghĩa quân ở Hòn Chông kéo về Tà Niên
để cùng phối hợp hành động.
- Đến 12h đêm ngày 16-6-1868, toán nghĩa quân âm thầm lội quua sông bò lên bờ,
tiến sát vào thành đồn không gây tiếng động, nằm im lặng chờ xuất kích. Lúc này trời đổ
mưa rút rắc làm ướt quần áo cùng với gió biển tèng cơn thổi vào làm lạnh buốt đến rung
người nhưng nghĩa quân không hề nản chí.Toán lính tuần đi qua ném điếu thuốc tàn lên
người làm rát bỏng da thịt nhưng họ rán sức chịu đựng để không gây tiếng đông. Lòng
căm thù giặc trong lòng họ như đã hóa giải mọi đau đớn của thể xác bên ngoài.
- Nghĩa quân phúc kích ngoài đồn đến bốn giờ sáng, chờ giặc mệt mỏi ngủ yên,
Nguyễn Trung Trực men đến cổng gác chính, thấy tên gác đang ngủ gật, ông dùng kiếm
đâm chết rồi phát lệnh tấn công, nghiac quân nghe tiếng lệnh, liền bật dậy phi thân qua
vách đồn vào trong tìm địch diệt. Tên chủ tỉnh Chánh Phèn đêm khuya ngon giấc, nghe
tiếng động liền bật dậy chạy ra ngoài cũng bị mũi tên của Nguyễn Trung Trực đâm vào
tim làm hắn ngã gục. Ngọn lửa của nghĩa quân đốt doanh trại làm bừng sáng một góc trời.
Nguyễn Trung Trực chạy đến khám giải thoát Quản Cầu, Xã Lý và cô Ba.
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 23 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
- Tiếng reo hò chiến thắng làm vang dậy khu phố Rạch Giá lúc về đêm, nghĩa quân
hoàn toàn thắng lợi. Trận này nghĩa quân tiêu diệt được một số sĩ quan Pháp, trong đó có
tên chủ tỉnh Chánh Phèn, Trung úy Sô-Tẹt, và hơn 60 tên lính khác, bắt sống 15 tên lính
tù binh, trong đó có thánh thông ngôn của Pháp, số tù binh này được Nguyễn Trung Trực
tha chết.
- Sau đó 2 ngày quân Pháp mới hay tin đồn Kiên Giang về tay của Nguyễn Trung
trực, chúng kinh hoàn, tức giận liền kéo viện quân từ Mỹ Tho, Vĩnh Long đến tiếp viện.

Trong đoàn quân này ngoài trung tá thủy quân của Pháp còn có 2 tên phản quốc Trần Bá
Lộc và Đỗ Hữu Phương, chúng dùng tất cả các vũ lực ồ ạt tấn công phục thù. Vì yếu thế
Nguyễn Trung Trực đành rút quân về Hòn Chông rồi ra Phú Quốc tiếp tục chiến đấu với
kẻ tù đến ngày hi sinh. Khi Nguyễn Trung Trực rút lui để thành lại cho Lâm Quang Ky
giữ. Ông quyết liệt chống cự với Pháp được ít lâu rồi ông bị chúng chắt đầu đem bêu rếu
giữa chợ để răng đe dân chúng, rối sau đó cho may đàu ông lại để khâm liệm, và người
dân đã lén lúc thờ ông trong ngôi đền thờ cá ông.

=> Nhìn qua hai cuộc chiến thắng đốt tàu Pháp ở Vàm sông Nhật Tảo và đánh đồn Kiên
Giang chúng ta đã thấy rõ tài nawg và mưu lược của Nguyễn Trung trực. Ông đún là một
vị anh hùng can đảm táo bạo, ông áp dụng chiến dịch thần tốc trong mỗi thế trận với
quyết tâm diệt địch tại trung tâm đầu não của chúng. Tuy ông sử dụng số quân ít ỏi với
phương tiện chiến đấu thô sơ bằng giáo, mác, nhưng đã thắng được lực lượng hùng hậu
với phương tiện chiến tranh hiện đại như tàu sắt và súng đạn tầm xa.
2.3 LỄ HỘI AHDT NGUYỄN TRUNG TRỰC
2.3.1 Đình thần AHDT Nguyễn Trung Trực
Đình thần Nguyễn Trung Trực (Rạch Giá) hay Đền thờ Nguyễn Trung Trực (Rạch
Giá) tọa lạc ở phía Tây trung tâm TP. Rạch Giá, là ngôi đình thờ ông sớm nhất & lớn nhất
trong số 9 ngôi đền thờ ông trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Địa chỉ hiện nay của đình: số 8, đường Nguyễn Công Trứ, phường Vĩnh Thanh,
TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
2.3.2 Lịch sử ngôi đền
Đây là ngôi đền lớn nhất trong số chín ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang. Ngôi đền nằm đối diện dòng sông êm đềm, ngay sát cửa biển, rợp
mát bóng cây bồ đề xanh tốt. Mặt đền quay ra cửa biển và cách biển khoảng 100 m nằm
trên đường Nguyễn Công Trứ, phường Vĩnh Thanh, TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Bước
qua cổng đền là bức tượng Nguyễn Trung Trực đúc bằng đồng trông oai nghiêm, sống
động với khí thế trung nghĩa, bất khuất.
Sau khi Nguyễn Trung Trực bị thực dân Pháp xử chém ngày 27 tháng
10 năm 1868 tại chợ Rạch Giá, những người dân yêu kính ông đã bí mật thờ ông trong

đền thờ Nam Hải đại tướng quân (cá voi hay cá ông).
Ban đầu, đây chỉ là một ngôi đền nhỏ bằng gỗ, mái lợp lá do dân chài dựng nên
bên dòng sông Kiên (phía trước mặt) và rạch Lăng Ông(từ cổng đền nhìn vào, ở phía bên
trái) và chỉ cách biển Đông độ chừng trăm mét.
LỄ HỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
KIÊN GIANG

TRẦN THỊ MAI HƯƠNG(6106723) 24 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Qua lần sửa chữa vào năm 1881, ngôi đình đã khang trang hơn. Nhưng để có diện
mạo như ngày hôm nay, chính là nhờ lần khởi công sửa chữa lớn vào ngày 20 tháng 12
năm 1964, khánh thành ngày 24 tháng 2 năm 1970, do kiến trúc sư Nguyễn Văn Lợi thiết
kế, với toàn bộ kinh phí xây dựng do nhân dân đóng góp.
Nhân dịp này, nhân dân địa phương cũng đã tạc tượng Nguyễn Trung Trực bằng
đồng sơn đen, đặt trước khu "chợ nhà lồng" Rạch Giá.
2.3.3 Kiến trúc đình
Đình thần được xây dựng theo kiểu chữ tam (chữ Hán: 三), gồm có chánh điện,
đông lang và tây lang.
Cổng đền có ba cửa (tam quan), cổ kính với mái ngói hai tầng trang trí hình "lưỡng
long tranh trân châu" trên đỉnh. Hai bên là đôi câu đối bằng chữ Quốc ngũ được đắp nổi
sơn vàng trên nền đỏ. Đó là hai câu trong bài thơ Điếu Nguyễn Trung Trực của danh
sĩ Huỳnh Mẫn Đạt:
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa,
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.
Thái Bạch dịch thơ:
Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần.
Qua khỏi cổng, là một lư hương lớn bằng đá, và bức tượng Nguyễn Trung Trực
đúc bằng đồng, có màu nâu đỏ. Trước đây, tượng thờ này đặt trước khu "chợ nhà lồng"
Rạch Giá, nay sơn lại màu nâu đỏ, và được di dời vào đây.
Kế đến là ngôi chánh điện được thiết kế với mái ngói cong bốn góc, ở các viền góc

đều có trang trí hoa văn hình rồng và lá cúc. Mặt trước chánh điện có hai trụ cột đắp nổi
hình rồng uốn lượn từ dưới lên quấn quanh cột.
Trong chánh điện, cột và kèo đều bằng bê tông. Đền có tất cả mười cột, mà mỗi cột
đều có chân hình bát giác, phía trên có đắp nối hai lớp cánh sen. Ngoài ra, ở nơi đây các
hoành phi, câu đối đều được sơn son thiếp vàng, làm cho các nơi thờ vừa trang nghiêm
vừa lộng lẫy.
2.3.4 Thờ phụng trong đền
Trong chánh điện có rất nhiều bài thờ. Lần lượt từ ngoài vào trong như sau có các
bàn thờ chính như sau:
-Bàn thờ Chánh soái Đại càn.
-Bàn thờ 30 vị anh hùng dân tộc.
-Long đình cùng di ảnh (ảnh nhỏ) Nguyễn Trung Trực.
-Bàn để di ảnh (ảnh lớn) Nguyễn Trung Trực.
-Bàn thờ Chư vị.
-Bàn thờ chư vị hội đồng trăm quan cựu thần và Cửu huyền thất tổ.
Gian cuối ngôi đền có ba ngai thờ chính:
-Ngai chính giữa thờ Nguyễn Trung Trực. Phía trên bệ thờ, có bức hoành ghi bốn
chữ: Anh Khí Như Hồng (英 气 如 虹), tức ca ngợi khí tiết hào hùng của ông sáng như
cầu vồng bảy sắc.

×