Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

đặc điểm truyện ngắn của nguyễn thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.87 KB, 73 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN


TRƯƠNG HỒNG CHI
MSSV: 6106378


ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THI


Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn




Cán bộ hướng dẫn: ThS. GV. LÊ THỊ NHIÊN


Cần Thơ, năm 2013
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi

CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi

ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Thể loại truyện ngắn
1.1.1 Khái niệm truyện ngắn
1.1.2 Sự hình thành và phát triển của truyện ngắn Việt Nam
1.1.3 Đặc điểm thể loại truyện ngắn
1.1.3.1 Dung lượng
1.1.3.2 Nội dung phản ánh hiện thực
1.1.3.3 Nhân vật
1.1.3.4 Cốt truyện và kết cấu
1.2 Tác giả Nguyễn Thi
1.3 Một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Thi
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THI
2.1 Hình ảnh quê hương đất nước trong truyện ngắn Nguyễn Thi
2.2 Số phận con người trong thời kì đất nước có chiến tranh trong
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi

CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi

truyện ngắn Nguyễn Thi
2.3 Tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong
truyện ngắn Nguyễn Thi
2.3.1 Người lính anh hùng, dũng cảm
2.3.2 Người phụ nữ kiên trung, đảm đang
2.3.3 Những đứa trẻ trong truyện ngắn của Nguyễn Thi

2.4 Nỗi lòng Bắc – Nam chia cắt trong truyện ngắn Nguyễn Thi
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THI
3.1 Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thi
3.1.1 Không gian nông thôn Nam Bộ
3.1.2 Không gian kháng chiến
3.2 Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thi
3.3 Ngôn từ mang đậm phong cách Nam Bộ
3.4 Nghệ thuật xây dựng nhân vật
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC

Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ khốc liệt trên cả hai miền đất nước đã gây ra biết
bao đau thương, mất mát cả máu và nước mắt cho nhân dân hai miền. Với tinh thần
“Miền Nam trong lòng miền Bắc” giữa những ngày nước sôi lửa bỏng ấy đã đem lại
một chuyển biến mạnh mẽ trong nhiều sáng tác của các nhà thơ, nhà văn sau cách
mạng tháng Tám 1945. Tình yêu lớn đối với Tổ quốc nổi bật trong các sáng tác của
các tác giả như: Vũ Thị Thường, Bùi Hiển, Bùi Đức Ái, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải,
Hồ Phương và không thể không nhắc đến Nguyễn Ngọc Tấn (Nguyễn Thi).
Nguyễn Thi là một trong số những cây bút trưởng thành trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Văn học thời kì này thể hiện tinh thần đồng lòng, cả nước lên
đường đánh Mỹ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, sống và chiến đấu hết mình để
phục vụ cách mạng, khao khát dùng ngòi bút của mình góp phần tích cực vào cuộc

chiến đấu đòi quyền sống của cả dân tộc. Khơi nguồn từ cuộc chiến đấu khốc liệt của
dân tộc, hàng loạt tác phẩm của Nguyễn Thi viết trong khói lửa, bom đạn của chiến
tranh đã ra đời. Những tác phẩm đầu tay như: tập truyện Trăng sáng (1960) và Đôi
bạn (1962) đều nói lên tâm tư, tình cảm của những người con miền Nam tập kết ra
Bắc nhớ về quê hương trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt hai miền. Đặc biệt, tố cáo
tội ác dã man của đế quốc Mỹ lúc bấy giờ. Tuy hai tập truyện ngắn chưa có nhiều nét
nổi bật nhưng người đọc đã cảm nhận được dấu hiệu của một tài năng trẻ đang đâm
chồi như Nguyễn Thi. Đồng thời, khởi đầu ấy đã tiếp thêm niềm tin để Nguyễn Thi
vững vàng dùng ngòi bút của mình dần khẳng định vị trí, phong cách riêng - một
phong cách già dặn tạo nên những trang viết đầy chất trữ tình đã đi vào lòng hàng triệu
trái tim thế hệ trẻ với tinh thần kiên cường, bất khuất, căm thù giặc sâu sắc. Bằng ngôn
từ mộc mạc, gần gũi, dễ hiểu Nguyễn Thi đã thể hiện được sự thành công của mình
qua tập Truyện và ký (1969) với bốn truyện ngắn: Chuyện xóm tôi, Mùa xuân, Mẹ
vắng nhà, Những đứa con trong gia đình đều mang sự dồn nén cao độ tính chất sử
thi hoành tráng được cảm nhận từ những con người, những xóm làng miền Nam đang
bước vào cuộc Đồng khởi chống Mỹ - Nguỵ.
Ngoài truyện ngắn, Nguyễn Thi còn thành công ở lĩnh vực truyện ký (Người
mẹ cầm súng, Ước mơ của đất) tiểu thuyết (Ở xã Trung Nghĩa, Sen trong đồng, Cô
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
2

gái Ba Dừa). Những tác phẩm này vừa ca ngợi sự gan dạ, dũng cảm của những người
phụ nữ trong chiến đấu với câu nói nổi tiếng của chị Út Tịch: “còn cái lai quần cũng
đánh”. Đó còn là những hình ảnh kiên trung của các chị không chỉ trong chiến đấu mà
còn là hình ảnh người vợ, người mẹ đảm đang trong gia đình. Với những sáng tác đó,
người đọc thấy được ánh sáng và hơi ấm của niềm tin vô biên vào cách mạng, vào
quần chúng, vào tình người. Đồng thời, với tư cách là người chiến sĩ - nghệ sĩ, Nguyễn
Thi đã dùng cây bút để “tâm tình” với cuộc đời, với con người, với nghệ thuật và
dùng cây súng để “nói chuyện” với quân thù bằng những hình ảnh bình dị, những

trang viết đậm chất Nam Bộ. Nhà văn đã ngã xuống trong tư thế một người lính chiến
đấu anh dũng, hiên ngang, một thủ trưởng dẫn đầu đoàn quân cảm tử hiên ngang trên
đường phố Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968 lịch sử, khẩu súng vẫn còn
nắm chắc trong tay, và đằng sau lưng chiếc ba lô vẫn nặng trĩu những trang bản thảo.
Những ý tưởng còn dang dở chưa kịp hoàn thành nhưng Nguyễn Thi đã để lại một
khối lượng tác phẩm vô cùng quý giá và là tấm gương lao động sáng tạo nghệ thuật
đáng trân trọng.
Những vấn đề tìm hiểu nêu trên là lý do để người viết mạnh dạn chọn đề tài
nghiên cứu: “Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi” với mong muốn hiểu rõ hơn về
con người và cuộc đời sáng tác của một nhà văn – người lính kiên cường. Từ đó,
người viết mong muốn làm nổi bật những đóng góp có giá trị của Nguyễn Thi cho nền
văn học cách mạng Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Thi viết truyện ngắn không nhiều nhưng tác phẩm của ông đã để lại
nhiều giá trị rất lớn cho nền văn học cách mạng miền Nam. Đó là bản án đanh thép tố
cáo chế độ Mỹ - Ngụy dã man, đồng thời dự báo cuộc cách mạng tất yếu xảy đến với
hình ảnh những người nông dân Nam Bộ chất phác, mộc mạc điển hình cho dân tộc
mà rất hiện đại, phù hợp với yêu cầu mới của cách mạng. Trang viết của Nguyễn Thi
đã góp vào nền văn học cách mạng miền Nam một mảng hương sắc riêng độc đáo.
Người viết xin giới thiệu một vài công trình nghiên cứu, một vài nhận xét của các nhà
phê bình để có cái nhìn đúng đắn hơn về tác phẩm của Nguyễn Thi.
Nguyễn Trọng Oánh trong bài viết “Những điều tôi biết về Nguyễn Thi” nhận
xét: có điều đáng trân trọng là một khi đã bắt tay vào làm việc thì thật tập trung, cật
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
3

lực: “Im lặng là nét đặc biệt của Nguyễn Thi im lặng mà viết, im lặng mà đọc sách, im
lặng mà quan sát, im lặng mà suy nghĩ, im lặng để rồi ít nói về mình” [20]. Vì những
bất hạnh của tuổi thơ, những thiếu thốn về tình cảm, vật chất nên ta thấy con người

nhà văn rất có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, sống hết mình vì cuộc
sống, kỉ luật nghiêm khắc với bản thân và đặc biệt là tinh thần quả cảm trong chiến
đấu.
Nhị Ca trong “Nhị Ca gương mặt còn lại” đã nhận xét tác phẩm Im lặng của
Nguyễn Ngọc Tấn: “Tỉnh và điên, trung thành và phản bội, tình cảm và thân xác, lý
tính, trí tuệ và trực giác, vô thức… mọi yếu tố đó theo những mức độ, tỷ lệ khác nhau,
đều có khá đầy đủ trong cái truyện này chứng tỏ những thủ pháp nghệ thuật phong
phú, dù mới có mầm móng ở một tác giả trẻ” [5;Tr.192]. Ở đây tác giả Nhị Ca đã
chứng tỏ được những thủ pháp nghệ thuật mới lạ với kết cấu truyện ngược chiều,
truyện này bắt chéo, giằng co xen kẽ truyện kia để mở ra bí mật của truyện nhưng nó
mới còn là mầm móng, một sự phát hiện mới ở một tác giả trẻ như Nguyễn Ngọc Tấn -
Nguyễn Thi.
Đỗ Kim Hồi thì lại có nhận xét: “Đọc truyện Nguyễn Thi, thấy tác phẩm của
ông nồng nàn hơi thở thô phác, ấm áp và mạnh mẽ của đất đai, những nhân vật của
ông cắm chắc vào đời sống, luôn luôn lăn lộn trong gian nguy, vất vả…” [3;Tr.593].
Hầu như các tác phẩm của Nguyễn Thi mang vẻ mộc mạc, thô phác nhưng bên trong
đó chứa cái chất trữ tình đằm thắm, nhẹ nhàng mà đi sâu vào lòng độc giả với những
nhân vật luôn hồn nhiên nhưng luôn chất chứa vẻ đẹp của người anh hùng thời đại.
Nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ đã đưa ra ý kiến nhận xét: “Trong tác phẩm
của Nguyễn Thi các màu sắc thẩm mĩ pha trộn, đan chéo nhau nhưng cái âm hưởng
chủ đạo vẫn là âm hưởng hùng tráng. Nguyễn Thi không có ý thức đi sâu vào những
sự tích phi thường, những biến cố trọng đại. Ông muốn phát hiện cái cao cả, vĩ đại
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần kì thông qua cuộc sống hằng ngày của
nhân dân. Qua những trang viết đầy tính nghệ thuật của ông, cái cao cả, cái đẹp của lí
tưởng đã hòa tan, thẩm thấu vào cuộc sống hằng ngày, rất bình thường nhưng cũng
rất vĩ đại. Nhà văn đã chứng minh được rằng bất kì một lĩnh vực tinh tế nào của đời
sống ý thức con người, bất cứ một âm điệu của âm giai mĩ học nào cũng có thể tìm
thấy được trong hình ảnh toàn vẹn của cuộc sống bình thường hằng ngày của quần
chúng cách mạng” [9;Tr.693]. Trong bài viết này, Phan Cự Đệ đã đánh giá khá cao
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi

CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
4

nội dung tác phẩm Nguyễn Thi đó là những cái cao cả, vĩ đại nhất nhưng khi đưa vào
trang viết Nguyễn Thi đều trở nên bình dị, gần gũi với cuộc sống đời thường.
Trong Văn học Việt Nam 1945-1975, các tác giả cũng đưa ra nhận xét của nhà
nghiên cứu Vũ Đức Phúc: “Cuốn tiểu thuyết viết dở ở xã Trung Nghĩa có thể so sánh
với Tắt đèn. Lời văn của anh nhẹ nhàng, giàu chất thơ mà rất sâu sắc, mỗi trang đều
lôi cuốn người đọc” [10;Tr.134].
Công trình nghiên cứu mới đây của Phan Cự Đệ “Truyện ngắn Việt Nam Lịch
sử - Thi pháp - Chân dung” đã nêu nhận xét: “Truyện và ký Nguyễn Thi (1969) xứng
đáng đưa ông vào hàng những cây truyện ngắn xuất sắc với sự súc tích, chất sử thi,
chất thơ đan lồng” [10;Tr.638]. Còn Ngô Thảo thì nhận xét: “Tác phẩm cũng như
cuộc đời Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi xứng đáng là một trang đẹp trong nền văn
học hiện đại” [23;Tr.33]. Với nhận định trên, các tác giả muốn khẳng định thêm
những trang viết của Nguyễn Thi đã thực sự xuất sắc, đông đảo độc giả yêu thích và
nhà văn Nguyễn Thi xứng đáng được cả nền văn học đón nhận với những đóng góp có
giá trị cao.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các nhận xét về con người, về tác phẩm
của nhà văn Nguyễn Thi còn khá ít. Hầu như các công trình nghiên cứu chỉ dựa vào
những bản thảo, những lời kể của đồng đội, của người thân nhà văn để nói về tiểu sử,
cuộc đời, sự nghiệp sáng tác cũng như những đóng góp của ông về những tác phẩm có
giá trị cho nền văn học cách mạng nên chưa được hệ thống, tìm hiểu cụ thể nên việc
nghiên cứu gặp không ít khó khăn và còn gặp nhiều sai sót đáng kể. Vì vậy, trong quá
trình nghiên cứu chúng tôi sẽ làm nổi bật một số phương diện của nội dung và nghệ
thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Thi. Đây là đề tài tương đối mới nên những công
trình nghiên cứu, nhận xét trên cũng cung cấp nhiều thông tin quý báu để chúng tôi
tiếp cận và làm nền tảng để có hướng đi đúng trong quá trình nghiên cứu đề tài đạt
được hiệu quả cao hơn.
3. Mục đích nghiên cứu

Khi tìm hiểu đề tài “Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi” chúng tôi hướng
tới làm rõ các vấn đề sau:
Đặc điểm về thể loại truyện ngắn.
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
5

Khẳng định những đóng góp của nhà văn Nguyễn Thi từ nội dung đến nghệ
thuật tác phẩm cho nền văn học nước nhà nói chung và góp thêm những bông hoa tươi
thắm, độc đáo cho văn học cách mạng nói riêng.
Việc tiếp cận tác phẩm sẽ làm nổi bật cái hay, cái giá trị, cái nhìn thấu đáo về
truyện ngắn Nguyễn Thi một nhà văn - chiến sĩ có nhiều đóng góp cho nền văn học
cách mạng. Đồng thời, còn giúp người viết hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp là điều
kiện để hoàn thành khoá học cũng như hành trang kiến thức để người viết bước vào
tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khi nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Thi thì vấn đề này rất rộng và đa dạng ở
nhiều góc độ, điểm nhìn khác nhau và khi ứng dụng vào nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm
truyện ngắn của Nguyễn Thi” thì chúng tôi chỉ giới thiệu và nêu một số biểu hiện
truyện ngắn Nguyễn Thi về mặt nội dung, nghệ thuật trước và sau năm 1960. Tuy
nhiên, do quá trình nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn khi tìm kiếm nguồn tư liệu về
nhà văn Nguyễn Thi, đồng thời thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên chúng tôi chỉ
nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Thi ở một số phương diện về nội dung, nghệ thuật
truyện ngắn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đáp ứng yêu cầu luận văn đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi
đã sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau:
Phương pháp phân tích: chia tách, phân loại nhân vật, không gian, thời gian
nghệ thuật trong các truyện ngắn của Nguyễn Thi để làm nổi bật giá trị nội dụng và
nghệ thuật của tác phẩm.

Phương pháp tổng hợp: ghi chép, sàng lọc, tổng hợp nhiều tư liệu về nhà văn
cũng như các truyện ngắn đã qua quá trình phân tích để nhìn nhận đúng đắn hơn về
đặc điểm của truyện ngắn trong tác phẩm Nguyễn Thi.
Đồng thời, chúng tôi kết hợp các phương pháp trên để triển khai bài viết được
mạch lạc qua đó làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
6

CHƯƠNG 1 – NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Thể loại truyện ngắn
1.1.1 Khái niệm truyện ngắn
Khái niệm truyện ngắn là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu còn thắc mắc
và chưa thống nhất với nhau có người đưa ra ý kiến này nhưng cũng có người đưa ra ý
kiến khác khó mà vừa lòng tất cả mọi người. Vì vậy, trong phạm vi đề tài nghiên cứu
này người viết xin đưa ra một số nhận định, và ý kiến của một số nhà văn, nhà nghiên
cứu trong nước và ngoài nước về khái niệm truyện ngắn.
Trong bài viết : “Nhìn lại truyện ngắn hiện đại”, nhà văn Anh H.E. Bates cho
rằng : “Truyện ngắn rất khó định nghĩa vì truyện ngắn có thể là bất cứ thứ gì mà tác
giả quyết định, từ tĩnh tại, không cốt truyện, từ bài thơ ở dạng văn xuôi, được vẽ chứ
không phải được viết, từ ánh sáng phát ra tia rực rỡ của cảm xúc không thể nắm bắt
được đến một câu chuyện chặt chẽ trong đó cảm xúc, hành động, phản hành động đều
được đo đạc, cố định, gắn chặt, đánh bóng và hoàn thiện như một ngôi nhà được xây
kĩ, sơn ba lớp bóng nhoáng và bền” [26;Tr.11]. Ở đây, nhà văn cho rằng chưa có một
định nghĩa cụ thể, đầy đủ cho thể loại truyện ngắn mà còn lý giải ở nhiều khía cạnh
khác nhau chưa định hình rõ về thể loại.
Nhà văn Nga K. Pauxtopxki cũng có một định nghĩa về truyện ngắn, gắn với
định nghĩa của Goethe: “Thực chất truyện ngắn là gì? Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là
một truyện viết ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái gì bình
thường và cái gì bình thường hiện ra như một cái không bình thường” [17;Tr.105].

Như thế các nhà sáng tác và lí luận đều thừa nhận yếu tố bất thường, kì lạ gây ngạc
nhiên và hấp dẫn đối với người đọc là đặc trưng chủ yếu của truyện ngắn hiện đại. Sự
đan xen giữa cái bình thường và cái không bình thường cũng chính là sự đan xen giữa
cái hợp lý và phi lý, lôgic và phi lôgic trong đời sống mà bản thân nghệ thuật cũng
chứa đầy tính ngẫu hứng và “Phi lôgic” của nó.
Còn theo nhà văn Mĩ U.Xaryoan: “Truyện ngắn là một thể tài văn học sinh ra
một cách tự nhiên, từ những câu chuyện hằng ngày, những câu đùa, những lời trêu
chọc của người này người nọ, người kia. Nó hết sức dẻo dai để thích hợp với mọi biến
động trong cảm hứng, cũng tức là tải được mọi sắc thái tài năng của người kể
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
7

chuyện” [18;Tr.104]. Tức, nhà văn cho rằng truyện ngắn được hình thành từ những cái
bình dị của đời thường mà ta có thể cảm nhận và khéo léo pha một chút sáng tạo thì có
thể tạo cho mỗi tác giả phong cách sáng tác riêng.
Theo nhà văn Nguyễn Công Hoan, “Truyện ngắn không phải là truyện, mà là
một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng một thái độ với
cách đặt câu có căn nhắc” [14]. Nhà văn cho rằng, truyện ngắn thì được viết bằng chi
tiết và các chi tiết ấy kết hợp chặt chẽ với tạo nên cảm xúc, sự thống nhất tạo nên một
tác phẩm.
Lê Huy Bắc trong Chuyên luận về truyện ngắn đã dẫn ra một truyện ngắn 27
chữ (tiếng Anh) của Thomas B. Aldrich: “Một người đàn bà đang ngồi trong ngôi nhà
cổ đóng kín cửa. Cô biết rằng cô cô đơn trên cõi trần; mọi thứ khác đều chết. Chuông
cửa reo” [ 4;Tr.25]. Phải chăng tác giả cho rằng truyện ngắn thì dung lượng phải ngắn
nhưng nó lại hàm súc và mang đầy đủ ý nghĩa. Còn nhà văn Nguyễn Kiên thì định
nghĩa truyện ngắn: “Tôi cho rằng mỗi truyện ngắn là một trường hợp…trong quan hệ
con người với con người, con người với đời sống, có những khoảnh khắc nào đó, một
mối quan hệ nào đó được bộc lộ. Truyện ngắn phải nắm bắt được cái trường hợp ấy”
[18]. Quan niệm trên của tác giả, mỗi truyện là một trường hợp có nghĩa là nhà văn đã

vận dụng toàn bộ kinh nghiệm sống và bản lĩnh nghệ thuật để soi sáng đời sống tại
những thời khắc tiêu biểu, loé sáng và từ đó vạch ra được bản chất, quy luật của đối
tượng phản ánh.
Còn theo Từ điển văn học, truyện ngắn được hiểu là: “Một thể loại tự sự cỡ
nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương tiện đời sống con
người và xã hội. Truyện ngắn khác truyện vừa và truyện dài – vốn là những thể tài mà
qui mô cho phép chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự toàn vẹn, đầy đặn của nó -
truyện ngắn thường nhằm khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một đặc tính trong quan
hệ con người hay trong đời sống tâm hồn con người” [13;Tr.10].
Nhìn chung lại, hầu hết các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đều đưa
ra cách nhìn đa chiều về định nghĩa truyện ngắn. Từ các nhận định trên người viết có
thể đưa ra một định nghĩa khái quát về truyện ngắn: Truyện ngắn là hình thức tự sự cỡ
nhỏ, nhưng bản thân truyện ngắn là thể loại tái hiện cuộc sống đương thời. Nó chỉ là
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
8

một đoạn đời nhân vật, một lát cắt, một hiện tượng xã hội, một khoảnh khắc nội tâm
của con người,…thông qua lăng kính của nhà văn.
1.1.2 Sự hình thành và phát triển của truyện ngắn Việt Nam
Trên văn đàn Việt Nam, thể loại truyện ngắn đạt được nhiều thành tựu rực rỡ và
có lần Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Trong những truyện ngắn có nhiều
truyện rất hay, tôi để ngang với bất cứ truyện của nước nào” [10;Tr.7]. Còn Georg
Lucacs gọi truyện ngắn là “nghệ thuật thuần tuý” [22;Tr.315]. Không phải ngẫu nhiên
mà trong thời kì hiện đại truyện ngắn Việt Nam có nhiều tác phẩm xuất sắc và nhiều
phong cách nghệ thuật độc đáo.
Truyện ngắn Việt Nam đã có truyền thống từ rất lâu đời. Những tập truyện đầu
tiên có tính chất truyền kỳ lịch sử đã xuất hiện từ đời Trần, đời Hồ. Chính nhà văn
Nguyễn Dữ ( thế kỉ XVI) đã sáng tác Truyền kỳ mạn lục, tạo nên thể “kỳ truyện”, mở
đường cho truyện ngắn phát triển liên tục cho tới tận bây giờ. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ

XIX, truyện ngắn dân tộc đã phát triển phong phú và có nhiều kiểu, nhiều màu sắc
khác nhau. Có những loại truyện mang tính chất dân gian (Lĩnh Nam chích quái)
nhưng cũng có loại truyện có nội dung triết học (Thiền uyển tập anh, Tam tô thực
lục), có loại truyện tập trung xây dựng một tính cách hay mang tính truyền kì hay tính
chất lãng mạn, tính chất luận đề (Truyền kỳ mạn lục) lại có truyện mang tính chất ngụ
ngôn như: Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục,…
Đến giai đoạn văn học 1900 – 1930, khi xã hội có tính giao thời giữa cái cũ và
cái mới cùng với sự ra đời của chữ quốc ngữ và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây
thì truyện ngắn có bước tiến bộ rõ rệt rất hợp với nhu cầu thưởng thức của độc giả đòi
hỏi như một món ăn tinh thần mới lạ vốn có tiêu biểu như: Truyện thầy Lazarô Phiền
của Nguyễn Trọng Quản hay các truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc
Phách,…
Giai đoạn 1930 – 1945 là giai đoạn phát triển hưng thịnh của truyện ngắn trước
hết là đội ngũ đông đảo của các nhà văn tài năng xuất hiện như một vận hội của văn
học nước nhà như: nhóm Tự lực văn đoàn (Nhất Linh, Khải Hưng, Thạch Lam,
Hoàng Đạo) những truyện ngắn của họ mang tính chất lãng mạn và mang màu sắc cải
lương, thị vị hóa cuộc sống. Ngoài ra, chúng ta còn biết đến những tên tuổi của các
nhà văn như: Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài,… Những tác
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
9

giả này đều phản ánh hiện thực, sự đấu tranh giai cấp, cái đói và sự tha hóa của con
người trước xã hội thực dân nửa phong kiến. Đồng thời mang tính chất dành cho
những người cùng khổ.
Văn học giai đoạn từ 1945 – 1975 với sự phát triển mạnh mẽ của truyện ngắn.
Sau thành công của cách mạng tháng Tám, hiện thực cuộc sống đã mang đến nguồn
chất liệu phong phú, dồi dào cho nhà văn trong quá trình sáng tác. Công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc đem lại niềm tin vào cuộc sống. Bên cạnh đó, khí
thế hào hùng ra trận của cả dân tộc trước sự tàn phá của chiến tranh luôn luôn đặt ra

những vấn đề đòi hỏi nhà văn phải nhạy bén, tích cực sáng tạo đáp ứng nhu cầu thẩm
mĩ của người đọc trên các sáng tác của Nguyễn Tuân, Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn
Khải, Phan Tứ, Nguyễn Quang Sáng,…
Trong văn học thời kì đổi mới, truyện ngắn càng hoàn thiện hơn, tiếp thu được
những giá trị truyền thống và đối mặt với thực tại cuộc sống sau chiến tranh. Trên cơ
sở gắn bó và nhận thức sâu sắc về hiện thực cuộc sống, các nhà văn đã nhanh chóng
chiếm lĩnh hiện thực để khám phá và sáng tạo thành công nhiều tác phẩm. Con người
nói lên tiếng nói riêng của mình, vấn đề cá nhân, đạo đức, quan niệm hạnh phúc,…
được đề cập tạo nên những suy ngẫm về giá trị cuộc sống. Truyện ngắn giai đoạn này
không chỉ đảm bảo về chất lượng mà cả về số lượng có thể điểm qua một số tác phẩm
như: Phiên chợ giát, Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu), Tướng về hưu (Nguyễn Huy
Thiệp), Bước qua lời nguyền (Tạ Duy Anh),…Sự tìm tòi, nổ lực của các nhà văn cần
được khẳng định và trân trọng, nó đã đem lại một sinh khí mới và những thành tựu
mới cho nền văn học nước nhà nói chung và thể loại truyện ngắn nói riêng.
Dù trải qua nhiều giai đoạn khác nhau nhưng truyện ngắn đã thực sự thể hiện
được những nét độc đáo, những thành công nhất định về mặt nội dung, hình thức nghệ
thuật đặc sắc với nhiều phong cách sáng tác riêng của từng tác giả ở từng thời kì khác
nhau. Mặt khác, truyện ngắn còn góp phần thúc đẩy văn học nước nhà phát triển nhằm
khẳng định vị trí và sánh vai với văn học nước ngoài.
1.1.3 Đặc điểm thể loại truyện ngắn
1.1.3.1 Dung lượng
Truyện ngắn là thể loại tự sự cỡ nhỏ, đồng thời là một thể loại viết bằng văn
xuôi thể hiện tính chất trần thuật - tính kể truyện theo những chủ đề đã được xác định.
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
10

Truyện ngắn đề cập hầu hết các phương diện đời sống con người và xã hội với dung
lượng nhỏ nhưng vẫn đảm bảo nội dung tư tưởng muốn nói.
Dung lượng (được hiểu là kích cỡ, sức chứa, lớn nhỏ) là khả năng ôm trùm bao

quát hiện thực, là sức chứa chất liệu đời sống, dung lượng được hiểu theo nghĩa khả
năng của nội dung phản ánh hiện thực của thể loại.
Vì có dung lượng ít, nhiều khi truyện ngắn có vẻ gần gũi với các truyện dân
gian như: truyền thuyết, huyền thoại, truyện cười, truyện ngụ ngôn,…hoặc gần với
những bài ký ngắn. Nhưng thực ra không phải nó gần với tiểu thuyết hơn cả bởi hình
thức tái hiện cuộc sống đương thời. Khác với Tiểu thuyết là sự huy động cảm xúc một
cách quy mô và lâu dài, bởi vậy để hoàn thành một tiểu thuyết tác giả phải cần một
thời gian dài có thể là vài tháng hay vài năm thậm chí lâu hơn nữa thì truyện ngắn
được viết ra trong thời gian rất ngắn có thể là vài ngày thậm chí là vài giờ với những
trải nghiệm lâu dài đã được tích tụ. Nhưng một truyện ngắn được hình thành khi có sự
khơi gợi từ cuộc sống và ý tưởng đang lóe sáng trong đầu, với ý đồ đã được xác lập
trước mà cụ thể: đầu tiên đó là tên truyện và sau đó câu chuyện sẽ diễn ra đúng tiết tấu
của nó, nhà văn phải đứng ở ngôi thứ mấy tức là đã xác định từ đầu giọng kể của tác
giả (khi đó nhà văn chính là nhân vật xưng “tôi” hay là hóa thân vào bất kì một nhân
vật nào đó trong truyện). Từ một ý tưởng tạo ra cơn “bùng nổ” sáng tạo, ngay lập tức
vốn sống và ngôn ngữ sẽ uà về tràn ngập tạo nên sự thăng hoa của suy tư và tác phẩm
truyện ngắn sẽ được hình thành rất nhanh mà không hề có kế hoạch trước như tiểu
thuyết. Vì vậy, tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn miêu tả cuộc sống bằng một quá
trình đầy tỉ mỉ và chi tiết thì truyện ngắn là hình thức tự sự cỡ nhỏ thể hiện một lát cắt,
một hiện tượng xã hội, một tâm trạng của nhân vật,…Và tiểu thuyết xoáy sâu vấn đề ở
diện rộng thì truyện ngắn là xoáy nhỏ vấn đề ở tiêu điểm.
Vì thế ta có thể hiểu về dung lượng truyện ngắn theo Bùi Việt Thắng đã đưa ra
nhận định sau: “Lớn - nhỏ, nhiều - ít, quá trình - kết quả, đa tuyến - đơn tuyến, toàn
cảnh - cận cảnh, diện - điểm…” [25;Tr.73]. Chẳng hạn, Chiến tranh và hoà bình, tiểu
thuyết – sử thi của L.Tônxtôi với gần 500 nhân vật trong gần 2000 trang sách khác
nhau với Một chuyện đùa khoảng 2000 chữ của Tsêkhôp, một bên là tranh toàn cảnh,
hoành tráng, một bên là ký hoạ.
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
11


1.1.3.2 Nội dung phản ánh hiện thực
Truyện ngắn mang đầy đủ những đặc điểm của loại hình tự sự, tức là tái hiện
đời sống trong tính khách quan của nó qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi
một người kể chuyện nào đó với giọng trần thuật. Đó là sự tái hiện đời sống khách
quan thông qua sự nhận thức, đánh giá, khái quát thể hiện mang tính chủ quan của nhà
văn là sự thống nhất biện chứng giữa chủ quan và khách quan phải tập trung phản ánh
đời sống, con người qua các biến cố, các sự kiện xảy ra với nó, nó có tác dụng phơi
bày những mặt nhất định của bản chất con người thông qua hình tượng một cách gián
tiếp. Tiểu thuyết thường vươn tới cái toàn thể còn truyện ngắn thì lại hướng về cái đơn
chất. Nói đơn chất chứ không phải là đơn giản tức là truyện ngắn sẽ kể lại một tình
huống, môt sự kiện, một tâm trạng, một hiện tượng, một đời người đã được thâu tóm
trong một nét nào đó và nó phải hướng người ta đến một ấn tượng hay một phát hiện
về một đặc tính mới trong quan hệ con người, trong đời sống tâm hồn con người.
Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp chồng chéo, nó không dài dòng mà
đi thẳng vào vấn đề. Nó dừng lại vài ba cảnh, vài trang để miêu tả cảnh - phần “râu
ria” của tác phẩm. Có chăng trong truyện ngắn đó là những đoạn tả cảnh, tâm trạng để
góp phần thể hiện nội tâm, bản chất, tính cách của nhân vật. Thêm vào đó là truyện có
ngắn, nhưng không thể ngắn hơn cái mức người ta có thể hiểu ý đồ của tác giả.
Về nội dung, truyện ngắn có thể kể về cả một cuộc đời, một đoạn đời, một sự
kiện hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật. Chẳng hạn truyện ngắn “Một con
người ra đời” không tái hiện toàn bộ cuộc đời nhân vật mà chủ yếu miêu tả những
hành động của nhân vật xoay quanh sự kiện: đứa bé ra đời trong hoàn cảnh khó khăn,
thiếu thốn rồi cuộc di cư hay trong tập truyện ngắn Tây Bắc gồm 3 truyện ngắn
(Mường Giơn, Cứu đất cứu mường, Vợ chồng A Phủ) của Tô Hoài miêu tả về cảnh
đời của những người phụ nữ Tây Bắc nghèo khổ với tất cả nỗi niềm cảm thông sâu sắc
nhân vật Mị, một cô dâu gạt nợ chết dần, chết mòn giữa địa ngục trần gian của nhà
thống lí Pá Tra, hay thân phận của cô Ảng từ cô gái có vẻ đẹp nổi tiếng ở Mường Giơn
bị xem như món đồ chơi qua tay nhiều quan châu, quan lang, chúa đất cho đến khi tàn
tạ trở về thành bà lão Ảng ăn mày… đã để lại cho người đọc biết bao điều suy nghĩ về

cuộc sống đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ Tây Bắc dưới sự đè nén áp bức nặng
nề của chế độ thực dân và phong kiến ở miền núi. Hay cuộc đời của Chí Phèo, Chí
sinh ra bị bỏ rơi - người ta nhặt được - lớn lên đi ở cho nhà Lý Kiến - đi tù - trở về tha
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
12

hoá nhân hình nhân tính - gặp Thị Nở - bị từ chối - vác dao đến giết Bá Kiến và tự
tử,…
Tóm lại, truyện ngắn có nội dung phản ánh những giá trị cuộc sống khá hiện
thực thể hiện được cách nhìn của nhà văn về những khía cạnh con người, đời sống khá
đầy đủ và góp phần làm nổi bật vấn đề truyền đạt của nhà văn đến độc giả.
1.1.3.3 Nhân vật
Khác với nhân vật tiểu thuyết, nhân vật trong truyện ngắn ít được miêu tả nội
tâm mà thường được thể hiện thông qua những hành động cụ thể. Ở đó, nhân vật còn
thể hiện rất rõ phong cách nhà văn, thậm chí liên hệ tới những khía cạnh đời tư của
nhà văn. Thông qua nhân vật tài hoa như Huấn Cao (Chữ người tử tù), con người có
gốc rễ văn hoá như cụ Sáu (Những chiếc ấm đất) ta nhận thấy được những nét tính
cách của Nguyễn Tuân một nho sĩ tinh tế trong ứng xử và lịch lãm trong cách sống.
Còn Nam Cao có kiểu nhân vật giáo giới – tri thức như Điền (Trăng Sáng), Hộ (Đời
thừa), con người của sự tranh cãi giành lại lẽ phải của mình,… Tuy nhiên, mỗi hành
động, tính cách nhân vật đều toát lên một ý nghĩa riêng giúp cho người đọc nhận ra
một điều gì đó trong cuộc sống góp phần làm nên thành công thể loại truyện ngắn.
Chính vì thế, có ý kiến nhận xét: “Tiểu thuyết như căn phòng đầy đủ, tiện nghi và ấm
cúng còn truyện ngắn như bức tranh tuyệt đẹp duy nhất mà người chủ có óc thẩm mỹ
biết lựa chọn và bức tranh đó là Thiếu nữ bên hoa huệ hoặc người đàn bà không quen
biết” [25;Tr.132]. Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân hiện lên hình ảnh bà cụ Tứ,
anh Tràng, thị đó là hình ảnh những con người nghèo khổ, đói rách của nạn đói trước
cách mạng tháng Tám năm 1945 hay cụ Mết trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung
Thành là người mang lại sức sống, tiếp thêm niềm tin đi lên cho dân làng Xô Man toát

lên hình ảnh những con người khốn khổ, những con người ý thức được cuộc sống của
mình làm sinh động thêm hình tượng con người trong truyện ngắn. Đồng thời, tác
phẩm truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản
chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người do vậy trong truyện
ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Truyện ngắn thường không nhằm tới việc
khắc họa nhân vật với những nét tính cách điển hình có cá tính đầy đặn, nhiều mặt
trong tương quan hoàn cảnh, mà nhân vật trong truyện ngắn thường là hiện thân cho
một trạng thái xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Mặt khác,
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
13

truyện ngắn có thể mở rộng diện nắm bắt các kiểu nhân vật đa dạng của cuộc sống
chẳng hạn như: nghề nghiệp, xuất thân, gia đình, bạn bè, Điều đó thể hiện qua các
truyện ngắn xuất sắc của L.Tôn xtôi, Gorki, Sô-Lô-Khốp, lỗ Tấn hoặc các truyện ngắn
của Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Bùi Hiển,
Nguyễn Khải,…
Qua vấn đề phân tích trên, chúng ta cần thấy rõ nhân vật trong truyện ngắn
được thể hiện như một “Khoảnh khắc” nhưng đã làm rõ vấn đề con người trong cuộc
sống dù tính cách nhân vật không phải lúc nào cũng là hoàn chỉnh lúc tốt, lúc xấu về
bản chất con người. Nhưng chính nhân vật mới là cái thuần túy, cõi lõi làm nên sự
thành công của thể loại truyện ngắn.
1.1.3.4 Cốt truyện và kết cấu
Các nhà nghiên cứu văn học đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về cốt
truyện. Theo Phương Lựu trong giáo trình Lí luận văn học, cho rằng: “Cốt truyện
thực chất là cái lõi diễn biến của truyện từ xảy ra cho đến kết thúc” [16]. Còn theo Lại
Nguyên Ân “Cốt truyện là sự phát triển hành động; tiến trình các sự việc, các biến cố
trong tác phẩm” [2]. Nhìn chung, các tác giả đồng quan niệm cho rằng cốt truyện là kể
về các biến cố, trình tự sự việc theo trật tự nhất định có mở đầu – kết thúc.
Người ta có thể lấy ý tưởng cốt truyện từ những gì cảm nhận trong cuộc sống, ở

toà nhà, ở bệnh viện, ở sân ga, bến tàu, ở khắp mọi nơi trong cuộc sống, nhưng khai
thác nó ở góc độ nào, từ tư tưởng – chủ đề nào thì lại là công việc của nhà văn. Không
có chủ đề riêng, truyện sẽ nhạt, không sâu sắc, không hấp dẫn người đọc. Juan Bosch -
nhà văn - nhà hoạt động chính trị Dominich viết: “Trong các thể loại văn học nói
chung, truyện ngắn đóng vai trò như vai trò của hổ báo trong đại gia đình các loài
vật. Ở loài thú dữ này, không được có chút mỡ thừa nào dính vào mọi cơ bắp, nếu
không chúng không thể săn mồi được. Người viết truyện phải có tâm lý của hổ báo là
luôn luôn “tấn công” người đọc, lại phải có khả năng đánh hơi các loài thú dữ đó để
tìm ra chủ đề và tính xem đến khoảng nào thì cần lao vào con mồi, dùng sức thế nào là
vừa vì thế trong một cốt truyện ẩn giấu, biến hoá, chủ đề cần phải thu hút được cảm
tình của người đọc. “khuất phục” được chủ đề, tạo được một chủ đề có ấn tượng
mạnh, tức khuất phục được người đọc” [10;Tr.445]. Vì vậy, sự hấp đẫn của cốt truyện
trong truyện ngắn chính là tái hiện cuộc sống, ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
14

người. Chẳng hạn, cốt truyện của truyện ngắn Nam Cao thường phơi bày nhiều
phương diện đời sống của người nông dân và nông thôn Việt Nam trước năm 1945.
Ngoài ra, cốt truyện trong truyện ngắn phải được tổ chức chặt chẽ, thống nhất cao
không đồng nghĩa với việc là cốt truyện phải li kì, lắt léo người đọc mà nó phải dễ
hiểu, phản ánh sự vận động cuộc sống một cách lôgic góp phần làm sáng tỏ được vấn
đề đúc kết.
Kết cấu của truyện ngắn thường là sự tương phản, liên tưởng, bút pháp trần
thuật là chấm phá. Nếu như cốt truyện thuộc về nội dung thì kết cấu là một yếu tố
thuộc về hình thức. Một trong những nhiệm vụ của kết cấu là phải tổ chức mối quan hệ
giữa những yếu tố trong và ngoài cốt truyện nhằm làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác
phẩm và tính cách của nhân vật. Hêghen đã nêu: “Nội dung chẳng là cái gì khác, mà
hình thức chuyển hoá thành nội dung; còn hình thức chẳng là cái gì khác mà chính là
nội dung chuyển hoá thành hình thức”. Còn trong Trang giấy trước đèn, Nguyễn

Minh Châu viết: “Cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi ở người viết một công việc
tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ thuật tinh xảo
– kĩ thuật viết truyện ngắn. Nó giống như kĩ thuật của con người làm pháo, dồn nén tư
tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [7;tr.25]. Vì vậy, kết cấu có
vai trò quan trọng trong việc thực hiện sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ đề tư tưởng với
tính cách nhân vật, tình huống truyện. Hơn thế nữa, kết cấu còn là sự phác hoạ, phác
thảo, là phương châm hành động để nhà văn hình dung được, đoán được đường đi
nước bước cho công việc.
Có nhiều kiểu kết cấu khác nhau như: kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấu
bằng cách đi thẳng vào giữa truyện, kết cấu theo hai tuyến nhân vật, kết cấu tâm lý.
Tuỳ vào sáng tác của các nhà văn mà có những kiểu kết cấu khác nhau. Ngoài ra, chi
tiết của truyện ngắn có dung lượng lớn và mang tính ẩn ý tạo cho tác phẩm có chiều
sâu gợi nhiều liên tưởng cho người đọc. Ví dụ trong tác phẩm “Mảnh trăng cuối
rừng”, Nguyễn Minh Châu đã dùng nhiều chi tiết không chỉ miêu tả vẻ đẹp bên ngoài
là thuỳ mị, dịu dàng của Nguyệt mà còn khẳng định sức sống mạnh mẽ, kiên trung
trong chiến đấu đại diện cho cả thế hệ thanh niên dám hy sinh những lợi ích, mơ ước
cá nhân cho nền hoà bình đất nước. Tóm lại, chi tiết cũng rất quan trọng làm nên thành
công truyện ngắn vì vậy khi chọn lựa chi tiết phải chọn chi tiết hay, dễ hiểu để đưa vào
tác phẩm làm cho truyện ngắn gần gũi với người đọc hơn.
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
15

Ngày nay, ngoài các đặc điểm trên thì truyện ngắn hiện đại cón sử dụng một số
thủ pháp nghệ thuật của điện ảnh, mặt khác nhiều truyện ngắn đã được chuyển thể
thành phim truyện (Vợ chồng A phủ của Tô Hoài, Người về đồng cói của Lê Lựu, Cỏ
lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu,
Thương nhớ đồng quê của Nguyễn Huy Thiệp, Người sót lại của rừng cười của Võ
Thị Hảo).
Từ đó, chúng ta có thể khái quát được những đặc điểm chung của truyện ngắn

như sau: Đó là một hệ thống đặc điểm phản ánh những đặc trưng về hình thức, về chủ
đề, về kết cấu và cốt truyện, về ngôn ngữ và các thủ pháp nghệ thuật. Truyện ngắn
thường miêu tả một lát cắt của đời sống, một giai đoạn, thậm chí một khoảnh khắc,
một phút loé sáng đầy ý nghĩa khám phá trong cuộc đời nhân vật. Với truyện ngắn,
người tiếp nhận có thể tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghĩ. Do tính ngắn
gọn nên truyện ngắn thường tập trung cao độ xung quanh một chủ đề; cốt truyện
thường xây dựng trên một hành động cỡ nhỏ, đơn giản trong một không gian và thời
gian nhất định với những chi tiết được chắt lọc, tiết kiệm, dồn nén nhằm hướng tới một
hiệu quả duy nhất ở phần kết thúc. Đồng thời, do tính cô đúc, dồn nén, tập trung của
những chi tiết, tính hàm ý, hàm súc của ngôn ngữ, tính biểu tượng của các nhân vật
nên truyện ngắn có thể biểu hiện những vấn đề xã hội có tầm khái quát rộng lớn. Vì
vậy, trong quá trình phát triển, truyện ngắn cần thâu nạp thêm những đặc điểm mới do
sự tác động qua lại giữa các thể loại, do sự chi phối của các trào lưu và phương pháp
sáng tác, của các phương tiện đọc và cách đọc, nghe, nhìn để thể loại truyện ngắn ngày
càng phong phú, đa dạng hơn.
1.2 Tác giả Nguyễn Thi
Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, còn có bút danh khác là Nguyễn
Ngọc Tấn, sinh ngày 15-5-1928 tại xã Quần Phương Thượng, Hải Hậu, Nam Định.
Cha ông là hương sư Nguyễn Bội Quỳnh, sau bị sa thải vì tham gia hoạt động yêu
nước, mẹ ông là bà Thành Thị Du (vợ hai). Khi hoàn cảnh gia đình bị sa sút, hai mẹ
con Nguyễn Hoàng Ca phải sống trong hoàn cảnh thật éo le, nơm nớp lo sợ những trận
đòn ghen từ người vợ cả. Rồi cha mất, mẹ đi bước nữa. Tuổi thơ Nguyễn Hoàng Ca
bắt đầu những ngày tháng bất hạnh, có lúc phải tự kiếm sống như một đứa trẻ lang
thang.
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
16

Nguyễn Hoàng Ca theo một người bà con vào Nam từ trước cách mạng tháng
Tám; bắt đầu tham gia cách mạng năm 17 tuổi; làm thơ, viết văn với bút danh Nguyễn

Ngọc Tấn; là đội viên đội Cảm tử quân trong những ngày tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn;
được kết nạp vào Đảng năm 1947 (19 tuổi). Năm 1953, Nguyễn Ngọc Tấn cưới vợ
(một diễn viên văn công quê ở Sài Gòn). Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác tại
Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Tháng 5 - 1962, Nguyễn Ngọc Tấn xung phong vào Nam, đổi bút danh là
Nguyễn Thi (tên của đứa con trai, với vợ sau ở miền Bắc). Ông tham gia hoạt động
cách mạng ở lĩnh vực thông tin tuyên truyền, là thành viên tích cực của lực lượng Văn
nghệ Quân Giải phóng. Trong sáu năm chiến đấu, Nguyễn Thi có mặt tại hầu hết
những điểm nóng của chiến sự như Ấp Bắc, Củ Chi, Bến Tre,…
Tháng 5 - 1968, Nguyễn Thi theo một đơn vị pháo binh trong đợt tổng tiến
công Mậu Thân đợt 2 và đã hi sinh trên chiến trường vào ngày 09-5-1968 (tại đường
Minh Phụng, quận 11, Sài Gòn). Cho đến lúc ngã xuống Nguyễn Thi vẫn chưa một lần
gặp mặt đứa con gái đầu lòng của mình (bé Trang Thu đang ở với ông bà ngoại trong
nội thành Sài Gòn).
Nguyễn Thi tính tình nóng nảy, có khi tỏ ra cực đoan: “Sinh ra mang sẵn trong
mình nhiều lạnh lùng kín đáo hơn cởi mở hân hoan”. Bản thân nhà văn cũng nhận ra
và rất buồn vì sự khó tính của mình. Đây chính là dấu vết khó lòng gột rửa, bởi trong
những ngày tháng lang thang kiếm sống cậu bé Ca đã phải gai góc, ngang ngạnh để tự
vệ, để tồn tại.
Nguyễn Thi có một năng khiếu nghệ thuật thật đa dạng. Ở Tạp chí Văn nghệ
Quân Giải phóng, ông viết diễn ca, vẽ bìa, vẽ minh họa rồi dạy múa, dạy hát, tự mình
có thể diễn kịch, múa lân.
Cuộc đời riêng tuy gặp nhiều éo le, trắc trở nhưng Nguyễn Thi không bao giờ
khuất phục trước nghịch cảnh. Chỉ được học hết tiểu học nên ông phải tập viết rất công
phu, đến mức khổ luyện. Ông như con trai biết nén nước mắt vào bên trong phòng kín
nỗi đau để làm nên hạt ngọc cho đời. (Trong nhật kí, Nguyễn Thi đã đau đớn thừa
nhận: “Đời tôi, từ lòng thương mẹ, trình độ học thức, ngày vui sướng, cuộc tình duyên,
cho tới tương lai ngày mai văn nghệ, tất cả đều lận đận và lở dở”).
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi

17

Với những đóng góp to lớn cho nền văn học Nguyễn Thi đã được Nhà nước
trao tặng nhiều Giải thưởng văn học có giá trị: Giải thưởng Văn nghệ Cửu Long giang
(1949 - 1950), Giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu (1965), Giải thưởng Hồ Chí
Minh về Văn học nghệ thuật đợt II (2000).
1.3 Một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Thi
Tác phẩm của Nguyễn Thi được viết ở nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu
thuyết như: Hương đồng nội (Thơ - 1950), Trăng sáng (Truyện ngắn - 1960), Đôi
bạn (Truyện ngắn - 1962), Truyện và Kí (1969), Năm tháng chưa xa (Sổ tay ghi chép
- 1986).
Nguyễn Thi viết truyện ngắn không nhiều nhưng truyện nào cũng có giá trị,
khẳng định sức sống mãnh liệt của con người trước những thử thách của lịch sử, góp
phần làm phong phú, rạng ngời diện mạo văn học Việt Nam thời kỳ chống Mỹ cứu
nước. Có thể tìm hiểu quá trình sáng tác của Nguyễn Thi qua hai giai đoạn: Từ 1950
đến 1962, ông sáng tác ở miền Bắc với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn, các tác phẩm tiêu
biểu: tập thơ Hương đồng nội, hai tập truyện ngắn Trăng sáng, Đôi bạn. Từ 1963 đến
1968, ông sáng tác ở miền Nam với bút danh Nguyễn Thi, các tác phẩm tiêu biểu được
tập hợp trong quyển Truyện và ký Nguyễn Thi.
Hai tập truyện ngắn Trăng sáng (1960), Đôi bạn (1962) mỗi tập gồm 7 truyện
như: Quê hương, Trăng sáng, Về Nam, Món quà tết, Đôi bạn, Cậu Huân, Hai cha
con người chính uỷ, Ngày về,…Những tác phẩm này đã nói lên tâm trạng chung của
những người đi tập kết, khi hẹn hai năm Tổng tuyển cử thống nhất đất nước đã qua,
khi miền Nam còn chìm trong sự đàn áp của đế quốc Mỹ. Đồng thời, các truyện ngắn
đó còn nói lên tình nghĩa quân dân (giữa đồng bào miền Bắc với bộ đội miền Nam đi
tập kết) cộng với những chuyện không may của đời riêng in đậm dấu ấn trong sáng
tác. Còn truyện ngắn sau 1960 không nhiều nhưng đã để lại những thành công đáng kể
của Nguyễn Thi khi xây dựng những hình ảnh thanh thiếu niên và phụ nữ. Qua chuyện
xóm tôi (1964) đã thấy được lòng căm thù giặc sâu sắc của hai đứa trẻ tên Đực và
Bỉnh ý chí quật khởi của người Việt Nam đó là quyết tâm trả thù nhà, nợ nước. Mùa

xuân cũng nói lên tinh thần nô nức, hăng hái đi tòng quân của thanh niên lúc bấy giờ,
cái nhìn bao quát hơn về cách mạng, về vai trò sức mạnh của quần chúng. Những đứa
con trong gia đình (1966) chuyện nói về hai chị em Chiến và Việt tiêu biểu cho thế hệ
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
18

trẻ miền Nam hăng hái lên đường tòng quân giết giặc, khẳng định truyền thống cách
mạng của gia đình. Mẹ vắng nhà viết sau Người mẹ cầm súng kể về hình ảnh những
đứa con của chị Út Tịch đã sống thật ấm áp trong sự đùm bọc, cưu mang đầy tình
nghĩa và trách nhiệm của bà con lối xóm, dù cha mẹ chúng luôn vắng nhà. Bên cạnh,
hai tập Trăng sáng và Đôi bạn còn một số bài của Nguyễn Ngọc Tấn được đăng báo
có thể kể tên các truyện ngắn theo trật tự thời gian như: Cha con, Chưa nói, Trong
xóm nhỏ, Im lặng, Một cuộc tranh luận,…đều nói lên phong cách tìm tòi, sáng tạo và
quá trình lao động nghiêm túc của nhà văn.
Ngoài truyện ngắn, Nguyễn Thi còn viết thơ tập thơ Hương đồng nội (gồm 20
bài) như: Áo mới, Thư tháng bảy, Em về mặc áo, Tặng một con người,…đã thể hiện
được tiếng lòng của một thanh niên đang chập chững trên đường văn chương, tập quan
sát, miêu tả và tự thể hiện nên giá trị nghệ thuật chưa cao. Ký (Người mẹ cầm súng,
Những sự tích đất thép, Dòng kinh quê hương), dù không mang nét tài hoa, uyên bác
như tuỳ bút của Nguyễn Tuân hay chất hùng tráng, mạnh mẽ của Nguyễn Trung Thành
nhưng người đọc đã cảm nhận được chất giọng trữ tình tha thiết và bút pháp nghệ
thuật giản dị, trong sáng trong sáng tác Nguyễn Thi. Hơn thế nữa, Nguyễn Thi còn thử
sức mình ở lĩnh vực viết tiểu thuyết (Ở xã Trung Nghĩa, Sen trong đồng (còn dở
dang), Cô gái Ba Dừa) nhưng đã thể hiện được sự thành công nhất định trong những
sáng tác.
Nhìn chung, những sáng tác của Nguyễn Thi trong giai đoạn này dù không
nhiều nhưng đã tái hiện được không khí chiến đấu mãnh liệt của người dân Nam Bộ.
Đồng thời, thể hiện được sức mạnh, tinh thần đoàn kết, quật khởi của cả dân tộc trong
một thời kì khá dài chống Mỹ - Nguỵ, sáng tác của Nguyễn Thi đã làm rạng rỡ, phong

phú thêm nền văn học cách mạng.






Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
19

CHƯƠNG 2 – ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THI
2.1 Hình ảnh quê hương đất nước trong truyện ngắn Nguyễn Thi
Vốn sinh ra ở miền Bắc nhưng Nguyễn Thi lại gắn bó gần như cả cuộc đời
mình cho mảnh đất Nam Bộ thân thiết. Những địa điểm Nam Bộ luôn in đậm kỉ niệm
trong sáng tác của ông với những năm tháng khó quên như: Mỹ Tho, Bến Tre, Củ Chi,
Tây Ninh,…Những cái tên lúc nào cũng mang hương vị đằm thắm, nhẹ nhàng của quê
hương, đất nước và ở đó chan chứa nghĩa tình xứ sở. Dù bất cứ nơi nào, hoàn cảnh nào
thì hình ảnh quê hương vẫn đẹp nhất, quý giá nhất.
Bằng ngòi bút trữ tình, những cảnh vật trong sáng tác của nhà văn được khắc
họa như một bức tranh thiên nhiên giản dị, tuyệt đẹp in đậm bóng hình từng vùng miền
đất nước trải dài từ Bắc vô Nam. Chẳng hạn, khi ở Vinh nhà văn miêu tả: “Lúc ấy vào
cuối mùa hè, giữa trưa, núi hiện lên màu chàm xanh, trông như một bức tường thành
cổ kính. Bên trái tôi, những đụn cát uốn lên lượn xuống, nắng nhuộm thành màu cam
trong rất mịn màng, nghĩ xa tưởng có mùi thơm của những màu bánh ngọt. Ngoài kia
là biển, mặt nước bao la vừa trữ tình vừa nghiêm nghị, dù chỉ hiện trong một khung
nhỏ, người ta cũng chẳng lầm được đấy là mặt nước của một con sông. Dài theo ven
biển có những rặng phi lao tóc tai xanh mướt, dáng vồn vã, bao giờ cũng như bắt
người ta phải yêu mến, trò chuyện” [23;Tr.37]. Cảnh sắc hòa quyện vào nhau giũa

không gian rộng lớn của đất trời như bức tranh thực của đời sống, sự hòa phối giữa âm
thanh và màu sắc như đang vẫy gọi, đón chào. Còn ở Hải Phòng bằng con mắt tinh tế
nhà văn lại miêu tả: “Hải Phòng có con sông Lấp, đêm đêm đèn nhấp nháng như ai
thả rò tôm, có rạp chiếu cải lương,…có nhà lầu cao như núi, ống khói nhà máy to hơn
cả ống khói tàu, buổi trưa, tiếng guốc tan tầm khua trên hè phố bằng mấy những ngày
làng mở hội…” [23;Tr.43]. Hoạt động tấp nập cứ tiếp diễn xảy ra hằng đêm tạo nên
bức tranh phố thị Hải Phòng thật huyền ảo, lung linh và sinh động. Ở mỗi địa điểm
khác nhau, nhà văn lại có cách nhìn nhận, miêu tả cảnh sắc thiên nhiên thật sinh động,
hiền hòa giữa màu xanh của vòm trời gắn liền với cả tấm lòng của con người luôn gắn
bó với quê hương thật sâu sắc. Còn khi miêu tả khung cảnh của thôn quê miền Bắc thì
nhà văn cũng dùng những từ ngữ gần gũi nhất, đẹp nhất để nói về quê hương mình:
“Thôn Yên Lý có nhiều vườn chè xanh. Những vườn chè xinh xắn, đất sạch như sân
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
20

nhà. Vườn chè luôn làm cho nhà mát, giếng trong, và người lại càng xinh đẹp hơn.
Một cảm giác say sưa, ấm cúng bao bọc chung quanh, nếu không nói là hạnh phúc…”
[23;Tr.76]. Trồng chè vốn là công việc rất là quen thuộc gắn bó với cuộc sống hằng
ngày của người dân miền Bắc bằng sự cảm thụ thân thiết, và sự trải nghiệm thực tế thì
nhà văn mới có con mắt tinh tế trong việc miêu tả công việc, cảnh sắc vườn chè thật
giản dị, đặc sắc như vậy. Mỗi vùng miền đi vào sáng tác của Nguyễn Thi mang những
nét đặc trưng.
Thiên nhiên ở đây còn gắn liền với lao động. Tuổi trẻ như nguồn động lực thôi
thúc mọi hoạt động trở nên mạnh mẽ, công việc trở nên mới lạ hơn: “Mặt trời xuống
nhanh, như một người làm xong công việc ra về còn trừng mắt nóng bỏng lại nhìn mọi
người, vừa hẹn hò, vừa thách thức. Chiều nào cũng thế, anh em tiểu đội làm nứa về
sau khi nắng đã tắt sau núi. Trên đồi cao nhìn xuống gió nam thổi mạnh, những mảnh
rừng tre nứa dập dềnh như sóng biển. Người ta nghĩ đồi cao là một con tàu, quanh
mình là nước biển cũng màu xanh. Nền trời mùa hạ bao la và vô tư, trắng muốt, thỉnh

thoảng điểm vài dải mây xám dài như những vẩn khói. Trước mặt là màu đỏ của chân
trời, sau lưng là một bến bờ nào xa lắm, mù sương bốc trên đầu dãy núi thật mù
mịt…” [23;Tr.108]. Giữa không khí rèn luyện căng thẳng, nghiêm túc của miền quê dã
ngoại, dưới vòm trời thu thì khí trời lại mát mẻ tạo nên sự dịu ngọt hòa hợp giữa hạnh
phúc tuổi trẻ với lao động chiến đấu: “Một sáng mùa thu bình thường và giản dị, trời
mát, thoảng có gió mây, nước ruộng xanh xanh in màu da trời. Trên không, từng đàn
nhạn bay giơ cái yếm trắng nõn nà xuống mặt đất, trời vẩn vài gợn mây, nắng chiếu
trong mắt bò óng ánh…Trong đôi mắt bò và cái yếm trắng của những con chim nhạn,
trong hơi gió may và mùa lúa, cuộc sống hằng ngày của chúng tôi đang diễn ra đây”
[23;Tr.70]. Tác giả đã thu vào trang viết của mình những khung cảnh nhộn nhịp, tràn
đầy sức sống của cuộc đời hăng say lao động.
Một con người có tính cách khá lạnh lùng và sống nội tâm như Nguyễn Thi lại
có tiếng lòng sâu lắng trước mọi cảnh vật thiên nhiên. Cùng với văn phong trữ tình,
giản dị ông đã làm xao động cả lòng người đọc khi ông miêu tả hình ảnh “ánh trăng”.
Trăng là một hình ảnh tự nhiên rất gần gũi, quen thuộc từ lâu đã có trong tiềm thức của
con người nhưng bên trong nó lại ẩn chứa tấm lòng của nhà văn đối với quê hương:
“Đêm nay mới đúng là ngày hội. Chân trời, màu đỏ đặc quánh đang pha vào mặt
trăng. Một ông trăng lực lưỡng, rõ ràng đang hiện dần trên mặt đất. Không gian chắc
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
21

chắn hẳn lại. Chưa có sao nên không thấy sao rơi, chỉ loáng thoáng thấy trên nền dây
mực. Trời màu tím” [23;Tr.99] hay ánh trăng của sự chia cắt, của lòng người luôn
hướng về nhau: “Trăng mười sáu vừa ló trên mi nước. Mặt biển bỗng nghiêng hẳn
xuống. Từng thảm bụi vàng óng từ ngoài khơi xô nhau vào bờ. Sóng đập rì rào dưới
chân những tảng đá lớn…Trăng lên cao. Mây trắng như cỏ động nước biển cũng óng
ánh, ướt át. Tất cả không gian là nước, là biển, một mặt biển lớn lao hơn cả mặt biển
bình thường, con người đang bơi lượn trong ấy, như cá quanh những sợi nước trong
vắt, thoải mái, vốn vít trên không trung…cả vòm trời chung có gì đâu cách biệt? Mặt

biển cũng chung, ánh bụi bàng bạc từ Bắc về Nam. Đêm nay, như mọi đêm trăng khác,
cả xóm chài đang ngồi nhìn về Nam, ra biển. Biển của Tổ quốc lan dài trông ra đông”
[23;Tr.169]. Hình như sự gắn bó với quê hương, đất nước tình cảm của con người
miền Bắc hướng về miền Nam ruột thịt đã được tác giả gởi gấm vào ánh trăng, ánh
trăng của sự hiền hòa, đôn hậu để nói lên tình người trong sự chia cắt. Đồng thời, thôi
thúc nên những trang viết trữ tình, nhẹ nhàng như thể nói lên tất cả tấm lòng của
Nguyễn Thi đang hòa vào cuộc sống, hóa vào thiên nhiên tươi đẹp.
Thiên nhiên trong tác phẩm của Nguyễn Thi còn có sự trù phú, uyển chuyển
hòa hợp mềm mại của đất trời: “Nền trời đầy mây, những đám mây chuẩn bị vào hè,
trắng muốt[…] đồng cà phê xanh thẫm. Con bê tơ vễnh tai lên nhìn xe. Những bóng
nón lá, thấp thoáng giơ lên vẫy…” [23;Tr.376]. Không chỉ miêu tả hình ảnh thiên
nhiên sinh động, bát ngát, gần gũi mà Nguyễn Thi còn miêu tả cảnh sinh hoạt của con
người thật bình dị, tinh tế dù chiến tranh đang tàn phá. Khi nói về cảnh sinh hoạt của
bà con Mỏ Cày (Bến Tre) thì Nguyễn Thi miêu tả: “Xóm nhỏ sống dày dạn mỗi ngày
mỗi khắc thêm nhiều dấu vết nhiều sự việc mới. Những việc như máy bay trực thăng
Mỹ mới bắn xối xả vào xóm sáng hôm qua đấy, thì sáng hôm nay nó đã trở thành dĩ
vãng, thù đó không quên, nhưng việc mới dồn dập tới, mọi người tưởng như nó đã qua
lâu lắm rồi…cả xóm ra ngồi sẵn ở miệng hầm núp. Trẻ nhỏ miệng ngậm vú, vẫn ngủ
trong lòng mẹ. Tiếng gàu đổ nước ào ào ở những hầm có nước…Nước lớn, tiếng sóng
dội rền như trời đổ” [23;Tr.24]; “Sáng đi làm mướn, chiều về một xâu chim treo ở cán
cuốc…” [24;Tr.104] (Những đứa con trong gia đình). Đó là hình ảnh con người đang
hòa mình với thiên nhiên, đối mặt với cuộc sống bom đạn đang diễn ra hằng ngày vẫn
mạnh mẽ, kiên cường bám chặt lấy cuộc sống như con nước vẫn đổ ào ào, như những
cây dừa vời vợi hiên ngang rẽ lá đón lấy bầu trời trong xanh và lộng gió đang từng
Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Thi
CBHD: Lê Thị Nhiên SVTH: Trương Hồng Chi
22

ngày đối mặt với sự dằn xé của chiến tranh. Những cảnh sống giản dị, mộc mạc của
con người đang đối mặt với thực tế khói đạn nhưng họ đã biết đương đầu, hòa nhập

với cuộc sống. Qua hình ảnh thiên nhiên bạt ngàn vẫn đang vươn mình thẳng đứng
trong bom đạn là nguồn động lực thôi thúc cuộc sống con người trở nên vững vàng
trước mọi thách thức của cuộc sống.
Bằng ngòi bút trải nghiệm của Nguyễn Thi, hình ảnh thiên nhiên của quê
hương, đất nước thêm hùng vĩ, sinh động càng tô đậm cuộc sống con người bình dị,
đôn hậu. Qua đó, tác giả thể hiện tình yêu quê hương, đất nước thiết tha và sự gắn bó
nghĩa tình đối với từng mảnh đất.
2.2 Số phận con người trong thời kì đất nước có chiến tranh trong truyện
ngắn Nguyễn Thi
Con người bao giờ cũng là vấn đề trung tâm của văn học trong mọi thời đại.
Nhà thơ Đức J.Bêsô đã nói: “Nền văn học mới bao giờ cũng ra đời cùng lúc với con
người mới” [10]. Tuy nhiên, một thời gian dài trong lí luận phê bình văn học của ta
khái niệm “Con người mới” chủ yếu là một khái niệm xã hội và chính trị, nó thích hợp
để xem xét văn học từ phương diện ấy. Nhưng văn học là một quá trình sáng tạo nghệ
thuật, nhiệm vụ của các nhà văn là sáng tác ra những con người trên phương diện nghệ
thuật. Và con người dân tộc trong ba mươi năm chiến tranh (1945-1975) không chỉ
thiên về ca ngợi, nêu gương những hình tượng con người lao mình vào gian khổ, hy
sinh để khẳng định những phẩm chất cao quý vì sự nghiệp bảo vệ đất nước mà số
phận, cuộc sống nghèo đói của con người cũng được nhìn nhận, phơi bày ra khá chân
thực về những khía cạnh đau thương của chiến tranh tàn ác gây ra những cảnh sinh ly
tử biệt: vợ phải xa chồng, con phải lìa cha, nước mắt đau thương vẫn chảy mãi trên đôi
mắt mẹ già không chỉ thể hiện trong các tác phẩm: Rừng xà nu (Nguyễn Trung
Thành), Hòn đất (Anh Đức), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng), Những đứa con
trong gia đình (Nguyễn Thi),… Các tác phẩm trên đã đi vào khám phá, thể hiện từng
khía cạnh khác nhau của đời sống chiến tranh và mang nét đẹp riêng về số phận con
người tuy còn nhiều nghiệt ngã nhưng đã thể hiện sức sống mãnh liệt của cả dân tộc.
Trong truyện ngắn của Nguyễn Thi, một lần nữa chúng ta càng thấy rõ cuộc
sống khốn khổ của con người phải chịu đựng, những cảnh chia ly, những người phải đi
tập kết xa gia đình, vợ con vào giới tuyến vì miền Nam ruột thịt để lại bao nỗi nhớ xót

×