Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Lễ hội vùng châu thổ bắc bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.37 MB, 29 trang )

A. DẪN NHẬP :
Vùng văn hóa Bắc Bộ nằm giữa lưu vực sông Hồng sông Mã, là cái nôi hình thành
dân tộc Việt, cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn phát triển nối tiếp nhau như: Văn
hóa Đông Sơn, Văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Do vậy, văn hóa châu thổ Bắc
Bộ vừa có những nét đặc trưng của văn hóa Việt, lại vừa mang những nét riêng đặc
sắc về văn hóa của vùng, ngoài ra văn hóa Bắc Bộ là sự giao hòa giữa tự nhiên và con
người, phát triển dựa trên sự kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa văn hóa khu vực và nhân loại.
Trên mảnh đất thiêng liêng này, ta có thể bắt gặp nhiều lễ hội truyền thống: Hội
chùa Hương( Hà Tây), hội Đền Hùng( Phú Thọ), hội Gióng( Hà Tây), hội Lim( Bắc
Ninh) những lễ hội ấy là kết quả của những tinh hoa văn hóa dân tộc được kế thừa,
chọn lọc, kết tinh và lắng đọng qua các thời kì lịch sử. Nhưng qui cách và những nghi
thức trong lễ hội mà mỗi người phải tuân theo tạo nên niềm thông cảm của toàn thể
cộng đồng, làm cho mỗi người gắn bó chặt chẽ hơn với cộng đồng, và do đó, thấy
mình vươn lên ở những tầm vóc cao hơn với một sức mạnh lớn hơn.
Như vậy, ta có thể thấy rõ rằng lễ hội là một nét tiêu biểu trong văn hóa tín ngưỡng
của vùng châu thổ Bắc Bộ. Tựu trung lại với những bản sắc đặc trưng, những giá trị
lớn, văn hóa tín ngưỡng ở vùng Bắc Bộ đã góp phần không nhỏ trên hành trình xây
dựng một nền văn hóa tiến bộ, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc.
1. Lý do chọn đề tài :
Trong xu thế giao lưu hội nhập và toàn cầu hoá hết sức sôi động hiện nay, vấn
đề bảo tồn và phát huy DSVH lại càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm gìn giữ và
phát triển bản sắc văn hoá dân tộc, để hội nhập mà không bị hoà tan.
Muốn giữ gìn được thì ta cần phải nắm rỏ từng đặc điểm vùng văn hóa đó. Trong đó,
vùng châu thổ Bắc Bộ lại là vùng kinh tế trọng điểm và đây cũng là vùng cất giữ
những vẻ đẹp tinh hoa nhất, cốt lõi nhất của văn hóa nước ta.
2. Mục đích nghiên cứu :
Trên cơ sở làm rõ những đặc điểm nổi bậc tại vùng châu thổ Bắc Bộ, hướng tới
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đề tài đi sâu phân
tích, đánh giá những điểm đặc sắc nhất của vùng, trong đó phải nói đến lễ hội từ đó
bảo tồn và phát huy DSVH ở một số tỉnh vùng châu thổ Bắc Bộ thời gian qua. Đề tài


sẽ cố gắng làm nổi rõ những điểm đặc trưng nhất trong lễ hội của vùng
3. Lịch sử nghiên cứu :
Có rất nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu và nghiên cứu về đặc điểm lễ hội vùng châu
thổ Bắc Bộ cũng như văn hóa và đặc trưng văn hóa của vùng này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
- Đặc điểm chung về lễ hội vùng châu thổ Bắc bộ.
- Khu vực chấu thổ Bắc Bộ gồm có các tỉnh: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hà
Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình
5. Phương pháp nghiên cứu :
- Phân tích - Tổng hợp tài liệu văn bản
- Lịch sử - Logic: nghiên cứu, phán đoán, suy luận, thuyết minh những đặc điểm
lễ hội của vùng châu thổ Bắc Bộ
- So sánh văn hoá: Đối chứng vùng văn hoá và tiểu vùng văn hoá ở châu thổ Bắc
Bộ theo hai chiều lịch đại và đồng đại để tìm ra những nét đặc sắc.
6. Cấu trúc đề tài :
Gồm 3 phần chính là dẫn nhập, nội dung và kết luận.
Phần nội dung gồm những nội dung sau :
I. Khái quát chung về vùng châu thổ Bắc Bộ :
1. Điều kiện tự nhiên :
a. Vị trí địa lý
b. Khí hậu
c. Địa hình
d. Tài nguyên thiên nhiên
2. Điều kiện kinh tế - xã hội :
II. Đặc điểm của lễ hội ở vùng châu thổ Bắc Bộ :
1. Đặc điểm chung của lễ hội ở vùng châu thổ Bắc Bộ
2. Các lễ hội tiêu biểu ở vùng châu thổ Bắc Bộ
III. Giá trị của lễ hội ở vùng châu thổ Bắc Bộ :
1. Giá trị văn hóa – tâm linh
2. Giá trị du lịch

B. NỘI DUNG :
I. Khái quát chung về vùng châu thổ Bắc Bộ :
1. Điều kiện tự nhiên :
a. Vị trí địa lý :
( Bản đồ địa lý vùng châu thổ Bắc Bộ )
Châu thổ Bắc Bộ trải rộng từ vĩ độ 21°34´B (huyện Lập Thạch) tới vùng bãi
bồi khoảng 19°5´B (huyện Kim Sơn), từ 105°17´Đ (huyện Ba Vì) đến 107°7´Đ (trên
đảo Cát Bà). Phía bắc và đông bắc là Vùng Đông Bắc (Việt Nam), phía tây và tây
nam là vùng Tây Bắc, phía đông là vịnh Bắc Bộ và phía nam vùng Bắc Trung Bộ.
Đồng bằng thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ các thềm phù sa cổ 10 - 15m
xuống đến các bãi bồi 2 - 4m ở trung tâm rồi các bãi triều hàng ngày còn ngập nước
triều.
b. Khí hậu :
Đặc trưng khí hậu của vùng là mùa đông từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, mùa
này cũng là mùa khô. Mùa xuân có tiết mưa phùn. Điều kiện về khí hậu của vùng tạo
thuận lợi cho việc tăng vụ trong năm vụ đông với các cây ưa lạnh, vụ xuân, vụ hè thu
và vụ mùa.
c. Địa hình :
Địa hình tương đối bằng phẳng với hệ thống sông ngòi dày đặc đã tạo điều kiện
thuận lợi để phát triển hệ thống giao thông thuỷ bộ và cơ sở hạ tầng của vùng.
( Cánh đồng lúa ở Bắc Bộ)
Hệ thống sông ngòi tương đối phát triển. Tuy nhiên về mùa mưa lưu lượng
dòng chảy quá lớn có thể gây ra lũ lụt, nhất là ở các vùng cửa sông khi nước lũ và
triều lên gặp nhau gây ra hiện tượng dồn ứ nước trên sông. Về mùa khô (tháng 10 đến
tháng 4 năm sau), dòng nước trên sông chỉ còn 20-30% lượng nước cả năm gây ra
hiện tượng thiếu nước. Bởi vậy, để ổn định việc phát triển sản xuất, đặc biệt trong
nông nghiệp thì phải xây dựng hệ thống thuỷ nông đảm bảo chủ động tưới tiêu và phải
xây dựng hệ thống đê điều chống lũ và ngăn mặn.
d. Tài nguyên thiên nhiên :
• Tài nguyên khoáng sản:

Đáng kể nhất là tài nguyên đất sét, đặc biệt là đất sét trắng ở Hải Dương, phục
vụ cho phát triển sản xuất các sản phẩm sành sứ. Tài nguyên đá vôi ở Thuỷ Nguyên -
Hải Phòng đến Kim Môn - Hải Dương, dải đá vôi từ Hà Tây đến Ninh Bình chiếm
5,4% trữ lượng đá vôi cả nước, phục vụ cho phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây
dựng. Tài nguyên than nâu ở độ sâu 200m đến 2.000m có trữ lượng hàng chục tỷ tấn
đứng hàng đầu cả nước, hiện chưa có điều kiện khai thác. Ngoài ra vùng còn có tiềm
năng về khí đốt. Nhìn chung khoáng sản của vùng không nhiều chủng loại và có trữ
lượng vừa và nhỏ nên việc phát triển công nghiệp phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên
liệu từ bên ngoài.
• Tài nguyên biển :
- Châu thổ Bắc Bộ có một vùng biển lớn, với bờ biển kéo dài từ Thuỷ Nguyên -
Hải Phòng đến Kim Sơn - Ninh Bình. Bờ biển có bãi triều rộng và phù sa dày
là cơ sở nuôi trồng thuỷ hải sản, nuôi rong câu và chăn vịt ven bờ.
- Ngoài ra một số bãi biển, đảo có thể phát triển thành khu du lịch như bãi biển
Đồ Sơn, huyện đảo Cát Bà,
( Biển Đồ Sơn, Hải Phòng )
• Tài nguyên đất đai :
- Đất đai nông nghiệp là nguồn tài nguyên cơ bản của vùng do phù sa của hệ
thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp. Hiện có trên 103 triệu ha đất đã được sử
dụng, chiếm 82,48 % diện tích đất tự nhiên của vùng và chiếm 5,5% diện tích đất sử
dụng của cả nước. Như vậy mức sử dụng đất của vùng cao nhất so với các vùng trong
cả nước.
- Đất đai của vùng rất thích hợp cho thâm canh lúa nước, trồng màu và các cây
công nghiệp ngắn ngày. Vùng có diện tích trồng cây lương thực đứng thứ 2 trong cả
nước với diện tích đạt 1242,9 nghìn ha.
- Khả năng mở rộng diện tích của đồng bằng vẫn còn khoảng 137 nghìn ha. Quá
trình mở rộng diện tích gắn liền với quá trình chinh phục biển thông qua sự bồi tụ và
thực hiện các biện pháp quai đê lấn biển theo phương thức “lúa lấn cói, cói lấn sú vẹt,
sú vẹt lấn biển”.
• Tài nguyên sinh vật :

- Tài nguyên sinh vật trong vùng khá phong phú với nhiều động thực vật quí
hiếm đặc trưng cho giới sinh vật của Việt Nam. Mặc dù trong vùng có các khu dân cư
và đô thị phân bố dầy đặc nhưng giới sinh vật vẫn được bảo tồn ở các vườn quốc gia
Ba Vì, Cát Bà, Cúc Phương.
(Vườn Quốc gia Cát Bà, Hải Phòng )
2. Điều kiện kinh tế - xã hội :
Hiện tại cũng như tương lai khu vực châu thổ Bắc Bộ luôn đóng vai trò quan
trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội chung ở Việt Nam. Là nơi có vị trí địa
lý và điều kiện tự nhiên rất thuận lợi. Tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, dân
cư đông đúc, mặt bằng dân trí cao. Sự tập trung dân cư có mật độ cao liên quan đến
nhu cầu và môi trường lao động, tính cộng đồng và truyền thống văn hoá dân tộc. Một
nơi có truyền thống lâu đời về thâm canh lúa nước, có những trung tâm công nghiệp
và hệ thống đô thị phát triển là điều kiện rất thuận lợi cho công cuộc phát triển các
ngành nghề lao động sản xuất từ phổ thông đến hiện đại, mang đến sự thuận lợi cho
công cuộc định cư lâu dài của con người.
(KCN Bắc Ninh )
Vùng Đồng bằng sông Hồng là vùng phát triển mạnh về công nghiệp, dịch vụ,
nông lâm ngư nghiệp. Với 22% dân số cả nước năm 2001 vùng này đã đóng góp
52.310 tỷ đồng chiếm 22% GDP trong đó có tới 19,4% giá trị gia tăng nông nghiệp và
28,8% giá trị gia tăng dịch vụ của cả nước. Cơ cấu kinh tế ngành có xu hướng dịch
chuyển tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng, giảm tỷ trọng ngành nông lâm
ngư nghiệp, tỷ trọng ngành dịch vụ đạt tới gần 50%.
Là vựa lúa lớn thứ hai của Việt Nam (sau Đồng bằng sông Cửu Long) có được
đất đai màu mỡ do phù sa của sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp. Số đất đai để
phát triển nông nghiệp trên 70 vạn ha, chiếm 56% tổng diện tích tự nhiên toàn vùng.
Ngoài lúa nước, các địa phương nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng đều chú trọng
phát triển loại cây ưa lạnh có hiệu quả kinh tế cao như ngô, khoai tây, su hào, cải bắp,
cà chua, những loại cây này đa phần được trồng hoa xen canh giữa các mùa vụ.
( cánh đồng lúa chín vàng )
Bắc Bộ là vùng có đường bờ biển dài, có cửa ngõ lớn và quan trọng thông

thương với các khu vực lân cận và thế giới qua cảng biển Hải Phòng (thuộc thành phố
Hải Phòng). Tài nguyên thiên nhiên gồm có các mỏ đá (ở Hải Phòng, Hà Nam, Ninh
Bình), sét cao lanh ở Hải Dương, than nâu ở Hưng Yên và mỏ khí đốt ở Tiền Hải đã
được tiến hành khai thác từ nhiều năm nay.
Đặc biệt, trong lòng châu thổ Bắc Bộ đang tồn tại hàng chục vỉa than lớn nhỏ
có tổng trữ lượng vào khoảng 210 tỷ tấn (theo dự đoán qua số liệu khảo sát vào những
năm 70 của thế kỷ trước). Trải rộng trên diện tích 3500km2, trải dài từ Hà Nội đến
Thái Bình rồi ra đến bờ biển Đông. Các vỉa than này có chiều dày từ 2 đến 3m, có nơi
tới 20m. Là những vỉa than có độ ổn định địa chất và chất lượng rất tốt.
Tuy nhiên, đồng bằng sông Hồng vẫn là một khu vực thiếu nguyên liệu phục vụ
cho các ngành công nghiệp đang phát triển và luôn phải nhập từ các vùng khác. Một
số lượng không nhỏ tài nguyên đang bị suy thoái do khai thác quá mức. Do nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới và gió mùa nên nền kinh tế vùng nói chung cũng phải chịu ảnh
hưởng từ các rủi ro do thiên tai gây nên.
II. Đặc điểm của lễ hội ở vùng châu thổ Bắc Bộ :
1. Đặc điểm chung của lễ hội ở vùng châu thổ Bắc Bộ :
Như đã trình bày ở trên, Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt, vì thế, cũng
là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp lẫn nhau : Văn hóa Đông Sơn,
văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Từ trung tâm này, văn hóa Việt lan truyền vào
Trung Bộ rồi Nam Bộ. Sự lan truyền ấy, một mặt chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn
hóa Việt, một mặt chứng tỏ sự sáng tạo của người dân Việt. Trong tư cách ấy, văn hóa
châu thổ vùng Bắc Bộ có những nét đặc trưng của văn hóa Việt, nhưng lại có những
nét riêng của vùng này.
Đặc trưng của cư dân Bắc Bộ là sống bằng nghề nông nghiệp trồng lúa nước,
Vòng quay tự nhiên tạo ra tính chất mùa vụ là hình thức lễ hội ra đời trong thời gian
đó. Ban đầu, nó đơn thuần là hình thức giải trí. Dần dà , qua các thời kì lịch sử khác
nhau, nó lắng động và trở thành văn hóa tín ngưỡng.
Ở vùng châu thổ Bắc Bộ, lễ hội rất đa dạng, phong phú và rực rỡ về thời gian,
số lượng, mật độ, nội dung Theo thời gian có thể chia thành nhiều loại: Lễ hội mùa
xuân, lễ hội mùa thu Theo không gian địa lí, lễ hội được phân thành những dạng: Lễ

hội làng, lễ hội vùng, lễ hội cả nước Tuy vậy, dù ở địa phương nào, vùng nào, thì tất
cả đều mang đặc điểm chung mang tính chất lễ hội nông nghiệp. Điều này thể hiện rõ
qua hình thức thờ mẹ lúa, thờ thần mặt trời, thần mưa
Lễ hội ở vùng châu thổ Bắc Bộ không những phác thảo về tôn giáo mà còn
mang đậm chất văn hóa tín ngưỡng tôn giáo. Những lễ hội thường được đồng nhất với
lễ chùa chiền, miếu mạo, nếu xét trong phạm vi hẹp nhất định.
Trên mảnh đất thiêng này, ta có thể bắt gặp nhiều lễ hội truyền thống: Hội chùa
Hương (Hà Tây), hội Đền Hùng (Phú Thọ), hội Gióng (Hà Tây), hội Lim. (Bắc
Ninh) những lễ hội ấy là kết quả của những tinh hoa văn hoá dân tộc được kế thừa,
chọn lọc, kết tinh và lắng đọng qua các thời kỳ lịch sử. Nhưng qui cách và những nghi
thức trong lễ hội mà mỗi người phải tuân thủ theo tạo nên niềm thông cảm của toàn
thể cộng đồng, làm cho mỗi người gắn bó chặt chẽ hơn với cộng đồng và do đó, thấy
mình vươn lên ở những tầm vóc cao hơn với một sức mạnh lớn hơn.
Ngày lễ hội, họ mặc váy xoè, cắm thêm lông chim hoặc cả lá cây. Tóc ít khi để
mà thường được búi lên ở đỉnh đầu hoặc tết theo nhiều kiểu khác nhau. Có lúc họ
buộc một tấm khăn cởi trần, mặc khố, đầu cạo trọc.
Như vậy, ta có thể thấy rõ rằng lễ hội là một nét tiêu biểu trong văn hóa tín
ngưỡng của vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ. Tượng trưng lại với những sắc thái đặc
trưng, những giá trị lớn, văn hóa tín ngưỡng ở vùng Bắc Bộ đã góp phần không nhỏ
trên hành trình xây dựng một nền văn hóa tiến bộ, hiện đại, đạm đà bản sắc dân tộc.
2. Một số lễ hội tiêu biểu :
a. Hội Gióng :
• Nguồn gốc :
Theo Nguyễn Văn Huyên thì "việc tổ chức hội Gióng như ngày nay mới bắt
đầu từ khoảng thế kỷ 11, đời Lý Thái Tổ.
Hội Gióng là lễ hội truyền thống tưởng nhớ và ca ngợi chiến công của người
anh hùng Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Lễ
hội mô phỏng một cách sinh động diễn biến các trận đấu của Thánh Gióng và nhân
dân Văn Lang trong cuộc chiến chống giặc Ân, thông qua đó nâng cao nhận thức
cộng đồng về các hình thức chiến tranh bộ lạc thời cổ xưa; đồng thời giáo dục lòng

yêu nước, truyền thống thượng võ, ý chí quật cường và khát vọng độc lập, tự do
của dân tộc. Hội Gióng được tổ chức ở nhiều nơi thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ
nhưng tiêu biểu nhất là Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc (Hà Nội).
Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc gắn với truyền thuyết về một cậu bé
được mẹ sinh ra một cách kỳ lạ ở làng Phù Đổng. Khôi ngô, tuấn tú nhưng lên 3
mà vẫn chưa biết nói, biết cười, suốt ngày cậu chỉ nằm trong thúng treo trên gióng
tre, vì thế được đặt tên là Gióng. Vậy mà khi nghe thấy lời kêu gọi của nhà Vua
tìm người tài giỏi đánh giặc ngoại xâm, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, rồi xung
phong ra trận cứu nước, cứu dân. Sau khi dẹp tan quân giặc, ngài về núi Sóc rồi
cưỡi ngựa bay lên trời. Từ đó, ngài Gióng được thiêng hóa thành một vị Thánh bất
tử bảo hộ mùa màng, hòa bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân. Để tưởng
nhớ công ơn của ngài, người dân lập đền, thờ phụng và mở hội hằng năm với tên
gọi là Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc.
• Không gian và thời gian lễ hội :
Hội Gióng là một trong những lễ hội lớn nhất vùng châu thổ Bắc Bộ, tổ chức
theo một nghi thức được quy định chặt chẽ, chuẩn bị hết sức công phu, với sự tham
gia đông đảo của dân làng quanh khu vực hai đền. Hội Gióng ở đền Phù Đổng, xã
Phù Đổng, huyện Gia Lâm - nơi sinh Thánh Gióng diễn ra từ ngày 7 đến ngày 9
tháng 4 Âm lịch, và Hội Gióng ở đền Sóc ở xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn (nay
thuộc Hà Nội) - nơi Thánh hóa diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng giêng.
• Cách thức tổ chức :
- Hội Gióng ở đền Sóc (xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội):
Được tổ chức từ ngày 6 - 8 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Theo truyền
thuyết, sau khi đánh thắng giặc Ân, Phù Linh là nơi dừng chân cuối cùng của
Thánh Gióng trước khi bay về trời. Để tưởng nhớ công lao của Đức Thánh, tại đây,
nhân dân đã xây dựng Khu di tích đền Sóc bao gồm 6 công trình: đền Hạ (hay còn
gọi đền Trình), chùa Đại Bi, đền Mẫu, đền Thượng (hay còn gọi đền Sóc), tượng
đài Thánh Gióng và nhà bia. Trong đó, đền Thượng là nơi thờ Thánh Gióng và tổ
chức lễ hội với đầy đủ các nghi lễ truyền thống như: lễ Mộc Dục; lễ rước; lễ dâng
hương; lễ hóa voi và ngựa…

Để chuẩn bị cho ngày hội chính, vào đêm mùng 5, lễ Mộc Dục (tắm tượng)
được tiến hành để mời Đức Thánh về dự hội. Đến ngày mùng 6 khai hội, nhân dân
8 thôn làng thuộc 6 xã nằm quanh Khu di tích đền Sóc là Tân Minh, Tiên Dược,
Phù Linh, Đức Hòa, Xuân Giang và Bắc Phú dâng các lễ vật đã được chuẩn bị chu
đáo lên Đức Thánh, cầu mong ngài phù hộ cho dân làng có một cuộc sống ấm no,
hạnh phúc. Trong đó, nghi lễ dâng hoa tre lên đền Thượng của thôn Vệ Linh (xã
Phù Linh) được tổ chức đầu tiên. Hoa tre được làm bằng những thanh tre dài
khoảng 50cm, đường kính khoảng 1cm, đầu tre tuốt bông và nhuộm màu tượng
trưng cho roi ngựa của Thánh Gióng. Hoa tre sau khi dâng lên đền Thượng sẽ được
rước xuống đền Hạ rồi phát cho người dự hội để cầu may.
Sang ngày mùng 7 chính hội (ngày thánh hoá theo truyền thuyết), hoạt cảnh
chém tướng giặc diễn tả lại cảnh Thánh Gióng chém 3 tướng giặc Ân cuối cùng ở
chân núi Vệ Linh trước khi bay về trời được tổ chức. Đến chiều ngày mùng 8, lễ
hóa mô hình voi và ngựa giấy với kích thước lớn được tiến hành để kết thúc lễ hội
bởi voi chiến và ngựa sắt là hai linh vật gắn liền với quá trình Thánh Gióng chống
giặc Ân, bảo vệ non sông bờ cõi. Tất cả du khách tham gia lễ hội đều mong được
chung tay khiêng voi và ngựa ra bờ sông để hóa bởi theo tín ngưỡng, bất cứ ai
được chạm tay vào đồ tế Đức Thánh đều sẽ gặp may mắn trong cuộc sống.
Trong thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian được tổ chức
như chọi gà, cờ tướng, hát ca trù, hát chèo…
Tượng đài Thánh Gióng ở Sóc Sơn
- Hội Gióng ở đền Phù Đổng (xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội) :
Được tổ chức từ ngày 6-12/4 âm lịch hàng năm. Theo truyền thuyết, Phù
Đổng chính là nơi sinh ra người anh hùng Thánh Gióng.
( Cổng đền Phù Đổng ở Gia Lâm )
Ngày 6/4 tổ chức lễ rước nước với sự tham gia của toàn bộ các tướng, quân
lính, phường nhạc – múa cùng đông đảo dân làng.
Ngày 7/4 rước miều (bao đựng cờ lệnh và một số vật dụng khác) đến đền
Mẫu và rước cỗ chay (có cơm và cà) từ đền Hạ sang đền Thượng để dâng lên Đức
Thánh. Buổi trưa có rước khám đường với ý nghĩa nhằm thăm dò đường đi đến

trận địa.
Ngày 8/4: những người đứng đầu giáp và có uy tín của 4 làng tổ chức duyệt
lần cuối những hoạt động diễn ra trong lễ hội.
Ngày 9/4 (chính hội) rước cờ từ đền Hạ lên đền Thượng, múa “thờ thần”,
múa “bắt hổ” và diễn hội trận.
( Một phần đoàn rước trong Hội Gióng Phù Đổng )
Ngày 10/4: tổ chức lễ rước vãn duyệt quân, kiểm tra lại binh khí; lễ tạ ơn
Thánh Gióng và khao quân mừng thắng lợi.
Ngày 11/4: diễn ra lễ rước nước, lễ rửa khí giới. Một số trò chơi và các tiết
mục múa hát cũng được tổ chức.
Ngày 12/4: tổ chức lễ rước cắm cờ, kiểm tra lại chiến trường từ Đống Đàm
đến Soi Bia (đi đến đâu cắm cờ trắng đến đấy để xác nhận giặc đã quy hàng). Buổi
chiều, tế báo tin thắng trận lên Thiên đình và kết thúc lễ hội. Tướng, quân bên giặc
cũng được tha bổng và cho tham dự lễ mừng chiến thắng. Cách hành xử này thể
hiện truyền thống hiếu nghĩa đối với tổ tiên, những vị anh hùng dân tộc và tinh
thần khoan dung, nhân đạo của dân tộc Việt Nam.
Hội Gióng ở đền Phù Đổng được ví như một kịch trường dân gian rộng lớn
với hàng trăm vai diễn tiến hành theo một kịch bản đã được chuẩn hóa. Trong đó,
mỗi vai diễn đều chứa đựng những ý tưởng rất sâu sắc như: “ông Hiệu“ là các
tướng lĩnh của Thánh Gióng; “Phù Giá” là đội quân chính quy của Thánh Gióng;
các “Cô Tướng“ tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược của nhà Ân; “Ông Hổ“ là
đội quân tổng hợp; “Làng áo đỏ“ là đội quân trinh sát nhỏ tuổi; “Làng áo đen“ là
đội dân binh…
Bên cạnh đó, lễ hội còn có các màn rước như: “Rước khám đường“ là đi
trinh sát giặc; “Rước nước“ là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân; “Rước
Đống Đàm“ là đàm phán, kêu gọi hoà bình; “Rước trận Soi Bia“ là mô phỏng cách
điệu những trận đánh ác liệt…
Đoàn rước lễ của các ông “Hiệu” tại đền Phù Đổng
- Các hội Gióng khác :
Hội Gióng Chi Nam: mở tại làng Sen Hồ, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, Hà Nội

và trước ngày chính hội Gióng Phù Đổng 1 ngày nên còn gọi là hội Phù Gióng.
Hội Phù Gióng tưởng niệm và suy tôn chiến công của ông Hiển Công, tên thật là
Châu. Cũng trong lúc đất nước bị giặc Ân xâm lược, ông Châu bảo sứ giả của vua
Hùng đem cho mình cây chùy sắt và con thuyền sắt. Đoàn quân của ông đánh
thắng giặc trên sông Đuống và ông trở về quê mừng công rồi hoá. Dân làng suy tôn
là Hiển Công và thờ làm Thành Hoàng. Sáng mùng 8 tháng Tư, sau lễ tế ở đình
làng là hoạt động tái hiện lại chiến thắng của Hiển Công. Thanh niên trai tráng
được chia làm hai bên với số lượng bằng nhau. Quân của ông Hiển Công mình
trần, khố đỏ, bao vàng còn giặc Ân thì mình trần, khố xanh, bao trắng. Ngoài ra
còn có trò chơi "cướp dừa", ai cướp được quả dừa sẽ gặp may mắn và đập dừa
thành mảnh nhỏ để chia cho mọi người cùng hưởng.
Hội Gióng Xuân Đỉnh: tổ chức ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch tại làng Xuân
Tảo, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Lễ hội gắn với truyền thuyết trên
đường về trời Gióng dừng ở làng Cáo (làng Xuân Tảo), Xuân Đỉnh tắm mát, nghỉ
ngơi rồi ăn trưa với cơm và mấy quả cà. Lúc ra đi, ông bỏ quên thanh roi sắt. Đến
nay phiến đá mà Thánh ngồi nghỉ vẫn còn ở cạnh giếng nước trong làng. Hội
Gióng Xuân Đỉnh chủ yếu là nghi thức rước kiệu Thánh ra giếng cho ông chứng
kiến vật chứng lịch sử mà dân làng vẫn đời đời gìn giữ.
Hội Gióng Bộ Đầu: mở vào ngày 8 tháng Giêng tại làng Bộ Đầu, xã Bộ Đầu,
huyện Thường Tín, Hà Nội. Thánh Gióng được thờ làm thành hoàng làng Bộ Đầu.
Truyền thuyết kể rằng trên đường về trời, Gióng nghe thấy tiếng kêu của dân
chúng đang bị đôi thuồng luồng ở sông Hồng gây tai hoạ. Nhìn xuống, Gióng thấy
một người đang bị thuồng luồng cuốn đi và lao xuống tiêu diệt đôi thuye quái. Lạ
lùng thay, người được cứu chính là mẹ của Gióng! Ở làng có pho tượng Gióng
bằng gỗ cao 5m, là một tác phẩm điêu khắc đặc sắc. Hội Gióng Bộ Đầu có tổ chức
thi gậy - diễn lại cảnh Gióng dùng tre ngà đánh giặc Ân.
Giá trị nổi bật toàn cầu của Hội Gióng thể hiện ở chỗ nó chính là một hiện
tượng văn hóa được bảo tồn, lưu truyền khá liên tục và toàn vẹn qua nhiều thế hệ.
Lễ hội còn có vai trò liên kết cộng đồng và chứa đựng nhiều ý tưởng sáng tạo, thể
hiện khát vọng đất nước được thái bình, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Về mặt mỹ thuật, Hội Gióng mang nhiều nét đẹp và giá trị của lễ hội như các
đám rước, các hiệu cờ, hiệu trống, hiệu chiêng, diễn xướng dân gian, múa hát ải
lao, múa hổ
Ngày 16/11/2010, tại thành phố Nairobi (thủ đô của Kenya), trong kỳ họp thứ 5
của Ủy ban liên Chính phủ theo Công ước năm 2003 của UNESCO, Hội Gióng ở
đền Phù Đổng và đền Sóc đã chính thức được công nhận là Di sản văn hóa phi vật
thể đại diện của nhân loại. UNESCO đã ghi nhận một cách ngắn gọn và đầy đủ về
Hội Gióng, đó là "Một bảo tàng văn hóa của Việt Nam, lưu giữ nhiều lớp phù sa
văn hóa, tín ngưỡng".
b. Hội đền Hùng :
Văn học dân gian Việt Nam nói về lễ hội đền Hùng như sau:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Lễ hội đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương là một lễ hội lớn mang tầm vóc
quốc gia ở Việt Nam, tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua
Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc.
• Nguồn gốc :
Ở các lãng Cổ tích, làng Trẹo (Hy Cương), làng Vi (Chu Hóa), trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945 vẫn còn tục chạy “Tùng Rí: Đâm vật giống và cướp lúa
giống, cầu mong sự sinh sôi”. Ngày 25/5 âm lịch hàng năm, làng Hy Cương có lễ Hạ
điền. Làng Thanh Đình có tục rước “Ông Khiu, bà Khiu” tiến hành các nghi lễ phồn
thực như lấy bánh chưng tày đâm vào oa (tượng trưng cho hình thức giao phối) rồi
cướp lúa giống, cầu mong sự sinh sôi. Trong lễ hội Rước Chúa gái ở hai làng Hy
Cương – Chu Hóa, trước kia có tục lấy chày đâm vào nong, thể hiện tính giao nam nữ.
Phía sau Núi Hùng, trên sườn núi Trọc bé còn có tục thờ đá Ông, đá Bà (dân địa
phương còn gọi là hòn đá cối xay) tượng trưng chày – cối những biểu tượng của tín
ngưỡng phồn thực được coi là vật thiêng của lễ thức cư dân nông nghiệp trồng lúa
nước, tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở.
Cư dân Việt Cổ vào thời đại Hùng Vương tại khu vực quanh núi Nghĩa Lĩnh đã
sớm thực hiện những nghi thức của tín ngưỡng phồn thực và tổ chức lễ hội theo tín

ngưỡng phồn thực. Đây chính là những tiền đề điều kiện để ký ức hồi cố và tái hiện
các sự kiện lịch sử truyền thống ở các giai đoạn về sau, căn cứ vào những di sản ấy
mà tạo nên tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên – thờ cúng các Vua Hùng để xây dựng nên
khu di tích tưởng niệm có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống tâm linh của cộng
đồng dân tộc, cùng với nó là lễ hội Đền Hùng được kế thừa và phát triển từ những lễ
hội dân gian mang tính chất nguyên thủy để nâng tầm thành một Lễ hội lớn với nhiều
ý nghĩa sâu sắc của đạo lý và bản sắc truyền thống đặc biệt Việt Nam.
(Lễ hội đền Hùng là lễ hội truyền thống của người dân Việt Nam )
Giỗ Tổ Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng đã hình thành từ rất sớm và sự tồn tại
của nó luôn gắn chặt với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Với truyền thống
“Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, các Vua Hùng cùng các vợ,
con, các tướng lĩnh của thời kỳ Hùng Vương luôn được nhân dân ở các làng xã trên
phạm vi cả nước tôn thờ. Từ giữa thế kỷ XV, đến cuối thế kỷ XVII, cả nước có 73
làng xã, trong đó có 12 làng có sắc phong, 61 làng chưa có sắc phong (Theo Nam Việt
thần kỳ hội lục – bản chính bộ Lễ triều Lê Cảnh Hưng thứ 24 – 1763).
Khi dân cư ở các làng Vi, Trẹo vốn là cùng một cư dân gốc ở Làng Cả đã cùng
nhau làm lễ mở cửa đền vào ngày 10 tháng ba âm lịch hàng năm để làm lễ hội. Thời
gian của lễ hội kéo dài trong ba ngày, diễn trường của lễ hội được diễn ra trên Núi
Hùng và các vùng xung quanh chân núi. Nghi thức giỗ Tổ Hùng Vương và lễ hội Đền
Hùng trong thời kỳ này mang tính chất địa phương với quy mô do các làng Vi, Trẹo tổ
chức tiến hành nghi lễ cầu tế, tuyên đọc sắc phong và tóm tắt Thần tích, thần linh. Sau
đó tổ chức các trò rước voi, ngựa, chạy địch, chạy tùng rí, lấy tiếng hú. Vui hơn cả là
tục rước Chúa gái và diễn trò bách nghệ khôi hài. Chỉ có Chúa gái được ngồi trên kiệu
rước, còn Chúa trai phải đi bộ chứ không được rước. Tục rước Chúa gái chính là mô
phỏng truyền thuyết Ngọc Hoa chào tạm biệt vua cha để về nhà chồng. Chạy dịch là
phản ánh truyền thuyết Vua Hùng đi săn, lấy tiếng hú là thể hiện tiếng hiệu trừ tịch,
trừ tà. Hàng năm, nhà nước cấp cho dân trưởng tạo lệ là thôn Cổ Tích xã Hy Cương 3
quan tiền và 3 đấu gạo nếp của triều đình để làm lễ. Năm 1600, Vua Lê Hiển Tông
cho tổ chức quốc lễ tại Đền Hùng, nhà vua về làm lễ Tổ. Vua Lê hiển Tông về thắp
hương tưởng niệm các Vua Hùng và có thơ đề vịnh tại Đền Hùng:

“Quốc tịch Văn Lang cổ
Vương thư việt sử tiền
Hiển thừa thập bát đái
Hình thắng nhất tam xuyên
Cựu trưng cao phong bán
Sùng từ tuấn lĩnh biên
Phương dân ngưng trắc dáng
Hương hóa đáo kim tuyền”
Dịch nghĩa:
“Mở nước Văn Lang cổ
Dòng vua đầu Việt sử
Mười tám đời nối nhau
Ba sông đẹp như vẽ
Mộ cũ ở lưng đồi
Đền thờ bên sườn núi
Muôn dân đến phụng thờ
Khói hương còn mãi mãi”
Chúa Trịnh Tùng đã có lần về viếng Tổ và đề tặng đôi câu đối:
Vấn lại dĩ sự tu vi sử
Tế nhận thư đồ dục mệnh thi.
Dịch nghĩa:
Ngẫm lại chuyện xưa nên chép sử
Nhìn phong cảnh đẹp muốn đề thơ.
Nhà nước và nhân dân ta từ đời Lê đến đời Nguyễn luôn luôn quan tâm đến
việc tu sửa, tôn tạo Khu Di tích Lịch sử Đền Hùng và tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương và
lễ hội Đền Hùng vào dịp mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm. Ngoài việc miễn thuế
cho dân Hy Cương để dùng tiền thuế vào việc đèn nhang, sắm lễ vật thờ cúng, nhà
nước Phong kiến Việt Nam còn chú ý đến việc tổ chức giỗ Tổ và lễ hội Đền Hùng
hàng năm. Nhất là khi nhà Nguyễn lên trị vì đất nước (thế kỷ XVIII) năm Minh mạng
thứ 4 (1823) đã cho xây Miếu Lịch Đai Đế Vương mở địa phận xã Phú Xuân về phía

Nam kinh thành (nay là xóm Lịch Đợi, phường Phường Đúc, thành phố Huế). Miếu
thờ các vị minh quân tiêu biểu và những danh tiếng của Việt Nam – Trung Hoa, trong
đó có thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương. Các vua nhà Nguyễn
theo thông lệ cứ 5 năm (vào những năm chẵn 5, chẵn 10), Nhà nước đứng ra tổ chức
lễ hội giỗ Tổ, những năm lẻ do địa phương đăng cai tổ chức. Diễn trường trung tâm
của lễ hội là núi Hùng và xung quanh dưới chân núi Hùng. Tới năm Khải Định thứ hai
(1917), quan tuần phủ Lê Trung Ngọc trình bộ Lễ ấn định ngày Quốc lễ vào ngày
mùng 10 tháng 3 âm lịch (trước ngày huý của Vua Hùng một ngày), ngày 11 tháng 3
âm lịch để dân sở tại làm lễ. Thời gian tổ chức lễ hội thường bắt đầu từ ngày mùng 8
đến ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch. Và cũng từ đó, vị thế của lễ hội Đền Hùng được
nổi tiếng khắp nơi:
Sơn Tây vui nhất chùa Thầy
Vui thì vui thật chẳng tày Hội He
Đến năm 1920, sau khi tiến hành tu sửa lớn, tuần phủ Phú Thọ và các quan tri
phủ, tri huyện, tri châu trong cả tỉnh Phú Thọ đều về làm lễ tế Vua Hùng và cho phép
5 làng xung quanh có thờ tự Vua Hùng Vương đều được phép tổ chức rước kiệu vào
lễ hội Đền Hùng, đó là Hùng Lô, Cao Mại, Sơn Vi, Hữu Bổ, Xuân Lũng và tổ chức
các trò diễn dân gian như hát trống quân, hát xoan, đánh cờ người, vật
Tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng xuất phát từ đạo lý, từ truyền thống của
dân tộc Việt Nam vốn giàu lòng yêu nước và truyền thống đấu tranh kiên cường bất
khuất, nhưng cũng rất thủy chung, có trước, có sau, nhân hậu, luôn luôn biết ơn những
người đi trước. Lễ hội Đền Hùng đã trở thành động lực tinh thần của dân tộc Việt
Nam. Năm 1943, mặt trận Việt Minh đã treo cờ Đảng, cở Tổ quốc trên gác chuông
trước cửa chùa Thiền Quang để tuyên truyền cách mạng kêu gọi toàn dân đoàn kết
đánh đổ Nhật – Pháp để cứu nước trước đông đảo quần chúng về dự lễ hội. Sau khi
cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trong dịp lễ hội Đền Hùng năm 1946,
quyền Chủ tịch nước VIệt Nam dân chủ cộng hòa, cụ Huỳnh Thúc Kháng được Chủ
tịch Hồ Chí Minh ủy quyền thay mặt Chính phủ về dự lễ hội Đền Hùng, khi Lễ Tổ
dâng một thanh gươm và một tấm bản đồ Việt Nam cẩn cáo với các Vua Hùng (Tư
liệu của nhà sử học Dương Trung Quốc công bố). Năm 1954, đoàn quân đi Nam tiến

theo tiếng gọi thiêng liêng của Đảng để giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất
nước đã về tuyên thệ tại Đền Hùng. Ngày 19/9/1954 trước khi về tiếp quản thủ đô Hà
Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp gỡ và căn dặn các cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân
tiên phong tại Đền Hùng với câu nói bất hủ:
“ Các Vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước ”
Thời đại chúng ta hôm nay, đang kế tục truyền thống của các Vua Hùng và các
thế hệ cha ông anh đi trước truyền lại. Hàng năm, lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương vẫn
được tổ chức theo các nghi lễ truyền thống của dân tộc. Vào những năm chẵn, nhà
nước đứng ra tổ chức, những năm lẻ do tỉnh tổ chức. Việc tổ chức giỗ Tổ tại Đền
Hùng rất quy củ, chặt chẽ. Hàng năm vào dịp lễ hội đều thành lập Ban Tổ chức để
điều hành các hoạt động lễ hội. Vào những năm lẻ, UBND tỉnh tổ chức công việc giỗ
Tổ. Những năm chẵn do Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch tổ chức triển khai công tác
tổ chức giỗ Tổ.
• Không gian và thời gian lễ hội :
Cứ đến ngày 10/3 âm lịch hàng năm người dân cả nước cùng hướng về Đất Tổ.
Lễ hội đền Hùng đã trở thành ngày hội chung của toàn dân tộc, ngày mà mọi trái tim
dù ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều hướng về vùng đất Cội
nguồn - xã Hy Cương - Lâm Thao - Phú Thọ bởi nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa
tâm linh của dân tộc Việt Nam.
( Tượng vua Hùng trong khu đền thờ )
Các ngôi đền thờ Vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy
Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ là cơ sở vật chất chủ yếu để thể hiện hình thức
sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống độc đáo và đặc sắc ấy.
( Cổng dẫn đến khu di tích đền Hùng )
Núi Hùng là ngọn núi cao nhất trong ba ngọn núi thuộc thôn Cổ Tích xã Hy
Cương, tạo nên vùng đất thiêng “Tam Sơn cấm địa”, “Núi Cấm”, “Núi thiêng” Đó
là nơi người dân nơi đây đã thờ tự theo tín ngưỡng nguyên thủy trong buổi bình minh
của lịch sử với tục thờ Thần Núi. Ba ngọn Tổ Sơn ở khu vực Đền Hùng đã được thần
thánh hóa thành các vị Thần Núi, sau này còn có tên là “Đột ngột cao sơn” (Núi

Nghĩa Lĩnh), “Ất Sơn ” (Núi Vặn) và “Viễn Sơn ” (Núi Nỏn). Tuy là tên gọi của
các đời sau, nhưng đó là phản xạ của những tên gọi thuộc tín ngưỡng cổ truyền mang
tính chất nguyên thủy của thời sơ sử. Thần Núi và tục thờ Thần Núi là lớp văn hóa tín
ngưỡng ban đầu trên Núi Hùng (còn gọi là Núi Cả). Đó là một loại hành trình văn hóa
tín ngưỡng đầu tiên thờ Thần tự Nhiên trong buổi đầu hình thành các tín ngưỡng dân
gian của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, trước khi thờ tự các Vua Hùng là những
người có công dựng nước, trên núi Nghĩa Lĩnh có đền thờ Trời theo tín ngưỡng của cư
dân nông nghiệp trồn lúa nước để cầu cho “mưa thuận gió hòa”, cho cây cối mùa
màng quanh năm xanh tốt bội thu. Vì vậy, ngôi đền Thượng trên núi Nghĩa Lĩnh có
tên “Kính Thiên lĩnh điện” (Điện thờ Trời trên núi Nghĩa Lĩnh). Truyền thuyết kể
rằng: Đây là nơi các Vua Hùng vẫn lên để tiến hành các nghi lễ cúng tế trời đất, thờ
Lúa Thần để cầu cho “Mưa thuận, gió hòa”, an dân hạnh phúc. Núi Nghĩa Lĩnh (hay
còn gọi là Núi Cả), ngọn chủ sơn trong hệ thống “Tam Sơn cấm địa”, trước khi thành
tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng là nơi đã hội tụ những hình thức tín ngưỡng thờ
Thần tự nhiên của các cư sân Lạc Việt trong vùng. Nhờ có điều này đã tạo thuận lợi
cho những tư duy tín ngưỡng về sau có cơ sở để phát triển thành tín ngưỡng thờ cũng
các Vua Hùng là những người có công tạo dựng đất nước. Trong quá trình phát triển
của tín ngưỡng ấy, luôn luôn có sự đan xen và tồn tại tín ngưỡng nguyên thủy và tín
ngưỡng thờ tự các Vua Hùng cho đến tận thế kỷ thứ XIX tại khu vực Đền Thượng,
trước khi tiến hành trùng tu di tích năm 1917 vẫn còn dấu tích thờ một hạt lúa Thần có
kích thước rất lớn (to bằng chiếc thuyền ba cắng mà người dân Phú Thọ thường dùng
trong màu nước lụt), có hình giống như một hạt thóc khổng lồ. Truyền thuyết kể rằng:
Hằng năm các Vua Hùng vẫn lên Đền Thượng để gọi vía lúa. Hiện nay những người
dân dưới chân Núi Hùng vẫn còn nhớ bài đồng dao gọi vía lúa:
Hú ông lúa, bà lúa
Cỏ lên, cỏ úa
Lúa lên, lúa xanh
Tốt hơn xung quanh
Tốt hơn láng giềng
Cao lên bằng cổ

Trổ lên bằng đầu
Bông như đuôi trâu
Bông như đuôi nghé
Bông nào be bé
Cũng bằng đuôi voi
Bông nào loi thoi
Cũng bằng đuôi ngựa
Hạt nào rụng tựa
Cũng bằng bình vôi
Ba con gà lôi
Cũng không lôi nổi.
• Cách thức tổ chức :
Nội dung của lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương chủ yếu gồm hai phần: Phần Lễ và
phần Hội. Phần lễ được tiến hành với nghi thức trang nghiêm tại Đền thượng; phần
Hội được diễn ra xung quanh dưới chân núi Hùng.
( Hàng triệu người đổ về tham dự lễ hội Đền Hùng )
- Trong phần lễ:
Nghi thức dâng hoa của các đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ, các tỉnh thành
được tổ chức long trọng trên Đền Thượng. Từ chiều mùng 9, làng nào được Ban tổ
chức cho phép rước kiệu dâng lễ bánh dầy, bánh chưng đã tập trung đông đủ dưới
cổng Công Quán. Sáng sớm hôm sau, các đoàn đại biểu xếp hàng chỉnh tề đi sau cỗ
kiệu rước lễ vật lần lượt đi lên đền trong tiếng nhạc lễ của phường bát âm và đội múa
sinh tiền. Tới trước cửa Đền Thượng (Kính Thiên lĩnh điện), đoàn đại biểu dừng lại,
kính cẩn dâng lễ vào Thượng cung của Đền Thượng. Đồng chí lãnh đạo tỉnh thay mặt
cho tỉnh và nhân dân cả nước (năm chẵn là đồng chí nguyên thủ quốc gia hoặc đại
biểu của Bộ Văn hóa) kính cẩn đọc diễn văn Lễ Tổ. Toàn bộ nội dung hành lễ được
các hệ thống phát thanh, truyền hình đưa tin để đồng bào cả nước theo dõi lễ hội.
Trong thời gian tiến hành nghi lễ, toàn bộ diễn trường hội ngừng các hoạt động để
theo dõi nghi thức giỗ Tổ cũng là để tăng thêm tính nghiêm trang của lễ hội.
• Phần lễ cụ thể gồm các hoạt động sau :

1. Lễ giỗ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân : được tổ chức Đền thờ Đức Quốc Tổ
Lạc Long Quân – Di tích lịch sử Đền Hùng và Lễ dâng hương tưởng niệm
Tổ Mẫu Âu Cơ : được tổ chức tại Đền thờ Mẫu Tổ Âu Cơ – Di tích lịch sử
Đền Hùng.
( buổi lễ dâng hương Tổ Mẫu Âu Cơ )
2. Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng : Tổ chức Lễ dâng hương tưởng
niệm các Vua Hùng và rước kiệu lễ vật.
3. Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương : Tổ chức lễ dâng hương tại Đền Thượng, đặt vòng
hoa, thắp hương tại lăng Hùng Vương và dâng hoa trước bức phù điêu có
hình tượng “Bác Hồ nói chuyện với cán bộ chiến sĩ Đại đoàn quân tiên
phong”.
4. Lễ dâng hương tại các di tích thờ Hùng Vương và các danh nhân, danh
tướng thời Hùng Vương trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
5. Rước kiệu về Đền Hùng.
( Rước kiệu về đền Hùng )
- Phần hội:
Diễn ra tưng bừng, náo nhiệt xung quanh khu vực Núi Hùng. Hội Đền Hùng
ngày nay có nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa phong phú hấp dẫn hơn hội Đền Hùng
xưa. Trong khu vực của hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hóa phẩm, các quán
bán hàng dịch vụ ăn uống, các khu hoạt động biểu diễn văn nghệ, thi đấu thể thao
được tổ chức và duy trì trật tự, quy củ.
Tại khu Văn – Thể, các trò chơi dân gian được Ban Tổ chức chọn lọc đưa vào
phục vụ lễ hội như đấu vật, bắn nỏ, rước kiệu, thi giã bánh dày gói bánh chưng, thi
kéo lửa thổi cơm, trò diễn “bách nghệ khôi hài” và Trò Trám của làng Tứ Xã, rước lúa
Thần Cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp như Chèo, kịch
nói, hát quan họ, hát xoan, chiếu bóng, có cả hội diễn văn nghệ quần chúng để tuyển
chọn nhân tài. Trên khu Công quán thì âm vang tiếng trống đồng và tiếng giã đuống
rộn ràng của các nghệ nhân dân gian người dân tộc Mường ở Thanh Sơn ra phục vụ lễ
hội.
Ngoài các hoạt động văn hóa, văn nghệ trong diễn trường hội, mọi người về dự hội

còn được tham quan Bảo tàng Hùng Vương, nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật
phản ánh thời kỳ Hùng Vương dựng nước để tìm hiểu lịch sử truyền thống dựng nước
trên quê hương Đất Tổ.
• Phần hội cụ thể gồm các hoạt động như :
- Triển lãm tư liệu ảnh, hiện vật đồng bào cả nước cung tiến Đền Hùng.Đánh
trồng đồng, đâm đuống, múa lân. Hội thi gói, nấu bánh chưng và bánh giầy.
Hội trại văn hóa: liên hoan văn nghệ quần chúng; hát Xoan và dân ca Phú Thọ.
Biểu diễn của đoàn nghệ thuật các tỉnh góp giỗ .Thi đấu các môn thể thao quần
chúng tỉnh Phú Thọ.
( Hội thi gói, nấu bánh chưng )
- Trình diễn hát Xoan cộng đồng và hát Xoan của các nghệ nhân kế cận thuộc
các làng Xoan và tổ chức các hoạt động thể thao khác.
Thời đại của chúng ta hôm nay đang ngày càng góp sức tô điểm và phát huy
sức sống trường tồn của giỗ Tổ Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng. Ý nghĩa tâm linh
của cuộc hành hương trẩy hội Đền Hùng đã trở thành nếp nghĩ, nét văn hóa truyền
thống không thể thiếu được của mỗi con người Việt Nam. Tất cả mọi người, không
phân biệt già, trẻ, gái, trai, dân tộc, tôn giáo đang sinh sống trên mọi miền Tổ quốc
đều bình đẳng trước Mộ Tổ, đều có quyền tự hào mỗi khi về dự giỗ Tổ Hùng Vương
và lễ hội Đền Hùng.
Tiết trời tháng ba mùa xuân thời tiết rất đẹp, trước hội bao giờ cũng có những trận
mưa rào đầu hạ có ý nghĩa như là rửa sạch đền trước khi vào hội. Những trận mưa ấy
có tác dụng làm cho cây rừng Đền Hùng đã xanh lại càng xanh hơn, không khí trong
lành, mát mẻ, dễ chịu làm cho du khách đi dự lễ hội cảm thấy như mình được trở về
với thuở hoang sơ thời mở nước.
Các thủ tục hành lễ được tuân theo quy định của lễ giáo phong kiến rất chặt chẽ.
Phần lễ được được diễn ra trang nghiêm, trọng thể tại các đền và chùa Thiền Quang
trên núi Nghĩa Lĩnh. Phần hội được tổ chức trong một không gian rộng khoảng cài km
vuông với nhiều trò chơi dân gian phong phú và hấp dẫn tạo cho lễ hội có không khí
tấp nập, náo nhiệt. Vào ngày giỗ Tổ, nhiều địa phương ở các vùng lân cận có thờ tự
Vua Hùng, vợ con và các tướng lĩnh của các Vua Hùng tổ chức rước kiệu về dự giỗ

Tổ. Ban Tổ chức có chấm giải cho các lãng xã có kiệu tham gia: Kiệu nào đẹp, đoạt
giải thì được rước lễ vật là bánh chưng, bánh dầy lên núi để dâng Vua Hùng trong
buổi hành lễ vào sáng mùng 10 tháng 3. Còn các kiệu của các làng xã khác đoạt giải
thấp hơn thì rước xung quanh lễ hội để mọi người chiêm ngưỡng và tạo không khí
trang nghiêm cho lễ hội. Ngoài ra còn nhiều trò diễn, các trờ chơi dân gian như đánh
trống đồng, đâm đuống, đấu vật, chọi gà, kéo lửa thổi cơm thi, thi đánh cờ người
làm cho không khí ngày hội thêm tưng bừng, phấn khởi. Bên cạnh đó, những hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể thao hiện đại cũng được tổ chức để phục vụ đồng bào về
dự lễ hội, tạo nên màu sắc của lễ hội càng thêm tươi vui, rực rỡ.
Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng và tổ chức lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành
lễ hội mang tính văn hóa tâm linh lớn nhất ở nước ta. Đến ngày giỗ Tổ và tổ chức lễ
hội, con cháu trên mọi miền Tổ quốc nườm nượp kéo về với tấm lòng thành kính dâng
lên Tổ tiên, tỏ lòng biết ơn công lao dựng nước của các Vua Hùng và các bậc tiền
nhân của dân tộc.
c. Hội Lim :
Hội Lim là một lễ hội lớn của tỉnh Bắc Ninh, chính hội được tổ chức vào ngày 13
tháng giêng hàng năm, trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Hội Lim được coi
là nét kết tinh độc đáo của vùng văn hoá Kinh Bắc.
( Chùa Lim – Bắc Ninh )
• Nguồn gốc :
Vào đầu xuân, trời đất giao hòa, vạn vật sinh sôi, lòng người phơi phới, ấy là
vùng đất Nội Duệ tưng bừng trong không khí Hội Lim. Hội Lim là hội của những làng
xã cổ nằm quanh núi Lim và đôi bờ sông Tiêu Tương. Đây là lễ hội lớn của vùng, thể
hiện một cách sâu nhất văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của người dân xứ
Kinh Bắc.
Có giả thuyết cho rằng: Hội Lim có nguồn gốc từ hội chùa, hội hát, liên quan đến
tiếng hát của chàng Trương Chi mà dấu xưa để lại là hình vết dòng sông Tiêu Tương
khá rõ rệt ở các làng quê vùng Lim. Giả thuyết này căn cứ vào truyền thuyết Trương
Chi – Mỵ Nương và tính chất, đặc điểm của hội Lim là lễ hội sinh hoạt văn hóa và ca
hát Quan họ.

Còn một số cho rằng hội Lim vốn có lịch sử rất lâu đời,trải qua năm tháng lịch
sử, Hội Lim đã có nhiều lớp văn hóa, trong đó người ta chỉ tổ chức tế lễ hậu thần vào
một dịp là ngày 13 tháng giêng trùng với hội chùa Lim. Chính vì vậy mà có hội Lim
và đây là hội hàng tổng.
Kinh Bắc xưa nổi tiếng là vùng đất của những câu truyện cổ, những sự tích văn
hoá. Vì truyền thống này mà nơi đây sở hữu nhiều lễ hội dân gian. Lễ hội được nhiều
người quan tâm nhất là Hội Lim tại thị trấn Lim, Tiên Du, Bắc Ninh.
Hội Lim là một sinh hoạt văn hoá - nghệ thuật đặc sắc của nền văn hoá truyền
thống lâu đời ở xứ Bắc và dân ca Quan họ trở thành tài sản văn hoá chung của dân tộc
Việt, tiêu biểu cho loại hình dân ca trữ tình Bắc Bộ.
Hội Lim chính là hội chùa làng lim và đôi bờ sông Tiêu Tương. Hội Lim trở
thành hội hàng tổng (hội vùng) vào thế kỷ 18. Khi quan trấn thủ xứ Thanh Hóa
Nguyễn Đình Diễn là người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc, có nhiều công lao
với triều đình, được phong thưởng nhiều bổng lộc, đã tự hiến nhiều ruộng vườn và
tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong
mỹ tục. Ông còn cho xây dựng trước phần lăng mộ của mình đặt tên là lăng Hồng Vân
trên núi Lim. Do có nhiều công lao với hàng tổng và việc ông đặt hậu ở chùa Hồng
ân, nên khi ông mất nhân dân tổng Nội Duệ đã tôn thờ làm hậu thần, hậu Phật hàng
tổng. Văn bia lăng Hồng Vân có tên Hồng Vân từ bi ký niên đại Cảnh Hưng 30
(1769) hiện giữ ở đình thôn Đình Cả đã cho biết khá rõ lai lịch, công trạng và việc thờ
phụng hậu hàng tổng Nguyễn Đình Diễn mỗi năm hai dịp vào "ngày sinh" và "ngày
hóa" của ông tại lăng Hồng Vân và chùa Hồng ân trên núi Lim. Song trải tháng năm
lịch sử, hội Lim đã có nhiều lớp văn hóa, trong đó người ta chỉ tổ chức tế lễ hậu thần
vào một dịp là ngày 13 tháng giêng trùng với hội chùa Lim. Chính vì vậy mà có hội
Lim và đây là hội hàng tổng
• Không gian và thời gian lễ hội :
( Cổng vào hội Lim )
Lấy đồi Lim làm trung tâm, có chùa Lim, nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu, người
sáng lập ra tục hát quan họ.Hội Lim là nét đặc trưng của miền dân ca quan họ thường
được tổ chức 5 năm một lần( lễ lớn) trên địa bàn 3 xã: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị

trấn Lim.
Hội Lim kéo dài trong khoảng 3- 4 ngày ( từ ngày 12- 14 tháng giêng âm lịch)
trong đó ngày 13 là chính hội với nhiều hoạt động gồm cả phần lễ và phần hội.Mở đầu
bằng lễ rước, đoàn rước đông đảo người dân tham gia trong những bộ lễ phục ngày
xưa sặc sỡ màu sắc. Trong ngày 13 tháng giêng với các nghi thức rước tế lễ các thành
hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng
Vân…
• Cách thức tổ chức :
- Phần lễ :
8h ngày 13/1 Âm lịch, Hội Lim được mở đầu bằng lễ rước. Đoàn rước với đông
đảo người dân tham gia trong những bộ lễ phục ngày xưa, sặc sỡ sắc màu và cũng vô
cùng cầu kì, đẹp mắt kéo dài tới cả gần km. Trong ngày lễ, có nhiều nghi lễ và tục trò
dân gian nổi tiếng, trong đó có tục hát thờ hậu. Toàn thể quan viên, hương lão, nam
đinh của các làng xã thuộc tổng Nội Duệ phải tề tựu đầy đủ tại lăng Hồng Vân để tế lễ
hậu thần. Trong khi tế có nghi thức hát quan họ thờ thần.
Để hát thờ, các liền anh ,liền chị quan họ nam và nữ của tổng Nội Duệ đứng thành
hàng trước cửa lăng hát vọng vào. Trong khi hát, họ chỉ được hát những giọng lề lối
để ca ngợi công lao của thần.
(Liền chị quan họ - Hội Lim, Bắc Ninh )
Hội Lim đi vào lịch sử và tồn tại và phát triển cho đến ngày nay được hàng tổng
chuẩn bị tập rượt rất chu đáo từ ngày 9 và 10, rồi được diễn ra từ ngày 11 đến hết
ngày 14 tháng giêng. Chính hội là ngày 13, với các nghi thức rước, tế lễ các thành
hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân,
lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy. Trong các nhà thờ họ Nguyễn, họ Đỗ ở làng Đình
Cả, dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân.
Hội Lim là lễ hội lớn của vùng Kinh Bắc, với những hoạt động lễ và hội phong
phú, gần như hội đủ những hoạt động văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của
các lễ hội trên vùng quê Bắc Ninh - mảnh đất có nhiều lễ hội dân gian.
- Phần hội :
Hội Lim đã trở thành nổi tiếng, được nhân dân khắp các vùng ca ngợi, truyền tụng:

Ba năm hai cái hội chùa,

×