Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

thế giới nhân vật trong tiểu thuyết phong thần diễn nghĩa của hứa trọng lâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.01 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN

TRẦN VĂN ÚT
MSSV: 6106369
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT PHONG
THẦN DIỄN NGHĨA CỦA HỨA TRỌNG LÂM
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: Th.s. TẠ ĐỨC TÚ
1
Cần Thơ, 2013
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích của đề tài
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận chung
1.1 Giới thiệu tác giả và tác phẩm Phong thần diễn nghĩa
1.1.1 Tác giả Hứa Trọng Lâm
1.1.2 Tác phẩm Phong thần diễn nghĩa
1.1.2.1 Thời đại tác phẩm
1.1.2.2 Tóm lược tác phẩm
1.2 Khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học và tiểu thuyết chương hồi
1.2.1 Nhân vật trong tác phẩm văn học
1.2.2 Chức năng của nhân vật
1.2.3 Loại hình nhân vật


1.2.3.1 Nhân vật chính
1.2.3.2 Nhân vật phụ
1.2.3.3 Nhân vật chính diện, nhân vật phản diện
1.2.3.4 Một số cấu trúc nhân vật
1.2.4 Vài nét về tiểu thuyết và tiểu thuyết chương hồi.
1.2.4.1 Tiểu thuyết.
1.2.4.2 Tiểu thuyết chương hồi.
Chương 2 NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT PHONG THẦN DIỄN
NGHĨA CỦA HỨA TRỌNG LÂM
2.1 Nhân vật chính diện trong Phong thần diễn nghĩa
2
2.1.1 Nhân vật thần tiên
2.1.2 Nhân vật đạo hạnh ra sức vì việc nghĩa
2.1.3 Nhân vật có lòng nhân đức vì dân vì nước
2.2 Nhân vật phản diện trong Phong thần diễn nghĩa
2.2.1 Nhân vật tàn bạo vô đạo
2.2.2 Nhân vật là yêu tinh
Chương 3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.1 Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình và tính cách hành động
3.1.1 Ngoại hình nhân vật
3.1.2 Tính cách và hành động nhân vật
3.2 Ngôn ngữ đối thoại
PHẦN KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, các thời đại Trung Quốc đã liên tục đổi thay. Mỗi lần một triều đại

nào sắp đến hồi diệt vong, thì có hôn quân vô đạo cai trị hoặc là gian thần nắm
quyền. Lúc ấy tất sẽ có minh quân hạ thế, xuất hiện thuận theo “ ý trời” và “lòng
dân” với tư tưởng“Thiên hạ giả, phi nhất nhân chi thiên hạ, nãi thiên hạ nhân chi
thiên hạ”(Thiên hạ không của riêng ai, của mọi người trong thiên hạ)[4, tr.16]
nhằm chỉnh đốn lại đất nước. Ngoài ra còn có văn thần võ tướng, hiểu rõ “thiên ý”,
phò tá minh quân, từ đó làm nên nghiệp lớn ngàn thu. Trong lịch sử Trung Hoa mỗi
khi vua lỗi đạo chỉ biết ăn chơi xa hoa, quên cả triều chính không biết chăm lo cho
bá tánh nhân dân tạo cảnh lầm than oán ghét trong thiên hạ. Từ đó xuất phát đạo lý
“Quân vô đạo thần bất phục”, đồng thời gây nên những cuộc chiến “thần chống
lại quân” ngược với giáo lý “quân thần”, kẻ dưới chống bề trên của giai cấp phong
kiến. Điều mà lịch sử Trung Quốc ghi lại ở thời Thương – Chu qua tác phẩm
“Phong thần diễn nghĩa”, nghĩa quân thần đã bị xáo trộn không còn như giáo lý
phong kiến đề ra “phụ tử hữu thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng
ấu hữu tư, bằng hữu hữu tín” (có tình thương của cha con, có đạo nghĩa của vua
tôi, có sự phân biệt của chồng vợ, có nề nếp của người già, trẻ, có lòng tin của bạn
bè)[4, tr.16], những điều ấy không còn thiêng liêng. Cho nên cần có sự củng cố tôn
ti trật tự để an lòng dân trong xã hội.
Với những vấn đề trên, người viết đã mạnh dạn chọn Thế giới nhân vật trong
tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa của Hứa Trọng Lâm, nhằm mục đích để hiểu
rõ hơn và khai thác sâu những hiện thực trong xã hội phong kiến thời bấy giờ.
Đồng thời tạo thêm những hiểu biết về văn hóa, triết lý trong nền văn học Trung
Quốc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mỗi tác phẩm văn học đều có nhân vật riêng của nó, số lượng nhân vật ít hay
nhiều tùy theo từng tác phẩm, riêng đối với tiểu thuyết số lượng nhân vật thì phong
phú và đa dạng. Các hình tượng nhân vật được xây dựng dựa trên những con người
có thật bên ngoài xã hội, thông qua ý đồ mà tác giả muốn hướng tới. Đối với đề tài
“thế giới nhân vật” thì cho rằng đã có nhiều người nghiên cứu về đề tài này.
Tuy nhiên, để tìm hiểu về “thế giới nhân vật trong tiểu thuyết phong thần
diễn nghĩa”, người viết nhận thấy những nghiên cứu trước đó về tác phẩm này còn

hạn chế. Đa số những học giả nghiên cứu trước, chỉ giới thiệu sơ lược về nội dung
4
của tác phẩm chưa đi sâu phân tích cụ thể từng nhân vật.
Trong quyển Văn học Trung Quốc (tập 3) của Chương Bồi Hoàn – Lạc
Minh
Ngọc biên dịch, Nhà xuất bản phụ nữ năm 2000. Các tác giả nghiên cứu về thời
đại ra đời, ai là người sáng tác?, dựa trên những tư liệu lịch sử còn ghi lại và nêu
lên những quan niệm chính trị, đạo đức, giáo lý của xã hội phong kiến được thể
hiện trong tác phẩm.
Theo cuốn Lỗ Tấn sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc – Lương Duy Tâm
dịch, Nhà xuất bản văn hóa 1996. Lỗ Tấn giới thiệu tổng quát về việc làm của nhà
Chu đánh phạt Trụ và sự so tài cao thấp của hai phái Xiển giáo và Triệt giáo.
Nhưng chưa đi sâu miêu tả thực tế hành động các nhân vật, chỉ nói đến sơ lược nội
dung của tiểu thuyết mà thôi.
Còn theo cuốn Tiểu thuyết cổ điển Trung quốc của tác giả Trần Xuân Đề thì
đưa ra lời nhận định về luân lý đạo đức trong phong kiến “quân thần” và “tình
nghĩa cha con” cùng với hệ tư tưởng “thiên mệnh” là trên hết. Tác giả Trần Xuân
Đề trích lại lời nhận định,“Tác giả phong thần khẳng định: tôi có thể chống vua,
tình nghĩa cha con bạn bè phải được xây dựng trên cơ sở của đạo nghĩa, con người
không thể mù quáng tin theo luân lí giáo điều phong kiến” [4, tr.17].
Do là người đi sau trên cơ sở tiếp nhận những ý kiến của các nhà nghiên cứu
trước, người viết cố gắng thực tốt một cách khái quát về đề tài: “Thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết phong thần diễn nghĩa”.

3. Mục đích của đề tài
Đề tài đặt ra yêu cầu là tìm hiểu: “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết phong
thần diễn nghĩa” để thấy rõ hơn những việc làm của các nhân vật, cũng như hoàn
cảnh nước Trung Quốc thời cổ đại. Qua đó hiểu sâu sắc thêm cuộc sống nhân dân
chịu sự cai trị của một bạo chúa. Bên cạnh nêu cao những con người với lòng nhân
đức yêu thương con người đã ra tay nghĩa hiệp trừng phạt kẻ bạo tàn, mang lại cuộc

sống ấm no cho dân chúng. Tuy nhiên cũng thông qua hình tượng nhân vật để hiểu
thêm về tư tương cốt yếu của tác giả về cuộc sống.
Qua việc khảo sát tác phẩm người viết dùng những kỹ năng lý luận để phân
tích nhân vật mà yêu cầu của đề tài đưa ra nghiên cứu.
4. Phạm vi nghiên cứu
Một tác phẩm văn học hiện lên như một chỉnh thể với vô số các yếu tố đan kết
5
chặt chẽ với nhau. Người viết chỉ tìm hiểu giới hạn “Thế giới nhân vật trong phong
thần diễn nghĩa” được thể hiện ở các bình diện chính trong tác phẩm là cốt truyện,
nhân vật, không gian và thời gian. Để từ đó sắp xếp các nhân vật có cùng đặc điểm
giống nhau, theo một trình tự có hệ thống và đi sâu khảo sát nội dung của từng
nhân vật để hiểu rõ thêm giá trị nhân văn của tác phẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, người viết đã tiến hành khảo sát một số phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp thống kê: tiến hành thống kê trên các bình diện trong tác phẩm
để từ đó phân loại nhân vật.
Phương pháp hệ thống: đặt nhân vật trong hệ thống các nhân vật, xét nhân vật
trong mối tương quan với các nhân vật khác để khái quát lên đặc điểm về tính cách,
số phận nhân vật.
Phương pháp so sánh: đặt nhân vật trong hệ thống các nhân vật trong tác
phẩm và trong các tác phẩm khác để tìm ra nét riêng đặc trưng của nhân vật.
Phân tích tổng hợp: dựa vào lý luận văn học, lịch sử văn học, căn cứ vào đó
để phân tích chứng minh và rút ra kết luận.
6
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Giới thiệu tác giả và tác phẩm Phong thần diễn nghĩa
1.1.1 Tác giả Hứa Trọng Lâm

Khi nói về tiểu sử tác giả thì tư liệu sử sách ghi lại rất ít. Người ta chỉ biết tác
giả Hứa Trọng Lâm mất 1566, không rõ năm sinh, hiệu là Chung Sơn Dật Tẩu một
nhà văn Trung Hoa. Ông sinh tại Nhạn Thiên - huyện Trực Lệ - Phủ Ứng Thiên
(nay gọi là Nam Kinh) vào thời nhà Minh. Mọi người đều cho rằng ông là tác giả
của Phong thần diễn nghĩa.
1.1.2 Tác phẩm Phong thần diễn nghĩa
1.1.2.1 Thời đại tác phẩm
Theo cuốn Văn học Trung Quốc (tập 3) ghi lại thời đại ra đời Phong thần
diễn nghĩa gồm có một trăm hồi, bản in đầu tiên hiện được giữ tại nội các văn khố
ở Nhật Bản do Thư Tải Dương đời nhà Minh khắc và nhờ Chung Tinh Phê phê
bình. Quyển thứ hai của sách này có đề Chung Sơn Dật Tẩu của Hứa Trọng Lâm
biên soạn còn những quyển khác thì không có ghi tên tác giả. Ở đầu quyển sách có
lời tựa của Lý Vân Tường người Hàn Giang viết:“Bạn tôi là Thư Xuân Phụ tự Sở
Trung mua với giá tiền cao một quyển Phong Thần Diễn Nghĩa có lời tựa của
Chung Bá Kính tiên sinh phê duyệt. Do ông chưa hoàn tất nên công việc ủy thác
cho tôi làm việc này” [6, tr. 435]. Dựa vào đó để phán đoán thì tác giả đầu tiên của
quyển sách này là Hứa Trọng Lâm và người viết sau đó là Lý Vân Tường. Về niên
đại hoàn thành bộ sách này là những năm niên hiệu Thiên Khải nhà Minh. Đây là
câu chuyện Khương Tử Nha phò tá Vũ Vương phạt Trụ đã là tài liệu thuyết thư
trong dân gian. Ngày nay vẫn còn giữ bản khắc đời nhà nguyên với nhan đề “ Tân
san toàn tướng bình thoại Vương phạt trụ” trong đó có không ít những chuyện thần
quái. Lại căn cứ theo lời giới thiệu của Thủ Xuân Phủ ở đầu quyển sách Phong
thần diễn nghĩa có nói “sách này nguyên là truyền thuyết từ lâu, nhưng khổ nỗi
không có bản chép thành chữ”. Trong lời tựa của Lý Vân Tường có nói “ Tục
7
truyền có nói tới việc Khương tử nha chém tướng phong thần nhưng chưa có bản
chép thành văn tự, mà chỉ do những người “thuyết từ” truyền miệng mà thôi ” [6,
tr. 435]. Qua đó cho thấy trong dân gian vào đời nhà Minh các nghệ sĩ kể chuyện
phong thần còn rất phổ biến. Do vậy, bộ tiểu thuyết này cần được xem là do Hứa
Trọng Lâm đã sáng tác lại dựa trên những câu chuyện trong dân gian.

1.1.2.2 Tóm lược tác phẩm
Là một bộ tiểu thuyết được viết lại trên cơ sở cuốn Vũ Vương phạt Trụ bình
thoại in đời Nguyên, rồi nhào nặn tư liệu lịch sử với thần thoại, truyền thuyết và tôn
giáo mà thành, Phong thần diễn nghĩa xoay quanh việc suy vong của nhà Thương
và sự nổi lên của nhà Chu, lồng vào đó là vô số thần thoại, truyền thuyết Trung
Hoa, bao gồm các thần, tiên, yêu quái Trong chừng mực nào đó, phong thần diễn
nghĩa mô tả cuộc sống của người Trung Hoa đương thời, nơi tôn giáo có một vai
trò lớn trong cuộc sống hàng ngày.
Phong thần diễn nghĩa bắt đầu với chuyện kể về vua Trụ nhà Thương đến
miếu thờ Nữ Oa dâng hương, đã đề thơ với hàm ý hỗn xược khiến cho Nữ Oa nổi
giận. Nữ Oa đã sai ba yêu quái ở mộ Hoàng Đế mê hoặc vua Trụ nhằm làm cho nhà
Thương sụp đổ, tạo cơ nghiệp cho nhà Chu thay thế. Một trong ba yêu quái là hồ ly
tinh đã tu luyện ngàn năm, giết chết Tô Đắt Kỷ con của Ký Châu hầu Tô Hộ, một
cô gái đẹp được tiến cung, rồi nhập vào xác nàng để ra mắt nhà vua. Được nhà vua
sủng ái, Đắt Kỷ giả dần dần lộng hành, trừ khử các bề tôi trung thành, giết hoàng
hậu và toan giết cả hai hoàng tử. Bên cạnh đó, Đát Kỷ giả còn tìm cách hại các chư
hầu lớn, vua Trụ theo lời mời họ vào chầu rồi bắt Tây Bá là Cơ Xương bỏ ngục
giam giữ ở Dũ Lý.
Viên quan tổng binh ở quan ải Trần Đường là Lý Tịnh sinh con trai thứ ba đặt
tên là Na Tra. Na Tra làm đồ đệ của Thái Ất Chân nhân, lên bảy tuổi đã đại náo
biển Đông, rút gân tam thái tử con của Long Vương. Long Vương đến nhà Lý Tịnh
đòi đền mạng. Na Tra tự nguyện chết để cha mẹ được sống. Người mẹ lập miếu thờ
Na Tra nhưng Lý Tịnh bắt phá đi. Na Tra tìm đến cầu cứu thầy đuổi đánh Lý Tịnh,
cha con oán ghét nhau, nhờ có Nhiên Đăng đạo nhân hòa giải nên hai người làm
hòa và giúp sức cho Vũ Vương.
8
Khương Tử Nha là đồ đệ của Nguyên Thủy Thiên Tôn trên núi Côn Lôn, vâng
lệnh thầy xuống núi giúp nhà Chu diệt nhà Thương. Tử Nha giết được một yêu quái
bằng hữu của Đắt Kỷ và nhờ đó ông được vua Trụ phong chức Hạ Đại phu. Sau vì
can Trụ xây Lộc Đài mà Khương Tử Nha suýt bị giết chết, phải trốn đến Tây Kỳ ẩn

cư ở núi Bàn Khê ngày ngày câu cá trên sông Vị chờ ngày gặp được minh quân.
Bấy giờ Tây Bá Cơ Xương thoát khỏi ngục tù trở về quê hương Tây Kỳ, đã tìm đến
Khương Tử Nha nhờ giúp đỡ, rồi dấy binh thảo phạt Trụ vương, chưa được bao lâu
thì Cơ Xương qua đời, con trai ông Cơ Phát lên nối nghiệp lấy hiệu Vũ Vương.
Trong nhiều trận chiến, nhà Chu đã đánh bại quân của vua Trụ, nhưng vua Trụ
không vì thế mà hối cải, vẫn tiếp tục nghe lời Đắt Kỷ hoang dâm ghẹo vợ và giết
Hoàng quí phi em gái của Hoàng Phi Hổ, khiến Phi Hổ tức giận bỏ nhà Thương tìm
đến Tây Kỳ. Hoàng Phi Hổ đã vượt năm cửa ải về với nhà Chu một lòng trung
thành với Vũ Vương thảo phạt vua Trụ.
Với sự giúp sức của các môn đệ phái Triệt giáo, vua Trụ sai ba mươi sáu đạo
quân tiến đánh trấn Tây Kỳ. Trong trận chiến Thương – Chu này, được sự giúp sức
của phái Xiển Giáo, nhà Chu đã đánh bại ba mươi sáu đạo quân của vua Trụ. Tuy
nhiên, vua Trụ vẫn tiếp tục hoang dâm tàn bạo, không biết hối cải, và các nước chư
hầu phải hợp lực với Vũ Vương ở Mạnh Tân tiến đánh. Trong trận chiến đối đầu
khốc liệt cuối cùng này, quân của vua Trụ đã thất bại thảm hại, vua Trụ tự thiêu ở
lầu Trích Tinh, hồ ly bị Nữ Oa thu phục, Đát Kỷ giả cũng bị giết chết. Khương Tử
Nha được Nguyên Thủy Thiên Tôn trao quyền phong các thần, còn Chu Vũ Vương
cũng được quyền tấn phong các nước chư hầu.
1.2 Khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học và tiểu thuyết chương
hồi
1.2.1 Nhân vật trong tác phẩm văn học
Nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm
bằng phương tiện văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị
Dậu, ), hoặc không có tên riêng (thằng bán tơ, một mụ nào) có thể người hoặc vật,
cây cỏ, ma quỷ… miễn có mang nội dung và ý nghĩa con người. Nhân vật có thể là
những con người được miêu tả đầy đủ cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách giống
9
với con người.
Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, không thể đồng nhất nó
với con người có thật trong đời sống. Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi đó là

hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Bản chất
văn học là mối quan hệ đối với đời sống, nó chỉ tái hiện được đời sống qua những
chủ thể nhất định đóng vai trò như tấm gương của cuộc đời.
1.2.2 Chức năng của nhân vật
Chức năng của nhân vật văn học là khái quát nên tính cách của con người. Do
tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử đồng thời chức năng khái quát nên tính
cách của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử. Vì tính cách là kết tinh của môi
trường, nên nhân vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào các môi trường khác
nhau của đời sống. Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý
tưởng thẩm mỹ của nhà văn và con người. Vì thế nhân vật luôn gắn chặt với chủ đề
của tác phẩm. Nhân vật văn học được miêu tả qua biến cố, xung đột, mâu thuẫn và
mọi chi tiết hành động. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu thuẫn giữa nhân
vật này với nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với tuyến nhân vật khác. Cho nên
nhân vật gắn liền với cốt truyện. Nhờ được miêu tả qua xung đột, mâu thuẫn nên
khác với hình tượng hội họa và điêu khắc, nhân vật văn học là một chỉnh thể vận
động, có tính cách được bộc lộ dần trong không gian, thời gian mang tính chất quá
trình.
1.2.3 Loại hình nhân vật
Nhân vật văn học rất đa dạng được sáng tạo độc đáo và không lặp lại. Tuy
nhiên, trong các nhân vật, xét về mặt nội dung, cấu trúc chức năng có thể thấy
nhiều hiện tượng lặp lại, tạo thành các loại nhân vật. Trong tác phẩm thông thường
có một hoặc nhiều nhân vật. Mỗi nhân vật có vai trò không giống nhau trong kết
cấu và cốt truyện tác phẩm. Dựa vào vai trò này có thể chia nhân vật làm hai loại:
nhân vật chính và nhân vật phụ.
1.2.3.1 Nhân vật chính
Là nhân vật đóng vai trò chủ đạo, xuất hiện nhiều giữ vai trò vị trí then chốt
10
của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện. Đó là con người liên quan đến các sự kiện chủ
yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của mình. Nhân vật
chính là nhân vật đươc khắc họa đầy đặn hơn, có tiểu sử, có nhiều tình tiết nhưng

cái chính là thể hiện đề tài và chủ đề của tác phẩm. Thường thì nhân vật chính phải
ở trong xung đột của tác phẩm, đại diện cho một phía của xung đột tác phẩm, số
phận của nó gắn liền với sự phát triển của xung đột truyện. Trong các nhân vật
chính của tác phẩm có thể nhận thấy nổi lên những nhân vật trung tâm xuyên suốt
trong tác phẩm từ đầu đến cuối, xét về mặt ý nghĩa. Đó là nơi quy tụ các mâu thuẫn
của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm tác phẩm.
Ví dụ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du nhân vật chính là Thúy Kiều, Kim
Trọng, Từ Hải Trong tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao nhân vật chính là Hộ,
Từ.
1.2.3.2 Nhân vật phụ
Là nhân vật thường mang các tình tiết, sự kiện, tư tưởng mang tính chất phụ
trợ bổ sung. Đóng vai trò khá khiêm tốn trong những sự kiện chính của tác phẩm
nhưng không thể thiếu trong tác phẩm. Ví dụ trong tác phẩm “Rừng xà nu” của
Nguyễn Trung Thành, nhân vật phụ là anh Quyết, Mai, bé Heng Có thể nói trong
một tác phẩm, nhân vật chính và nhân vật phụ vẫn gắn bó với nhau trong cùng một
tổng thể hài hòa.
1.2.3.3 Nhân vật chính diện và nhân vật phản diện
Xét về phương diện hệ tư tưởng có quan hệ đối với lý tưởng các nhân vật có
thể chia ra làm; Nhân vật chính diện (nhân vật tích cực), nhân vật phản diện (nhân
vật tiêu cực). Sự phân biệt nhân vật chính diện và nhân vật phản diện gắn liền với
những quan hệ đối kháng trong đời sống xã hội, hình thành trên cơ sở đối lập giai
cấp và quan điểm tư tưởng.
Nhân vật chính diện và nhân vật phản diện là những phạm trù lịch sử. Nhân
vật chính diện mang lý tưởng, quan điểm, tư tưởng đạo đức tốt đẹp của tác giả và
thời đại. Đó là người mà tác phẩm khẳng định và đề cao như những tấm gương về
phẩm chất cao đẹp của con người một thời.
Trái lại, nhân vật phản diện lại mang những phẩm chất xấu xa trái với đạo lý
và tư tưởng đáng lên án. Hai loại nhân vật này luôn luôn đối kháng nhau. Trong
11
văn học nhiều khi không dễ tách được nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.

1.2.3.4 Một số kiểu cấu trúc nhân vật
Về mặt cấu trúc có thể chia nhân vật làm những loại hình nhân vật sau.
Nhân vật chức năng: kiểu nhân vật này thường xuất hiện trong văn học cổ
đại và trung cổ. Nhân vật này thường không có đời sống nội tâm, phẩm chất đặc
điểm nhân vật cố định không thay đổi từ đầu dến cuối, hơn nữa sự tồn tại và hoạt
động của nó chỉ nhằm thể hiện một số chức năng nhất định, đóng vai trò nhất định.
Ví dụ: Ông Bụt trong các truyện cổ tích, Tấm Cám, Thạch Sanh, Cây Tre Trăm
Đốt…
Nhân vật loại hình: là nhân vật thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội đạo
đức của một loại người nhất định của một thời. Và một điều là những nhân vật loại
hình được xây dựng thành công, người ta có thể dung tên chúng như những danh từ
chung. Đại loại như; xấu như thị Nở, đẹp như Thúy Kiều, ghen như Hoạn Thư…
Nhân vật tính cách: là kiểu nhân vật phức tạp được miêu tả như một nhân
cách, một cá nhân có cá tính nổi bật. Trong nhân vật tính cách có cái quan trọng
không phải là đặc điểm, thuộc tính, phẩm chất xã hội có thể liệt kê, tính đếm thứ tự;
một, hai, ba… Mà tính cách nhân vật được thể hiện chủ yếu tương quan giữa các
thuộc tính môi trường và tình huống. Nhân vật loại hình thường có một quá trình
phát triển khiến cho nhân vật không đồng nhất với chính nó. Hạt nhân của nhân vật
tính cách là cá tính, cho nên yếu tố tâm lý, khí chất có vai trò quan trọng trong cấu
trúc nhân vật.
Nhân vật tư tưởng: là nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức tồn
tại trong đời sống tinh thần của xã hội. Nhân vật tư tưởng trong văn học cổ và văn
học lãng mạn thường mang tính chất tượng trưng. Còn chủ nghĩa hiện thực thì lại
kết hợp mật thiết với yếu tố tính cách hoặc loại hình. Trong sáng tác loại nhân vật
này dễ rơi vào công thức minh họa trở thành người phát ngôn của tác giả.
1.2.4 Vài nét về tiểu thuyết và tiểu thuyết chương hồi
1.2.4.1 Tiểu thuyết
Là tác phẩm tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận của một cá
nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó, sự trần thuật ở đây dược khai
12

triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt “cở cấu”
của nhân cách. Theo Belinski gọi tiểu thuyết là “sử thi của đời tư”, do chỗ nó
“miêu tả những tình cảm, dục vọng và những biến cố thuộc đời sống riêng tư và
đời sống nội tâm của con người” [ 1; tr . 312, 313].
Lịch sử phát triển tiểu thuyết đã để lại cho nền văn học thế giới những thành
tựu rực rỡ; từ những kiệt tác tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa đến những tác phẩm
đồ sộ của tiểu thuyết hiện thực phê phán phương Tây, từ dòng chảy của tiểu thuyết
sử thi hoành tráng trong văn học Nga đến những nguồn mạch văn chương hiện thực
huyền ảo Mỹ-Latinh, sự trỗi dậy và vượt thoát truyền thống của những nền văn học
Châu Á… Những mô hình ấy đã tạo dựng nên diện mạo đặc biệt phong phú của
tiểu thuyết trong suốt thời kỳ đã qua tính từ khi hình thành thể loại.
Ở phương đông có thể nói Trung Quốc là nơi mà tiểu thuyết xuất hiện rất sớm,
vào thời kỳ Ngụy-Tấn (thế kỷ 3 - 4) tiểu thuyết đã manh nha dưới dạng những tác
phẩm chi quái, chi nhân. Sang đời nhà Đường xuất hiện thể loại truyền kỳ, đời
Tống lại có thêm dạng thoại bản, tất cả đều có thể coi là tiền thân của tiểu thuyết
theo nghĩa hiện đại. Từ đời Minh văn học Trung Quốc nói chung và văn xuôi Trung
Quốc nói riêng phát triển rực rỡ với những pho tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng
như Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du ký
của Ngô Thừa Ân, Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh… Đời Thanh bước phát triển
của tiểu thuyết chương hồi đã tới thời điểm hoàng kim qua hàng loạt danh tác như
Chuyện làng Nho (Nho lâm ngoại sử) của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào
Tuyết Cần. Thời hiện đại tiểu thuyết Trung Quốc vượt thoát những thể loại truyền
thống, ảnh hưởng lớn từ các trào lưu văn học phương Tây đương thời với sáng tác
của các tác gia như Lỗ Tấn, Giả Bình Ao, Mạc Ngôn Ở phương Tây, tiểu thuyết
có mầm mống ban đầu từ các tác phẩm tự sự viết bằng tiếng Roman, thường là thể
loại anh hùng, đó là những tiểu thuyết kị sĩ với những biến cố và tình huống phi
thường. Tuy nhiên, nhìn nguồn gốc của thể loại, các nhà nghiên cứu có thể truy
nguyên về tận thời Hi Lạp, khi bên cạnh những tác phẩm trường ca cổ đại với cảm
hứng về cái chung và cái anh hùng là chủ đạo, vẫn có những tác phẩm lấy cảm
hứng từ con người riêng lẻ, và Bielinski đã rất có lý khi cho rằng “tiểu thuyết hình

thành khi vận mệnh con người, mọi mối liên hệ của nó với đời sống nhân dân được
13
ý thức” và “đời sống cá nhân bất luận thế nào cũng không thể là nội dung của anh
hùng ca Hy Lạp, nhưng lại có thể là nội dung của tiểu thuyết”. Trên nền móng của
hình thái tư duy khám phá những vấn đề bản chất của hiện thực thông qua sự tái
hiện số phận cá nhân đã có từ thời Hy Lạp, đã xuất hiện những thể loại văn chương
thời trung đại châu Âu theo theo thể tài hiệp sĩ, như Chuyện Tristan và Iseult.
Thời kỳ Phục Hưng đã tạo cơ sở thuận tiện nhất cho sự phát triển tiểu thuyết:
chất tiểu thuyết bộc lộ trong các tác phẩm thể truyện như của G. Boccacciio, thể
trường ca của M. Boiardo, L. Ariosto, T. Tasso và thể kịch với W. Shakespeare.
Nhưng tiểu thuyết đích thực gắn với những tìm tòi tư tưởng triết lý, chỉ xuất hiện
vào cuối thời đại Phục Hưng với Đôn Kihôtê của Xecvantex. Sau thời Phục Hưng,
khi văn học tao nhã là chủ đạo, thì xu hướng phát triển tiểu thuyết chỉ bộc lộ rõ
trong các sáng tác thuộc loại tiểu thuyết du đãng khai thác các đặc điểm trào phúng,
sự hư cấu tự do, vai trò của kinh nghiệm cá nhân tác giả trong sáng tạo nghệ thuật.
Sang thời đại Khai Sáng và thời cận đại, từ thế kỷ 18, tiểu thuyết đã đi một chặng
đường dài với sự hình thành các kết cấu chính. Truyện hiệp sĩ Des Grieux và nàng
Mannon Lescault của Prevost kết hợp hữu cơ được hai thể tài tâm lý và du đãng. S.
Richardson với Clarisse Harlow, J. Rousseau với Nàng Héloise mới đưa ra những
mẫu mực của tiểu thuyết tình cảm đồng thời củng cố vai trò chủ đạo của tiểu thuyết
luận đề. H. Fielding, T. Smollett đã đóng góp cho sự hình thành nguyên tắc điển
hình hóa của tiểu thuyết hiện thực, làm tiền đề cho sự nở rộ tiểu thuyết của chủ
nghĩa hiện thực phát triển mạnh giai đoạn sau đó với Balzac, Stendhal, Flaubert,
Ch. Dickens…Tiểu thuyết sử thi của L. Tolstoi với sự trần thuật đạt được chiều
rộng và tính bao quát, sự mô tả đời sống nội tâm nhân vật như một quá trình tâm lý
nội tại lần đầu tiên cho phép tiểu thuyết tái hiện được "biện chứng của tâm hồn".
Tiểu thuyết đối thoại của Dostoevski với con người đời tư được đặt trong tương
quan với cả thế giới.Thế kỷ 20 tiểu thuyết phương Tây phát triển trong sự đa dạng
đối nghịch nhau về nhiều mặt, bên cạnh những thành tựu của tiểu thuyết hiện thực
với khuynh hướng hiện thực phê phán hoặc khuynh hướng hiện thực xã hội chủ

nghĩa, lại cho thấy một loạt các nguyên tắc tiểu thuyết vốn đã thành truyền thống
trước kia bị biến đổi: độc thoại nội tâm bao trùm tác phẩm như một thủ pháp của
tiểu thuyết dòng ý thức; sự xáo trộn liên tục các bình diện thời gian và không gian,
14
các mảng đời sống hiện thực hòa quyện cùng huyền thoại, xuất hiện người kể
chuyện không toàn năng khi trong lời kể có cả cái biết và cái không biết, cái khách
quan lẫn chủ quan.
1.2.4.2 Tiểu thuyết chương hồi
Là thuật ngữ chỉ một thể loại tiểu thuyết trường thiên quan trọng trong văn
học cổ điển Trung Quốc. Tiểu thuyết viết theo dạng này phân chia tác phẩm thành
các hồi khác nhau, phát triển từ các lối giảng sử thoại bản (kể chuyện lịch sử) thời
Tống – Nguyên. Giảng sử thoại bản là hình thức kể chuyện ( chủ yếu là truyện lịch
sử) được những người kể chuyện trong dân gian (thuyết thư nhân – người kể sách,
thuyết thoại nhân – người kể chuyện) qua các đời kể lại; đối với những câu chuyện
có dung lượng lớn họ không thể kể xong ngay trong một lần nên buộc phải ngắt
thành các phần khác nhau, mỗi phần được đặt một tiêu đề để tóm lược nội dung, đó
chính là cơ sở hình thành các hồi và tiêu đề cho các hồi của tiểu thuyết chương hồi
về sau. Trong giảng sử thoại bản người ta phân chia các đề mục cho các đoạn, các
quyển mà chưa phân thành hồi. Cuối thời Nguyên đầu thời Minh các tác giả dựa
vào thoại bản để sang tác tiểu thuyết trường thiên trong đó nổi tiếng nhất là hai bộ
“Tam quốc chí thong tục diễn nghĩa”và “Thủy hử truyện”. Những tiểu thuyết dạng
này thoạt đầu không chia làm các hồi mà phân chia thành quyển, trong quyển lại
phân thành các phần nhỏ gọi là “tắc”, mỗi tắc có đề mục riêng. Căn cứ vào sự diễn
tiến của thể loại tiểu thuyết phân chia thành tắc xuất hiện sớm hơn các tiểu thuyết
phân chia thành hồi, như bản Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa thời Gia Tĩnh
được chia làm 24 quyển với 240 tắc nhưng đến bản Tam quốc diễn nghĩa ( Diễn
nghĩa chuyện Tam quốc) thời Sùng Trinh (1628 – 1644) đã đổi 240 tắc thành 240
hồi [3, tr. 1723]. Cuối thời Minh đầu thời Thanh cách phân chia theo hồi thành phổ
biến, đồng thời các đề mục của hồi cũng đạt tính đối ngẫu hoàn chỉnh. Đến đây tiểu
thuyết chương hồi đi vào dạng thức ổn định.

Sự phân chia cốt truyện thành các hồi là đặc trưng của thể loại tiểu thuyết
chương hồi, mỗi hồi bao giờ cũng có tiêu đề để tóm lược nội dung được trình bày
trong hồi. Ví dụ hồi đầu tiên trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung :
“ Tiệc vườn đào anh hung kết nghĩa
15
Chém khăn vàng hào kiệt lập công”
[ Hồi 1]
hay trong Truyện làng Nho (Nho lâm ngoại sử) của Ngô Kính Tử:
“ Đất Dương Châu Quý Vi Tiêu ở rể
Thành Nam Kinh Tiêu Kim Huyễn chọn văn”
[ Hồi 28 ]
Cuối mỗi hồi thường có một bài thơ ngắn để đánh giá sự kiện hoặc nhân vật
trong hồi và sau đó kết thúc các câu đại loại như “muốn biết sự việc như thế nào
xem hồi sau sẽ rõ ”. Sang hồi mới vấn đề lại tiếp tục được triển khai với một nhan
đề mới. Việc phân tách thành từng hồi và kết thúc hồi khi câu chuyện đang vào lúc
căn thẳng, có tác dụng quang trọng trong việc kích thích cao độ trí tò mò của người
đọc, người nghe, buộc họ phải theo dõi tiếp các hồi tiếp sau và lần lược cho tới khi
kết thúc câu chuyện.

16
Chương 2
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
PHONG THẦN DIỄN NGHĨA CỦA HỨA TRỌNG LÂM
2.1 Nhân vật chính diện trong Phong thần diễn nghĩa
2.1.1 Nhân vật thần tiên
Theo đời sống tâm linh của con người cho rằng, thế giới thần tiên là một thế
giới huyền ảo trên thượng giới cách biệt với thế giới trần gian do con người tưởng
tượng ra. Nơi đó có các thần và các tiên định cư cai quản những việc của chúng
sinh trong thiên hạ, các thần tiên đã trải qua quá trình tu luyện và lập nhiều công
đức cho nhân loại mới chở thành chính quả thoát khỏi nơi trần tục về nơi cực lạc.

Các thần tiên có năng lực siêu nhiên biết được quá khứ vị lai. Đối với văn hóa
phương đông từ xa xưa con người mong ước được trường sinh bất tử để hưởng thụ
cuộc sống phong lưu khoái lạc trong thế giới vũ trụ bao la. Người ta còn tin rằng
nếu xa rời những nhỏ nhen đời thường và tu tâm tích đức có công tu luyện thì một
ngày nào đó sẽ được trường sinh bất lão trở thành thần tiên. Khi đó, các thần tiên
được con người thờ phụng kính cẩn như người đỡ đầu khai sinh ra con người. Con
người trong vũ trụ bao la này, họ nghĩ rằng mình sinh ra do đâu ? ai là người sinh ra
mình? Vì thế con người nghĩ thần tiên chính là người tạo ra loài người trên thế
gian. Tuy nhiên ý nghĩ đó chỉ là phán đoán duy tâm mà ra, có sự huyền ảo do trí
tưởng tượng của con người suy tưởng mà hình thành. Riêng đối với đất nước Trung
Quốc cho rằng, thời xưa đã có nào thần Trời, nào thần Đất, nào Người, nào Ma
quỉ ở đâu đâu cũng có mà chung sống với nhau lẩn lộn. Từ từ có sự phân chia
rành mạch với nhau thành tam giới, trên trời thì có Ngọc Hoàng Thượng Đế và các
tiên gia, trần gian thì có con người và vạn vật chúng sinh, dưới đất thì có ma quỉ do
Diêm Vương cai quản. Nhưng chung quy cũng do sự tưởng tượng cơ cấu của con
người mà ra.
Truyền thuyết của Trung Quốc, người có công khai sáng ra trời đất là ông Bàn
Cổ, nhân vật tạo ra con người là Nữ Oa, người dạy đạo lý là ông tổ Thái Thượng
Lão Quân (Lão Tử). Các vị này rất được nhân dân Trung Hoa tin tưởng là đấng tối
cao hiểu rõ mọi chuyện trong thiên hạ và giúp họ vượt qua mọi khó khăn khi nào
17
cần thiết. Dần dần các vị ấy được mọi người tôn kính như thần thánh và thờ cúng
để báo đáp công ơn đã tạo ra họ. Trong đó người được tôn kính nhất là Nữ Oa
nương nương và những truyền thuyết về người vẫn được lưu truyền cho đến tận
ngày nay.
Trong tiểu thuyết phong thần diễn nghĩa, dựa trên những truyền thuyết đó,
Hứa Trọng Lâm mượn yếu tố “thần tiên” sáng tạo ra một thế giới thần tiên tương
đối hoàn chỉnh. Ở đây có cả Thần, Đạo, cùng nhau nắm uy quyền cai trị sinh linh
vạn vật, biết rõ chuyện trong quá khứ vị lai. Các thần tiên được nhắc đến là Nữ Oa,
Nguyên Thủy Thiên Tôn vì các nhân vật thần tiên này gắn liền với đời sống tâm

linh của nhân dân Trung Hoa. Họ là những nhân vật có đạo hạnh cao đã trở thành
thần tiên sống nơi thượng giới không màn đến chuyện phàm trần. Thế nhưng trong
tác phẩm những vị thần tiên này được tác giả xây dựng nên và giao nhiệm vụ lập ra
bảng “Phong thần” cho những ai chưa tu thành chính quả thì được phong thần về
phục vụ cho thiên đình. Đồng thời giúp đỡ nhà Chu xây dựng cơ nghiệp đánh đổ
nhà Thương tạo nên sự hưng thịnh kéo dài hơn tám trăm năm. Tác giả của phong
thần đã dựa vào những nhân vật thần tiên để mở đầu sự việc trong tác phẩm hay
đúng hơn là mở đầu cho việc sụp đổ của triều đại nhà Thương để tạo đà cho nhà
Chu phát triển. Mọi chuyện đều phải tuân theo “thiên mệnh” với tư tưởng ý trời là
trên hết không thể trái lại được.
Các nhân vật thần tiên trong tác phẩm là những người ủng hộ việc “nhân
chính” của Khương Tử Nha và Vũ Vương, những nhân vật thần tiên được tác giả
xây dựng với một chức năng là giúp đỡ cho Khương Tử Nha phò tá nhà Chu phạt
nhà Thương. Trong đó mỗi nhân vật thần tiên đều có chức năng riêng của mình
trong tác phẩm. Hình tượng nhân vật thần tiên được tác giả nhắc đến đầu tiên là Nữ
Oa, để mở đầu cho cốt truyện phong thần và sự mất nước của vua Trụ. Tác giả
miêu tả sự xuất hiện của Nữ Oa dựa vào sự bất kính của vua Trụ trong lúc viếng
miếu. Nữ Oa là một thần tiên xinh đẹp, đã làm cho vua trụ say mê khi nhìn thấy
bức tượng của bà thờ cúng trong miếu. “Ta tuy làm vua giàu có bốn biển , nhưng
trong tam cung lục viện không thấy có người nào được cái nhan sắc như vậy”.
“Màn trướng rủ lạnh lùng
Bóng sắc khéo điểm trang
18
Liễu thắm khoe sắc lục
Xiêm y điểm non vàng
Hải đường đượm tươi tốt
Thược dưọc nhuần nhuần đài trang
Ước gì tượng là thật
Sớm khuya với hồng nhan” [ 11, tr. 10].
Vì quá tức giận vua đề thơ trêu ghẹo, bất kính với bề trên nhân cơ hội này vị

thần tiên đã làm cho vua Trụ mất nước, tạo cảnh Thương – Chu đánh nhau, những
người hi sinh trong chiến trận sẽ được tiếp đón linh hồn và tùy công trạng lớn nhỏ
mà sắc phong chức thần cho phù hợp sau này về phục vụ cho thiên đình.
Tác giả đã mượn Nữ Oa để nói lên những việc làm sai trái của Trụ Vương, đồng
thời dựa vào thần tiên để trừng trị kẻ bạo ngược trái lại ý trời không có lòng tôn
kính thần linh: “Ân Thọ hôn quân ! Không lo sửa mình trị thiên hạ lại không biết
sợ cơ trời . Thật là vô đạo ! Xưa vua Thành Thang đuổi vua Kiệt thu thiên hạ, đã
hơn sáu trăm năm, nay thời đã hết . Nếu ta không báo ứng sao gọi là linh hiển”.
[11, tr 10] Do là thần tiên nên biết trước được mọi chuyện trong thiên hạ, con người
có lòng bất kính với thần linh thì sẽ bị thần linh trừng phạt. Trụ vương lỗi đạo
không tôn kính với Nữ Oa nên bị bà sai yêu tinh ở mộ Hoàng Đế đến mê hoặc rồi
làm cho nhà Thương suy vong, nhân cơ hội ấy nhà Chu được thành lập: “Nay cơ
nghiệp Thành Thang đã sắp tàn, vua Trụ sắp đến ngày mất nước không còn bao
lâu nữa. Núi Kỳ Sơn phụng gáy nhà Tây Chu ra đời, đó là thiên định. Nay ba chị
em các ngươi hãy dấu mình yêu quái, trà trộn vào cung điện, làm cho Trụ vương
điêu đứng . Ðợi cho Vũ vương đánh trụ thành công , ta cho chúng bay thành thần .
Song, ta cấm một điều là không được tàn hại bá tánh, chỉ trả thù Trụ Vương thôi” [
11, tr 11]. Thông qua hình ảnh của một vị thần tiên tác giả đã giới thiệu với người
đọc một người đầy uy lực, có thể sai bảo yêu tinh làm việc cho mình. Với mục đích
trả thù vua Trụ và tạo ra một trận hào kiếp dưới trần gian ứng vào việc lập bảng
phong thần cho các linh hồn chết trong chiến trận giữa hai tập đoàn Thương – Chu.
Cũng nhờ vào việc làm của nhân vật Nữ Oa mà trần gian có được một triều đại thay
thế hưng thịnh hơn. Ở đây tác giả xây dựng nhân vật Nữ Oa vừa là người mở đầu
câu chuyện phong thần vừa là người khép lại hồi kết cho tác phẩm khi bà thu phục
19
ba con yêu tinh, Trụ Vương tự thiêu mà chết. Tuy hình ảnh của nhân vật Nữ Oa
xuất hiện không nhiều nhưng cũng mang lại ý nghĩa trong tác phẩm. Tạo ra một
yếu tố mà người đọc nhận ra Trụ vương mất nước là do phạm tội với trời và thần
linh. Bên cạnh đó với quan niệm tư tưởng của con người thời bấy giờ đều tin vào
khí số “thiên mệnh” là trên hết. Và rồi nhà Thương bị diệt vong kết thúc một triều

đại thống trị thiên hạ hơn sáu trăm năm, thay vào đó một triều đại nhà Chu thống trị
đất nước Trung Hoa hơn trăm năm.
Cùng với nhân vật thần tiên có một tấm lòng ủng hộ việc “nhân chính” như
Nữ Oa thì tác giả miêu tả sự xuất hiện hình tượng nhân vật thần tiên Nguyên Thủy
Thiên Tôn là người có đạo hạnh cao của Đạo Giáo. Nhân vật này vốn là Giáo chủ
của phái Xiển giáo ở cung Ngọc Hư núi Côn Lôn, ông có mười hai đệ tử do phạm
tội sát sinh nên bị đài xuống trần chịu khổ và giúp cho cơ nghiệp của vũ vương.
Tuy nhiên trong phong thần diễn nghĩa miêu tả nhân vật Nguyên Thủy đã thừa lệnh
của Ngọc Hoàng Thượng Đế phải lập ra một bảng phong thần khi Trụ Vương mất
nước, sau đó tùy công trạng từng người mà ông phong cho phù hợp với các sao:
“Bảng Phong Thần nầy chia ra làm tám bộ. Bốn bộ trên là: Bộ Lôi, Bộ Hỏa, Bộ
Ôn, Bộ Ðẩu. Bốn bộ dưới là: Thần Mây, Thần Mưa, Thần Sao, Thần Núi” [ 11, tr.
194]. Sự xuất hiện của ông được tác giả, giới thiệu trong tác phẩm chỉ một cách sơ
lược nhưng cũng giúp cho tác phẩm mang sắc thái sinh động. Đây là một nhân vật
được tác giả xây dựng lên để thực hiện chức năng của mình, vị thần tiên hầu như
không ảnh hưởng đến quá trình phân tranh giữa hai nước Chu - Thương mà chỉ
đóng vai trò chủ chốt trong phái Xiển giáo, dẫn dắt các đệ tử trên con đường phò
giúp Vũ Vương phạt Trụ. Nguyên Thủy Thiên Tôn ban cho đệ tử Khương Tử Nha
bảng Phong Thần và căn dặn xây đài phong thần để tiếp đón linh hồn các chiến sĩ
đã tử trận, phong thần tùy theo công trạng: “Nay ngươi đến đây đúng lúc lắm. Ðể
ta sai Nam Cực tiên ông trao bảng phong thần cho ngươi đem về Tây Kỳ lập một
cái đài phong thần mà treo. Nguyên Thỉ nói : Ngươi về dọc đường , nếu gặp ai kêu
đừng đứng lại , nếu ngươi nói chuyện với người ấy ngày sau sẽ có ba mươi sáu đạo
binh đến đánh ngươi ,còn tại Ðông Hải có một người đang chờ ngươi đó, ngươi
đến đó sẽ gặp. Ta nói trước cho ngươi hay để khỏi ân hận. Thôi, hãy về đi” [11, tr.
457]. Khi Khương Tử Nha gặp nạn tử trận, ông cũng dùng phép hồi sinh cứu
20
Khương Tử Nha sống lại thoát khỏi nạn kiếp và tiếp tục sứ mệnh của mình. Trong
những lần giao tranh với quân của vua Trụ các tướng lĩnh quân đội nhà chu gặp khó
khăn ở hai trận Tru Tiên và Vạn Tiên nên Nguyên Thủy Thiên Tôn và Lão Tử đã

xuống trần giúp sức: “Khí số thần tiên phật tổ còn không tránh khỏi, huống chi học
trò tôi phạm tột sát sanh, làm sao khỏi đọa. Tôi xuống đây một chuyến cho xong sát
kiếp thì thôi” [12, tr. 465]. Tuy là thần thiên nhưng nhân vật thần tiên nay không
thề bỏ mặt các môn đồ của mình mà phải hạ sơn để giúp đỡ cho các đệ tử vượt qua
kiếp nạn. Do thuận theo ý trời lại mang trọng trách là người lập ra bảng phong thần,
nhân vật Nguyên Thủy Thiên Tôn phải thực hiện đúng nhiệm vụ của mình.
Sau khi phạt Trụ thành công nhân vật Nguyên Thủy đã trao bảng phong thần
cho Tử Nha sắc phong thay ông. Điều được nhắc đến ở đây là nhân vật với chức
năng của người giúp đỡ các nhân vật khác trong tác phẩm. Trong đó nhân vật đã
giúp cho những đệ tử của mình hoàn thành nhiệm vụ mà Ngọc Hoàng ra lệnh. Hứa
Trọng Lâm có một cách nhìn độc đáo và sự khắc họa hình tượng thần tiên trong tác
phẩm của mình. Đã tạo ra một thế giới nhân vật thần tiên giữ chức năng cụ thể, mỗi
khi cần đến thì xuất hiện giúp đỡ các nhân vật khác. Có thể nói đây là những nhân
vật thần tiên trong tác phẩm, đã hoàn thành tốt chức năng của một đấng siêu nhiên
có đạo hạnh cao thâm như con người mong muôn.
Qua các nhân vật thần tiên trong tiều thuyết, tác giả muốn gởi đến độc giả một
cách nhìn sâu sắc về thế giới nhân vật thần tiên là những người luôn giúp đỡ con
người mỗi khi cần đến. Tuy nhiên cũng chỉ là sự ảo tưởng, tưởng tượng không có
thật, đó chỉ là suy nghĩ trong tâm thức của con người lúc nào cũng có một đấng siêu
nhiên giúp đỡ họ vượt qua khó khăn. Thực tế thì trong thế giới bao la chẳng có thần
tiên mà do yếu tố thần thánh hóa của con người ghép thành.
2.1.2 Nhân vật đạo hạnh ra sức vì việc nghĩa
Trong dân gian từ xưa đến nay mỗi khi ai nhắc đến chuyện câu cá chờ thời thì
mọi người đều nghĩ ông già Khương Tử Nha. Đó là những câu chuyện được mọi
người truyền tai nhau trong dân gian, nhưng chưa hiểu rõ thực hư về nhân vật như
thế nào. Để biết rõ thêm về người này Hứa Trọng Lâm xây dựng nhân vật Khương
Tử Nha tương đối hoàn chỉnh trong tiểu thuyết phong thần diễn nghĩa thành một
nhân vật “thần thánh hóa” khác hẳn với con người bình thường được xem như một
21
vị thần tiên. Một con người thể hiện trí tuệ vô cùng tận của nhân dân, đạo đức trong

sáng của một người giàu lòng cương trực, lại hết lòng vì việc chung, vì bá tính
trong thiên hạ.
Tác giả để nhân vật xuất hiện không phải bằng những nét châm phá mà có
phần sơ sài nhưng đủ ý nghĩa, nổi bật suốt trong tác phẩm. Nhân vật xuất hiện có
phần bí ẩn giống như cuộc đời của nhân vật vậy. Khương Thượng vốn là học trò
của Nguyên Thủy Thiên Tôn ở cung Ngọc Hư phái Xiển Giáo, nhân vật chưa tu
hành thành chính quả phải nhận mệnh của thầy hội tụ đủ 365 vị tinh tú ứng vào thời
Thương – Chu đánh nhau để xét công phong thần nên đã hạ sơn. Có thể nói cuộc
đời của nhân vật đạo hạnh được tóm gọn trong tám câu thơ.
“Áo vải mười năm chịu túng bần
Gắng sức để vui chớ để sầu
Bàn đá ngồi câu chờ đợi vận
Lúc xe vương giả rước lên lầu
Quá tám mươi tuổi mang đai ngọc
Hơn chín mươi ba có ấn hầu
Đến năm mậu ngũ thu trăm trấn
Phong thần khi sắp bách niên trần” [11, tr. 196].
Đó là dụng tâm của tác giả nhằm chứng minh tích cách kính đáo của một
người đạo hạnh nhưng cũng hết sức sôi nổi của con người chờ thời cơ, giống như
một con rồng chờ ngày bay lên trời xanh.Tuy đấy mới chỉ là những hình ảnh còn
tính chất mờ nhạt nhưng cũng làm ấn tượng về một vị hiền sĩ Khương Tử Nha nửa
ẩn nửa hiện mang một khí chất khác người.
Phong thần diễn nghĩa, diễn tả cuộc đời nhân vật được mở ra khi con người
này xuống núi lấy vợ ở tuổi thập cổ lai hy nhờ một người tên Tống Dị Nhân làm
may mối:
“Đã chẳng thành tiên tiếc Tử Nha
Về trần cưới vợ cho ấm nhà
Hơn sáu mươi tuổi nàng dâu muộn
Đã bảy mươi hai chú rể già
Gần đuốc hàm râu e bén lửa

Soi gương mái tóc tựa sương sa
22
Lá bay nguyệt lão se tơ muộn
Cái lúc trăm tuổi chẳng còn xa” [11, tr. 201].
Tuy sống trong gia cảnh khó khăn, lấy vợ ở tuổi sế chiều nhưng Khương
Thượng vẫn nuôi trí lớn muốn dùng sức mình để góp vào việc an bang trị quốc.
Một con người có hoài bảo lớn với ý trí vượt bật khác hẳn những con người bình
thường.Và rồi nhân vật này cũng được làm quan Đại phu dưới trướng Trụ Vương.
Thế nhưng nhân vật đạo hạnh biết nhìn xa trông rộng thấy vua Trụ hoang dâm mê
tửu sắc, bạo tàn độc ác, giết hại dân chúng chém đầu tôi trung, ông thương tiếc cho
cảnh dân chúng lầm than nhưng không có cách nào can ngăn vua. Triều đình nhà
Thương thì rơi vào tay nịnh thần tình cảnh bấp bênh, sắp đến hồi diệt vong. Nhân
vật thấu hiểu cho nỗi khổ của trăm họ, có lòng nhân đức thương cho dân trước một
bạo chúa cai trị không chăm lo đến đời sống bá tính có được cuộc sống ấm no chỉ
biết hưởng thụ cho riêng mình. Trước tình cảnh khốn khổ của nhân dân Trụ Vương
bắt Tử Nha giám sát xây dựng “Lộc Đài” để vui vẻ cùng Đát Kỷ. Theo yêu cầu
phải cao bốn mươi chín thước trên thì lầu son gác tía, trang hoàng đầy ngọc ngà
châu báo, mã não, hổ phách vô cùng diễm lệ xa hoa. Khi xem họa đồ vẽ Lộc Đài
nhân vật nghĩ thầm: “Triều Ca cũng chỉ là nơi tạm bợ ta lẽ nào lại dốc hết sức làm
việc này để mang tiếng xu nịnh hôn quân hại đến muôn dân. Tốt nhất là tìm lời
thoát thác, nếu không xong thì đào tẩu tránh bị lụy thân” [11, tr. 233]. Tác giả đã
xây dựng lên hình ảnh một vị đạo hạnh có thể đoán trước tất cả những chuyện trong
thiên hạ, một con người nhìn nhận được thực tế cho rằng Trụ Vương không phải là
minh quân sáng suốt để cai trị thiên hạ. Người có đạo hạnh chí lớn phải tìm đến
một minh quân có lòng nhân đức vì muôn dân và được muôn dân yêu mến mà theo
phò, góp sức giúp người hiền tài trị quốc: “Người khôn chọn chúa mà thờ. Trụ
Vương không phải là minh quân, ta không thể làm một tôi hiền. Hiện nay ở Tây Kỳ
có Tây bá hầu Cơ Xương trị vì, tôn thờ nhân nghĩa, kính già nhường trẻ tích cự
chiêu mộ nhân tài, chú ý phát triển kinh tế xây dựng một châu giàu mạnh. Nay ta
nên trốn sang Tây Kỳ, tìm kế sanh nhai, đợi lúc gặp chúa ra phò cũng không mất

vinh hoa phú quý đâu” [11, tr. 240]. Thế rồi vị Khương Thượng tìm đến đất Tây
Kỳ ẩn mình ở núi Bàn Khê đợi lúc gặp chúa hiền. Sau khi ẩn dật ngày ngày nhân
vật đạo hạnh câu cá bên sông Vị để chờ thời vận mong được minh chúa trọng dụng.
Có người ngạc nhiên hỏi ông: “Người có trí thì nhỏ tuổi, kẻ vô mưu thì đầu bạc
23
cũng không mưu. Muốn câu cá mà để lưỡi câu ngay thì đời nào bắt được cá? . Ðể
tôi bảo cho ông: Nung cái kim này cho đỏ rồi, cắt ngạnh , uốn cong đi rồi móc mồi
cho thơm, thả xuống sông mà thấy phao động đậy thì phải giật lên cho gấp , lưỡi
câu móc vào mép cá, mới bắt được cá mà ăn. Kẻ khờ dại như ông mà dám cả gan
xưng Phi Hùng?”.
Tử-Nha nói :
- Ngươi biết một chẳng biết hai . Ta không dùng lưởi câu cong này để câu cá câu
tôm, chỉ dùng lưởi câu ngay để câu thời vận. Nếu làm cong queo thì được của thà
cứ thế ngay mà thanh bạch còn hơn. Nói rồi ngâm mấy câu:
“Ngày chờ thời giờ quý
Vậy được của không cầu
Chẳg kiếm tôm kiếm cá
Mà kiếm công kiếm hầu” [11, tr. 293].
Có thể nói cuộc đời của nhân vật đạo hạnh này không được suông sẻ cho lắm.
Tuy nhiên ý chí của một con người biết được thời vận của mình chưa đến lúc,
nhưng có lòng nhẫn nại chờ đợi thì có ngày công danh cũng đến với mong muốn
đem tài năng của mình lo cho thiên hạ có được cuộc sống hạnh phúc. Và mọi người
trong vùng dần dần đều biết đến vị hiền sĩ.
“Bỏ trốn Triều Ca lánh thị thường
Ðưa dân khỏi ải thật thần tiên
Gieo câu sông Vị chờ thời vận
Uống nước Bàn Khê đợi chờ duyên
Võ Kiết ra tay người chỉ ngõ
Phi Hùng ứng mộng chúa cầu hiền
Tám mươi mới đặng yên công nghiệp

Ra giúp nhà Châu xã tắc yên” [11, tr. 246].
Những câu chuyện về vị đạo sĩ Khương Thượng này, được người dân và các
tiều phu truyền nhau đến tai Văn Vương, cảm mến tài trí của ông mà thân đến mời,
dùng lễ mà đối đãi, mong muốn được hiền tài ra giúp sức. Thấy được lòng nhân
đức của một vị minh quân biết lo cho dân cho nước, không khác gì vua Nghiêu vua
Thuấn thời xưa, Khương Thượng đã nhận lời ra giúp chúa hết lòng phò tá. Xem ra
24
việc Văn Vương mời người hiền sĩ Tử Nha không kém Lưu Bị trong Tam Quốc
Chí cầu Gia Cát Lượng sau này. Từ đây ông làm Thừa tướng nhà Chu, một lòng
phụng sự cho Văn Vương và phò tá Vũ Vương phạt Trụ. Tác giả miêu tả sau khi về
với Văn Vương, Khương Thượng sẽ phải vượt qua ba mươi sáu đạo quân của Triều
Ca tiến đánh lúc ấy mới thoát khỏi kiếp nạn. Do cơ trí hơn người trước đây được
Nguyên Thủy Thiên Tôn truyền đạo hạnh, bên cạnh có thất tiên phò tá, lại được
Xiển giáo chính phái giúp đỡ, trải qua trăm trận lớn nhỏ, gặp biết bao khó khăn
nhất là trong trận Tru Tiên và do phái Triệt giáo dựng nên, nhân vật đạo hạnh này
đều vượt qua lập vô số công trạng. Được sự ủy thác của Văn Vương Khương Tử
Nha đã phò giúp Vũ Vương lo hết mọi việc chính sự trong triều và được các quần
thần ủng hộ, đất Tây Kỳ ngày một hưng thịnh. Có thể nói việc làm của Tử Nha tạo
được lòng tin trong dân chúng mang đến cuộc sống ấm no cho nhân dân đất Tây
Kỳ. Hành động của ông giúp đỡ nhà Chu không chỉ vì lợi ích riêng mà hiểu cho
chúng sinh trong thiên ha, thuận theo ý trời và lòng dân trừ bạo an lương có được
cuộc sống thái bình. Người học đạo phải hiểu được đạo lý “lo trước cái lo của
thiên hạ, vui sao cái vui của thiên hạ” như thế mới là người có đức độ vì dân vì
nước. Ở các hồi cuối hình tượng nhân vật đạo hạnh được tác giả khắc họa rõ hơn
một con người có “lòng nhân vì chính nghĩa” khi nhân vật đăng đàn bái tướng,
luận tội gian ác của vua Trụ. Nhân vật Tử Nha đã noi gương Y Doãn lúc phò Thành
Thang phạt Kiệt, nay tới ông thay mặt Vũ Vương dẹp loạn, một lòng phạt Trụ để
cứu muôn dân ra khỏi cảnh lầm than:
“Vua Vũ chinh Ðông lắm tướng tài
Tử Nha rạng rỡ những cân đai

Khắp trời sực nức mùi nhang khói
Rợp đất cờ bay phỉ chí trai
Bái tướng hiển vinh thêm tuổi hạc
Cầm binh oai võ khách mày ngài
Tám trăm năm lẻ, gây từ đấy
Trần thế anh hùng, hỏi có ai?” [12, tr. 236].
Nhân vật được phong làm Nguyên soái thống lĩnh ba quân, thân mặc chiến
bào, lưng giắt Hạnh Hoàng Kỳ, tay cầm roi Đả Thần Tiên, cưỡi Tứ Bất Tướng, lại
25

×